*


 






Tin Buồn

Theo tin của Da Màu, nhà văn Phạm Chi Lan,
 người sáng lập và chủ biên trang Văn Học Nghệ Thuật trên mạng,
tạp chí văn học điện tử đầu tiên của Việt Nam,
 qua đời vào lúc 5 giờ sáng nay 21 tháng 9, 2009 tại Dallas Texas,
hưởng dương 47 tuổi.
*
Tin Văn xin chia buồn cùng anh Nguyên Nhi, và cầu chúc linh hồn chị Phạm Chi Lan sớm siêu thoát
Thảo Trần & Nguyễn Quốc Trụ
old_logo
logo

Trang VHNT là tiền thân của trang Tin Văn này. Lúc đầu, Gấu đóng góp bài vở, sau được PCL dành riêng một mảnh đất, mỗi tuần PCL upload bài vở một lần, sau chị cho hẳn Gấu một account, tự biên tự diễn.
Theo như Gấu được biết, trang VHNT sống nhờ lòng hảo tâm của một cơ quan, nơi PCL là nhân viên của họ. Sau, đổi chủ, chủ mới đòi cái tên Sao Mai, do đó, lại phải trở về với cái tên đầu tiên, là Lone Star.
Thấy phiền chị Lan quá, thế là Gấu ra ở riêng, cho tới bây giờ. NQT

 Tribute to PCL & VHNT

*
Văn Cao & TCS 1987

Bam vao day de vao Muc Luc phu truong TCS



PHỤ TRƯƠNG VHNT ÐẶC BIỆT - April 7, 2001



            Click here to enter TCS's content


 
              Noi Dung / Muc LucTieu su TCSBai vo tuong niem TCSNhac & sang tac TCSTranh TCSHinh anh TCS
            Bam vao day de vao Muc Luc phu truong TCS

 

(Trịnh Công Sơn, Ðinh Cường phác họa ngày 1 tháng 4, 2001)



 

 

 

Links

 










 

V Ă N  H Ọ C N G H Ệ  T H U Ậ T
P.O. Box 452512
Garland, Texas
75045-2512  USA

http://www.saomai.org
VHNT Home | Email vhnt

Copyright 001 VHNT Publications. All rights reserved



 Simon Van Booy wins world's richest short story prize

Simon Van Booy wins the €35,000 Frank O'Connor award for
Love Begins in Winter, a collection about characters 'on the verge of giving up'

Simon Van Boy đoạt giải thưởng truyện ngắn giầu sang nhất thế giới với tập truyện Tình Yêu Bắt Đầu Vào Mùa Đông. Viết về cái thời "Trăng Huyết", sắp sửa vào đời. (1)
Trong số tác giả đoạt giải trước ông, có Haruki Murakami and Jhumpa Lahiri.

*
TCS & Ngọc Minh & Đinh Cường & Trần Thùy Mai
[VNHT số đặc biệt TCS]

(1) Truyện ngắn này, của Ngọc Minh, [sau đổi là Minh Ngọc], thực sự là muốn nói tới cái bữa có tháng lần đầu, cùng lúc khám phá ra người yêu của mình, chính là ông anh ruột của mình, và thay vì ông anh làm cô em bị thương, ở "đúng chỗ cần bị thương", thì lại đèo em đi xe đạp, để cái xích xe làm em què suốt đời.
Đây có thể là cái truyện ngắn khủng khiếp nhất của cõi văn Mít của chúng ta!

