*


 



&

30.4.2009
*
*
2.5.09


Chia Buồn
Nghe tin muộn, qua NLV, ông cụ thân sinh bạn Nguyễn Đình Thuần, họa sĩ, mất ngày 28 Tháng Tư, 2009
Xin thành thật chia buồn cùng hai bạn Thuần & Hương, và cầu chúc hương hồn cụ sớm siêu thoát
Thảo Trần & Nguyễn Quốc Trụ


Lưới khuya, hồn ốc lạc thiên đường

“Thơ là ngôn ngữ tự lấy mình làm đối tượng”
DT.
Ý này, là của Roland Barthes, khi ông bàn về phê bình văn học. Áp dụng vào thơ, thì quá đơn giản, và sợ…  sai.
Mọi tiểu thuyết gia, mọi thi sĩ, múa may quay cuồng với những đường đao thế kiếm dựa trên bất cứ một lý thuyết văn học gì thì gì, tựu chung cũng là để nói về tuồng ảo hóa đã bầy ra đấy [nguyên văn: để nói về những sự vật, và hiện tượng, to speak of the objects and phenomena], cho dù những thứ này là do tưởng tượng, ở bên ngoài hoặc là có trước ngôn ngữ: thế giới hiện hữu và nhà văn nói: đó là văn chương. Sự vật, hay đối vật, the object, của phê bình khác hẳn: Đối vật của phê bình không phải là "thế giới" nhưng mà là một bài viết/nói, a discourse, bài viết nói đó, là của một người nào đó: phê bình là một bài viết/nói về một bài viết/nói; nó là một ngôn ngữ bậc hai, hay, một siêu ngôn ngữ (như những nhà lý luận gọi). Cái ngôn ngữ bậc hai này thao tác (operate) trên ngôn ngữ bậc nhất (hay, ngôn ngữ sự vật, language object). Từ đó suy ra, ngôn ngữ phê bình phải đụng (deal) với hai thứ liên hệ: liên hệ giữa ngôn ngữ phê bình với ngôn ngữ của tác giả được tìm hiểu, và liên hệ giữa ngôn ngữ sự vật này với thế giới. Chính sự "đụng độ, tranh chấp", giữa hai ngôn ngữ này định nghĩa, là cái gọi là phê bình. Và, có lẽ, sự đụng độ này làm cho phê bình thật giống với một hoạt động tâm thần khác, lý luận học, môn này cũng đặt nền tảng trên sự phân biệt giữa ngôn ngữ sự vật và siêu ngôn ngữ.
Roland Barthes: Phê bình là gì?
Như thế, chúng ta có thơ, như là ngôn ngữ của đời sống, rồi có nhà phê bình Đặng Tiến, viết về thơ, bằng "ngôn ngữ tự lấy mình là đối vật."
… C'est parce qu'une oeuvre est faite de ses mots poétiques qu'elle a sa densité (Ezra Pound dit : « charger les mots de sens jusqu'à l'extrême degré possible »). Et ces mots poétiques (la beauté, étant leur rapport intime, ne peut être que tardivement percue, et plutôt le nom passif d'un acquis, généralement, que la conscience des découvertes), ils ne sont une exploration du langage que parce qu'ils sont recherche d'un homme.
Ainsi la visée d'une telle poétique est l'oeuvre, dans ce que son langage a d'unique. C'est l'oeuvre unité de vision syntagmatique et l'oeuvre unité de diction rythmique et prosodique -, système et créativite, objet et sujet, forme-sens, forme-histoire.

Henri Meschonnic: Pour La poétique I
Bởi vì một tác phẩm được làm ra bằng những từ ngữ thơ mà nó có độ đặc của nó [nói như Ezra Pound: “Hãy ‘sạc’ ý nghĩa cho những từ đến khi nó no đủ hết còn sạc thêm được nữa"]....
Le sujet des études littéraires n'est pas la littérature dans sa totalité, mais la “littérarité” (literalurnost') c'est-à-dire « cela qui fait d'une oeuvre donnée une oeuvre littéraire ". La Jeune Poésie russe, Prague, 1921, cité par Victor Erlich, Russian Formalism, Mouton, 1965, p. 172 . “L'objet de la poétique, c'est, avant tout, de répondre à la question: Qu'est-ce qui fait d'un message verbal une oeuvre d'art? » Linguistique et Poétique, 1960, dans Essais de linguistique générale, [Roman Jakobson] Ed. de Minuit, p. 210.
Đề tài của những nghiên cứu văn học không phải là văn học trong cái toàn thể của nó, nhưng mà là “tính văn”, tức ‘điều làm cho một tác phẩm có đó, trở thành một tác phẩm văn học"… Bàn về thơ, trước hết, là làm sao trả lời được câu hỏi: “Cái gì làm cho một văn bản, một thông điệp, trở thành một tác phẩm nghệ thuật?”
Henri Meschonnic: Pour La poétique I

Henri Meschonnic: disparition du poète traducteur
Le poète, traducteur et linguiste Henri Meschonnic nous a quittés  mercredi 8 avril. Notamment connu pour ses traductions de la Bible, mises en scène au théâtre par Claude Régy, il était également un polémiste, défenseur de la poésie et des poètes. Dans le numéro de septembre 1998 du Magazine littéraire, il publiait un texte plein de colère contre les exégètes de Mallarmé, Jacques Rancière et Yves Bonnefoy:


30.4.2009

Mẹ không thuộc hết ca từ bài hát mà sau này tôi mới biết có tên là “Tình ca của người mất trí”[25], nhưng mẹ kể mẹ đã khóc khi nghe lần đầu. Với tôi, ấn tượng đầu tiên là sao cô ấy có nhiều người yêu thế. Mà sao ai cũng chết. Những địa danh như Plei-me, Đồng Xoài, Chu-prong nghe xa lạ hơn cả Paris, London. Còn chiến khu D thì tôi hình dung nó ở đâu đó xa hơn (đi) B. Mãi sau này tôi mới khóc. Và luôn nhớ mẹ mỗi khi nghe lại bản nhạc này.
Mưa Trịnh buồn. Gió Trịnh buồn. Tình Trịnh buồn (”một người về đỉnh cao, một người về vực sâu, để cuộc tình chìm mau…” - “Tình nhớ”). Đời Trịnh càng buồn hơn. Cát bụi mệt nhoài (”Cát bụi”). Cánh chim bỏ rừng,… trái tim bỏ tình. (”Cho một người nằm xuống”). Nhưng với tôi, nhạc Trịnh là liều thuốc giải.

