*


 




*

Lưới khuya, hồn ốc lạc thiên đường
Chàng là rêu ôm đá mơ thiên đàng

The poem has the quality of an uneasy dream, in which you gain something extremely valuable, only to lose it the very next moment. Within the limitation of one's sleeping time, and perhaps precisely because of that, such dreams are excruciatingly convincing in their details; a poem is also limited, by definition. Both imply compression, except that a poem, being a conscious act, is not a paraphrase or a metaphor for reality but a reality itself.
For all the recent popularity of the subconscious, our dependence on the conscious is still greater. If responsibilities begin in dreams, as Delmore Schwartz once put it, poems are where they ultimately articulated and fulfilled. For while it's silly to suggest a hierarchy among various realities, it can be argued that all reality aspires to the condition of a poem: if only for reasons of economy.
This economy is art's ultimate "raison d'être", and all its history is the history of its means of compression and condensation. In poetry, it is language, itself a highly condensed version of reality. In short, a poem generates rather than reflects. So if a poem addresses a mythological subject, this amounts to a reality scrutinizing its own history, or, if you will, to an effect putting a magnifying glass to its cause and getting blinded by it.
"Orpheus. Eurydice. Hermes" is exactly that, as much as it is the author's self-portrait with that glass in hand, and one learns from this poem a lot more about him than any life of him will offer. What he is looking at is what made him, but he who does the looking is far more palpable, for you can look at something only from outside. That's the difference between a dream and a poem for you. Say, the reality was language's, the economy was his.
Joseph Brodsky: Ninety Years Later

Bài thơ đâu khác chi một giấc mơ khắc khoải, trong đó bạn có được một cái chi cực kỳ quí giá: chỉ để mất tức thì. Trong giấc hoàng lương ngắn ngủi, hoặc có lẽ chính vì ngắn ngủi, cho nên những giấc mơ như thế có tính thuyết phục đến từng chi tiết. Một bài thơ, như định nghĩa, cũng giới hạn như vậy. Cả hai đều là dồn nén, chỉ khác, bài thơ, vốn là một hành vi ý thức, không phải sự phô diễn rông dài hoặc ẩn dụ về thực tại, nhưng nó chính là thực tại.
Cho dù tất cả sự phổ quát gần đây của tiềm thức, sự tuỳ thuộc của chúng ta vào ý thức vẫn lớn hơn. Nếu trách nhiệm bắt đầu (ngay từ) trong giấc mơ, như thi sĩ Delmore Schwartz đã có lần diễn tả, rốt ráo ra, những giấc mơ được thể hiện và hoàn tất ở trong những bài thơ. Bởi thật là ngốc nghếch nếu gợi ý rằng có một đẳng cấp giữa những thực tại phức biệt, người ta có thể lập luận rằng toàn thực tại hướng vọng tới điều kiện của một bài thơ: nếu chỉ vì lý do tiết kiệm.
Sự tiết kiệm này là "lý do hiện hữu" tối hậu của nghệ thuật, và toàn thể lịch sử nghệ thuật là lịch sử của những phương tiện dồn nén và súc tích. Trong thơ, đó là ngôn ngữ, tự thân nó, là một bản sao của thực tại được cô đọng cao độ. Nói tóm lại, bài thơ sản sinh hơn là phản ánh. Vậy nếu một bài thơ đề cập tới một chủ đề huyền thoại, điều này có nghĩa là một thực tại quan sát chính lịch sử của nó - hoặc nếu bạn muốn - điều này có nghĩa là, một hậu quả đặt tấm gương khuếch đại cạnh nguyên nhân và bị chói loà bởi nó.
Bài thơ "Orpheus. Eurydice. Hermes" đúng là như thế, bởi nó chính là chân dung tự hoạ của tác giả với cái kính khuếch đại cầm trên tay, và người ta, qua bài thơ này, biết được nhiều về tác giả hơn là bất kỳ cuốn tiểu sử nào về ông có thể cung ứng. Cái tác giả ngắm nhìn chính là cái tạo nên ông, nhưng kẻ ngắm nhìn thì rõ ràng hơn, bởi vì bạn chỉ có thể ngắm nhìn một cái gì từ bên ngoài. Đó là sự khác biệt giữa một giấc mơ và một bài thơ đối với bạn. Có thể nói, thực tại là của ngôn ngữ, tiết kiệm là của nhà thơ.


