*

1
 




Lưới khuya, hồn ốc lạc thiên đường
Chàng là rêu ôm đá mơ thiên đàng

Ways of escape: Tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách!
Chim thiêng

Beautiful feelings make bad art.
Tình cảm đẹp làm ra thứ nghệ thuật dởm
Without the devil’s help there would be no art.
Không có sự giúp đỡ của Quỉ, không có nghệ thuật
Gide viết về Dos [Lukacs trích dẫn, trong Chủ nghĩa hiện thực ở thời của chúng ta]
Hai ý trên đều có thế áp dụng cho nhạc TCS.
Câu đầu - Gide phán, sau khi ông đi thăm Liên Xô về - cho thấy TCS không thể là VC được.
Câu thứ nhì. Con quỉ ở đây, là con quỉ chiến tranh.
*
Milosz, trong một bài trả lời phỏng vấn, cho biết, ông đào thoát, xin tị nạn tại Pháp tháng Hai năm 1951. Viết Cầm Tưởng, [Cái Đầu Bị Cùm], mùa xuân cùng năm, hoàn tất vào mùa thu cũng trong năm. Trong lời tựa, ông cho biết, viết để thanh toán một lần cho xong. Và hy vọng chẳng bao giờ phải đụng lại với vấn đề này nữa.
Trong ý nghĩ đó, theo tôi, những bản nhạc phản chiến, những ca khúc da vàng của TCS đã được "thanh toán".
Milosz cho rằng, cuốn sách không thuộc dòng của ông [that isn't my line]. Ông viết nó, như kẻ lưng đụng vô tường, hết đường lui.
Cũng trong bài viết, ông nhắc đến cảm giác hết sức bối rối, khó chịu, của Pasternak, khi được trao giải thưởng Nobel văn học, do cuốn tiểu thuyết Bác sĩ Zhivago, chứ không phải do thơ.
Bản thân Milosz cũng được nổi tiếng, là nhờ Cầm Tưởng.
Tôi nghĩ, Trịnh Công Sơn có gì tương tự với hai trường hợp trên. Ông nổi tiếng cả thế giới, là nhờ nhạc phản chiến. Nhưng thứ đó, thực sự "không thuộc dòng của ông".
Như Milosz, ông đụng lưng vô tường, khi viết nó.
Nhưng tình ca, mới là nhạc phản chiến đời đời của ông.
Và của loài người.
Hãy hát tình ca của ông, theo nghĩa mà Brodsky định nghĩa:
Nếu có gì có thể thay thế cho tình yêu, thì đó là hồi ức.
Tình ca của TCS, là hồi ức, là tưởng nhớ, là kinh cầu cho một miền nam hòa bình đã mất.
“Cái từ giải phóng chúng ta khỏi gánh nặng và nỗi đau làm người là hai chữ: Tình Yêu.”
*
Tôi thu tôi lại...
Hạt bụi nào...
He has turned into the life-giving ear of grain
Or into the gentlest rain of which he sang
Akhmatova
Người thi sĩ ấy biến thành mầm sống
Thành hạt mưa dịu dàng nhất mà chàng hát về nó

D.M. Thomas trích dẫn, cho chương Death of a Poet, [trong Solzhenitsyn: Thế kỷ ở trong ta], nói về cái chết của Pasternak.
*

Man is not merely one who lives, taught Alain in a rare moment of pride, 'he is one who survives".
"Con người đâu chỉ sống, ông thầy Alain, trong một lần rất ư hiếm hoi là hơi bị tỏ ra tự hào, phán, 'nó còn là kẻ sống sót'".
Steiner: Những Bài Học của Những Ông Thầy.