Thành thử, một đấng đàn ông không làm sao mà lại chôm cái tít này làm gì, nếu không muốn tác phẩm đầu tay của mình, dù là đồ chôm chĩa của một ông mũi lõ, giống như cú mặc khải "có tháng" đó!
Thảm thực.
Lại thảm thực (1)

(1) Tôi cũng nghĩ rằng bất kỳ ai có chút ý thức đều hiểu có nhiều thứ thật là thảm (từ "thảm" này mượn của chính Mr. TV). Có điều đừng cố bắt người khác phải nghĩ giống mình về cái gì là thảm nhất. Với tôi, thảm nhất là ở Việt Nam từ thế hệ này sang thế hệ khác người ta chẳng có gì tốt đẹp để truyền lại cho nhau.
Blog NL
V/v nhận định của NL, Gấu sẽ đi một đường phúc đáp, sau.
Tạm thời, đành muợn câu của Sến Cô Nương, nhớ đại khái, khi viết về vị thủ lĩnh trong bóng tối, hay về văn học tiền chiến, có rũ bụi thì bà cũng không dám làm quen!
NQT
*
Cái cô gái học trò của Gấu, trong Bụi, có lần than thở, phải chi Thầy là đàn bà con gái, như em có đỡ cho em không.
Ấy là vì cô càng ngày càng cảm thấy mình có lỗi với ông chồng của cô!
Lần đó, nghe cô than, Gấu cứ thử tưởng tượng ra mình là một em, và đang vào mùa trăng huyết, coi nó ra làm sao.
Thua!

*
Sikiew nổi tiếng trong đám người tị nạn vì bụi của nó.
Ngay những giấc mơ của họ cũng đầy bụi.
Bụi


Tuyệt Cú


Đào Hiếu và sự đơn độc 'đáng sợ'
Cái câu mà Người Kinh Tế vinh danh Solz, mấy tay trong nước nên đọc.
Vào thời kỳ Xô viết, nói sự thực đòi hỏi can đảm lớn, và đem đến những hậu quả đáng sợ. Chính vì lý do đó, ly khai chống đối chẳng có bao, và thuộc đám trí thức hạng nặng, như Shakarov, người làm ra bom nguyên tử cho Liên Xô. Ngày nay, sợ hãi không hẳn đã là cái rọ bịt miệng trí thức. Nói sự thực tuy vẫn nguy hiểm, như vụ làm thịt nữ ký giả Anna Politkovskaya vào năm 2006, cho thấy. Nhưng ẩn núp ở đằng sau sự im lặng của nhiều người thì không phải là sự sợ hãi mà là ‘appetite’: Một ‘appetite’ [sự ngon miệng] phủ lên bổng lộc, và địa vị mà hầu hết đám trí thức ‘enjoy’, [thưởng thức], như là tà lọt trung thành của hệ thống Xô Viết.
Cái
‘appetite’đã biến đồng chí của Đào Hiếu thành ruồi.
Tưởng niệm Solz


Nguyễn Huy Thiệp vs Kurtz


Trong một vài đường hướng, đây là một cuốn sách tuyệt hảo đối với tôi - mặc dù đề tài và sự quan tâm của nó, thì rõ ràng thuộc về một cõi không tuyệt hảo. Tôi đọc nó, lần đầu khi còn trẻ, dân Ky tô, lớn lên ở Phi Châu, vào lúc mà trại cùi còn phổ thông. Tôi còn nhớ, lần viếng thăm cùng với mẹ tôi, một trại cùi như thế, được mấy bà sơ chăm sóc, tại Ntakataka, nơi hồ Lake Malawi. Và tôi sợ đến mất vía bởi cái sự cử động dịu dàng đến trở thành như không có, của những người cùi bị bịnh ăn mất hết cánh tay, y hệt như được miêu tả ở trong cuốn tiểu thuyết: “Deo Gratias gõ cửa. Querry nghe tiếng cào cào cánh cửa của cái phần còn lại của cánh tay. Một xô nước treo lủng lẳng ở cổ tay giống như một cái áo khoác, treo ở cái núm trong tủ áo”.
Vào cái lúc tôi đọc nó, thì tôi đang phải chiến đấu, như những người trẻ, hay già, phải chiến đấu, và cũng không phải chỉ ở Phi Châu, với những đòi hỏi về một niềm tin, khi mà niềm tin này thì thực là "vô ích, vô hại, vô dụng, vô can…", tại một nơi chốn, bất cứ một nơi chốn, bị tai ương, bệnh tật, và cái chết nhòm nhỏ, đánh hơi, quấy rầy, không phút nào nhả ra.
Thành thử câu chuyện của Greene về một gã Querry, một tay kiến trúc sư bảnh tỏng, tới xứ Công Gô, chỉ để chạy trốn, và tìm ra một thế giới, và có thể, Chúa bắt kịp anh ta đúng ở đó, một câu chuyện như thế, làm tôi quan tâm.
*