Ways of escape

Tại sao chúng ta nên hủy bỏ giải Nobel Văn học?
Thông thường, Viện Hàn lâm đề cao những nhà văn cánh tả như Sinclair Lewis, Gunter Grass, Jose Saramago, Pablo Neruda hoặc Jean-Paul Sartre. Những nhà văn Mỹ từng giành giật được giải thưởng này là một nhóm khá pha tạp như: tác giả chống tư bản John Steinbeck, nhà văn hạng xoàng Pearl S. Buck.

Note: Đề cao những nhà văn cánh tả, vậy mà đề nghị nên huỷ bỏ ư?
Bài viết của báo Mẽo, quê, vì bị coi là biệt lập thiển cận, vậy mà Mít "tả hơn cả tả lớ", cũng hò theo. Tiếu lâm thật!


30.4.2009 

Nhân ngày 30-4, trả lời phỏng vấn một số báo trong và ngoài nước, nhà báo tự do Bùi Tín hiện sống ở Pháp, 33 năm trước từng có mặt tại dinh Độc lập Sàigòn, phát biểu như sau:
-Không, không có giải phóng, thống nhất.
-Cuộc ăn cắp khổng lồ.
-Những ngộ nhận vô duyên.
-Chung vui cùng Lịch sử và Thời đại.
33 năm đã qua, theo tôi, với khoảng cách thời gian dài để có thể suy ngẫm sâu sắc và nhận ra sự thật lịch sử, mọi người Việt nam, kể cả những người Cộng sản, cần đính chính một nhận thức sai lầm nguy hiểm đã bị những người lãnh đạo Cộng sản áp đặt theo kiểu cưỡng hiếp mọi người dân phải thừa nhận. Họ buộc mọi người công nhận rằng việc họ chủ trương đưa quân từ miền Bắc vào miền Nam chiến đấu từ 1960 đến 1975 là chính nghĩa nhằm giải phóng và thống nhất đất nước, và ngày 30-4 là ngày Toàn thắng Vĩ đại.
Hôm nay tôi sẵn sàng nói to cho mọi người nghe rõ : Đất nước Việt nam ta sau ngày 30-4-1975 không hề được giải phóng, cũng không hề được thống nhất. Ngày 30-4, đảng Cộng sản thắng, toàn dân vẫn thua, vẫn bị thống trị bới độc quyền đảng trị.
Đảng Cộng sản đã thực hiện chính sách chiếm đóng và thống trị miền Nam, bỏ tù và quản thúc hàng triệu người dân, tước đoạt của cải của dân, qua đổi tiền và cải tạo, thải loại ngay Mặt trận dân tộc giải phóng, gây thảm cảnh hàng triệu thuyền nhân. Như thế mà là giải phóng, là thống nhất ư?
Sau 30-4-1975, chỉ riêng đảng Cộng sản cầm quyền, không cho ai lập hội, không cho một tư nhân nào ra báo, không có tự do ứng cử và bầu cử, thế mà gọi là giải phóng dân tộc ư ? là tự do ư ?
*
Note: -Bản tin trên, của một độc giả Tin Văn.
-Ăn cướp xong, mới tới ăn cắp. NQT
*