"Ở bẩn sống lâu" hay "không thành công thì thành nhân", bạn muốn thứ nào?
Trong "Lessons of the Masters" [Harvard University Press, bìa mỏng, 2005], ông 'nghiên cứu sinh' Steiner vinh danh Alain, một trong những Vị Thầy Suy Tưởng, Maitres à Penser.  Steiner viết, Alain - thầy của Simone Weil, André Maurois -  dậy học trò một câu thật quái dị: đừng thành công [ne pas réussir]. Và đây là, theo Alain, luật tối thượng về đạo đức, the supreme moral rule.
Bởi vì "thành công", có nghĩa là, phải...  bẩn! Phải chiều theo luật "ông mất của kia bà chìa của nọ", nghĩa là phải biết điều, phải thỏa hiệp.
"Nỗi khổ" của PD, đúng như một độc giả trên talawas đã nhận ra, chính là sự thành công vượt bực của ông: trở thành một thiên tài, "một người nghệ sĩ lớn hiếm hoi mà thế kỉ XX dành tặng cho đất nước".
Thiên tài lớn lao của thế kỷ 20 của Việt Nam, sống thì có sống, thành công thì rất ư là thành công, nhưng không... sống sót!
Nhưng cũng vẫn Alain, đã gặt hái đuợc, nhân đọc Lagneau viết về Spinoza [Thầy đọc Thầy đọc Thầy..] định nghĩa này, về Cái Thiện Cao Cả Nhất Của Con Người, [man's highest good], đó là:
[Hãy] kinh nghiệm niềm vui của tư tưởng và [hãy] tha thứ cho Lão Tặc Thiên. Tha thứ cho ông trời già độc địa.
[to experience the joy of thought and to pardon God].
Trời kia mà còn "tha thứ", nữa là ba "vụ án" lẻ tẻ!
Vụ Án

Gấu có, chỉ một kỷ niệm với TCS, như đã kể ra trong bài viết, thật ngắn, ngay khi ông vừa nằm xuống.
Có thể nói, bài của Gấu là bài đầu tiên trong những bài ai điếu TCS.
Ông "trúng đạn" [có được cái vé đi chuyến tầu suốt], chưa kịp té xuống tới đất, là đã có bài ai điếu rồi!
Sau này, Gấu vẫn thường tự hỏi, tại sao mà mình bắn nhanh như vậy !
Mãi mới hiểu ra, đó là nhờ cái cảm giác bực mình, trong cái lần gặp gỡ đầu tiên và cũng là độc nhất tại Quán Chùa.
*
Anh ngồi chung bàn với Toàn và tôi, nhưng cứ chốc chốc lại có một anh bạn trẻ nào đó, từ một bàn nào đó, tạt qua bàn, chỉ để nói chuyện hoặc hỏi thăm anh, và thường là về Huế, và cứ mỗi lần như vậy, anh đổi giọng nói. Khi nói với hai đứa chúng tôi, anh dùng giọng Bắc.
Những ngày TCS
Sắp đi như ông, Gấu mới hiểu ra rằng thì là, chính nhờ ông, nhờ cái cảm giác bực mình đó, mà Gấu có được những người bạn "Huệ" thật là tuyệt vời, như Joseph Huỳnh Văn, ngày nào còn Sài Gòn, và... ngày này không còn Sài Gòn.



HERMANN BROCH

Đây có lẽ là bài viết tuyệt vời nhất của Canetti, và càng tuyệt vời hơn nữa, khi áp dụng vào thực tế Mít của chúng ta. Đọc bài này, song song với bài của Sontag viết về Canetti, Mind as Passion, mới lại càng tuyệt.
Tin Văn sẽ đi cả hai bài, trong khi, cùng lúc, tưởng niệm TCS, và tất nhiên, thời của cả lũ chúng ta: Những ngày còn Miền Nam, trước 30 Tháng Tư 1975.
Có thể, đây cũng là tưởng niệm chót của Gấu, cũng nên!
Hơn bẩy bó rồi còn gì nữa!
“Hiền” đi, là vừa rồi!


NMG vs Lưu Vong


Hot
Đào Hiếu, từ “Lạc Đường” đi vào “Mạt Lộ”
Gấu kính nể nhất, là cái giọng viết của Đỗ Văn Minh. Tuyệt. Không một chút lên giọng. Thật lịch sự, thật "elegant" [chữ này Gấu thuổng của PNH].
Viết như thế thì DH phải đi một đường, ông viết làm chi, chứ tại sao lại, ông tthắc mắc làm chi, cho mệt?
Tks DVM. NQT

Dọn Kít

"Mặc cảm thiếu quê hương" là "đơn thuốc" mà nhà phê bình Nguyễn Thanh Sơn đã "bốc bệnh" cho bộ phim "Áo lụa Hà Đông" của đạo diễn Việt kiều Lưu Huỳnh và cho rằng căn bệnh này khá phổ biến ở các cây bút hải ngoại. Tràn ngập trong các sáng tác của chị là những thân phận xa xứ, phải chăng chị cũng có mặc cảm đó?
Gấu này chưa coi phim Áo Lụa Hà Đông, thành thử không thể nào‘phản hồi’ cái đơn thuốc mặc cảm của nhà phê bình NTS. Tuy nhiên, tựa đề phim là tên một bài hát phổ thơ Nguyên Sa; ông, khi làm bài thơ, là để nhớ lại những kỷ niệm thời còn ở ngoài Bắc. Một kỷ niệm đẹp chẳng liên quan gì tới mặc cảm thiếu quê hương. Hơn nữa, nữ tác giả Phố Chệt vốn dân Hà Nội, sau 1975, đi Tây du học, đi đi về về lúc nào cũng được, tại làm sao lại có cái chuyện tràn ngập như thế đó. Lạ thực.
Note: Sắp đi rồi mà vẫn phải làm công việc này, chán thiệt!

