*


 






*
Note. To CTC: Đã nhận tập thơ, qua NKL.

Phan Xuân Sinh – 41 năm sau: Mỹ Lai và Mậu Thân

Đúng là VC sử dụng con nít, và đàn bà vào cuộc chiến chống Mỹ, như Phan Xuân Sinh diễn tả. Nhưng Calley không điên khùng giết đàn bà con nít khi lính của ông bị VC đùn họ ra đỡ đạn. Như tôi được biết, qua những bài báo, sách vở, ông ta được lệnh trên, hãy làm cỏ Mỹ Lai, vì đây là một làng VC.
Bởi vậy mà Calley hối lỗi.
Nhìn như vậy, thì mới thấy, cái vụ ông tướng xử tử VC ngay tại trận tiền, là "không được", và cái sự hối lỗi của ông nhiếp ảnh viên, một cách nào đó, thì cũng như Calley hối lỗi.
Mũi lõ "người" hơn Mít, và tất nhiên, hơn Yankee mũi tẹt, là ở chỗ đó! NQT
Về cái sự tàn ác trời không dung, đất không tha của Mỹ Ngụy, thế giới đều biết, lịch sử đều biết, nhưng chẳng ai biết VC tàn ác như thế nào đối với dân Mít: Chúng chùi mép kỹ lắm, như Gấu đã từng có lần viết về chuyện này.
*
Nguyễn Quốc Trụ
Thư góp ý cùng độc giả Nguyễn Việt Kiều
Cái mánh loại trừ là bản năng tự vệ của mọi chuyên viên
The trick of elimination is every expert’s defensive reflex.
(Stanislaw Lem: Imaginary Magnitude)
Vụ da cam đang nóng, nóng dây chuyền tới những vụ khác, như thảm sát Mậu Thân, mà những tài liệu từ một diễn đàn trên lưới cho thấy, không phải VC mà là CH [Cộng Hoà] gây nên. Rồi ngày nào, là vụ pháo kích vô một trường học ở Cai Lậy, cũng pháo CH, không phải hoả tiễn VC.
Nếu có chăng, là độc nhất một tấm hình, chụp một ông xã trưởng bị VC chặt đầu, rồi dùng chính cái sọ dừa, dằn bản án lên bụng tử thi, trên bìa tờ Time của Mẽo ngày nào, mà độc nhất Gấu tui còn nhớ.
Ngoài ra là… chấm hết!
Cả cuộc chiến, VC không gây một tội ác nào khác. Nếu có, là phải đợi tới sau 1975.
Chúng ta tự hỏi, liệu sau này, lịch sử sẽ phải giải thích như thế nào, về trường hợp quái dị trên đây?
Cả một dân tộc chạy ra biển cả để trốn VC, mà VC thì tốt như thế, không hề gây ra tới… “hai” tội ác.
Để giải thích trường hợp quái dị trên đây, Gấu tui đành mượn một câu, nhà văn Đức Sebald trích dẫn, trong cuốn Về lịch sử tự nhiên của huỷ diệt (On The Natural History Of Destruction) của ông:
Cái mánh loại trừ là bản năng tự vệ của mọi chuyên viên
The trick of elimination is every expert’s defensive reflex.
(Stanislaw Lem: Imaginary Magnitude)
Nói rõ hơn, mấy ông VC rất rành về chuyện chùi mép - nghĩa là loại trừ mọi rủi ro, bị phanh phui, bị bật mí - này.
Chỉ tội ông tướng Loan, nghe nói, đã từng mời báo chí Mẽo tới chứng kiến ông xử một anh VC ngay tại trận tiền, những ngày Mậu Thân.
Độc giả Tin Văn [tanvien.net] đã biết về Sebald, qua bài tưởng niệm ông, khi ông qua đời sau một vụ đụng xe. Cuốn Lịch sử tự nhiên về huỷ diệt, cũng là do một sự ngạc nhiên quái dị liên quan tới Đồng Minh uýnh nhau với Nazi: Trong thời Đệ Nhị Chiến, 131 thành phố và đô thị là mục tiêu ăn bom của Đồng Minh, nhiều nơi biến thành bình địa. Sáu trăm ngàn thường dân bị chết, gấp đôi con số thương vong của Mẽo. Bẩy triệu rưởi thường dân Đức không còn nhà ở. Sebald ngạc nhiên tự hỏi, tại làm sao mà lịch sử lại vờ đi một sự kiện như thế, nhất là ở nơi ký ức văn hoá của chính nước Đức?
Trong những lời ca ngợi cuốn sách lạ kỳ của ông, có:
Hầu hết mấy ông nhà văn, ngay cả thứ ngon cơm, viết cái điều có thể viết... Thứ quá sá ngon cơm, nghĩa là thứ đại hảo hạng, viết cái không thể viết... Tôi nghĩ đến nữ thi sĩ Nga, Akhmatova, và nhà văn Ý gốc Do Thái, Primo Lévi. Nay có thêm W.G. Sebald.