*
Tác giả viết lăng nhăng, đủ thứ nhạc đỏ, rồi thừa cơ, gài vô đoạn trên đây, có những câu:
Mẹ không thuộc hết ca từ bài hát mà sau này tôi mới biết có tên là “Tình ca của người mất trí”[25], nhưng mẹ kể mẹ đã khóc khi nghe lần đầu
Với tôi, ấn tượng đầu tiên là sao cô ấy có nhiều người yêu thế. Mà sao ai cũng chết. Những địa danh như Plei-me, Đồng Xoài, Chu-prong nghe xa lạ hơn cả Paris, London. Còn chiến khu D thì tôi hình dung nó ở đâu đó xa hơn (đi) B. Mãi sau này tôi mới khóc. Và luôn nhớ mẹ mỗi khi nghe lại bản nhạc này.
Hoài Phi [talawas]
Đây có lẽ là bài ai điếu đầu tiên dành cho Miền Nam của một người Miền Bắc.
Mà sao ai cũng chết?
Tưởng là viết lăng nhăng, đủ thứ nhạc đỏ, nhưng chính nó là đích danh thủ phạm.
*

Bài này, nếu lời chỉ giản dị như vậy, làm sao bị cấm hát, và Mùa Xuân đầu tiên chỉ tìm ra được tiếng hát của nó, lần đầu tiên trên đài Mút Cu Va?
Qua một ông bạn, cũng quen biết Lý Đợi, bài ca chết, vì tiên tri cái chết của Đỉnh Cao Chói Lọi, qua câu hát:
Từ đây người biết quên Người.
Như tinh thần bài viết cho thấy, quả có một thời kỳ huy hoàng thật ngắn ngủi, ngay sau 30 Tháng Tư 1975, trước khi đất nước bước vào cơn Đại Suy Thoái, Cơn Băng Hoại, Trận Đại Hồng Thuỷ, Cả Nước Đua Nhau Chạy Ra Biển, Trận Đại Dịch biến đổi gien, khiến VC biến thành ruồi, thành bọ.
Koestler đã từng gọi thời kỳ này, The Heroic Age, của lịch sử nhân loại, trước khi bước vào Dark Interlude, tức thời kỳ hơi bị được chúc dữ bởi cái vòng tròn, (1) y hệt sau này, nhân loại lại đắm chìm vào chủ nghĩa CS không tưởng.

(1) Huyền thoại về cái vòng tròn tuyệt hảo có cội nguồn thật xa xưa, và có quyền năng phù thuỷ. Vả chăng, nói cho cùng, vòng tròn là một trong những ký hiệu cổ xưa nhất. Cái nghi lễ vẽ một cái vòng tròn chung quanh một con người, là để ngăn chặn mọi quỷ ma muốn ám hại anh ta, và đánh dấu một thánh địa, mà con người là trung tâm của nó.
Người đầu tiên phát triển một vũ trụ hình e líp, là Apollonius of Perga. Hai ngàn năm sau, Johannes Kepler, vẫn bị ám ảnh bởi vòng tròn tuyệt hảo, đã ngần ngại chấp nhận quỹ đạo bầu dục của của các hành tình, như ông viết, "bởi vì nếu mọi chuyện giản dị như thế, thì vấn đề này đã được Archimedes và Apollinus giải quyết từ khuya rồi."
Arthur Koestler. The Sleepwalkers: A History of Man’s Changing Vision of the Universe. Những kẻ mộng du
*
Gấu đi tù sau 1975 cũng khá sớm, đúng vào lúc có chính sách Kinh Tế Mới, và lần đầu tiên nghe bản nhạc Con Kinh Ta Đào, như một tên tù, trên nông trường cải tạo Phạm Văn Cội, Củ Chi, và sững sờ đến nghẹt thở, sao nó đẹp như thế, đúng với tình trạng của Gấu như thế, và đúng với cả Miền Nam như thế, trong khí thế bừng bừng Thanh Niên Xung Phong như thế, thế, thế, thế!
Con kinh ta đào chưa có nước chảy qua,
Chỉ có nắng mùa hè nóng bỏng…
Ui chao cái lũ Yankee mũi tẹt đã lấy đi của dân Mít chúng ta giấc mơ đẹp nhất, kể từ khi có giống dân Mít, khi đầu hàng Cái Ác Bắc Kít, Con Quỉ Chuồng Lợn (1), khi gục ngã trước Phồn Vinh Giả Tạo, tức cứt của Mẽo, khi lũ Yankee mũi lõ phải bỏ của chạy lấy người, và bây giờ tiếp tục ăn cứt của Mẽo, và của Tẫu, khi nhường biển, nhường núi cho chúng.

*
Amos Oz

Gấu đọc Oz lần đầu tiên, trên tờ The Partisan Review, đúng bài viết về Y sĩ đồng quê của Kafka, nhờ vậy ngộ ra liền, sợi chỉ đỏ xuyên suốt, Cái Ác Bắc Kít, con quỉ nơi chuồng heo hoang vắng trong căn nhà của ông y sĩ đồng quê, tiếng gọi cấp cứu của con bệnh Miền Nam, và ông y sĩ vội vã lên đường, xẻ dọc Trường Sơn, và để đền ơn con quỉ ban cho cặp ngựa, đã hy sinh một cô Phương, cho đám bộ đội Cụ Hồ, trong một trận dội bom ga Thanh Hoá, và sau này nhà văn Bảo Ninh đã kể lại trong Nỗi Buồn Chiến Tranh....
Đọc bài của Oz, Gấu ngộ ra được nọc độc Kafka. Ngộ ra điều: Kafka viết dưới bóng tối Lò Thiêu, [khi đó chưa xẩy ra], Gấu đọc ông, dưới bóng tối Lò Cải Tạo.
Đừng nghĩ là Gấu này 'cường điệu'. Bạn thử đọc truyện Y Sĩ Đồng Quê, rồi tưởng tượng ra, anh nông dân Bắc Kít khù khờ của nhà văn Lê Lựu, anh cu Sài, thí dụ, trong ba lô có cái bát quí dành cho Miền Nam, hay nữ văn công kiêm nhà văn DTH, mà chẳng thấy y chang ông y sĩ đồng quê của Kafka, nghe báo động hoảng, có bệnh nhân thập tử nhất sinh, vượt mưa gió, đêm đen, bão tuyết, tới bên giường bệnh, thì mới biết là mình bị bịp.
Đâu có khác gì DTH ngồi bên vệ đường than khóc, mình bị Đảng lừa?
Anh Sài của Lê Lựu làm gì có cái bát dành cho Miền Nam!
Chỉ có vài cái ba lô mang sẵn từ Miền Bắc, để nhét chiến lợi phẩm!
*
Nhưng đọc Brodsky, nhất là thời thơ ấu, mới lớn của ông, ở trong thành phố St. Petersburg, thì Gấu mới thấy thấm thía những năm tháng Bắc Kỳ của thằng Mõ Phố mắt lác, là Gấu ngày nào!
Gấu nhà văn 
Cái sự hăm hở viết cho diễn đàn tà ma của Gấu, khi nó vừa xuất hiện, có thể do nhớ đến The Partisan Review, nơi tụ tập những cây viết bỏ chạy quê hương CS của họ, như Milosz, Manea, hay những nhà văn như Oz, ăn ngủ với kẻ thù, sống giữa hai lằn đạn...
Có vẻ như đám Yankee mũi tẹt ở hải ngoại chưa từng đọc, bất cứ một nhà văn, trong số họ.
*