 *


Tay Makine quả là thiêng thật. Vừa nhắc đến tên một cái, là có tôi liền. Tờ Lire, số tháng Ba 2009, một độc giả vặc tòa soạn, Mít kia còn đọc, tại sao lại quên Makine?
Tin Văn là nơi đầu tiên nhắc tới Makine, khi giới thiệu bài viết của Tolstaya về cuốn nổi đình nổi đám của ông, Di Chúc Pháp, trên tờ NYRB, 20 Nov. 1997

Cùng số báo, đặc biệt về văn chương Mexico, có bài phỏng vấn Fuentes, thật tuyệt. Ông phán về nước Mễ của ông: Dân Mễ như đám ăn mày ngồi trên núi vàng. Gấu, mắt mù dở, đọc vội, thành: Dân Mít như lũ ăn mày ngồi trên núi Bô Xịt! [Bullshit].
Cũng vàng vậy!
Sau đây, là một số câu hỏi, và, có vẻ ông trả lời giùm dân Mít chúng ta, thí dụ như là về tham nhũng, độc đảng, và về cái nước mình nó là như thế!

*

Carlos Fuentes:
« Le Mexique est un pays de mendiants assis sur une montagne d'or»

Comment voyez-vous les relations entre la littérature et la politique : ont-elles à se mêler l'une de l'autre?
C.F: C’est bien sur, la littérature se mêle tout le temps de la politique. Parfois bien, parfois mal ... Je crois que la littérature repose sur une réalité basique constituée par le langage et par l'imagination. La responsabilité de l'écrivain est là : qu'est-ce qu'on fait avec le langage, avec les mots, et avec l'imagination? Une fois cela obtenu, ce qui est la base de la création littéraire, l'écrivain peut dire également: je suis aussi un citoyen, et je vais voter pour un tel, ou je vais m'associer à telle idéologie. Le Chilien Pablo Neruda était un grand poète. Qu'il ait été staliniste ou communiste est secondaire, c'est un choix de citoyen. A l'autre extrême, Louis-Ferdinand Céline était un antisémite, un type horrible, mais quels grands livres il a écrits! Le pire est de se soumettre littérairement à une idéologie. De nombreux écrivains soviétiques l'ont fait et ils ont écrit des livres médiocres.
Dans votre nouveau livre, Le bonheur des familles, vous écrivez: « L'idéologie fait que les imbéciles et les intelligents deviennent camarades ». Ou encore: «L'artiste est un être à part. Il n'a de comptes à rendre qu'à son art » ...
C.F: N' oubliez pas que ce sont les propos de mes personnages!
Mais il y a bien une part de Carlos Fuentes dans ce que vous leur faites dire, non?
C.F: C'est inévitable. Je pense bien sur à Flaubert disant: « Madame Bovary, c'est moi. » Un personnage est créé par l'écrivain, mais l'écrivain se tient à distance. Tout se joue dans cette distance qui peut s'établir entre la création de l'écrivain et l'écrivain lui-même. J'ai récemment écrit un roman à la première personne, La voluntad y la jortuna [La volonté et la fortune ], qui vient de paraître au Mexique : c'est une chose que je fais rarement et j'ai ressenti une très grande liberté dans le fait d'être moi-même tout en étant différent. Ce n'est pas pour auutant un livre autobiographique. La seule fois où je me suis risqué sur ce terrain de l'autobiographie, c'est dans Diane ou la chasseresse solitaire.
D.H. Lawrence disait que « nulle part comme au Mexique, la violence ne côtoie de plus près la tendresse». C'est aussi votre avis?
C.F. Il y a effectivement une grande tendresse au Mexique, son peuple est merveilleux. Il y a aussi beaucoup de cruauté, mais toujours cet espoir que le pays va s'améliorer grâce à la grandeur d'âme du peuple mexicain. Seuulement la situation a vraiment empiré. Quand j'étais jeune, je pouvais sortir dans les cafés et les cabarets de Mexico jusqu'à trois heures du matin