(Nữu Ước Thời Báo)
Bí mật của nỗi ngạc nhiên đến phải cầm viết viết, và lên tiếng, của Sebald, là, ông tự thấy mình cổ lỗ sĩ, khi chọn cho mình thứ tiếng nói của lương tâm mà hầu như chẳng còn ai nhớ. Đó là thứ lương tâm của một người nào đó, và người này nhớ đến sự bất công, và nói thay cho những người không còn có thể nói được.
(Điểm Sách Nữu Ước)
Trong bài viết Không chiến và văn chương (Air War and Literature) ông có giải thích về cái sự im hơi bặt tiếng, của hồi ức văn hoá Đức: Họ coi đây là một điều cấm kỵ, một vết thương, vết nhục ở trong gia đình, [a kind of taboo like a shameful family secret].
Người Việt thường tự hào về một Điện Biên Phủ trên không. Chưa thấy ai nói tới cái tủi nhục như là niềm bí ẩn trong gia đình, về con số thương vong, thí dụ như trong những ngày Mậu Thân, chỉ ở Sài Gòn không thôi, bởi những trái hoả tiễn của VC?
*
"Nhà tôi ở dưới chân cầu Thị Nghè, gần Sở Thú, gần Đài Truyền Hình, Đài Mẹ Việt Nam, Đài Phát Thanh Sài Gòn, những ngày Mậu Thân trở thành "mục tiêu" của hoả tiễn vi xi. Cũng là thời gian bà xã mang bầu cháu gái lớn. Tuy những ngày quá gay cấn phải "sơ tán" tới nhà một người bà con ở Trương Minh Giảng, nhưng cái thai đã bị ảnh hưởng, cháu sinh ra tưởng bị liệt, cứ nằm hoài trong nôi, chỉ tới khi ông bố đi làm về mới mỉm cười và chịu cho bế. Đi bác sĩ Trần Ngọc Ninh ở Tân Định, ông khám thật kỹ lưỡng xuơng, gân, thần kinh... Sau khi kê thuốc, ông mắng vốn: gia đình phải biết yêu thương nó! Ông đâu biết, khi nằm trong bụng mẹ, cái thai đã "nghe ra" những tiếng hoả tiễn réo xèo xèo khi bay ngang nhà. Nhờ thuốc insulin do ông Ninh kê đơn, cháu đỡ dần, nhưng phải tới 5 tuổi mới biết đi. Và cho tới khi lấy chồng, có con, vẫn còn mắc tật đái dầm!"
[Bài đăng trên talawas, khi còn mặn nồng]
*
Trên talawas có một tay bình luận về bài viết của PXS như sau:
Mỹ Lai đâu phải chỉ có Calley? Anh ta chỉ là dê tế thần (duy nhất) để xoa dịu dư luận mà thôi, và cũng “tế” rất nhẹ nhàng. 79% dân Mỹ không đồng ý việc kết tội Calley, kể cả nhiều chính khách nổi tiếng như Jimmy Carter. Cuối cùng, Calley chỉ bị giam lỏng hơn ba năm. Và Mỹ Lai cũng không phải là trường hợp riêng lẻ mà chỉ là trường hợp bị khám phá (theo lời thú nhận của Colin Powell và nhiều quân nhân Mỹ khác).
Nếu đúng như thế, nhưng càng cho thấy sự khác biệt giữa chùi hay không chùi.
Tuy nhiên, tay này, không biết đã từng tham chiến hay không, và nếu tham chiến, thì chắc là ở phiá thắng trận, bởi thế không thể biết được điều này: Rất nhiều phen, chính VC đẩy tụi Mẽo đến nước phát khùng, rồi làm bậy, rồi sẵn máy, bèn quay quay, chụp chụp và đưa lên Youtube!
Thế mới ghê.
Gấu này làm cho UPI, chuyên viên vô tuyến viễn ảnh, quen biết Mẽo cũng nhiều, nghe kể những chuyện động trời cũng rất nhiều. Thí dụ chuyện này: Biết mấy anh GI rất mê con nít, và rất nhớ vợ con, thế là mấy anh VC bèn cho con nít chạy chơi nhong nhong trước mấy anh Mẽo, mấy anh này bèn vẫy lại, xoa đầu, cho kẹo, mấy đứa con nít bèn thừa cơ giúi mấy trái lựu, mấy trái mìn claymore định giờ vô túi quần anh Mẽo, rồi… chuồn.
Có thể nói VC sử dụng tất cả các mánh dù dã man tàn nhẫn, dù vô nhân đạo tới đâu, miễn sao thắng trận.
Thắng trận theo kiểu này gây họa khủng khiếp như hiện nay.




