*


 




Trường hợp Lê Công Định
Comme l'observe Carl Thayer, "on ne peut pas mettre Giap en prison".
Touchez pas à la bauxite

LCD đã làm gì? Ông bảo vệ những người chiến đấu vì nhân quyền, trong đó có tay viết blog nổi tiếng, Điếu Cày, bị kết án hai năm rưỡi vào năm 2008. Tuy nhiên ông không có dáng dấp của một tay ly khai cổ điển. Dân Ky tô, vợ là một cựu hoa khôi, thông thạo tiếng Anh, tiếng Tây, đã đi du học tại Đại học Tulane, tại Louisiane, nhờ một học bổng Fulbright, là phó chủ tịch Luật sư đoàn TP.HCM. Vào năm 2003, ông cũng đã bảo vệ phía Việt Nam trong vụ tranh tụng với Mẽo về vụ giá cả cá. Ông đã từng có tên trong danh sách đi Tây tham dự một cuộc hội thảo, nhưng không hiểu vì sao, không thấy ông có mặt.
Chuyên viên về Việt Nam tại Đại học NSW, Canberra, Carl Thayer bị choáng vì cái màn dựng tuồng của VC, và những tội họ chụp cho ông, lần ngược lên tới năm 2005. Nhà nước VC muốn chứng tỏ, thằng cha Định này còn quá cả cái tội âm mưu lật đổ: Hắn dám đụng tới quá nhiều chuyện cùng một lúc.
Và trong đó, đặc biệt có vụ bô xịt.
Vụ bô xịt “hot” vì đụng tới những quan hệ giữa anh Tẫu và anh Mít VC. Nhìn ngoài mặt, mọi chuyện đều đẹp giữa hai cựu thù, và năm 2010, đánh dấu 60 năm quan hệ ngoại giao, sẽ được coi là ‘năm hữu nghị’. Sự thực, theo một chuyên gia về Việt Nam cho biết, [tất nhiên, theo kiểu vô danh], ‘căng lắm’. Có hai lý do, đảo & biển và núi & bô xịt. Ông Tầu nói, đảo biển của Thiên Triều, VC nói rỗi, vô, thì lấy mẹ cả núi, cả mỏ đi cho gọn việc tính toán. Nhiêu?
*
D.M. Thomas, người viết tiểu sử Solz, coi ông là một đứa em song sinh của  Cách Mạng Tháng Mười Nga, vì sinh sau nó 1 năm. Nhìn như thế, có thể coi LCD và thế hệ của ông là ‘song sinh’, của 30 Tháng Tư 1975, những đứa trẻ mà Víp Va Ka đã từng bốc phét, nhìn vầng trán các cháu ngoan Bác Hồ, các cháu LCD  của thành phố rực rỡ mang tên Người, là thấy tương lai của cả đất nước.
Khi bắt LCD, là VC làm nhục cả một lý tưởng của chính chúng.
Những người bỏ nước ra đi trước ngày 30 Tháng Tư, không thể nào hình dung ra được Miền Nam đã từng hồ hởi như thế nào, những ngày tháng tiếp theo liền 30 Tháng Tư, khi họ ăn mừng đất nước sạch bóng ngoại bang, khi họ ăn mừng những đứa con song sinh của Cách Mạng Tháng Tư, những LCD!
*
‘Bán’ đảo, từ hồi còn Phạm Văn Đồng, theo kiểu mua trâu vẽ bóng, vì khi đó thuộc VNCH.
Và Gấu nghi rằng, tất cả những mắc mớ với anh Tẩu, đều từ những ngày đó, anh Yankee mũi tẹt, cốt làm sao ăn cướp được Miền Nam, đã gật đầu với anh Tẫu, đủ thứ chuyện trên đời. Chính vì thế mà bây giờ há miệng mắc quai. Vụ bô xít khiến Võ tướng quân cũng phải nhẩy vô “ăn có”. Nhưng làm sao bỏ tù Giáp? Còn LCD, dễ ợt!
*

IN A MAN'S LIFE
In a man's life
the first temple is destroyed and the second temple is destroyed
and he must stay in his life,
not like the people that went into exile faraway,
and not like God,
who simply rose to higher regions.

In a man's life
he resurrects the dead in a dream
and in a second dream he buries them.  