«J'ai voulu donner un écho très puissant à cette voix de la misère, de la violence»

et rentrer tranquillement chez moi à pied. Aujourd'hui, je ne me risque même plus à m'aventurer tout seul au-delà du coin de la rue. Il nous faut inventer d'urgence une modernité mexicaine où fonctionnent la loi et la justice. Mais ça va nous demander beaucoup de temps et de travail. Je ne serai plus là pour voir le résultat ...
La première nouvelle du Bonheur des familles développe le thème de la corruption au Mexique: est-elle vraiment impossible à éradiquer?
C.F. La corruption n'est pas l'apanage du Mexique. Elle existe dans tous les pays du monde, y compris en France. Le problème, c'est la possibilité de la signaler et de la combattre. Au Mexique, la corruption est une coutume très ancienne, qui remonte aux Aztèques, qui a eu cours à l'époque du règne espagnol, durant la République, etc. A tel point qu'au Mexique c'est l'honnêteté qui est l'exception. Tout le contraire des Etats-Unis, où la corruption est l'exception. Là-bas, dès qu'une affaire de corruption se présente, il y a procès. Ce n'est pas le cas au Mexique. Nous devons donc créer cette culture de l'anticorruption qui nous fait tellement défaut. Cela suppose de lutter contre l'héritage de plusieurs siècles. Qui plus est, un pays où il y a tant de différences de classes comme le Mexique est un pays corrompu par définition.
N'y a-t-il pas aussi ce fatalisme des Mexicains, qui laisseraient le pays courir à sa perte?
C.F  Oui, en effet. Mais il y a aussi autre chose d'intéressant qui est l'opposition à la fatalité. Dans la plupart de mes écrits, il y a cette malédiction qui pèse sur le Mexique et une volonté de certaines personnes libres de s'y opposer et de créer une résistance à la fatalité. C'est là que se noue le drame. Le drame du roman, l'existence de ces deux faits terribles. C'est un pays avec une forte tradition de corruption mais, face à cela, il y a une culture mexicaine qui s'oppose à la corruption: des chansons, des livres, une architecture, qui sont une manière de dire non à la corruption. Et ça reste. C'est une lutte très intense qui se joue actuellement au Mexique, peut-être plus que dans les autres pays d'Amérique latine où il y a davantage de solutions politiques. Nous, au Mexique, nous avons été gouverrnés pendant soixante-dix ans par le Parti révolutionnaire institutionnel: quelle meilleure source de corruption qu'un seul et même parti au pouvoir pendant si longtemps?
Un des personnages du Bonheur des familles constate: « Le pays nous a filé enntre les doigts. » Quelle est la responsabilité des intellectuels dans tout ça ?
C.F C'est toujours très facile de rejeter la faute sur les intellectuels, de leur attribuer le sauvetage d'un pays. Moi, j'y vois une erreur grossière. Parce que, en fin de compte, c'est aux citoyens de sauver le pays. La citoyenneté se retrouve à tous les niveaux, économique, politique, social, fanmilial. Charge à chacun d'aider le pays à se rénover, comme savent si bien le faire les Etat-Unis. Certes, ils n'ont pas un passé comparable à celui du Mexique. Ils ont tué tous les Indiens, ils ont mis les Noirs en esclavage. Mais aujourd'hui, justement, ils ont élu un Noir à la présidence......
*

Văn chương là chuyện của ngôn ngữ và trí tưởng tượng. Nhưng nhà văn còn là một công dân, và như một công dân, người đó cũng đi bầu, cũng khoái ý thức hệ này, ý thức hệ nọ. Pablo Neruda là nhà thơ lớn của Chile, và cái chuyện ông ta mê Xì ta lin, mê CS là thứ yếu. Ở cực điểm khác, là Celine, ông này nhà văn số 1, nhưng cũng là kẻ bài Do Thái hạng nặng.
Điều tệ hại, là bắt văn chương cúi đầu trước ý thức hệ. Rất nhiều nhà văn Liên Xô làm như vậy, và chỉ đẻ ra thứ văn chương tầm thường, dở như hạch.
*
Gấu, khi còn trẻ, cũng nghĩ như ông này. Đa số những nhà văn Miền Nam cũng nghĩ như ông này. Họ tách văn chương ra khỏi chính trị. Và họ chỉ trách nhiệm tới chính trị, theo tư cách là một công dân. 
Chỉ đến khi về già, Gấu mới hiểu ra, không phải như vậy.
Chỉ một khi bạn coi chính trị là đỉnh cao, và đặt văn chương ở dưới đít chính trị, như là một cái ghế ngồi, thì đó mới đúng là vị trí của nó!
Cái thứ chính trị mà Gấu nói ở đây, chính là cái thứ chính trị mà người xưa gọi là Đạo.
Cái câu của Đồ Chiểu, chở bao nhiêu Đạo thuyền không khẳm, là cũng theo ý này.
Nhưng phải đợi nghe Canetti phán, thì mới thật bảnh, thật tới, thật hách: Nhà văn là tên nô lệ của thời của nó. Nhà văn là con chó của thời của nó.