Ui chao, đọc một phát, là Gấu bỗng nhớ đến Bếp Lửa, đoạn Tâm, ở Hà Nội, không khứng ra bưng theo VC, cũng quá chán Hà Nội, bèn qua Bắc Ninh dậy học tại một trường của mấy ông cha; dậy học dậy hiệc ra sao chẳng rõ, nhưng rõ ràng là mất niềm tin, bị mấy ông thầy tu chê, đành trở về lại Hà Nội.

Bạn, đọc lại khúc đối đáp nẩy lửa liên quan, mà chẳng... thú sao!

*

Về Bắc Ninh tôi bị cảm khản tiếng mất một tuần phải nghỉ làm việc. Nhưng buổi sáng mùa đông buồn rầu thêm. Tôi nằm lỳ trên giường không buồn trở dậy. Những tiếng ồn ào từ trong lớp giờ làm việc, ngoài sân giờ ra chơi, bay lên qua một khoảng xa cách lắm, tôi đợi từng bước chân người ngoài hành lang.
Mỗi buổi trưa ông già gác mang lại phòng cho tôi một bát cháo nóng - buổi trưa kèm theo một tờ báo hàng ngày. Tôi lười, thoái thác không xuống phòng ăn. Tôi đọc báo, nhìn cuộc đời bình thản qua như những cuộn mây xám thường ngoài cửa sổ buổi chiều. Và tôi ngủ những giấc ngủ đầy hơi thở nóng và mồ hôi cùng trống ngực.
Linh mục Tân đến thăm tôi hàng ngày khoảng 4 giờ chiều và ở lại phòng tôi chừng mười lăm phút. Nhiên săn sóc tôi vào buổi tối khi những tiê!ng chuông khóa lễ chiều đã im. Nhiên thuờng ngồi nói chuyện. Anh kể về gia đình, về thời thơ ấu, và ơn trên đã kêu gọi anh để được dâng mình cho Chúa, bằng giọng bình thản như đọc một đoạn sách thánh kinh. Bà nội anh muốn có một người con dâng cho Chúa nhưng cha anh là con một. Tiếp theo Nhiên là đứa cháu độc nhất. Đứa cháu độc nhất ấy nghe ở linh hồn mình từ nhỏ âm vang lời kêu gọi của Thiên Chúa và Nhiên mong rằng sẽ làm thỏa mãn khát vọng của những người sinh thành. Trong những lúc ấy tôi ngó lên ngọn điện yếu mỏng chập chờn như muốn tắt.
Đại không sang, những thư từ của tôi được cho vào phong bì lớn dán kín gởi sang trường. Tôi nhận được thư của Francoise trách tôi lười viết, nàng hỏi tôi có nhận được thư của nàng không. Nàng cho biết hiện đang công tác vận động những gia đình có con em chiến đấu ở Đông Dương để làm kiến nghị yêu cầu chấm dứt chiến tranh ở đây. Đồng thời cùng với một nhóm bạn hữu thanh niên, nàng đã được gặp Sartre, chất vấn về vấn đề cộng sản và cách mạng. Nàng bảo nàng hơi đen và gầy hơn nhưng cũng cao hơn. Nàng vừa kỷ niệm sinh nhật thứ muời chín của nàng.
“Pauvre Francoise!”
Hòa tả những trận mưa ở đồn điền dài ba trang giấy mỏng. Và Ngọc:
“Mày ơi!