Lại Tháng Tư

Thú thực, viết cái kiểu như thế này, từ cái tít cho tới nội dung bài viết, là cố tình viết theo kiểu huề vốn. Hơn 30 năm qua, đất nước ngày càng băng hoại, và chính cái thực tại như vậy làm cho chúng ta cả ở hai phía, nhận ra một sự thực, cuộc chiến là một thảm họa, sau chiến thắng của Miền Bắc.
Cả nước đâu có được cái gì, sau khi chiến tranh kết thúc trên ba muơi năm, điều đó mới đáng nói chứ đâu phải là chuyện trong khi chiến tranh đánh giết lẫn nhau?
Đâu còn chuyện hận thù ở đây nữa?
*
Chính trong thời kỳ "nửa dơi nửa chuột" này mà giới văn nghệ mới có dịp làm quen với những tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng của thế giới, kể cả những tác phẩm sau này bị lên án là xét lại, thậm chí là "phản động", qua con đường công khai nhập vào Việt Nam bởi chính những đoàn nghệ thuật, những xuất bản phẩm, báo chí, những bộ phim, những tiểu thuyết của "các nước anh em" mà muốn phê phán, cấm đoán cũng..."há miệng mắc quai".
Nguồn BBC.
“Nửa dơi nửa chuột”. Tuyệt!
*
Chưa có gì là chắc chắn, cái chuyện, Maya tự sát.
[There is even uncertainty, according to T. Krasavchenko, that the poet Mayakovsky, a Soviet icon who had, like Yesenin, begun to have doubts, shot himself in 1930. D.M. Thomas: Cuộc đời Solz: Thế kỷ ở trong ta].
Chương 9, cuốn tiểu sử Solz, của D.M Thomas, có nhan là "To Be or Not to Be", và, lấy ý thơ của Akhmatova, trong Kinh Cầu, làm đề từ:
... Lấy hết đèn đuốc đi. Đêm tối rồi. [...And take away the lanterns. Night.]
Gấu này mỗi lần đọc câu thơ trên, là nhớ đến lần đầu đọc Đêm giữa Ngọ, của Koestler, những ngày đầu di cư, năm 1954, và và bần thần tự hỏi, chẳng lẽ, ngay những ngày đầu 1954, mà Koestler, và Akhmatova, đã nhìn ra cái thảm cảnh nưóc Mít sau 30 Tháng Tư: Đêm giữa Ngọ. Dẹp hết đèn đuốc. Đêm rồi. Giờ này là giờ của Quỉ ?
Ui chao, chẳng lẽ cái thảm cảnh băng hoại ở trong nước Mít chúng ta hiện nay, là, Đêm giữa Ngọ và đã được chính phòng thông tin Mẽo tiên đoán, khi biếu không những ấn bản tiếng Việt của cuốn Darkness At Noon, của Koetsler, và nhà văn nhớn Bắc Kít VTH, vào những ngày đầu sau 30 Tháng Tư, vô Nam thu gom chiến lợi phẩm, vớ được một cuốn, và sau này dùng làm nhan đề cuốn sách hách xì xằng nhất của Người ư?


La Peau

Chim thiêng

Ba nhạc sĩ của một thời, thời của chúng ta, mỗi ông là một số mệnh dị thường.
Dị thường theo nghĩa của Manea, khi ông nói về "an authentic testimony to true patriotism", "một chứng thực về lòng ái quốc không thể giả mạo".
Văn Cao với bản chúc thư liên quan tới trường hợp ra đời của bản quốc ca.
Phạm Duy, với những đi và về cùng một nghĩa như nhau.
Còn Trịnh Công Sơn?
*
Có lẽ những bản rất tình ca của bạn, là cái phải đại diện cho cả lũ chúng mình với hậu thế.. Thời của lũ chúng ta chắc là chưa buông tha cho bạn đâu.

Đúng như thế: Thời của chúng ta, sau cùng, chỉ còn lại, những bản nhạc TCS!
Đây là ý của Steiner, khi phán về âm nhạc.
Không xấu, không tốt, cưu mang ở trong nó, niềm bí ẩn của cái nghĩa.
Ni bonne ni mauvaise, elle incarne le mystère même du sens.

La musique se déploie, indifféremment semble-t-il, dans la sphère du divin comme dans celle de l'infernal.