[However, the true writer, as we see him, is the thrall of his time, its serf and bondsman, its lowest slave.
.... I would simply say: he is the dog of his time.]
Tuyệt cú mèo.

Kỷ niệm, kỷ niệm

Nếu bạn chỉ đọc bài TTT viết về MT, khi ông nằm xuống, thì mới chỉ biết một nửa tình cảm của ông, dành cho Hà Nội, khi ra khỏi tù VC.  May sao, chúng ta còn đọc được bài của Ninh Hạ, tả cái cảnh tác giả và nhà thơ tất tả thăm Hà Nội, thừa một cơ hội thật là hãn hữu, và tuyệt vời.

“Khi từ Phú Thọ ra, ghé lại Hànội chờ tầu về Nam, lúc chiều tối đứng trên ga Hàng Cỏ, trông xuống phố Hàng Lọng, phố Trần Hưng Đạo sâu hoắm bóng đêm rét lạnh của một ngày cuối năm, tôi thầm nhắc thành tiếng bên tai "... Nhìn xuống vực thẳm... dưới ấy..", câu của anh vẳng ngân như là một câu thơ…

“Thưa cán bộ thiếu mất một anh”. “Bỏ mẹ! Anh kiểm lại xem. Lúc lên tàu tôi đếm đủ. Không nhẽ rớt xuống đường. Ðếm lại!”. “Thưa cán bộ đúng là thiếu một”. “Có biết thiếu ai không?” “Thưa biết”. Ai?” “Nguyễn Thiệu Hùng”. Tôi vọt miệng nói tiếp “Tôi nghe nói anh ấy có bà cô ở đối diện ga. Chắc anh ấy tranh thủ ghé thăm. Cán bộ đừng lo. Ðúng giờ tàu vào Nam chắc chắn anh ấy sẽ có mặt thôi”. Tôi biết rõ vì trước khi lên tàu Mai Trung Tĩnh có nói với tôi. “Vô kỷ nuật. Ông nại cho vào tù ở thêm cho biết thế nào là nễ độ”. Tay cán bộ răn đe. “Anh đi ngay ra khỏi ga, túm đầu anh ấy về ngay cho tôi”. “Tôi không rành đường sá, nhỡ lạc không về kịp chuyến tàu thì bỏ bu”. “Ði. Tôi bảo đi là cứ đi. Ðừng nôi thôi”. “Hay là cán bộ cho anh Dư Văn Tâm cùng đi. Anh ấy là dân Hà Nội chính cống”. “Ðược. Nhớ tìm được thì về ngay nhé. Khẩn trương!”. “Vâng!”. Tôi chạy đến chỗ ông Thanh Tâm Tuyền. “Mình đi thăm Hà Nội ba sáu phố phường”. “Ði thế nào được. Chúng nó giam lỏng”. “Cứ theo tôi. Thế mới tài!”. Ông không tin. Tôi cười kể cho ông nghe. Ông vội vã khoác chiếc áo măng tô màu đen. Ðội nón công nhân kiểu Lenin. Nón này là bảo vật tôi để lại cho ông kỷ niệm chia tay. Không ngờ hai anh em cùng được tha. “Anh đem tôi đi tham quan Hà Nội”. “Ông Hùng thì sao?”. “Dẹp qua một bên. Lo bò trắng răng. Ðến giờ tàu chạy thì ông ấy mò về”.