Dino Buzzati: Sa mạc Tác Ta


Kỷ niệm, kỷ niệm


Lưới khuya, hồn ốc lạc thiên đường

Hai, trong ‘Top 10’, những “Search Keyphrases” của Tin Văn, theo từng tháng, tuyệt vời làm sao, là hai cụm từ cùng “liên can” tới cái hồn của văn chương Miền Nam, là nhạc sến, và cùng làm nhớ tới entry đầu tiên Gấu đọc trên blog của CM
Một entry về mưa Sài Gòn
Phố vẫn hoang vu từ lúc em đi
Tiếng hát ru em còn nuối trên môi
Hóa ra là thiên hạ vô trang Tin Văn là để tìm cái hồn văn chuơng Miền Nam, đã thất lạc cùng với cuộc ăn cướp của Yankee mũi tẹt:
Hồn Đông phương thất lạc, buồn Tây phương!


 Dọn Kít

Ðã đành, với cách viết hờ hững như thế, tôi không xem các bài viết hay các trích đoạn ấy có giá trị văn chương hay sử liệu gì quan trọng, tuy nhiên, đọc lời "thanh minh" của Nguyễn Quốc Trụ, tôi vẫn thấy lạnh cả người: chẳng lẽ mình lại bất cẩn đến độ gán ghép cho Nguyễn Quốc Trụ tác phẩm mà anh không từng viết bao giờ? Tôi vội lục lại tạp chí Văn số đặc biệt về Võ Phiến. May, tôi còn giữ. Vẫn thấy, ở số báo ấy, bài viết của Nguyễn Quốc Trụ dưới nhan đề "Thế giới truyện ngắn Võ Phiến", nằm từ giữa trang 38 đến đầu trang 40, đứng ở vị trí số bảy trong tám tác giả được trích. Cuối bài viết ấy, có một lời chú cho biết thêm: bài viết đã được đăng trên báo Tiền Tuyến số tháng 12. 1969. Tôi còn ngờ, cố banh mắt đánh vần từng chữ trong cái tên của tác giả. Thì cũng vẫn là Nguyễn Quốc Trụ. Ðọc ngược lên lời giới thiệu của toà soạn Văn ở trang 28. Vẫn thấy ghi là Nguyễn Quốc Trụ.
NHQ
Một bài viết, để trám vô một khoảng trống, trong một trang báo VHNT cuối tuần cho tờ nhật báo mà tác phẩm chi không biết. Ngay cả những bài viết còn bảnh hơn thế nhiều, rất nhiều bài, trong suốt thời kỳ viết và sống ở Sài Gòn, trừ mấy truyện ngắn, được in trong Những Ngày Ở Sài Gòn, Gấu đều quẳng thùng rác. Sau này chỉ tiếc có mỗi một bài, là bài viết về TTT, đăng trên Văn, may sao, nhờ THT mà có lại được.
Tks again. NQT
Ông đại phê bình gia này, phán lời nào, càng hách bao nhiêu, càng vận vào ông ta bấy nhiêu.
Đã đành với lối viết hờ hững...
Câu phán này áp dụng thật đắc địa, thật chính xác, vào toàn bộ sự nghiệp “vỗ ngực xưng tên nhà phê bình” của ông. Đây là một sự thực. Đừng có bao giờ nghĩ Gấu này quê ông, mà phán như vậy.
Có một khoảng cách rất xa giữa ông đại phê bình và Gấu, không phải về tài năng, về tuổi tác, về vốn sống, vốn đọc. Một, ở đầu, và một, ở cuối một cuộc chiến, và cuộc chiến này làm tan hoang tất cả mọi nhận định về con người Mít, lịch sử Mít, theo cái nghĩa của câu của Adorno: Sau Lò Thiêu mà còn làm thơ, hử?
Nếu không coi trọng một vấn nạn như vậy, thì khó mà có thể nói chuyện, bất cứ chuyện gì, chứ đừng nói chuyện văn chương không thôi.

Đây cũng là vấn nạn mà Steiner đặt ra về một đấng Thượng Đế, mà nếu không có, là tất cả đều làm xàm, bố nếu bố náo:
Sở dĩ Cái Ác Bắc Kít hoành hành đến mức khủng khiếp
như thế, chính là vì Yankee mũi tẹt huỷ diệt niềm tin vào tôn giáo của dân Miền Bắc.
Nên nhớ, điều này, vì điều này rất quan trọng: Sozhenitsyn, và luôn cả Brodsky, đều là tín đồ Ky Tô.


V/v bài viết Đào quân trên VOA.
Tác giả cuốn Cu Mười được ông họ Đào điểm, trên Gió O, bằng tiếng Việt, tất nhiên ông ta không thể hiểu, nhưng nhìn tên sách, nhìn hình tác giả, đếch phải mình, bèn viết cái thư yêu cầu cải chính, như Gió O đăng, post lại sau đây:
Dear Dao Trung Dao,
I am Ferenc Barnas the author of The Ninth. I am writing you because not long ago I found a link (on the WEB) in which you have written about my novel in Vietnamese language. The only problem is that the photo above the text is the photo of my translater: Paul Olchvary.
Here I send you my website: you can download my photo from it:
www.ferencbarnas.com
Yours Sincerely,
Ferenc Barnas
Bây giờ chúng ta đọc bài Đào quân, cũng trên Gió O:
bạn văn thế giới ngày nay dễ dàng đến với nhau nhờ…
thì mới vỡ ra là, nhờ một lá thư yêu cầu cải chính, mà chúng ta có được mối tình thắm thiết giữa hai tác giả!
Bà chủ Gió O có vẻ buồn vì cái chuyện nhờ diễn đàn của bà, mà có giai thoại hi hữu này, vậy mà VOA lại kiểm duyệt bài viết của chính cộng sự viên của họ, là Đào quân, delete những gì liên quan tới Gió O, chỉ giữ lại Talawas, và Tiền vệ.
Ui chao, nó bỏ bà ra là đúng rồi. Hủi chơi với hủi, ngưu tầm ngưu mã tầm mã: So với đám hủi, bà Huệ bảnh hơn nhiều, ở cái tính cương trực, không hèn hạ, đánh lén, kết bè đảng…
Vậy mà không vui, lại buồn ư?
NQT