- Yehuda Amiehai
(Translated, from the Hebrew, by Leon Wieseltier. )
The New Yorker 26 Dec 2005 & Jan 2, 2006

*

Trong đời một người đàn ông

Trong đời một người đàn ông
Đền thiêng đầu tiên bị huỷ diệt và đền thiêng thứ nhì bị huỷ diệt
Và anh ta phải bám riết lấy cuộc đời của anh ta.
Không như những kẻ bỏ chạy lưu vong
Và trở thành những khúc ruột hàng vạn dặm
Không như Chúa, như Phật
Bò lên lên những tầng trời cao hơn.

Trong đời một người đàn ông
anh ta làm sống lại những người chết
Ở trong một giấc mộng
Và trong giấc mộng thứ nhì
Anh ta chôn họ.

[Note: To LCD. NQT]

Đang lo dọn nhà, giở đống báo The New Yorker tính vứt bỏ, cho nhẹ tội, vớ bài thơ trên, xem ra ứng đúng quẻ LCD.
Đền thiêng đầu tiên bị huỷ diệt là Miền Nam trước 1975. Đền thiêng thứ nhì, là vầng trán ngây thơ trong trắng của ông, mà ngài Víp Va Ka đã từng soi vào, thay vì mò mu rùa, để bói tương lai đất nước. (1)
Thai đố ở đây là: Hai giấc mộng của ông.
Liệu giấc mộng thứ nhất, làm sống lại những người đã chết, là ‘cái trò’ viết bài, viết blog? Giấc mộng thứ nhì, ông chôn họ, khi ngồi thành khẩn xin nhà nước khoan hồng, trên youtube?
(1) V/v Mò mu rùa.
Gấu nhớ, hồi còn mồ ma Miền Nam VNCH, khi bài "Người thương binh" của PD mới ra lò, [hẳn thế], và ấn bản nhại của nó, như vầy:
Chàng về, chàng về nay đã cụt cu,
Lấy gì nhấp nháy trên mu, trên mu con rùa, à a, à a!

*
Tình cờ, vớ được bài thơ của Borgres, đăng trên The New Yorker, July 6, 2009, cũng ứng vào LCD:
Poetry
A Dream
by Jorge Luis Borges
July 6, 2009
In a deserted place in Iran there is a not very tall stone tower that has neither door nor window. In the only room (with a dirt floor and shaped like a circle) there is a wooden table and a bench. In that circular cell, a man who looks like me is writing in letters I cannot understand a long poem about a man who in another circular cell is writing a poem about a man who in another circular cell . . . The process never ends and no one will be able to read what the prisoners write.
(Translated, from the Spanish, by Suzanne Jill Levine.)
No one will be able to read what the prisoners write....
Chẳng ai biết tù nhân LCD viết cái đéo gì. Còn cái mà ông đọc, ở trên một tấm bảng, ở bên ngoài camera của Cớm VC. Bên cạnh tấm bảng, một tay Cớm đang kề dao vô cổ vợ con ông!
*

Trong hình dung của tôi, đó là một người ban đầu là cộng sản rất kiên cường, nhưng sau này khi Đổi mới, ông trở thành một người chiến đấu cũng rất kiên cường.
BBC
Câu này, qua bối cảnh [chủ nghĩa CS áp dụng vào Việt Nam], nhân vật [Nguyễn Hộ], đúng ra phải viết như vầy:
Trong hình dung của tôi, đó là một người ban đầu là cộng sản rất kiên cường, nhưng sau này khi Đổi mới, ông trở thành một người chiến đấu chống CS cũng rất kiên cường [căn cứ vào câu này: Ông nói ngày xưa nếu CNCS đã cứu đất nước khỏi ách thực dân, thì bây giờ chính CNTB sẽ cứu đất nước ra khỏi nghèo nàn lạc hậu].
Bởi vì bắt buộc phải hết sức rõ ràng, không để cho ngưòi đọc mơ hồ, vì một câu văn lửng lơ, mà có thể nghĩ khác đi, về một con người vừa nằm xuống.
Chiến đấu kiên cường với ai? Với Mỹ Ngụy hử?
Gấu đã nói rồi, mấy tên VC nằm vùng này, vô tài, bất tướng, viết một câu văn không nên thân, là vậy.
Có thể, tâm địa sao thì viết như vậy.
Bởi vì, là một tên VC nằm vùng, một chuyên gia về chủ nghĩa CS, "y" cảm thấy nhục nhã, khi phải viết, Nguyễn Hộ là một tên "Chống Cộng điên cưồng", hay, dùng chữ của y, "quyết liệt"?