Octavio Paz, trong Hành Trình, kể, Victor Serge khuyên ông nên đọc tờ Partisan Review.
Gấu cũng nghe theo lời khuyên này, đọc, và khám phá ra cả một lô những tác giả cần đọc, toàn những ông bỏ chạy "VC quốc tế" cả, thí dụ, Manea, Milosz.
Thêm ông Amos Oz, nhà văn Do Thái.
Gặp Oz, đọc ra Kafka.
Đọc những ông bỏ chạy "VC quốc tế", ngộ ra thân phận Gấu, hiểu ra, một phần nào, tại sao Gấu không bắt chước những ông như Lữ Phương, Đào Hiếu, chọn Bác Hồ làm minh chủ, chọn Mặt Trận làm nơi nướng bầu nhiệt huyết, đại khái vậy.
Nhưng đọc Trường hợp đồng chí Tulayev, mới vỡ ra, đây là đứa anh, hoặc em, song sinh của Đêm giữa ban ngày của Koestler.
Lạc Đường
*
Tôi nghĩ độ một trăm năm sau, nếu muốn nhìn lại xã hội Việt Nam nửa sau thế kỷ XX, muốn hiểu con người sống như thế nào thì cần phải đọc cả hai. Nền văn học miền Bắc, tôi tạm gọi là văn học của chiến công, nền văn học lôi cuốn người ta đi vào cuộc chiến tranh. Còn nếu giờ đây có ai muốn đi tìm những trang sách diễn tả tình cảnh con người trong chiến tranh thì tôi khuyên họ hãy tìm đến phần văn học miền Nam. Đọc từ Võ Phiến, Mai Thảo, Y Uyên, Nhật Tiến, Thế Uyên… qua những tác phẩm của Nhã Ca, của Phan Nhật Nam, hay những bài thơ của Nguyễn Bắc Sơn, chỗ nào tôi cũng thấy chiến tranh, xa gần đều có dây dưa tới chiến tranh.
VTN

Gấu thực sự tin tưởng, chỉ cần VC sụp, là chẳng ai thèm đọc văn học chiến công của Miền Bắc nữa. Thứ văn học có độc nhất một ông Tổng Biên Tập, như Đào Hiếu phán.
Bây giờ cũng đã chẳng ai thèm đọc! Nguyễn Khải chẳng đã than, than ôi thời lẫm liệt nay còn đâu?
V/v văn học Miền Nam. Coetzee, trong bài viết về Joseph Brodsky, đã nhắc tới một nhận định của nhà thơ Olga Sedakova, theo đó, thành tựu lớn lao nhất của Brodsky, là đã "đặt một cái dấu chấm hết ở cuối trào lưu văn học Xô Viết."
Ông làm được vậy, theo Coetzee, là do, đã lấy lại cho văn học Nga cái chất quí hiếm mà nền kỹ nghệ văn hóa Xô Viết, nhân danh chủ nghĩa lạc quan, đã vứt vào thùng rác: Thân phận bi đát được làm người, hay, cảm nhận bi đát về đời sống, a tragic perception of life.
Văn học Miền Nam, như thế, sẽ  vẫn được đọc, nghĩa là được lọc thải qua thời gian, và theo tài năng của từng tác giả. Một trăm năm sợ rụng dần, và còn lại chẳng là bao! Vả chăng, chỉ dây dưa tới chiến tranh không thôi, thì càng khó bền. Gấu đã cảm nhận ra điều này, khi viết về DNM:
Trong Văn Học Tổng Quan, Võ Phiến coi Dương Nghiễm Mậu có lẽ là người thành công nhất và sớm sủa nhất, sử dụng các kỹ thuật mới vào văn chương Việt Nam. "Trong cuốn truyện dài Con Sâu chẳng hạn, 'tôí không phải là một nhân vật nào, khi là nhân vật này, khi lại là nhân vật nọ; sự chuyển vị xẩy ra thoăn thoắt làm nổi bật sự thay đổi đột ngột những quan điểm nhìn sự vật khác nhau". Trong một bài viết của Mai Thảo, trong "Chân dung nhà văn", ông lại coi người tài hoa nhất của nhóm tiểu thuyết mới tại Việt Nam là Nguyễn Đình Toàn. Cả hai nhận định trên đều đúng, nếu chỉ nói về khía cạnh tài năng, nỗ lực cá nhân khi cố gắng làm mới văn chương Việt Nam. Nhưng bảo hai nhà văn nổi tiếng nói trên là thuộc nhóm tiểu thuyết mới, tôi muốn nói, như những người sáng tác theo quan điểm tiểu thuyết mới tại Pháp, điều này sợ chưa đủ sức thuyết phục.
Lucien Goldmann, trong bài viết "Tiểu thuyết mới và Thực tại", in trong cuốn "Xã hội học về tiểu thuyết", cho thấy, trong khi nhiều nhà phê bình, và đa số công chúng thưởng ngoạn, nhìn tiểu thuyết mới, như là những kinh nghiệm hoàn toàn có tính hình thức, hay một toan tính chạy trốn thực tại xã hội, hai tác giả đại diện chính của trào lưu này là Nathalie Sarraute và Alain Robbe- Grillet, ngược lại, đã muốn nói với chúng ta rằng, tác phẩm của họ được sản sinh từ một cố gắng - càng chân xác, càng cơ bản chừng nào hay chừng đó - nắm bắt thực tại thời đại của chúng ta. Họ là mhững tác giả hiện thực cơ bản nhất, triệt để nhất trong số những nhà văn hiện thực Pháp, nếu chúng ta quan niệm chủ nghĩa hiện thực trong văn chương là sáng tạo bằng tưởng tượng ra một thế giới mà cơ cấu của nó tương ứng với cơ cấu thiết yếu của thực tại xã hội - một xã hội mà tiểu thuyết đã được viết ra từ trong lòng của nó. Một xã hội đã cưu mang, thai nghén ra tiểu thuyết. Và đây là giả thuyết của Goldmann: Trong các dạng văn học, tiểu thuyết là dạng liên can, tức thời nhất, và trực tiếp nhất, tới cơ cấu kinh tế, theo một nghĩa hẹp nhất của từ này. Tới những cơ cấu trao đổi và sản phẩm thị trường. Thực tại thời đại chúng ta cho thấy, nếu trước đây, con người là trung tâm vũ trụ, bây giờ đồ vật trở thành "thần vật". Liên hệ người-vật ngày càng nghiêng về phía đồ vật. Thế nhất quán mang tính cơ cấu "nhân vật-đồ vật" ngày càng biến đổi cùng với sự biến mất của nhân vật nhường chỗ cho đồ vật làm chủ. Từ đó, tiểu thuyết mới mang đủ thứ tên, phản-tiểu thuyết, phản-con người, phản-văn chương...
Nhìn từ quan điểm đó, chúng ta không thể nào coi Nguyễn Đình Toàn và Dương Nghiễm Mậu là những nhà văn tiểu thuyết mới. Nhân vật của Dương Nghiễm Mậu là những con người có một ý thức sáng suốt đến chua xót về sự cô đơn, bất lực của mình trong một xã hội đang manh nha tan rã, cuối cùng lao vào những hành động "phá phách, nổi loạn", cố tìm một thái độ đạo đức bằng những hành xử vượt ra ngoài quan niệm đạo đức thông thường. Thế giới, khung cảnh truyện của ông "khô, đầy bụi", đầy "tóc rối", trong khi ở Nguyễn Đình Toàn, là một khí hậu ẩm, ướt, với những nhân vật hầu hết là nữ. Truyện của hai tác giả giống như hai mùa mưa nắng ở Miền Nam, trong khi chờ đợi cơn bão tố chiến tranh xóa sạch tất cả.
Tiểu thuyết mới ở Việt Nam
Đặng Tiến khi viết về TTT, đã cho rằng ông không có truyền nhân. Đúng, nếu nói về thơ, và lý do tại sao, Gấu đã nhận ra, khi so sánh thơ của TTT với của Milosz. Đó là thứ thơ trí tuệ.  Nhưng TTT có một ảnh hưởng rất lớn, ở những nhà văn cùng thời, với ông, như DNM, NDT, và sau này, sau 1975, phải kể cả Bảo Ninh, Nguyễn Huy Thiệp. Theo nghĩa, họ bắt đầu viết, khi TTT đã ngưng viết, hoặc ở những vùng đất, mà TTT không có tham dự, như chính ông tự nhận về mình, chưa từng bắn một phát súng, nếu phải so với Bảo Ninh, hoặc không có một quãng cách với nó, như NHT, thời gian ông này dậy học tại những bản làng miền núi phía Bắc, như NHT từng nhận định về ông, suốt ngày "úp mặt và núi", để đọc sách.