Thanh Tâm Tuyền hóa xác. Thường ngày thong thả chậm chạp, giờ đi như chạy. Ðường phố dường như quá quen thân cho dẫu bao tang thương biến đổi. Ông bươn bả đi trước, tôi chạy theo. Không nói với nhau nhưng tôi biết ông đang xúc động khi trở về nơi chốn cũ. Tấp vào một quán phở bên kia đường để thưởng thức tô phở Bắc chính hiệu. Gọi mỗi đứa một cốc cà phê. Thế là nhất. Mấy năm đói khát thèm ăn, tô phở làm chúng tôi thất vọng đã đành mà ông chủ quán, thuộc loại bộ đội giải ngũ, trong bộ đồ lính cũ, lại càng làm cho tôi phát ngấy. “Phở ở đây mới là phở. Trong Nam các anh nàm sao sánh được”. Tô phở phất phơ hai lát thịt nhỏ, mỏng dính. Nước dùng bột ngọt đậm chát. “Phét. Chúng mày lấy đâu ra thịt. Bố khỉ!” Tôi chửi thầm. “Ông đói dài mấy năm còn chả thấy ngon huống hồ...!”. “Các bác được Đảng khoan hồng nhớ về lao động...” Tôi nói đểu: “Thôi nhờ ông anh tốp lại! Mấy năm nghe chán rồi. Biết rồi khổ lắm nói mãi! Vào đây đớp phở mì chính (bột ngọt) chứ không phải nghe ông lên lớp. Tính tiền!”.

Như vậy chỉ có Gấu này, về, thật là huy hoàng!

Và đó cũng một phần là nhờ NTS


*

De Sartre à Abd AI Malik. Les plus grands - Aragon, Queneau, Sartre, Sagan - et les plus jeunes - Olivia Ruiz, Miossec, Abd AI Malik - ont écrit pour «Jujube ». Alors que sort son nouvel album, elle se souvient de tous.

Gréco
avec son meilleur souvenir

Đọc NHT, những ngày còn ở Việt Nam, khi ông đang nổi như cồn, Gấu vẫn nghĩ, văn của tay này, độc thật, bất nhân thật, nhưng bắt buộc phải có cái cú ăn cướp Miền Nam, nó mới bật ra được, khác cái bất nhân tù túng trong ao tù Bắc Kít của văn Vũ Trọng Phụng. Nhờ vậy, thế giới đọc được ông, hoặc ông tới với họ được.
Tuy nhiên, vẫn có một cái gì thiếu ở trong đó.
Thiếu một tiếng hát.
Miền Bắc, nói chung, không riêng gì NHT, thiếu hẳn một tiếng hát.
Nhất là thứ như của Gréco.
Làm sao chủ nghĩa hiện sinh có thể khả hữu, nếu thiếu Xóm Học, ga Lyon đèn vàng, Les Feuilles mortes... và, Gréco?
Đọc bài viết về Gréco trên tờ Người Quan Sát Mới, số 16-22 Avril, 2009, nhân CD mới ra lò của bà, Gấu bỗng nẩy ra mấy ý lạ như trên!
Những kỷ niệm của Em, về Duras, về Sagan, như dưới đây, mà chẳng tuyệt vời sao?

*
Marguerite Duras : “le Square”
« Nous étions ensemble aux Jeunesses communistes. En sortant des réunions, comme je  n'arrêtais pas de râler, Marguerite me prenait par le bras pour me sermonner sévèrement - je doutais autant qu'elle était convaincue - tandis que nous montions et descendions la rue Saint- Benoît, bras dessus, bras dessous. Ça pouvait durer des heures. En théorie, le communisme est plutôt mon idéal, Jésus étant pour moi le premier communiste. Mais je n'ai pas l'esprit de groupe. Mais bon, je participais malgré tout aux réunions, il m'arrivait même de mener la marche lors des séances de préparation militaire dans le bois de Vincennes. J'avais la grosse voix, je criais: "Une, deux. Une, deux." Pour revenir à Duras, j'adorais ses livres, quand elle m'a proposé « le Square» j'ai été immédiatement conquise. Je l'ai remerciée et j'ai embarqué le texte. »
Françoise Sagan : “Sans vous aimer”
“Elle m'a donné "Sans vous aimer", musique le Michel Magne. J'aime tellement Françoise que j'ai du mal à en parler. J'aime l'écrivain, a dramaturge, la femme, l'enfant en quête l'amour qu'elle n'a jamais cessé d'être. Elle réussi son autodestruction, ce qui ne me met pas de bonne humeur. Mais je ne l'ai jamais jugée, c'était son droit, sa liberté chérie. J'ai enregistré quatre chansons d'elle, dont "Sans vous aimer", qui est de loin la plus forte.»
Propos recueillis par SOPHIE DELASSEIN
CD: “Je me souviens de tout” (Polydor). Sortie le 27 avril.
En concert: du 4 au 10 juin, au Théâtre des Champs-Elysées.