Czeslaw Milosz có một bài viết thật tuyệt về Simone Weil, in trong "To Begin Where I Am": Sự quan trọng của Simone Weil. Tin Văn sẽ post và cố gắng dịch bài này gửi tới độc giả.
Gấu biết đến Milosz, là qua tờ Partisan Review. Có thể nói, tất cả những tác giả từng ăn bả CS, Gấu biết, là nhờ tờ báo khuynh tả này. Cũng tiếc, đám Yankee mũi tẹt, chẳng hề biết gì về họ. Chúng, cho đến giờ này, vẫn còn tấm tắc, nắc nỏm, tâm đắc…  với những vần thơ của Mai a cốp ki, của Ê ren bua, trong khi , Mai a, có thể do xấu hổ nhục nhã, và ân hận, vì những vần thơ của mình, đã tự tử bằng súng lục, còn Ê ren bua thì than, ta đã sống đời ta như là một con chó!
Cái sự vờ những nhà văn có một thời say mê CS, và sau này tỉnh giấc "hôn thuỵ", theo Gấu, là một trong những lỗi lầm nặng nhất của Yankee mũi tẹt. Vờ, và tiếp tục bơm thổi những nhà văn, nhà thơ vệ quốc, như Maia, Êrenbua, Ép vô chen khô... Đám này, anh nào chị nào lương tâm cũng có cứt.
Ngay ông Trùm văn học xã hội chủ nghĩa là Gorki, người cũng đầy cứt, và đã từng phán, cái đám dân quê ngu ngốc, cho chết mẹ hết đi, để một giống dân mới nẩy sinh từ đó (1)
(1) The humane Maxim Gorky, in 1922, had expressed the hope that "the uncivilized, stupid, turgid people in the Russian villages will die out, all those almost terrifying people ... and a new race of literate, rational, energetic people will take their place." Now Stalin was intent on granting his wish.
Sói với Người
Đám già vờ, đám trẻ cũng vờ, vì chúng đâu cần. Cái quá khứ chống Mỹ cứu nước không có chúng, cái vụ làm thịt Miền Nam tuy chúng có phần kít, nhưng đâu phải chúng trực tiếp nhận [hàng, đầu hàng] Miền Nam [ruột thịt]?
Chúng tự hào chúng sạch, và để chứng tỏ, chúng đọc những tác giả khác, hợp thời, hợp gu với chúng. Chúng còn viết văn bằng tiếng của tụi mũi lõ, hoặc lấy chồng mũi lõ, tếch thẳng.
Trai ngay thờ Chúa, Gái thuận, gái ngoan này thờ Chồng!

*

Thời gian của người  
Đây là lúc để thừa nhận - để rú lên, hay để gào khóc -
Ta đã sống đời ta như một con chó...

Ilya Ehrenburg  

Đó là những dòng thơ Ehrenburg viết một năm trước khi chết. Nhà thơ, nhà văn, và trên tất cả, nhà báo nổi tiếng nhất trong số những người cùng thời tại Liên Bang Xô Xiết. Chẳng bao giờ được chế độ tin cậy, ngay cả những khi lên đến tột đỉnh của vinh quang. Bị khinh khi bởi những người chống Stalin. Nạn nhân của những mâu thuẫn nội tâm vô phương hòa giải. Cuộc đời của I. Ehrenburg đày những đau thương, ray rứt. Bản chất dễ xúc cảm trước những đau khổ của con người, nhưng chút nhân tính đó chẳng là gì so với sự yếu đuối vì còn phải lo cho an nguy bản thân, phải làm sao đừng thiếu thốn một chút tiện nghi, cuối cùng ông đành xả thân phụng sự hết mình cho chế độ phi nhân, cho dù luôn luôn bị xâu xé bởi tình yêu nước Nga và lòng trung thành với gốc Do thái của mình. Ông chết năm 1967, "nát bấy người", kể cả tinh thần lẫn thể xác, trong niềm hoài nghi về những "nhiệm vụ nào cũng hoàn thành", trong niềm ăn năn về những thỏa hiệp liên quan đến vấn đề đạo đức, nhân phẩm.
Cuộc đời ông có thể chia làm ba giai đoạn. Giai đoạn đầu kéo dài tới năm 1932, khi cư ngụ ở Paris, ông trở thành phóng viên cho nhật báo Izvestiya. Từ đó tới năm Stalin chết, 1953, ông là "tuyên truyền viên" nổi tiếng cho Stalin, đầu tiên là để chống Phát-xít, sau tới Hoa Kỳ. Sau khi Stalin chết, ông đóng vai nhập nhằng giữa một kẻ bảo vệ đường lối mới chống-Stalin, trong khi cố gắng cùng lúc, làm sao "ổn thỏa" với quá khứ.