Gấu này cứ trở đi trở lại với kỷ niệm, cái lần vô một thư viện Bắc Mỹ, tình cờ cầm cuốn Ngôn ngữ và Câm lặng của Steiner lên, và nhìn ra cái trang Tin Văn sau này.
Nhân ngày 30 Tháng Tư năm nay, 2008, Gấu tự hỏi chính mình, "huyễn hoặc nào đưa đến huyền thoại Tin Văn", mô phỏng bạn hiền DT.
Và, làm sao "giải hoặc"?
Chỉ đến những ngày cuối đời, như ngày này, Gấu mới hiểu ra ngọn ngành.
Huyễn hoặc khủng khiếp mà cuốn sách gây ra ở nơi Gấu, chính là hình ảnh nhà văn Tam Ích, tà tà xếp những cuốn sách của ông thành một chồng, rồi tà tà leo lên, tròng cái thòng lọng vô cổ, rồi bye bye cuộc đời, sau khi đưa chân đá đổ chồng sách.
Trong cái chấn động mà những trang sách, những dòng chữ của Steiner gây nên ở nơi Gấu, có  hình ảnh của Tam Ích, như trên!
Cùng với hình ảnh đó, là lời than của ông: Tuổi trẻ của tôi đúng là thật tuyệt vời, nếu tôi không vớ phải những cuốn sách viết về Lò Thiêu.
Nếu như thế, Tam Ích đi theo Cộng Sản, là cũng giống như Koestler, khi gia nhập Đảng Cộng Sản Đức: Hitler ante portas? (1)
(1) Mấy chục binh đoàn VC đang chờ ở cửa ngõ Sài Gòn!
*
Marx lật ngược triết học Hegel, ra chủ nghĩa Marx.
Nếu như thế, Gấu lật ngược kinh nghiệm Tam Ích, ra trang Tin Văn, mà ở dưới nền của nó, là 'huyễn hoặc': Giả như dân Mít chúng ta, nhất là đám Yankee mũi tẹt biết đến Lò Thiêu, liệu có để xẩy ra Lò Cải Tạo?
*
Note: Một độc giả Tin Văn, mail, đưa ra một 'huyễn hoặc' thật là hắc ám:
Giả như dân Mít biết đến Lò Thiêu, và bèn hành xử y chang ông "Ba X" [Tam Ích] nào đó, thì mất mẹ giống Mít ư?

Ui choa thế thì khủng khiếp quá! NQT
Một độc giả trả lời liền, trấn an Gấu, chuyện khủng khiếp đó không thể xẩy ra. Chứng cớ:

From:
To:
Subject: Các anh vĩ đại quá! Chiến tranh độc ác quá!
Date: Thu, 01 May 2008 16:25:27 -0400

Anh phải biết vì sao “hai thằng” đánh nhau? Bảo Ninh nhìn thấy “thằng” nào cũng chết và chẳng thằng nào được cái quái gì? Cũng như lính Ngụy thấy quần áo lót của phụ nữ cũng bỏ đi xem, cái đó rất thật. Nhưng anh phải nhìn thấy khi anh ngồi trong nhà anh, có “thằng” vào giết vợ anh, giết con anh, đốt con anh thì phải đánh lại chứ? Bảo Ninh chỉ nhìn lúc đang đánh nhau, chứ không nhìn ra nguyên nhân đánh nhau. Đã là “trọng tài bóng chuyền” thì phải công bằng.
Nói thật, mình rất quý Bảo Ninh nhưng mình khác Bảo Ninh ở chỗ này, mình rõ ràng và khoa học hơn. Có thể do mình ở lính lâu quá.
Rất nhiều sinh viên ở Mỹ hỏi tôi: Vì sao Việt Nam phải đánh nhau?
Tôi nói: Các cháu, các em không biết rằng, nếu không đánh nhau, không có sự hy sinh của hàng triệu người, ai biết tới Việt Nam ở xó nào? Ai biết Việt Nam là cái gì?
*
Cũng cùng lý luận như vậy, một ông quan VC nổ với vua Thái Lan, dân Mít chúng tôi anh hùng, đã từng đánh thắng hai tên giặc ghê gớm nhất, sừng sỏ nhất, đã từng được nhân loại mơ ngủ dậy biến thành VC... và ông vua này nói, may quá, nước chúng tôi không đánh thắng ai hết, và cũng chẳng mong có ai biết đến nước chúng tôi!
*
Cái chuyện mấy anh VC tự hào về cuộc chiến, thì cũng được đi. Nhưng nếu là một người còn chút luơng tri, thì phải tự hỏi, tại sao sau chiến tranh, dân chúng hai miền ùn ùn bỏ chạy ra biển, tại sao bây giờ đất nước lại thê thảm đến mức như thế.
Nhưng Gấu sợ rằng, mấy ông này lại gân cổ lên: Thê thảm ở chỗ nào đâu?

Cái đoạn Gấu gạch đít ở trên, chắc là ngài Lê Lựu nói lộn. Lính Ngụy chưa từng biết "hàng có gân" là cái gì, nhưng quần áo lót phụ nữ thì rất rành, và có thể đó là một trong những lý do họ thua cuộc chiến!