Mao, Phật và tôi
L'enfer est une métaphore de la Chine. La seule différence, c'est que les démons ne vous mettent pas une balle dans la tête, ils vous disent: « OK, on va examiner votre cas », et vlan, vous voilà réincarné en ânon ou en goret. ..
Địa ngục là một ẩn dụ về TQ. Có tí khác biệt là quỉ sứ không để một viên đạn vô đầu bạn, mà phán, hãy tái sinh, làm con trâu, con bò phục vụ Đảng tiếp, để chuộc tội!

Nhà văn Ha Jin, trong cuốn Nhà văn như là một di dân, có một bài thật tuyệt vời, Phát ngôn viên của Bộ lạc, trên Tin Văn có giới thiệu, tính làm trọn bài, nhưng lu bu quá, thành ra quên luôn. Nay nhân đây, bèn giới thiệu tiếp.
Ha Jin đối chiếu kinh nghiệm của Solz, niềm tin Ky Tô của ông, những ngày lưu vong ở Mẽo, với một ông nhà văn to tổ bố của TQ, là Lâm Ngữ Đường, rồi với tập thể di dân TQ, qua những cộng đồng lưu vong của họ
.
Trong cuốn tiểu thuyết mới nhất của Mo Yan, “la Dure Loi du Karma”, Số mệnh tàn nhẫn, ông nhìn lại 60 lịch sử TQ Cộng Sản, qua một hình ảnh mang tính ẩn dụ, của một tên điạ chủ, bị sát hại và cứ tiếp tục tái sinh dưới kiếp của những con vật, khi thì con lừa, khi thì con lợn [con heo].
Chúng ta sẽ đọc song song hai bản văn, một của Ha Jin, Phát ngôn nhân của Bộ lạc, và một, bài phỏng vấn Mo Yan, của tờ Người Quan Sát Mới, số 20-26 Tháng Tám 2009.
Bởi vì Ha Jin cho rằng, người TQ không tin vào đời sau, trong khi Mo Yan coi, người TQ tin vào số mệnh.
Người quan sát mới: Ông luôn qui chiếu về những quan niệm Phật giáo: nghiệp, số…. những vòng luân hồi… Đã từ lầu Đảng CS đã tìm cách để khử trừ chúng. Liệu ông có nghĩ rằng, những tư tưởng quan niệm đó là ông chôm từ những cuốn sách mới xb gần đây, trong đó Phật giáo trở thành thời thượng, à la mode?
Mo Yan: Ngay từ khi còn nhỏ, ông bà của tôi, mù chữ, cho nên không đọc được kinh Phật, những họ luôn làm quen, sử dụng những ý niệm của Phật giáo để đương đầu với những hoàn cảnh nghiệt ngã của cuộc sống. Không chỉ Phật giáo. Tâm hồn người TQ thấm nhuần ba tư tưởng Phật giáo, Lão giáo, và Khổng giáo. Ý niệm về phần số, phúc phần, nhân quả… tức là ý niệm gieo nhân nào thì hái quả đó, làm điều tốt thì được phúc, làm điều xấu thì phải tội, tư tưởng nền tảng này giúp người TQ thoát ra khỏi những giai đoạn nghiệt ngã, và tiếp tin vào điều lành, tránh làm điều dữ.
Thú vị nhất, là Gấu này đã từng phán ẩu, thời kỳ tem phiếu của MB là thời đại hoàng kim của nó, trước khi bị hủ hóa bởi phồn vinh giả tạo của kinh tế Miền Nam.
Mo Yan phán y chang về xứ sở của ông.
Ui chao, đọc bài phỏng vấn, Gấu lại càng nhớ tới Cô Hồng Con của Gấu, khi Mo Yan nói về nhân vật Lan Lian của ông, mà theo Người Quan Sát Mới, có một sự dịu dàng lạ lùng ở nhân vật này. Lan Lian cũng bị giết, nhưng sau sống lại...