Sinh tại Kiev, trong một gia đình Do thái khá giả, đã được đồng hóa, hội nhập, Ehrenburg luôn cảm nhận gốc rễ Do thái của ông. Năm 1905, 15 tuổi, do ảnh hưởng của bạn là Nicholas Bukharin, ông gia nhập Bolshevik. Tuy nhiên, không được bao lâu, ông bỏ đảng. Năm 1908, ông rời đi Paris. Nơi đây trở thành nhà của ông, mãi tới năm 1940, khi Đức chiếm đóng. Ở đó ông sống một cuộc đời lãng du, quen biết đám trí thức nổi tiếng Pháp, đây là một "tài sản quí giá" của ông đối với nhà cầm quyền Xô Viết. Khi cuộc cách mạng tháng Hai xẩy ra, ông trở về Nga. Ông không chấp nhận cuộc nổi dậy của Bolshevik, kết án những kẻ cầm quyền mới là đã ngăn cấm tự do ngôn luận. Để trốn chạy ông rời đi Kiev, ở đó, ông viết báo chống Bolshevik, tố cáo những người theo Lênin là những tên hiếp dâm, những kẻ tiếm quyền, thề nguyền không một thứ quyền lực nào bắt buộc ông phải sống bằng "sắc luật này tới sắc luật khác". Sau khi Hồng Quân chiến thắng Bạch Vệ, chiếm đóng Ukraine, ông xin xuất cảnh. Với sự giúp đỡ của Bukharin, đầu năm 1921 ông trở lại Paris, tiếp tục cuộc sống trước 1917, viết ào ạt. Trong vòng 10 năm, 19 cuốn sách, chưa kể bài viết linh tinh, có vài cuốn được in tại Nga. Cuốn quan trọng nhất, Julio Jurenito, 1921, Berlin, tố cáo sự toa rập giữa chế độ Stalin và Nazi. Cuốn sách làm ông nổi tiếng tại quê nhà và đây là tác phẩm văn học lớn lao nhất, và cũng là độc nhất của ông.
Cùng với việc ngôi sao quyền lực của ông Trùm Đỏ ngày càng sáng tỏ, và đời sống kinh tế, tiền bạc ngày càng khó khăn, khó kiếm, Ehrenburg từ bỏ văn chương, ngả sang chính trị. Trong những bài viết, bài nói, ông lên tiếng chỉ trích Balan, Pháp, Hoa-kỳ, bảo vệ Liên Bang Xô Viết. Stalin tỏ ra có thiện cảm vô bờ với gã émigré, một ứng viên rất hợp khẩu vị của ông: trí thức Do thái với một quá khứ chống-Bolsevik, giao du với những "tinh hoa, trí thức" tại thủ đô văn hóa Paris. Mối thiện cảm cho thấy cuộc đời Ehrenburg được cứu rỗi, về vật chất, nhưng thảm kịch tinh thần của ông cũng bắt đầu.
Vào đầu thập niên 1930, Ehrenburg viết một cuốn tiểu thuyết, theo tinh thần "hiện thực xã hội chủ nghĩa", đặt tên là "Hết thời hỗn mang", ca tụng hết lời chủ trương kỹ nghệ hóa của Stalin. Ông tự mình in lấy vài trăm cuốn, gởi một mớ tới mấy cơ quan lo việc xuất bản ở Moscow, và một mớ, tới Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng. Mớ trước bị vứt vào sọt rác, nhưng trước sự ngơ ngác của tất cả mọi người, Stalin tỏ ra rất thích thú, và ra lệnh cho Radek viết bài ngợi ca. Khỏi nói, sách được in ra cấp thời. Ở Paris, Ehrenburg trở thành nhà văn Xô viết đầy đủ lông cánh. Đừng ai đụng tới ông ta, con cưng của Stalin. Ông trùm đỏ vốn ban ân sủng theo lối tùy hứng, nhưng trong trường hợp Ehrenburg, Stalin có tính toán trước. Nhà độc tài cần, và Ehrenburg sẵn sàng chấp nhận, vai trò vị đại sứ của Stalin tại khu vực Tả phái Âu châu. Trước hết là chống Phát-xít. Năm 1934, Ehrenburg viết thư cho Stalin, đề nghị thành lập liên hiệp quốc tế chống Phát xít: "Tình hình ở Tây Phương rất thuận lợi. Đa số những nhà văn tài năng nhất, vĩ đại nhất, nổi tiếng nhất thành thực muốn gia nhập với chúng ta trong việc chống Phát xít." Để thí dụ, ông kể tên Romain Roland, Thomas Mann, Henrich Mann. Lá thư này đã khiến cho chính sách của Xô Viết thay đổi, trước đó vốn không chấp nhận bất cứ một sự cộng tác nào của đám trí thức nước ngoài, những người không "tam cùng" với chủ nghĩa CS. Stalin "chịu" đề nghị của Ehrenburg và ra lệnh cho Lazar Kaganovich và Andrei Zhdanov cùng làm việc với ông. Cuộc xâm nhập văn hóa này tỏ ra rất thành công, kể cả trước và sau Đệ Nhị Thế Chiến. Nó tạo một dư luận thuận lợi cho Liên Bang Xô Viết, vô địch cho tự do và hoà bình của mọi thời, trong