Đã 34 năm trôi qua.hòa bình cũng dài ngang bằng cuộc chiến tranh khốc liệt nhất trong lịch sử. Chưa có cuộc chiến nào ám ảnh một dân tộc cho bằng cuộc chiến tranh này, nó thay đổi hình thái xã hội.thay đổi số phận con người.Công bố bài thơ viết năm 27 tuổi, bảy năm sau hòa bình(1982). Nay nhìn lại, tôi cũng không hiểu điều gì đã dẫn dắt cho những dòng chữ này. Khi làm xong nghĩa vụ một thanh niên thời hậu chiến, người có lý lịch may mắn không vướng phải chuyện lính tráng dù thế hệ tôi sau “mùa hè đỏ lửa 1972” hầu hết cũng đã” yên vị “ khói hương trên bàn thờ gia đình. Còn nhớ những năm của thập niên 80, giáo sư Nguyễn Khắc Viện viết một bài đanh thép trên báo Sài Gòn Giải Phóng ”sen hay bùn” về danh xưng, khi nào thì gọi là thành phố Hồ Chí Minh, khi nào thì gọi là Sài Gòn? Và ông khẳng định cái tốt thì gọi tp HCM, cái tệ nạn, cái xấu, cái "tồn đọng" thì gọi là Sài Gòn. Giáo sư Nguyễn Ngọc Lan đã đối thoại bằng một bài báo khác (tất nhiên ông không thể đăng bài phản biện ấy trên báo SGGP như trong một xã hội bình thường), ông nhắc rằng hiện tại sau 10 năm giải phóng, thành phố vẫn còn một tờ báo lớn, tiếng nói chính thức của “Đảng bộ và nhân dân thành phố”, tờ Sài Gòn Giải Phóng (nó vẫn còn đến tận hôm nay), còn một nhà máy thuốc lá Sài Gòn, còn một đội bóng danh tiếng mang tên Cảng Sài Gòn (nay đã không còn)…Bài thơ này, có lẽ là cái nhìn đau đớn đầu tiên của một người trẻ tuổi vừa từ chiến trường K trở về với bao nhiêu hoài bão sau khi chứng kiến những hy sinh cao đẹp của một thế hệ thanh niên Sài Gòn, những con người thành phố tuổi chỉ mới đôi mươi…
Hai mươi bảy tuổi và một bài thơ dài nhất của đời mình...
Đỗ Trung Quân
TẠ LỖI TRƯỜNG SƠN
(1982)
1.
Một ngàn chín trăm bảy mươi lăm
Các anh từ Bắc vào Nam
Cuộc trường chinh 30 năm dằng dặc
Các anh đến
Và nhìn Sài Gòn như thủ đô của rác
Của xì ke, gái điếm, cao bồi
Của tình dục, ăn chơi
“Hiện sinh-buồn nôn-phi lý!!!”
Các anh bảo con trai Sài Gòn không lưu manh cũng lính ngụy
Con gái Sài Gòn không tiểu thư khuê các, cũng đĩ điếm giang hồ
các anh bảo Sài Gòn là trang sách “hư vô”
văn hóa lai căng không cội nguồn dân tộc
ngòi bút các anh thay súng
bắn điên cuồng vào tủ lạnh, ti vi
vào những đồ tiêu dùng mang nhãn Hoa Kỳ
các anh hằn học với mọi tiện nghi tư bản
các anh bảo tuổi trẻ Sài Gòn là “thú hoang” nổi loạn
là thiêu thân ủy mị, yếu hèn
các anh hùa nhau lập tòa án bằng văn chương
mang tuổi trẻ Sài Gòn ra trước vành móng ngựa!!!
2.
Tội nghiệp Sài Gòn quá thể
Tội nghiệp chiếc cầu Công Lý
Có anh thợ điện ra đi không về
Tội nghiệp những “bà mẹ Bàn Cờ” của những ngày chống Mỹ
Lửa khói vỉa hè nám cả những hàng me
Tội nghiệp những người Sài Gòn đi xa
Đi từ tuổi hai mươi
Nhận hoang đảo tù đày để nói về lòng ái quốc
Có ai hỏi những hàng dương xanh
Xem đã bao nhiêu người Sài Gòn hóa thân vào sóng nước
Tội nghiệp những đêm Sài Gòn đốt đuốc
Những “người cha bến tàu” xuống đường với bao tử trống không
Tội nghiệp những ông cha rời khỏi nhà dòng
Áo chùng đen đẫm máu
Tội nghiệp những chiến trường văn chương,thi ca, sách báo
những vị giáo sư trên bục giảng đường
ưu tư nhìn học trò mình nhiễm độc
Sài Gòn của tôi-của chúng ta.
có tiếng cười
và tiếng khóc
3-
Bảy năm qua đi với nhiều buồn vui đau xót
Một góc phù hoa ngày cũ qua rồi
Những con điếm xưa có kẻ đã trở lại làm người giã từ ghế đá công viên để sống đời lương thiện
Những gã du đãng giang hồ cũng khoác áo thanh niên xung phong lên rừng xuống biển
Tìm lại hồn nhiên cho cuộc sống của mình
Cuộc đổi thay nào cũng nhiều mất mát, hy sinh…
4-
Và khi ấy
Thì chính “các anh”
Những người nhân danh Hà Nội
Các anh đang ngồi giữa Sài Gòn bắt đầu chửi bới
Chửi đã đời.
Chửi hả hê.
Chửi vào tên những làng quê ghi trong lý lịch của chính mình
Các anh những người nhân danh Hà Nội sợ đến tái xanh
Khi có ai nói bây giờ về lại Bắc!!!
Tội nghiệp những bà mẹ già miền Bắc
Những bà mẹ mấy mươi năm còng lưng trên đê chống lụt
Những bà mẹ làm ra hạt lúa
Những năm thất mùa phải chống gậy ăn xin
Những bà mẹ tự nhận phần mình tối tăm
để những đứa con lớn lên có cái nhìn và trái tim trong sạch
Bây giờ
Những đứa con đang tự nhận mình “trong sạch”
Đang nói về quê mẹ của mình như kẻ ngoại nhân
Các anh
đang ngồi giữa Sài Gòn nhịp chân
đã bờm xờm râu tóc,cũng quần jean xắn gấu
Cũng phanh ngực áo,cũng xỏ dép sa bô
Các anh cũng chạy bấn người đi lùng kiếm tủ lạnh ti vi,casette, radio…
Bia ôm và gái
Các anh ngông nghênh tuyên ngôn”khôn & dại”
Các anh bắt đầu triết lý “sống ở đời”
Các anh cũng chạy đứt hơi
Rượt bắt và trùm kín đầu những rác rưởi Sài Gòn thời quá khứ
Sài Gòn 1982 lẽ nào…
Lại bắt đầu ghẻ lở?
5-
Tội nghiệp em
Tội nghiệp anh
Tội nghiệp chúng ta những người thành phố
Những ai ngổn ngang quá khứ của mình
Những ai đang cố tẩy rửa “lý lịch đen”
Để tìm chỗ định cư tâm hồn bằng mồ hôi chân thật
6-
Xin ngả nón chào các ngài
“Quan toà trong sạch”
Xin các ngài cứ bình thản ăn chơi