Mày còn thì giờ để ý đến tao ư? Tao tưởng mày nghĩ đến thân phận mày cũng đã đủ lắm rồi. Thằng Bảo cho tao lãng mạn và chắc rằng chúng mày cũng đồng ý với nhau. Nhưng hỡi ôi! Lãng mạn phải là chúng mày mới đúng. Đau khổ cho nhiều vào, đọc sách cho nhiều vào, xót thương mình chưa đủ rồi xót thương người… để mơ mộng: cách mạng. Ôi chao cách mạng! Cách mạng để làm gì? Những con ngựa bị hành hạ đau quá thì lồng lên hất thằng dô kề ngã mà chạy. Chạy đi đâu? Thằng dô kề nó sẽ túm được, nó đánh đập tàn nhẫn hơn và lại sỏ cương trèo lên.
“Thế nào tao cũng bỏ đất này đi, tao can đảm thú thực như thế, chết ở chỗ khác yên thân hơn. Còn hơn chúng mày lòng tin đã mất mà không dám thú thực, mà vẫn còn cố gắng giả tin.
“Bằng chứng là mày có tự do đâu, thằng Bảo vợ con và cái be nước mắm, mày bỏ trường này rồi cũng đến trường khác. A-men, mày đang tìm về với Chúa đấy.
Cầu Chúa che chở cho cái thằng sâu kiến lúc nào cũng tưởng mình lớn ngang Đức Chúa. Làm dấu Thánh Giá và quì xuống.”
Ngọc
Tôi quên lá thư của Ngọc mở ở bàn đêm đầu giường. Buổi chiều tôi ngủ chập chờn, khi mở mắt Nhiên ngồi cạnh và đã bật đèn. Nhiên hỏi:
“Anh không ăn cháo? Để tôi bổ cam cho anh xơi.”
Tôi ngồi dạy nói:
“Cám ơn anh, tôi có thể làm lấy được.”
Tôi bổ cam ở bàn, nhìn ra cửa sổ, gió khoan khoái một chút.
Nhiên hỏi:
“Anh cho là có Thượng Đế hay không?”
Tôi suy nghĩ rồi trả lời:
“Câu hỏi ấy chưa bao giờ làm tôi thắc mắc cả.”
Tôi không nghĩ đến nó.
Nhiên lại hỏi:
“Anh có nhận rằng ở đời có một cái gọi là Thiện, một cái gọi là Ác, có công bằng, có tự do, bác ái…"
Tôi trông thẳng vào mặt Nhiên đáp:
“Có chứ tại sao không?”
“Vậy mà anh lại không tin Thượng Đế thì lạ thật.”
“Tôi tưởng những ý niệm ấy họp nhau thành một ý niệm hoàn hảo hơn tất cả là Thượng Đế. Thường thường người ta nghĩ một vài ý niệm khó thỏa hiệp vớ nhau như bình đẳng và tự do, nhưng đạt đến sự hòa hiệp chính là tìm về Thượng Đế rồi còn gì.”
Tôi bước vài bước đắn đo:
“Tôi nhắc lại với anh tôi không suy nghĩ về vấn đề ấy. Theo tôi có những lúc người ta cần giải quyết giữa người với người và Thượng Đế không nên có mặt ở lúc ấy. Có mặt khi không cần thiết, Thượng Đế sẽ bị nhơ nhuốc lây và có thể bị mất ngôi. Mà ngôi Thượng Đế có lẽ cần thiết lúc khác.”
“Thượng Đế sẽ giải quyết được những vấn đề của loài người nếu loài người biết tìm về Người.”