Đà Lạt

Cũng trong bữa sinh nhật, người bạn gái học cùng lớp, ở cùng phòng trọ với Oanh suốt ba năm kể với Oanh những chuyện về thành phố cao nguyên như nhắc lại một mớ kỷ niệm đáng nhớ cho Oanh mang theo. Chi nhắc Kiệt. Chi gặp Kiệt trong buổi đi chơi với chúng bạn ở một rừng thông xa thành phố. Ông ta đi với một người đàn bà chắc chắn không phải vợ, trông mùi mẫn du dương không tưởng. Ngay tức thời, Oanh không có phản ứng. Nàng lặp với Chi: Một cuộc tình tắt, tắt một cuộc tình, bởi Chi hiểu Oanh có cảm tình đặc biệt với Kiệt – nhưng không biết Oanh đã gặp Kiệt.
Đêm ấy không biết Oanh khóc mấy trận. Nàng ngỡ đích thực mình đã trở thành đàn bà dù chưa ai đụng chạm. Nàng không còn tưởng đến chuyện gặp lại Kiệt nữa.
Một Chủ Nhật Khác

... vào đúng dịp sinh nhật của chàng, sinh nhật lần thứ ba mươi mà cũng là sinh nhật lần thứ nhất, nàng nói, "Je serai ta femme."
Thời gian
Một buổi chiều mưa. Oanh và Chi ngồi trong quán kem sát bên phố đông khu trung tâm. Trong một giây phút mơ mộng, Oanh thấy Kiệt đi qua bên ngoài kính. Không kịp nghĩ ngợi, nàng xô ghế đứng dậy len ra cửa. Trời vẫn mưa, dọc theo vỉa hè có mái che người đứng trú chen chúc.
Một Chủ Nhật Khác
Sau này, anh nghe cô kể lại: Bữa đó, trời mưa lớn, H. đội mưa chạy xe từ Đại học Y khoa, suốt quãng đường Chợ Lớn - Sài Gòn. Cũng biết là vô ích, vô phương. Lũ bạn nói, con này điên rồi. Tới nơi, đã trễ hẹn. Thường, em vẫn trễ hẹn, anh vẫn chờ (có lần anh nói anh có cả một đời để chờ...), nhưng lần đó, em hiểu.
Bữa đó, mưa lớn thật. Gấu đội mưa đi ra khỏi quán. Đi khơi khơi, không chủ đích, mơ hồ hy vọng những đợt mưa xối xả trên thành phố Sài Gòn xóa sạch giùm tất cả những kỷ niệm về một cô gái, Hà Nội, độc, và đẹp...
Độc, là chuyện sau này, do Gấu tưởng tượng ra, khi đi tìm một cái tên, cho một cuộc chiến.
Sự thực, những kỷ niệm về một miền đất, về một thành phố, và về cô bé, chúng thật đẹp.
Hà Nội, Lan Hương, và Gấu

10
Kiệt bỗng cất tiếng hát inh tai. Kiệt gào thì đúng hơn như muốn át tiếng còi hú, và tiếng động cơ.
Tiếng còi báo động.

*
Bông Hồng Đen, Tiếng Hát Của Im Lặng.
… cette ‘’rose des ténèbres’’. Cette "musicienne du silence"?
C’est grâce à elle, et pour voir mes mots devenir pierres précieuses, que j’ai écrit des chansons.
Nhờ nàng, và cũng để nhìn thấy những từ ngữ của mình biến thành những viên ngọc quí mà tôi viết những lời ca
JEAN-PAUL SARTRE
Si vous entendez une voix qui est l’appel de l’ombre, c’est celle de Gréco.
Nếu bạn nghe tiếng hát liêu trai, tiếng hát gọi bóng tối, thì đó là của Gréco.
PIERRE MAC ORLAN