Bình thản đổi thay lốt cũ
Hãy để yên cho hàng me Sài Gòn
Hồn nhiên xanh muôn thưở
để yên cho xương rồng ,gai góc
Chân thật nở hoa
Này đây!
Xin đổi chỗ không kỳ kèo cho các ngài cái quá khứ ngày xưa
Nơi một góc (chỉ một góc thôi)
Sài Gòn bầy hầy, ghẻ lở
Bây giờ…
Tin chắc rằng trong các ngài đã vô số kẻ tin vào ”thượng đế”
Khi sống hả hê giữa một thiên đường
Ai bây giờ
Sẽ
Tạ lỗi
Với Trường Sơn?
Đỗ Trung Quân (1982)
(*) Năm 1995 nhà xuất bản Trình Bày có ý định in bài thơ này với cái tên tác giả "Chung Do Kwan" trong phần" thơ dịch". Bài thơ vẫn còn là "ý định" bởi sự cân nhắc cũng là nhã ý của nhà Trình Bày khi biết tác giả thật sự vẫn còn đang sống ở VN.
*
Về bài viết của tác giả Đỗ Trung Quân
Kính gửi: Ban Biên tập Diễn Đàn
Tôi thường vào Diễn Đàn để tìm đọc các bài viết về các vấn đề mình quan tâm. Sáng nay tôi thấy Diễn Đàn giới thiệu bài Về một bài thơ chưa từng được công bố của ông Đỗ Trung Quân. Tôi theo địa chỉ liên kết và đọc bài này. Cảm giác của tôi là hoàn toàn thất vọng về thái độ của tác giả bài thơ. Tôi cũng là một người lính Việt cộng có mặt ở Sài Gòn tháng 4.1975 và cũng là một nhà thơ. Tôi không bao giờ thích tranh luận ầm ĩ hoặc quy chụp bất cứ ai, dù ở phiá nào. Tôi chỉ muốn nói một điều với ông Đỗ Trung Quân: Ở đâu trên thế giới này cũng có kẻ tốt, người xấu. Trước một vấn đề, nhất là khi liên quan đến nhân cách, lòng tự trọng con người, chúng ta phải thận trọng khi phát ngôn. Đọc bài cuả ông Đỗ Trung Quân, tôi thấy mình bị xúc phạm. Tôi xin khép lại vấn đề này ở đây.
Nhân đây, tôi cũng xin gửi tới Diễn đàn một bài viết của tôi.
Trân trọng kính chào.
Vũ Duy Chu
VIỆT CỘNG
Tôi là Việt cộng bằng thịt bằng xương, cao một mét sáu mươi tư, nặng bốn mươi kilogram
Ai bảo chúng tôi có đuôi và sáu thằng đu không gẫy một cọng lá đu đủ?
Sài Gòn tháng 4 -1975
Mỗi đêm tôi tự véo tai để biết rằng mình không mơ ngủ
Im tiếng súng rồi ư?
Hoà bình rồi ư?
Đứng trên ban công nhìn xuống phố lô xô
Đồng đội tôi không lẫn vào đâu được
Những bước chân nhấc cao
Quen rừng sâu rễ cây mấp mô, tuột quai dép lốp
Dạo phố chiều mộng du sải bước
Như thể đang hành quân
Quen gối đầu lên ba lô, quen nằm võng lưng tôm
Nằm giường không sao ngủ được
Công tắc đèn ai bật nghe cái tạch
Thoáng giật mình
Việt cộng từ rừng về phố văn minh
Những ánh mắt hoài nghi
Bao xã giao dò xét
Vẫy xe lam, bác tài phanh kít
Xuống xe bác tài nhìn… rồi không nhận tiền
Không cần nhớ những lời dặn dò của Chính trị viên
Về tới Sài Gòn
Đâu phải để kiếm bạc tiền
Ta mới gần bảy năm xa nhà
Bạn ta đứa mười năm
Và những người lính tóc hoa râm
Tôi là Việt cộng có khác chi không em?
Ôi hương tóc em
Thức trong tôi một chàng trai hai mươi sáu tuổi
Lần đầu tiên biết mình yếu đuối
Biết thương cô gái quê xa không đợi được người về
30.4
Thành phố màu cờ
Buổi sáng này ba mươi tư năm trước
Triệu người lính Việt cộng đã trở về
Triệu người lính nằm lại những cánh rừng xa lắc
Ba mươi tư năm
Rưng rưng dọc miền ký ức.
Sài Gòn, 4 .2009
V.D.C
Đôi lời nói thêm
Khi giới thiệu “một bài thơ chưa từng công bố” của Đỗ Trung Quân (trong mục Thấy trên mạng ngày hôm qua), chúng tôi không giới thiệu nó như một “bài thơ hay”, hoặc một tuyên ngôn có tính chất “chân lý” gì về toàn bộ phía những người “Việt Cộng”. Đơn giản, nó là một tâm cảm, được “dẫn dắt” bởi những trải nghiệm của tác giả trong môi trường sống của anh, trong khoảng thời gian ấy. Và chúng tôi cũng đọc bài thơ trong thư độc giả VDC trong ý đó. Theo chúng tôi, cả hai tâm tư đều được diễn tả một cách chân thật, và đều phản ảnh khách quan một góc nhìn thời sự, nếu chúng khác nhau, thậm chí mâu thuẫn, cũng không có gì lạ. Chúng cần được biết đến, tôn trọng, cũng như vượt qua. Tóm lại, khi giới thiệu bài thơ của Đỗ Trung Quân cũng như khi đăng nguyên văn thư của độc giả VDC và bài thơ của ông, chúng tôi chỉ có ý giới thiệu hai chứng từ, hoàn toàn không muốn gây ra một cuộc tranh luận nào về lý lẽ hay về nghệ thuật.
(H.V.)
*
Note:
V/v
-“Chúng tôi có đuôi”: Thế Giang bảo vậy. Ông còn viết cả một cuốn sách về nó.
-“sáu thằng đu không gẫy một cọng lá đu đủ”. Đây là một hình ảnh có thực, về những VC nằm vùng, trong những năm còn Diệm. Do tình báo của Diệm bảnh quá, mấy anh VC phải nằm dưới hang dưới hố, sống nhờ các bà mẹ huyền thoại TCS, chỉ đêm mới dám chui lên. Do ăn uống không đầy đủ, thiếu ánh sáng mặt trời, anh nào anh nấy xanh như tầu lá, nhẹ tênh, thành thử "sáu anh đu cọng đu đủ không gẫy" là chuyện có thực, không phải để chế riễu, có thể, nhưng đúng ra, là để khiếp sợ sự hy sinh, chịu đựng gian khổ của họ.
Gấu này đã từng nghe, một vị tỉnh trưởng kể về vụ này. Ông cho biết, khi nhìn thấy một anh VC chui ra khỏi hầm là ông ngộ ngay ra là VNCH thua rồi!
Ký giả Phan Nghị, trong một loạt bài viết về đường Trường Sơn, cũng đã mô tả gót chân của dũng sĩ VC: Do đi chân trần, nên da lòng bàn chân của họ dầy đến nỗi không cần giầy dép... Nike!