khi sự thực đây là thời gian ở trong nước, Liên Xô đang huỷ diệt mọi tự do, và đang trên đường hung hăng điên cuồng sửa soạn chiến tranh. Đám nhà văn, khoa học gia, nghệ sĩ nổi tiếng thế giới, mù tịt về thực tế Xô Viết, ngây thơ tin tưởng, chỉ còn Russia là có thể cứu vớt loài người khỏi chủ nghĩa tư bản bịnh và Nazi quỷ. Qua tài phù thuỷ của Ehrenburg, các Phong Trào, Mặt Trận... mọc lên như nấm. Hết chống Phát-xít tới đế quốc Mỹ. Hết Hội nghị Nhà văn tới Hội nghị Hòa bình... Chính ông đã "dụ khị" André Malraux và André Gide viếng thăm Liên-xô.
Trong đời, Ehrenburg đã từng trích dẫn lời khuyên của Tolstoy:
(1) Đừng bao giờ viết bất cứ một điều gì mà anh không quan tâm. (2) Đừng bao giờ viết vì tiền. (3) Nếu anh không thể viết điều anh muốn, đừng viết gì hết. Ông đã "vi phạm" cả ba, lúc điều này, khi điều nọ, tùy theo nhu cầu, giai đoạn. Với tư cách phóng viên của nhật báo Izvestiya, ông du lịch, viết bài về cuộc Nội Chiến Tây Ban Nha. Là cái loa tuyên truyền cho Xô-viết, ông cố tình lờ đi việc thủ tiêu dã man bởi đám đồ tể của Stalin, tại Tây Ban Nha, đối với những phần tử vô chính phủ (anarchists), và những người xã hội theo Trotsky.
Tiếp theo đó là "thời khổ ải" đối với ông. Thời kỳ 1936-37, ông đành phải nhắm mắt ngậm bồ hòn, trước những "vụ án" đối với đám cựu trào Xô-viết bị buộc tội do thám và âm mưu lật đổ. Ông có mặt tại Moscow khi xử án Bukharin, bạn thời niên thiếu và cũng là người che chở Ehrenburg. Ông Trùm Đỏ, vốn là một tay sa-đích bậc thầy, đã ra lệnh cho Ehrenburg phải có mặt tại phiên tòa. Ông "mần thinh" trước công lý bị chà đạp, và bạn ông bị xử tử sau đó. Trong thời gian Liên-xô "đi đêm" với Quốc Xã, Moscow cảm thấy cái loa chống-Nazi của ông bất thuận lợi, cho nên Izvestiya vẫn tiếp tục trả lương cho ông nhưng không đăng bài. Rồi hiệp ước bất tương xâm Stalin-Hitler nổ bùng ra. Hiệp ước phản bội tất cả những gì mà Ehrenburg coi là thiêng liêng cao cả. Trong vòng 8 tháng trời, ông không nuốt nổi đồ ăn, sống nhờ rau cỏ, sút 40 pounds. Trong thời gian chiến tranh, mhững bài viết của Ehrenburg trên tờ báo Hồng Quân được đích thân Stalin kiểm duyệt mỗi ngày. Lòng hận thù, sự ghê tởm đối với quân đội Đức do những bài viết tạo nên, đôi khi khủng khiếp đến độ, lính Nga tàn sát hàng loạt binh sĩ Đức, cho dù họ đang sửa soạn để đầu hàng.
Hận thù, một phần do lòng ái quốc, do gốc rễ Do thái, nhưng chủ yếu là ông không ưa người Đức, bởi ý thức hệ của họ, cũng như những sắc thái đặc biệt của dân tộc này. Ngay từ khi còn là một đứa nhỏ, trong một lần viếng thăm Đức quốc, Ehrenburg khám phá ra một điều, xe lửa của Đức chạy rất đúng giờ. Đối với cậu bé Ehrenburg, chỉ có quỉ sứ mới làm nổi chuyện đó!
Note: Theo bài điểm sách của Richard Pipes: "Tangled Royalties": The life and times of Ilya Ehrenburg, tác giả Joshua Rubenstein, nhà xb Tauris, 464 trang,1996, đăng trên tờ The Times Literary Supplement, Oct 4, 1996.
R. Pipes là nhà sử học Harvard, cuốn sách sắp xb của ông là The Unknown Lenin.
NQT
*
Có lần, Gấu nhắc tới một ẩn dụ, về một cái trứng chim, rớt xuống đất, may sao không vỡ, và được một con vịt ấp. Trứng nở ra chim, được vịt nuôi, thành ra cứ nghĩ mình là vịt, không biết bay. Vịt, do không phải là chim, nên không biết, cái cú, đạp con chim non ra khỏi tổ, để cho nó tập bay.
Cái số phận của con chim được vịt nuôi này, là số phận Yankee mũi tẹt, suốt đời tin vào Đảng, còn Đảng, do ngu quá, không biết đạp nó ra khỏi tổ, cho nó tập bay!
Cái đám Yankee mũi tẹt, chỉ đọc được văn học vệ quốc Liên Xô, chẳng phải giống con chim được vịt nuôi ư?
Ui chao, tình cờ, do dọn nhà, vớ được cuốn tập của cô học trò trong Bụi ngày nào, trước khi đi tái định cư, tặng thầy, cùng bức hình, làm chút kỷ niệm.