*
Me xừ Tướng Về Hưu của NHT, sau khi góp phần xây dựng xong xuôi Địa Ngục ở trên Trái Đất, trước khi về hưu, bèn ghé thăm Sài Gòn. Tâm trạng cô đơn, không còn việc gì để làm, miền nam làm thịt xong rồi, đói no thì đã có cô con dâu lo, "phúc lợi" trông vào việc nuôi heo bằng thai nhi... không khí đó, "Tôi gục đầu lên nỗi buồn", có cái "air" văn chương miền nam. Không phải tự nhiên mà có người nhận xét, không làm thịt được miền nam, không có những ông như NHT.
Khúc chót, chỉ gồm toàn những mẩu, những đoạn, những tờ thư lả tả... của Nỗi Buồn Chiến Tranh khiến độc giả miền nam tự hỏi, không hiểu Bảo Ninh đã từng ghé mắt đọc Tiếng Động của Thanh Tâm Tuyền?
Thiếu, là thiếu một tiếng hát, thí dụ như của... Gréco, "sang nhất", hoặc "hèn hơn một tị", của Khánh Ly, của Lệ Thu... , ở trong NHT. Có thể, tiềm thức của tác giả nhận ra thiếu...  một giọng hát, bèn nhớ ra tiếng hát thuỷ thần, tiếng hát Trương Chi...
Thiếu là thiếu một thứ văn chương không hề trông mong vào chính tác giả của nó, để giải thích, để biện minh cho nó.
Va, petit livre, et choisis ton monde.
Topffer
Hãy lên đường, cuốn sách nhỏ bé, và chọn lựa cái thế giới của mày.
Không kiếm được, không chọn được, thì... kệ cha mày, mặc mẹ mày, và đó là phần số của mày.
Làm gì có thứ văn chương mẹ... mìn, vú em, hay..  bà chị, đi kèm?
Cuốn sách chưa viết xong, thì đã lo giải thích, tôi viết thế này là thế...  lào... rồi!
Viết xong lại càng có lý do để mà la làng: Con lày, thằng lày không đem con bỏ chợ! Thằng lào con lào chê bai... là chết với... bà!
Thiếu một thứ văn chương, mà độc giả, đọc từng câu từng câu là từng từng hạnh phúc.
Những trang đẹp nhất của Kể Chuyện Năm 2000, lạ thay, lại là những đoạn tả mấy anh tù sáng sáng đi làm!
Nhật Ký Tin Văn
*

Lên xe tiễn em đi , chưa bao giờ buồn xế!
Gấu là người đầu tiên hát, như trên, chưa bao giờ buồn xế, những ngày bài hát Phạm Duy phổ nhạc thơ Cung Trầm Tưởng vừa mới ra lò và ngay lập tức, chinh phục cả Sài Gòn.
Cả nhà bật cười.
Nhà ở đây, là nhà bà cụ C.
Ông anh cũng bật cười.
*
Thời gian đó, cụ C cũng đã mua phiá bên trên lầu, C. có phòng riêng. Ông anh có phòng riêng. Cụ còn nuôi thêm hai cô người làm. Hai chị em. Chắc cũng chẳng cần tới hai người, nhưng nuôi cô chị, chẳng lẽ bỏ cô em, đại khái vậy.
Hai cô xẩm. Cứ mỗi lần, vào buổi tối, Gấu ghé, thường là bụng đói, và cô chị biết liền, và bèn lấy cơm nguội ra cho Gấu ăn.
Thế rồi Gấu mê, cả cơm nguội, lẫn người ban cho mình cơm nguội.
Cô biết. Và có lẽ cũng thương Gấu!
*
Cụ nuôi cô chị trước, ít lâu sau, nuôi thêm cô em. Cô em, nhìn cái cảnh thằng cu Gấu tới, cô chị lăng xăng săn sóc cái bụng đói, hai con mắt đói, chắc là hiểu. Thành thử cô em đối với Gấu rất ư là tự nhiên, cứ như là người trong gia đình, đây là anh Hai của mình mà! Có những lần Gấu tới, không có cô chị, chắc là về nhà thăm gia đình, thế là cô em thay cô chị, lo săn sóc anh Hai, còn thân mật hơn cả cô chị, và chẳng hề có một tí mờ ám nào cả.
Gấu cũng thế.

Cho tới một bữa, Gấu, mắt lé, nhìn cô em ra cô chị, và lỡ dại cầm tay. Thế là xong.
*
Lần về thăm cụ, vào năm 2000, Gấu vẫn canh cánh trong lòng, về hai cô xẩm. Hỏi thăm, cụ nói, tụi nó đi nước ngoài hết cả rồi. Gấu mừng quá. Nhưng một lát sau, cụ nói, tao nhớ lộn. Hai đứa nó vẫn còn ở Việt Nam.