Những hy sinh như thế, chỉ để có được một đất nước điêu tàn như ngày hôm nay. Đó là lý do DTQ cho post lại bài thơ của ông, theo Gấu.
-V/v Những câu Tin Văn gạch đít, trong bài thơ: Gấu này cũng có cảm giác như nhà thơ DTQ khi đọc mấy anh Yankee mũi tẹt ở hải ngoại, khi họ viết về Đất Bắc của họ, trên diễn đàn tà ma ác quỉ của họ.
Đúng là trí lớn gặp nhau, chí bé cũng gặp nhau.
Take care. NQT


Phát ngôn viên và Bộ lạc
The Spokesman and the Tribe
"We know the force of gravity, but not its origins; and to explain why we become attached to our birthplaces we pretend that we are trees and speak of roots. Look under your feet. You will not find gnarled growths sprouting through the soles. Roots, I sometimes think, are a conservative myth, designed to keep us in places."
Salman Rushdie: Shame
"either I'm nobody, or I'm a nation."
Derek Walcott: The Schooner Flight
*
Chúng ta biết trọng lực là cái gì, nhưng cội nguồn nó, thì không; và để giải thích tại sao khúc ruột ngàn dặm khốn khổ khốn nạn vì nơi chốn ra đời, chúng ta bèn giả đò coi mình là cây, và nói về rễ. Nhìn xuống chân xem có thấy hoa lá cành chui ra từ đế giầy? Gốc, rễ, đôi khi tôi nghĩ, là một huyền thoại có tính bảo thủ, được phịa ra để níu kéo chúng ta về một nơi chốn nào đó.
Hoặc tớ chẳng là ai, hoặc tớ là cả một quốc gia.
Isaac Singer có nói, mọi nhà văn đều phải có cội nguồn, phải viết từ một niềm cảm thông sâu xa về nơi chốn mà họ từ đó tới...
Naipaul: Hai điều bạn vừa nói đó, rất khác biệt. Tất cả những nhà văn phải viết từ niềm cảm thông sâu xa về nơi chốn mà họ từ đó tới, nhưng điều này đâu có nghĩa, họ phải có cội nguồn. Sự kiện cội nguồn, như thế đó, chỉ đẻ ra một nhà văn địa phương... Tàn nhẫn đấy, nhưng sự thực là như vầy: người ta biết rất rõ, từ đâu tới, và tại sao mà tới, từ đó, [on sait exactement d'où l'on vient, on sait pourquoi on est venu].
[Trả lời Cathleen Medwick, báo Vogue, London, tháng Tám, 1981]

Quê hương của một con người, thì cũng chỉ là một mảnh không gian - có thể một căn phòng khách sạn, hay băng ghế nơi công viên gần nhất - nơi con mắt của nhân dân hay sự phiền hà của một chế độ thư lại, Đông cũng như Tây, vẫn còn cho phép một con người, và tác phẩm của người đó. Cây có rễ, người có chân để mà bỏ đi, sau khi lương tâm của nó nói: Không! Không có gì tởm hơn là chuyện sẵn sàng làm thịt kẻ khác, nhân danh quốc gia này, nọ, cờ đỏ, vàng. Chủ nghĩa quốc gia là nọc độc của lịch sử hiện đại.
[George Steiner: The Cleric of Treason].
Nếu chính trị là quyền lực, và nghệ thuật là tự do, nếu vậy thì, trong một nhà nước toàn trị, nghệ thuật không chỉ ở vào vị thế  thách đố, đối đầu - như nó thường làm như vậy, với mọi thứ quyền thế - mà nó đích thị là kẻ thù, của chế độ.
Norman Manea: Romania

*
Koestler, enfin, retrouvé, cuốn "Le Zéro et l'Infini", tôi lục lọi cách chuyến đi không xa, trong mớ sách "ký gởi" - một hình thức mới của sách vỉa hè- tại một tiệm phía bên kia cầu Thị Nghè. Cái thiểu số hỗn độn may mắn sống sót sau những ngày tháng Tư, trở thành những nạn nhân đầu tiên thay con người Sài-gòn dãi dầu mưa nắng Trong số những người đang lục lọi quanh tôi, có kẻ chỉ tò mò lật vài trang đầu, tìm tên chủ nhân, có thể kèm theo đó là một lời đề tặng của chính tác giả cuốn sách. Cả hai đều đã đi xa, vợ con ở nhà mang mớ sách kỷ niệm đổi lấy một vài mớ rau, một hai lon gạo.

Gặp lại những nhân vật của Koestler, những nhân vật văn chương còn mang nặng những nét đặc thù của nguyên mẫu ngoài đời, những Roubachof suốt đời tắm bằng máu của kẻ khác, kể cả của người yêu, bạn bè, đến khi chết lại mong trở thành những Thánh Tử Đạo, đọc lại nhhững câu văn mang sự thực khủng khiếp còn hơn cả những lời nguyền rủa: "Bằng roi vọt chúng ta quất lên đám đông đang rên rỉ, bắt họ hướng về hạnh phúc chỉ có tính tương lai và hoàn toàn lý thuyết...", tôi bỗng nhận ra một điều thật giản dị: Nếu những tác phẩm lớn đều cưu mang trong nó bóng dáng của những tác phẩm lớn khác - một cách nào đó Hemingway chú giải Joyce, Camus mô phỏng Kafka, rõ ràng Garcia Marquez viết lại Faulkner... - Cũng vậy, những bạo chúa chỉ là những bản sao của những bạo chúa khác. Staline bắt chước Néron, cả hai đều có tham vọng văn chương, một muốn làm thi sĩ, một muốn ngự sử văn đàn, kẻ ban phát giải thưởng văn học. Mao diễn lại tuồng đốt sách, chôn học trò. Molotov chỉ mong người đời coi là một Robespierre của Cách Mạng Nga. Người ra lệnh bắn vào sinh viên biểu tình tại Thiên An Môn là một học trò đắc ý của Chu Ân Lai, ông này lại là một học trò đắc ý nhất của Cách Mạng Pháp. Polpot đã từng du học ở Paris. Tất cả đều tâm đắc một điều: Không có một cuộc cách mạng nào mà không có quá độ. Một cuộc cách mạng không đổ máu thì rất đáng ngờ.
Lolita, của một người bạn thân.
Tôi gặp K. khi anh từ một trại cải tạo ở miền Bắc về, tại chợ sách phía sau rạp Đại Nam, điểm không hẹn mà gặp của những kẻ chỉ cần nhìn lại một cuốn sách cũ là cảm thấy bạn bè vẫn còn đủ, Sài-gòn vẫn là Sài-gòn. Bẵng thật lâu, trước chuyến đi xa chừng nửa năm, tôi gặp lại anh, lúc này làm nghề bán sách dạo. Anh thận trọng ghé chiếc xe đạp với chồng sách cao ngất ngưởng, vào lề đường, rồi đến bên tôi, thường là buổi chiều, tại cà phê "Bà Lê Chân", cũng một quán đặc biệt vỉa hè Sài-gòn, của một anh bạn xưa thi sĩ. Chủ quán cười cười như để bào chữa cho vai trò mới mẻ của mình: Quán là khởi đầu của mọi khởi đầu. Và khởi đầu, cho dù buồn, vẫn còn hơn kết cục vui. (Le début même triste, c'est mieux que la fin heureuse. Cantique des cantiques). Câu nói của anh còn là lời trách móc nhẹ nhàng cái tật của tôi, khi viết, thường hay lấy một câu của một nhà văn nước ngoài làm khởi đầu. Quán, nơi tụ tập của những đứa con hoang đàng, dù có đi xa chân trời góc bể nào cũng nhớ hoài, giống như sự trừng phạt. Quán, Mái Nhà Xưa. Sài-gòn, Sài-gòn...
Le domicile est suspendu au cou de l'homme
Comme une punition
Alain
Lần Cuối Sài Gòn
*