Nói chuyện hấp diêm, đọc văn Võ Phiến
Nhà văn Nobel Golding kể chuyện suýt làm thịt một em, khi 18 tuổi.
Vào cái tuổi đó, thì "suýt" nhiều lần lắm. Làm đuợc hay không, là còn tùy cơ may!
Gấu chắc cũng phải có một lần "suýt" như vậy, và nó là hứng khởi nhờ đó viết ra được Những Con Dã Tràng.
Bà cụ C. đọc, phán, thằng này bịnh.
Kundera cũng có một chuyện, bảnh hơn Golding, ông viết trong Một cuộc gặp gỡ, ngay đoạn mở đầu.
*
2
« C'était en 1972. Je rencontrai une jeune fille en banlieue de Prague, dans un appartement qu'on nous avait prêté. Deux jours plus tôt, pendant toute une journée, elle avait été interrogée par la police à mon sujet. Elle voulait maintenant me rencontrer en cachette (elle craignait d'être suivie en permanence), pour me dire quelles questions on lui avait posées et ce qu'elle avait répondu. Il fallait qu'au cours d'un interrogatoire éventuel, mes réponses fussent identiques aux siennes.
« C'était une toute jeune fille qui ne connaissait encore guère le monde. L'interrogatoire l'avait troublée et la peur, depuis trois jours, n'arrêtait pas de remuer ses entrailles. Elle était très pâle et sortait sans cesse, pendant notre entretien, pour aller aux toilettes - si bien que toute notre rencontre fut accompagnée par le bruit de l'eau qui remplissait le réservoir.
« Je la connaissais depuis longtemps. Elle était intelligente, pleine d'esprit, elle savait parfaitement maîtriser ses émotions et était toujours habillée si impeccablement que sa robe, tout comme son comportement, ne permettait pas d'entrevoir la moindre parcelle de sa nudité. Et voilà que, tout d'un coup, la peur, tel un grand couteau, l'avait ouverte. Elle se trouvait devant moi, béante, comme le tronc scindé d'une génisse suspendu à un croc de boucherie.
«Le bruit de l'eau remplissant le réservoir des W.-C. n'arrêtait pratiquement pas et, moi, j'eus soudain envie de la violer. Je sais ce que je dis: de la violer, pas de lui faire l'amour. Je ne voulais pas sa tendresse. Je voulais poser brutalement la main sur son visage et, en un seul instant, la prendre tout entière, avec toutes ses contradictions si intolérablement excitantes: avec sa robe impeccable comme avec ses boyaux en révolte, avec sa raison comme avec sa peur, avec sa fierté comme avec son malheur. J'avais l'impression que toutes ces contradictions recélaient son essence: ce trésor, cette pépite d'or, ce diamant caché dans les profondeurs. Je voulais la déposséder, en une seule seconde, autant avec sa merde qu'avec son âme ineffable.
“Mais je voyais ces deux yeux qui me fixaient, pleins d'angoisse (deux yeux angoissés dans un visage raisonnable), et plus ces yeux étaient angoissés, plus mon désir devenait absurde, stupide, scandaleux, incompréhensible et impossible à réaliser.
«Déplacé et injustifiable, ce désir n'en était pas moins réel. Je ne saurais le renier - et quand je regarde les portraits-triptyques de Francis Bacon, c'est comme si je m'en souvenais. Le regard du peintre se pose sur le visage comme une main brutale, cherchant à s'emparer de son essence, de ce diamant caché dans les profonndeurs. Certes nous ne sommes pas sûrs que les profonndeurs recèlent vraiment quelque chose - mais quoi qu'il en soit, en chacun de nous, il y a ce geste brutal, ce mouvement de la main qui froisse le visage de l'autre, dans l'espoir de trouver, en lui et derrière lui, quelque chose qui s'est caché. »
*
Tôi đọc Võ Phiến rất sớm, một phần là do ông anh rể, Nguyễn Hoạt. Ông lúc đó cùng bạn bè chủ trương tờ nhật báo Tự Do, và sau đó, còn làm nhà xuất bản, nơi đã từng in cuốn Kể Trong Đêm Khuya (?) của Võ Phiến. Tôi đọc VP trước đó ít lâu, khi ông anh mang về nhà mấy tờ báo mỏng dính, in ấn lem nhem, như tự in lấy, tờ Mùa Lúa Mới, phát hành đâu từ miền Trung. (1) Tôi chỉ nhớ cái thuở ban đầu làm quen những nhân vật của ông, không còn nhớ đã từng viết về ông, một phần là do, thời gian sau đó, tôi mải mê, ngấu nghiến đọc những tác giả, mà tôi hy vọng họ giúp tôi giải thích tại sao sinh ra, tại sao sống, tại sao chết, tại sao có cuộc chiến khốn khổ khốn nạn đó...
 Những tác giả, thí dụ như Camus, mà câu văn sau đây không thể nào gỡ ra khỏi ký ức, kể từ lần đầu tiên đọc nó, khi mới lớn, trong Sài Gòn...
 Tôi lớn lên cùng với những người của thế hệ tôi, cùng những tiếng trống của Cuộc Chíến I, và lịch sử từ đó, không ngừng chỉ là sát nhân, bất công, và bạo lực...
 [Nguyên văn câu tiếng Tây, hình như là như sau đây,  tiếc rằng, không làm sao tìm lại được "nguyên con", để so sánh: J'ai grandi avec tous mes hommes de mon age, aux tambours de la première guerre, et l'histoire depuis, n'a pas cessé d'être meurtre, injustice, et violence..]