“Không, tôi không tin như thế, Thượng Đế không sống cái sống xác thịt của nhân loại. Khi Thượng Đế nhập thể thành người như Chúa Jésus hay Phật Tổ thì chính ở những người ấy Thượng Đế đã bị lôi kéo vào tấn thảm kịch riêng tư của loài người, và chỉ có thể thoát ra với sự thất bại…”
Những buổi tối tiếp theo, Nhiên thưa sang thăm tôi - Tôi nằm nghe tiếng động ngoài hành lang và lòng mình.
Tôi trả lời Ngọc:
“Ngọc,
Con sâu ở giữa tim giữa hồn, giữa não, mày nhớ không? Đi đâu cũng chỉ là mày – đau khổ và nhục nhã. Mà nào riêng có đất nước này hổ nhục thôi đâu, mọi nơi mắt mày cũng chỉ nhìn thấy như đây. Không trốn được đâu trừ khi mày trốn được lòng này.
Nhưng thôi tao vẫn cầu chúc cho mày đi cho thỏa dồn nén, để ngó thấy ở bất cứ một góc địa cầu nào những điều ghê tởm không muốn ngó, rồi mày sẽ trở lại, tao tin như vậy, nhất định sẽ trở lại. Tất nhiên chán chường hơn nữa, nhưng từ chỗ chán chường cuối cùng ấy tao còn mày hay mất mày vĩnh viễn.
Ngọc ơi! Mày có nhẩy xuống biển ngủ ở dưới ấy không? Con sâu ở giữa tim, giữa hồn, giữa não.
Trước khi đi hãy thư cho bạn mày.
Tâm.”
Lễ Chúa Giáng Sinh đến gần với những ngày rét cóng hơn. Nhà trường vắng ngắt, những giáo sư ngoài như tôi đã về Hà Nội cả. Mặt sân cứng ướt hiu quạnh không cây cối, tôi bước trên sạn vụn theo một cửa ngách sang nhà thờ. Màu đá xám cao và lạnh lẽo thêm.
Những chiếc đen mầu hình ngôi sao, những dây hoa giấy sặc sỡ buồn cười.
Vòm nhà thờ sâu, ánh sáng mờ ảo.
Tôi đi bên những hàng ghế mộc, đến máng cỏ Chúa Hài Đồng. Tôi đứng cách xa ngắm những hình tượng được xếp đặt khéo léo. Vài người đàn bà nhà quê hình như ở chợ rẽ vào, quỳ gối kính cẩn.
Rồi tôi xuống Đáp Cầu cho đến hết buổi sáng.
Tôi vẫn chưa biết nên về Hà Nội hay nên giam mình một tuần lễ trong chuỗi ngày rét mướt ở tỉnh lỵ. Con đường dốc, những sườn núi trơ đất và đá đỏ, gió và hơi nước quyến lấy nhau ở không trung làm khói đặc nặng nề, không một tiếng động ngoài tiếng nổ của động cơ. Chiếc xe hàng đã đổ hết khách ở Bắc Ninh chỉ còn lại vài người. Thị xã tiêu điều những mặt nhà méo lệch. Quán chợ lụp xụp nhớp nháp; chợ còn lại dẫy tường trắng loang lỗ vết tích cũ.
Bữa ăn với vợ chồng Long trong một gian buồng hẹp ấm, mâm bằng gỗ.
Tôi trở về Bắc Ninh gần ba giờ chiều.
Tôi ngồi trong quán nước ở bến xe trong sự náo nhiệt ấm áp của những người xuôi ngược và những người làm xe. Ở đây có những bát nước chè tươi nóng, điếu thuốc lào. Trời mưa bay. Bỗng tôi trông thấy Hạnh, nàng mặc tấm áo dài thâm đi ở ngoài. Nàng chào tôi và ghé vào quán.