Cô nói, bức hình, em tặng cô, không phải tặng thầy!
*

The bird and the egg.
Once upon a time, there was a bird which did not have the power of flight. Like a chicken he walked about on the ground, although he knew that some birds did fly.
It so happened that, through a combination of circumstances, the egg of a flying bird was incubated by this flightless one. In due time, the chick came forth, still with the potentiality for flight which he had always had, even from the time when he was in the egg.
It spoke to its foster-parent, saying: “When will I fly?” And the land-bound bird said: “Persist in your attempt to fly just like the others”. For he did not know how to take the fledgeling for its lesson in flying, even how to topple it from the net so that it might learn.
And it is curious, in a way that the young bird did not see this. His recognition of the situation was confused bay the fact that he felt gratitude to the bird which hatched him. “Without this service”, he said to himself, "surely I would be still in the egg”.
And again, sometimes he said to himself: “Anyone who can hatch me, surely he can teach me to fly. It must be a matter of time, or of my own unaided efforts, or of some great wisdom, yes, that it is! Suddenly one day, I will be carried to the next state by him who has brought me thus far”!
Nếu không có Đảng ấp ủ, chắc là tôi vẫn còn ở bên trong cái vỏ chim!
Kẻ nào ấp ủ tôi, thì cũng sẽ dậy tôi biết bay. Đây là vấn đề thời gian, hay do sự cố gắng của riêng tôi mà không cần đến sự giúp đỡ, hay nhờ một sự khôn ngoan nào đó, chắc hẳn vậy!

THE IMPORTANCE OF SIMONE WElL
Sự quan trọng của Simone Weil

Nước Pháp dâng tặng một món quà hiếm cho thế giới đương đại, ở nơi con người, là Simone Weil. Sự hiển hiện ra một nhà văn như thế, ở trong thế kỷ 20 đúng là ngược với tất cả những qui luật của xác xuất, tuy nhiên những điều không chắc, chưa chắc, vẫn xẩy ra

Lưới khuya, hồn ốc lạc thiên đường


Quít làm, Cam chịu [Lịch sử]


Kỷ niệm, kỷ niệm