Chỉ một phần thôi...
Lý do tôi không đọc Võ Phiến nữa, chính là nhờ ông, tôi lần ra một tác giả khác, giải quyết giùm cho tôi, một số câu hỏi mà những nhân vật của Võ Phiến không thể vượt qua được. Đó là  Stefan Zweig....
Nhân vật của Võ Phiến rất giống nhân vật của Zweig. Tôi không hiểu ông đã từng đọc Zweig, trước khi khai sinh ra những Người Tù,  Kể Trong Đêm Khuya, Thác Đổ Sau Nhà... với những con người phàm tục, bị cái libido xô đẩy vào những cuộc phiêu lưu tuyệt vời, khi thoát ra khỏi, lại nhờm tởm chính mình, nhờm tởm cái thân thể mình đã dính bùn, sau khi bị con quỉ cám dỗ.... Nhân vật của Zweig cũng y hệt như vậy, trừ một điều: họ đều muốn lập lại cái kinh nghiệm chết người khủng khiếp đó. Và cú thử thứ nhì, lẽ dĩ nhiên là thất bại, nhưng nhờ vậy, họ vẫn còn là người, vẫn còn đam mê, vẫn còn đủ sân si... (2)
Cái đòn thứ nhì này, tôi gọi là đòn gia bảo, gia truyền, không thể truyền cho ai, bất cứ đệ tử nào, như trong Thuyết Đường cho thấy, Tần Thúc Bảo không dám dạy La Thành cú Sát Thủ Giản, mà La Thành cũng giấu đòn Hồi Mã Thương...
Trong truyện Ngõ Hẻm Dưới Ánh Trăng, anh chồng biển lận khiến cô vợ quá thất vọng bỏ đi làm gái. Anh chồng tìm tới nơi, lạy lục, than khóc, cô vợ mủi lòng quá, bèn quyết định từ giã thiên thai, trở về đời. Trong bữa ăn  từ giã thiên thai, anh chồng không thể quên tính trời cho, tóm tay anh bồi đòi lại mấy đồng tiền tính dư, cô vợ chán quá, bỏ luôn giấc mộng tái ngộ chàng Kim.
Hay trong Người Chơi Cờ, nhân vật chính, nhờ chôm được cuốn thiên thư dạy chơi cờ, mà qua được địa ngục. Về đời, thần tiên đã căn dặn, chớ có chơi cờ nữa, nhưng làm sao không? Chơi lần sau, là đi luôn!
Nhân vật của Võ Phiến, sau cú đầu là té luôn, không gượng dậy được nữa. Thí dụ cái cô trong Thác Đổ Sau Nhà, gặp lại Người Tình Trong Một Đêm, bỗng tởm chính mình: Cớ sao lại ngã vào một tay cà chớn tới mức đó!
Hay nhân vật Toàn (?) yêu cô gái, con một tay công chức (?), thất tình, anh bỏ đi theo kháng chiến, thay cái "libido" bằng "cách mạng", cuối cùng chết mất xác, không thể trở về đối diện với chính mình, với người yêu đầu đời...
Ông bố cô gái, nếu tôi nhớ không lầm, thường viết thư sai con đưa tới mấy ông bạn cũ, để xin tiền. Lúc rảnh rỗi, hai cha con không biết làm gì, bèn đóng tuồng, con giả làm Điêu Thuyền, bố, Lã Bố...
Võ Phiến còn một truyện ngắn, không hiểu sau khi ra hải ngoại, ông có cho in lại không, đó là truyện một anh CS về thành, được trao công việc đi giải độc. Giải độc mãi, tới một bữa, anh nhận ra là thiên hạ chỉ giả đò nghe anh lảm nhảm  tố cộng, nhưng thật sự là đang lo làm việc khác... Tôi không hiểu có phải đây là một thứ tự truyện hay không.
Lần trở lại đất bắc, tôi gặp một ông rất có uy tín, cả trong giới văn lẫn giới Đảng, (đã về hưu). Ông cho biết, vụ VP bị CS bắt là hoàn toàn có thiệt. Nhưng chuyện ông được tha, không phải như Tô Hoài cho rằng mấy anh đưa người ra bắc trong chiến dịch tập kết năm 1954 đã bỏ sót, mà do một tay tỉnh ủy (?) có máu văn nghệ, đã ra lệnh tha, cho về thành....
Sở dĩ tôi không thể nhớ đã từng viết về VP, một phần là do lớp chúng tôi chờ mong ở ông cái cú hồi mã thương, tức là cái kinh nghiệm ăn ở với người CS của ông, nó ghê gớm ra làm sao. Sau này, chúng tôi đọc, ở những tác giả khác, Koestler chẳng hạn... Có thể, khi giữ trang VHNT cho Tiền Tuyến, do cần bài, tôi đã viết về ông, và sau này, NXH đã đăng lại trên Văn. Nguyễn Hưng Quốc, trong bài viết "Có mấy NQT", trên Talawas, nhận định, ông không coi những bài viết về VP trước 1975 có giá trị [... của Phan Lạc Phúc, Mai Thảo, Ðỗ Tấn, cô Phương Thảo, Huỳnh Phan Anh, Viên Linh, Nguyễn Quốc Trụ, và Nguyễn Ðình Toàn.... tôi không xem các bài viết hay các trích đoạn ấy có giá trị văn chương hay sử liệu gì quan trọng], những tác giả khác, không dám nói, nhưng với của tôi, cái dở đó có thể còn vì  lý do, là VP đã ở ngoài những thắc mắc văn chương của lớp chúng tôi.
Qua NHQ, bài viết của tôi về VP có tên là "Thế Giới Truyện Ngắn Võ Phiến": Đã có một thời, thời mới lớn, thế giới đó quả đã ám ảnh cả đám chúng tôi... Cái cảnh mà tôi miêu tả, trong truyện ngắn đầu tay, Những Con Dã Tràng, có thể đã được viết dưới ánh sáng của thế giới truyện ngắn Võ Phiến:
"Một lần tôi vào xóm chơi bời, đi theo một đứa con gái vào một căn phòng nhỏ, hôi hám, chật hẹp. Ngọn đèn dầu le lói chiếu sáng căn phòng đỏ lờ đờ. Khi tôi quay lại nhìn, cô gái nằm trên giường, thản nhiên chờ đợi, chẳng thèm để ý tới tôi. Đúng lúc đó, tôi chợt nhớ đến một buổi tối ở nhà T. Lúc đó T. đang ngủ. Nàng ngồi choàng dậy, thảng thốt nói: "Không, ai dậy anh làm vậy?" Tôi cười gượng gạo: "Đó chỉ là khám phá bản thân, khám phá thân thể em và anh." Tôi nói gần như thét với đứa con gái: "Cởi quần áo ra!", sự hổ thẹn theo tôi tới tận lúc đó...."
Ôi chao, cái thời mới lớn....
Bà cụ bạn Cụ Chất, mới đây thôi, trong lần Gấu điện thoại qua Mỹ hỏi thăm, còn nhắc, nhớ ngày nào tính bê tượng Đức Bà về trước căn nhà ở đường Cao Thắng...
Để sáng chúa nhật, cô con gái của  Cụ đỡ phải mất công ra tận Vương Cung Thánh Đường Sài Gòn...
NQT
(1) Tờ Mùa Lúa Mới, là của Nha Thông Tin Trung Phần, do Thu Tâm (tức Võ Thu Tịnh, giám đốc nha thông tin Trung Việt lúc ấy) làm chủ nhiệm, Đỗ Tấn làm thư ký tòa soạn. Khổ nhỏ... không đến trăm trang, in ngay tại nha Thông Tin bằng một máy cổ lỗ...
(Trích Võ Phiến:Văn Học Miền Nam, Tổng Quan). Trong bài tựa, VHMN. TQ,  Võ Phiến viết:
..... Tập sách này được hoàn tất là do sự giúp đỡ tài chánh của Ủy Ban Nghiên Cứu Khoa Học Xã Hội...
Không hiểu, Ủy Ban này  là của Mỹ (đại học, hay tư nhân)? Và nếu của Mỹ, tên tiếng Anh của nó?  Hay của Văn Học Hải Ngoại...? NQT
(2) Trong bài viết [về nhà văn Hòa Lan], Marcellus Emants: A Posthumous Confession [in trong Stranger Shores, nhà xb Viking, NY, 2001], Coetzee cho rằng, nhận xét của Emants, trong một tiểu luận về Turgenev, cũng có thể áp dụng cho chính ông ta [và với tôi, cho Võ Phiến]: Khi còn trẻ [Emants viết], chúng ta tạo ra một lý tưởng kỳ quái về một cái tôi mà chúng ta mong muốn là [cái tôi đó]. Nhưng cuộc đời của chúng ta, với những kiểu cọ của nó, khốn thay, được xác định không phải bởi lý tưởng, mà là bởi những sức mạnh vô thức ở bên trong chúng ta.
Chính những sức mạnh vô thức này thúc đẩy chúng ta hành động, và chính những hành động này, sau cùng làm bật ra cái con người mà chúng ta thực sự là. Cái sự cố gắng vô ích, làm sao cho lý tưởng ăn khớp với những sức mạnh vô thức kia, làm chúng ta vỡ mộng, và đau, đau lắm. Nỗi đau càng nhức nhối, khi chúng ta nhận ra, cái hố thẳm không thể vượt qua, giữa lý tưởng và cái tôi thực sự.
Áp dụng vào trường hợp Võ Phiến, tôi nghĩ, việc ông theo CS là nhằm lấy tập thể hủy diệt cái tôi - một cái tôi bịnh hoạn, thí dụ như nhân vật mang dấu bàn chân của vợ ghi lên ruộng, ở ngoài đồng, về nhà thờ... Và khi thất bại, trở về thành, ông hủy diệt cái tôi đó, bằng cách viết ra, theo nghĩa: viết tức là chữa trị, chữa trị bằng cách phơi bày...
Emants được coi là nhà văn thuộc trường phái những nhà văn "Tự Nhiên" (Naturalists), bởi vì ông (như anh em nhà Goncourt) quan tâm tới cuộc sống dục tính che giấu của giới trưởng giả, và (như Zola), ông dùng ngôn ngữ của những khoa học mới về di truyền, dòng dõi, và tâm lý trị liệu, để giải thích những động cơ của con người, nhưng vẫn theo Coetzee, trong khi những nhà văn Tự Nhiên viết loại tiểu thuyết kinh nghiệm (roman expérimental), dựa vào những "data", Emants tới với những chất liệu của ông bằng con đường của hồi nhớ, cơ may, và introspection (xem xét nội tâm) [tương tự Võ Phiến], những người đi trước ông thuộc những nhà văn hiện thực Âu Châu, đặc biệt là Flaubert và Turgenev.
NQT
*
Cái vụ lần thứ ba Gấu tính về, đã sửa soạn xong xuôi, thông báo một số nơi chốn, địa chỉ quen thuộc, bỗng thấy ơn ớn, bèn mail cho một anh bạn, một con người bí ẩn chẳng khác chi Người Không Mặt PXA, như sau này Gấu nghe phong thanh. Anh bèn mail, từ một cái địa chỉ lạ hoắc, này, đừng có dại mà về, thời tiết Hà Nội không còn đẹp như hai lần anh về đâu!
Gấu bèn mail tiếp, nhưng về Sài Gòn thì có được không, thời tiết Sài Gòn có đẹp không…
Những sự kiện trên là hoàn toàn có thật, bạn đọc Tin Văn có thể coi chúng là những “sự kiện lịch sử”, đừng nghĩ Gấu này phịa ra để đánh bóng Gấu!
Và, đúng như người ta nói, nhiều khi sự thật còn “giả tưởng hơn cả giả tưởng”, theo nghĩa, bạn đọc, và không thể nào tin là thực!
Cái đoạn tiếp theo của chuyến đi bất thành này, mới ly kỳ rùng rợn.
Gấu viết đến đây, bèn ngưng, chờ động tịnh từ phía người xưa. Coi anh, và “người đó” có cho phép viết ra hay là không, và viết ra có ảnh hưởng đến "sự nghiệp chính trị" của những người liên quan hay là không…
Nếu nhận được cái mail cảnh cáo, NO, thì xin lỗi bạn đọc, Gấu đành stop!
*
Võ Phiến là một khuôn mặt lớn của văn học Miền Nam. Yêu hay ghét ông, thì cũng phải có một cái gì đó đàng hoàng về ông, công, tội ra sao, đại khái theo kiểu đó, tốt nhất là trước khi ông đi tầu suốt.
Gấu sẽ đọc lại Võ Phiến theo tinh thần đó, dựa vào trường hợp người tiền nhiệm của ông, nhà văn Âu Châu, Zweig.