Tôi hỏi:
“Cô đi Hà Nội?”
“Vâng.” Hạnh đáp.
Tôi mời nàng uống nước và chúng tôi uống những bát nước chè tươi xanh nóng rộp lưỡi. Hạnh hỏi tôi:
“Anh cũng về Hà Nội?”
Tôi chưa biết trả lời thế nào Hạnh đã tiếp:
“Nếu tiện anh đi xe của em cùng về.”
Nàng nói tự nhiên còn tôi lúng túng. Hạnh lại nói:
“Chỉ sợ anh chê đi xe chở hàng thôi.”
Hạnh đưa tôi ra xe, chiếc xe cam nhông chuyên chở hàng hóa. Sau xe trống, ngoài một thùng đựng ét xăng của nhà binh bỏ không và mấy tấm bao vải.
Tôi và Hạnh ngồi phía trên cùng người tài xế và người phụ xe ở đằng sau. Xe ra khỏi thị xã cùng với hạt mưa dầy hơn. Người tài xế đứng tuổi hai bàn tay khô khan gân guốc chụp trên đầu chiếc mũ cát két dạ. Anh phụ xe trẻ tuổi nói qua lỗ hổng lên với bác tài một câu gì. Hạnh ngồi sát vào tôi và tôi nhận hơi ấm của nàng.
Nhìn thấy ở ngực Hạnh đeo hình thánh giá, tôi hỏi:
“Em theo đạo?”
Hạnh gật đầu trả lời:
“Khi còn ở hậu phương, bây giờ thì thôi rồi.”
Một lát sau, xe chạy đều tốc lực, màu trắng phủ những cánh đồng hai bên đường. Tôi hỏi Hạnh:
“Em còn nhớ về anh xưa hay không?”
Hạnh ngước mắt nhìn tôi rồi trả lời:
“Em nhớ những ngày nghỉ học anh thường đi theo em. Hồi ấy nhà em ở hai nơi, Thị Cầu và Đáp Cầu, nhà anh ở khoảng giữa con đường ấy. Đi về em phải qua nhà anh. Em mặc áo trắng và cặp tóc và em đã được nghe anh nói là em đẹp nhất Thị Cầu.”
Tôi nắm bàn tay nhỏ bé của Hạnh và để vào lòng bàn tay tôi từ lúc nào, rất cảm động.
Hạnh nói tiếp:
“Một lần anh Long và một người bạn nữa đã thách anh đến vuốt tóc em và anh đã làm thật. Ở con đường ra đồng trước cửa nhà một người Pháp có nuôi một đàn ngỗng dữ và em đã về mách nhà anh cái tội trêu trọc em và tội đứng đó ăn cắp trứng ngỗng.”
Tôi nắm chặt hơn tay Hạnh, có cảm giác hổ thẹn về những hành động ngây thơ táo bạo và tôi đáp:
“Nhưng em cũng biết là bà ngoại anh chẳng bao giờ trị tội anh cả.”
Hạnh gật đầu và cái búi tóc nghiêng xuống vai về phiá tôi. Hạnh hỏi lại tôi:
“Học hết lớp nhất anh đi Sài Gòn? Anh làm gì?”
Tôi nói điềm nhiên và thành thật, ngoài ý muốn:
“Anh đã bán báo, làm thợ, và học nghể chữa ô tô.”
Đến Hà Nội, mưa lớn hơn. Chúng tôi cùng đi ăn cơm với nhau.
Và đêm ấy tôi ngủ với Hạnh ở khách sạn
*
Thời trung học, Gấu có một anh bạn, học tiếng Tây với một ông giáo sư, tên D. Ông này mê TTT, mê đoạn trên quá, bèn bắt học sinh dịch qua tiếng Tây, nhất là cái đoạn đối đáp nẩy lửa:

“Tôi nhắc lại với anh tôi không suy nghĩ về vấn đề ấy. Theo tôi có những lúc người ta cần giải quyết giữa người với người và Thượng Đế không nên có mặt ở lúc ấy. Có mặt khi không cần thiết, Thượng Đế sẽ bị nhơ nhuốc lây và có thể bị mất ngôi. Mà ngôi Thượng Đế có lẽ cần thiết lúc khác.”
“Thượng Đế sẽ giải quyết được những vấn đề của loài người nếu loài người biết tìm về Người.”
“Không, tôi không tin như thế, Thượng Đế không sống cái sống xác thịt của nhân loại. Khi Thượng Đế nhập thể thành người như Chúa Jésus hay Phật Tổ thì chính ở những người ấy Thượng Đế đã bị lôi kéo vào tấn thảm kịch riêng tư của loài người, và chỉ có thể thoát ra với sự thất bại…”

*
*

Nguyễn Đông Ngạc & NQT
@ Montreal cc 1995
Trong Bếp Lửa, Thanh Tâm Tuyền đã để cho một nhân vật nói lên nhận định về tôn giáo: một khi nhập thế trong xác phàm, thần thánh cũng phải chịu đựng, như bất cứ một con người nào, mọi thảm kịch của nhân gian, triết hiện sinh gọi là những hoàn cảnh hữu hạn, và chỉ thoát ra bằng sự thất bại. Tư tưởng này có thể coi như chung cho các đa số các nhà văn hiện sinh tuy cách phát biểu mỗi người một khác. Sartre: Con người bị kết án phải tự do. Camus: Phải tưởng tượng Sisyphe hạnh phúc. (Sisyphe là nhân vật trong thần thoại Hy Lạp, bị tội vần đá lên núi. Gần tới đỉnh núi, hòn đá lăn xuống, và Sisyphe lại vần đá tiếp.)
Như lính giữa rừng
*
 Lần gặp bạn C, ở San Jose, khi ông anh mất, Gấu hỏi, bạn cho biết:
-Đàn ngỗng có thực. Hồi nhỏ tớ cũng sợ mấy con ngỗng đó lắm. Nhân vật trong Bếp Lửa, hầu như tất cả đều có thực ở ngoài đời.

Bếp Lửa


Trường Sa hành


Orwell
Từ đi thực tế tới làm một nhà tiên tri
De l’exprérience au prophétisme
Nicole Zand 17 Sept 1982

 Nếu ông không đi Catalogne, nếu ông không tận mắt chứng kiến những bạn bè của ông bị thủ tiêu theo lệnh của Moscow bởi những người CS Tây Ban Nha, chắc chắn ông không thể nào viết ra được hai tuyệt tác Trại Loài Vật1984, cuốn sau ông vừa hoàn tất là buông cây viết, thở phào một phát, rồi đi. Ấy, quên chưa kể tuyệt tác “Hommage à la Catalogne” [Cuốn này dịch ra tiếng Việt có thể gọi là Giã Biệt Cách Mạng 30 Tháng Tư 1975, bởi vì quả là có một thời kỳ ngắn ngủi, cả nước không nói, nhưng chắc chắn cả Miền Nam say mèm giấc mơ “Tổ quốc ơi ta yêu Người mãi mãi, Từ trận thắng hôm nay ta xây lại bằng 10”, cho đến khi giấc mơ biến thành thực tại giống như ác mộng, “Tổ quốc ơi, ăn khoai mì chán quá, Từ trận thắng hôm nay ta ăn độn dài dài!”]. Hommage là một ghi nhận tuyệt vời, một chứng từ, về cuộc chiến Tây Ban Nha, ở đó, ông khám phá ra, một xã hội không giai cấp ở trong dạng tí ti, microcosme, của nó, cùng lúc ông nhận ra, ở những kẻ chiến đấu "một điều gì rất quái, insolite, rất thê lương, sinistre - một không khí sợ hãi, nghi kỵ, bất an, bất trắc, và thù hận”. Giống như một bầy chuột.
Con người này, Orwell, không hề biết sợ hãi, bạn bè của ông xác nhận điều này, nhưng suốt đời bị ám ảnh bởi những con chuột.

Đọc lại V[I]P
Don Quixote


Kun Ở Xứ Mít