Mail, 30 Tháng Tư, 2009
Long time, no mail
Hope everything OK
NQT
Cám ơn anh . Vẫn bình thường . Chỉ chán chán . Vẫn đọc anh đấy chứ . Mừng anh vẫn nhiều energy , và vẫn chứa chan tình cảm . K
Tks


30 Tháng Tư 2009 có tí ti lạ. Báo trong nước có vài bài thật lịch sự về văn hóa đồi trụy Ngụy trước 1975. Đọc một bài, thấy tên cuốn khảo luận phê bình thổi ống đu đủ của một ông bạn quí của Gấu. Vậy mà nhớ hoài không ra.
DA, tuổi trẻ, mộng, và thực.
Bạn quí nói, nó đâu cho xỉa tiền túi mà kéo tao đến gặp một thằng đầu nậu, ra lệnh, chi cho thằng này hai, hay ba trăm ngàn.
Cúng trường đua Phú Thọ sạch, Sau đó kéo cầy trả nợ.
Ui chao 30 Tháng Tư là nhớ bạn quí. Chán thật!
Nhưng, chỉ nội cái tít là đủ ăn tiền rồi!


Llosa vs Steiner

Cassandra's Prophecies

Những tiên tri của Cassandra
Kể từ khi Ngôn ngữ và Câm lặng rớt vào tay tôi, ba mươi năm trước đây, tôi coi Giáo sư George Steiner là một trong những cái đầu tạo hứng, gây những cú hích tranh luận, phê bình số 1 của thời chúng ta. Tôi tiếp tục đọc, cuốn này tới cuốn khác, những gì ông viết, và thấy đúng như vậy, ngay cả khi không đồng ý với những kết luận của ông. Nhưng, bây giờ, tôi ngờ ông đang bị cám dỗ, thứ cám dỗ mà những tài năng lớn thường vướng phải, nghĩa là bắt đầu tỏ ra dễ dãi, buông thả, tệ hơn, muốn chứng tỏ cái gì ta cũng biết, cái gì ta cũng đúng, bằng một thứ văn phong lịch sự, phong nhã, và bằng sự uyên bác của ông.


Tại sao chúng ta nên hủy bỏ giải Nobel Văn học?

Cái sự kiện Mít cũng chê Nobel và đề nghị (?) huỷ bỏ, Gấu không sao hiểu được, chỉ đến khi nhớ ra trường hợp Thích Quảng Độ, cũng đã nhiều lần được đề nghị Nobel hòa bình, thì  mới ngã ngửa ra mà ui chao sao Gấu này ngu thế!
Bởi là vì, giả như Mít được Nobel, và DTH được, thì thật khốn lạn!

Chim thiêng

NMG vs Lịch Sử


Dọn Kít

Võ tướng quân vs BBC

Cả bài viết có hai câu ăn tiền nhất bị mấy anh thợ dịch Bì Bì Xèo diệt mất một câu!
Diễn đàn talawas dịch lại, thiến luôn hình Võ tướng quân, và tất nhiên," ẩn dụ" về một vị tướng già, hom hem như thế, mà còn phải xông trận bô xịt!


Đọc muộn thơ bạn
Tôi Cùng Gió Mùa


Sao bac ghet talawas...?


Kỷ niệm, kỷ niệm

*

Trước 1975 ở Miền Nam, học tiếng Mẽo chỉ để đi làm bồi, bởi thế, không có tay nào rành văn hóa Mẽo.
Phải tiếng Tây cơ. Gấu cũng thế, vốn tiếng Mẽo làng nhàng, từ hồi học trung học Nguyễn Trãi Hà Nội, cuốn sách tủ là cuốn trên đây. Khi qua được trại tị nạn Thái Lan, chỉ tới lúc đó mới có ý định học tiếng Mẽo, để… viết văn!
Chính là do đọc Steiner mà Gấu lại viết trở lại. Gấu đã lèm bèm về chuyện này nhiều lần rồi.
*
Nhớ, giấc mơ học tiếng Tây thưở đầu đời, chỉ để có thể viết được một lá thư bằng tiếng Tây cám ơn một ông Tây thuộc địa, chồng bà cô, người đã nuôi Gấu ăn học, những ngày ở Hà Nội. Ông Tây này đúng là người đã nhìn ra Gấu. Không có ông là không có Gấu. Khi bà cô thương tình thằng cháu mồ côi, kêu về nhà, cho ăn học, bà cũng không nghĩ gì nhiều đến tương lai thằng cháu mình, chỉ đến khi ông Tây, chồng bà gật gù khen ngợi thằng bé nhà quê thì bà mới quyết tâm cho cháu học nên người.  Khi Gấu học ở Sài Gòn, hàng tháng bà vẫn gửi tiền về.
Ui chao, khi đọc lá thư của bà cô, mày viết tiếng Tây mà tao cũng đọc được, mới sung sướng hạnh phúc làm sao.
Bà cô Gấu, me Tây mà, nói tiếng Tây nhưng đâu có viết được tiếng Tây. Tiếng Việt, chỉ đến khi bà sắp sửa đi Tây, những ngày 1954 tại Hà Nội, bà mới kêu thầy tới nhà dậy, để viết thư gửi về cho chùm khế ngọt!
Nhưng cái giấc mộng viết văn bằng tiếng Mẽo của Gấu quả là một giấc mộng tuyệt vời!
Khi ở trại tị nạn, Gấu mới bắt đầu học tiếng Mẽo! Trước đó, nói tiếng Mẽo, chỉ đủ để làm bồi Mẽo.
*
Có thể nói, giấc mơ viết văn bằng tiếng Mẽo của Gấu chấm dứt, đúng vào buổi tối hôm đó, ở một thư viện Toronto, vô tình cầm lên của Ngôn ngữ và Sự Câm Lặng của Steiner, và cũng đúng lúc đó, ý tưởng của Tolstaya sống dậy: Chủ nghĩa CS không phải từ trên trời rớt xuống trúng đầu dân Nga, mà nó đã từ những từng sâu hoang vắng của lịch sử Nga sống dậy, cái tư tưởng, “người Nga không ăn thịt mà ăn thịt lẫn nhau” áp dụng cho xứ sở của giống dân Yankee mũi tẹt thì cũng mắm xốt kít. Gấu tự bảo mình, chuyện viết văn bằng tiếng Anh tiếng U đếch phải việc của mày, việc của mày là phải làm sao cho bao nhiêu triệu con người của cả hai miền không chết một cái chết tức tưởi, mờ ám vì cái nước sơn son mạ vàng: chiến tranh giải phóng, thống nhất đất nước. Họ chết là vì Cái Độc, Cái Ác, Cái Dã Man Tàn Nhẫn của một miền đất.