Thà nô lệ anh Yankee mũi lõ, còn hơn anh Yankee mũi tẹt


*

Ui chao, đọc lại cái đoạn nhật ký của Greene, về những ngày đầu làm quen Cô Ba, mới thấy sướng làm sao! Gấu post lại ở đây, để gợi hứng, viết ra những kỷ niệm của Gấu, về những ngày đầu, về những bạn bè cùng vướng vào cái thú đau thương này. Cũng là một cách tự thú trước “tòa án lịch sử”, về “nghi án”, “có mấy NQT”.
Tiếp theo liền những trang nhật ký viết về Cô Ba, Greene bắt qua trận đánh Điện Biên Phủ, với những nhận định thật hách về trận đánh này:
There remains another memory which I find it difficult to dispel, the doom-laden twenty-fours I spent in Dien Bien Phu in January 1954. Nine years later when I was asked by the Sunday Times to write on ‘a decisive battle of my choice', it was Dien Bien Phu that came straightway to my mind.
Fifteen Decisive Battles of the World - Sir Edward Creasy gave that classic title to his book in 1851, but it is doubtful whether any battle listed there was more decisive than Dien Bien Phu in 1954. Even Sedan, which came too late for Creasy, was only an episode in Franco-German relations, decisive for the moment in a provincial dispute, but the decision was to be reversed in 1918, and that decision again in 1940.
Dien Bien Phu, however, was a defeat for more than the French army. The battle marked virtually the end of any hope the Western Powers might have entertained that they could dominate the East. The French with Cartesian clarity accepted the verdict. So, too, to a lesser extent, did the British: the independence of Malaya, whether the Malays like to think it or not, was won for them when the Communist forces of General Giap, an ex-geography professor of Hanoi University, defeated the forces of General Navarre, ex-cavalry officer, ex-Deuxieme Bureau chief, at Dien Bien Phu. (That young Americans were still to die in Vietnam only shows that it takes time for the echoes even of a total defeat to encircle the globe.)
Điện Biên Phủ không chỉ là hồi chuông báo tử cho quân đội Pháp, mà còn hơn thế nhiều! Nó đánh dấu chấm hết mọi hy vọng ăn cướp của Tây Phương đối với Đông Phương! Chín năm sau trận đánh, khi tờ Thời Báo Chủ Nhật gợi ý, tôi nghĩ liền đến trận đánh thần sầu này.
Võ tướng quân đọc mà chẳng sướng mê tơi sao?


Để tưởng nhới mùi Hương

Dấn thân hay không dấn thân

" Lena , thế tiền đâu?"
Tôi quay lại và... vẫy tay chào từ biệt.