*
ĐTM: Những hoàn cảnh ra đời của những bản nhạc, trong sách và báo chí nói đến nhiều lắm. Chị chỉ nói giao tình riêng, cá nhân. Trịnh Công Sơn hay nhiều lần, thích bắt tay chị vô cùng, khi bàn đến một lời ca nào của Trịnh Công Sơn, mà ca từ của Trịnh Công Sơn tuyệt vời. Chẳng hạn như trong bài Mưa Hồng, chị rất yêu câu, “Trời ươm nắng cho mây hồng.” Khi nói đến “ươm nắng,” mình thấy sự ẩm ướt, mưa gió, mà tại sao lại có nắng. Câu chuyện rất dài....
Chị xin nói là tại sao Trịnh Công Sơn đứng dậy bắt tay chị.
Trong câu, “Em đi về cầu mưa ướt áo.” Chị hỏi anh Trịnh Công Sơn là, “Ai là người cầu mưa ướt áo?” Có nguồn dư luận nói là, “Em đi qua cầu, rồi trời mưa ướt áo.” Có nhiều người khác lại nói rằng là, “Anh là người cầu mưa ướt áo, vì các em Đồng Khánh mặc áo trắng, mà trời mưa, tất nhiên là có good view.” Chị nói là, chị nghĩ người cầu mưa chính là người con gái đó. Tại vì người con gái Huế rất lãng mạn. Bây giờ, người phụ nữ được quyền ăn mặc hở hang để khoe nét đẹp. Nhưng ngày xưa, trong sự nghiêm khắc e dè của người Huế ngày xưa, và của đất nước ngày xưa, không cho phép người phụ nữ được phô bày. Thành ra, “Em đi về, em cầu cho mưa ướt áo, để em được chính thức khoe vẻ đẹp của mình.” Chị nghĩ chính người con gái cầu cho mưa ướt áo. Khi chị nói thế, Trịnh Công Sơn vỗ bàn và nhổm người lên bắt tay chị, thích vô cùng. Chị đã nhìn ra được.
Trong bài “Cát bụi tình xa,” có câu “vết mực nào xóa bỏ không hay.” Chị hỏi tại sao có câu đó. Trịnh Công Sơn nói rằng, ngày xưa ở những làng Huế rất nhỏ, khi trong gia đình có người chết, phải đi khai tử. Ông xã trưởng già nua mở cuốn sổ hộ tịch ra, ông đeo kiếng và tra tên, và chấm mực, xóa tên người chết. Đó là câu, “vết mực nào xóa bỏ không hay.”
Nguồn từ Da Mầu, trích lại từ Việt Weekly.
Bà DTM này thật đúng là người biết nghe nhạc.
Mấy hình ảnh bà lấy ra để ‘lèm bèm’ mới tuyệt làm sao.
Hình ảnh chót làm Gấu nhớ đến Tolstaya, trong một bài tưởng niệm nhà thơ Joseph Brodsky, có nhắc đến một cổ tục của người dân Nga, khi trong nhà có người ra đi, họ lấy khăn phủ kín những tấm gương, sợ người thân còn nấn ná bịn rịn, sẽ đau lòng không còn nhìn thấy bóng mình ở trong, và bà tự hỏi: làm sao phủ kín những con đuờng, những sông, những núi... nhà thơ vẫn thường soi bóng mình lên?
Gấu chôm hình ảnh này, để tưởng niệm Đỗ Long Vân.
*

Vô Kỵ Giữa Chúng Ta

Đỗ Long Vân, tác giả Truyện Kiều ABC, Vô Kỵ Giữa Chúng Ta, Nguồn Nước Ẩn Trong Thơ Hồ Xuân Hương... đã mất tháng Tám năm vừa qua (1997), tại quê nhà. Người biết chỉ được tin, qua mấy dòng nhắn tin, trong mục thư tín, trên tạp chí Văn Học, số tháng Ba, 1998.
Ngay từ trước 1975, ông đã sống một cuộc sống lặng lẽ, "từ chối" mọi đặc quyền, nếu có thể gọi đây là một đặc quyền mà chế độ Miền Nam dành cho những người có bằng cấp: được đi học trường sĩ quan Thủ Đức. Khi bị gọi động viên, ông đã trình diện như là "lính trơn", nghĩa là chẳng trưng ra những bằng cấp, chẳng nhớ gì (?) tới những năm tháng du học Paris. Bạn với một số bạn lặng lẽ: Joseph Huỳnh Văn, Phạm Kiều Tùng, hình như có cả Nguyễn Tử Lộc, và đứa em út trong bọn, Nguyễn Đạt (gọi là em út, vì nhà thơ này là em ruột Nguyễn Nhật Duật), nghĩa là hầu hết anh em trong nhóm Tập San Văn Chương. Khi cả bọn xúm nhau làm tờ báo, chỉ có Joseph Huỳnh Văn,"Tổng Thư Ký" tòa soạn, mới đủ tư cách mang "cẩm nang võ công của Trương Tam Phong, tổ sư phái Võ Đang", nói nôm na, những bài Cầm Dương Xanh của anh, tới "Thiếu Lâm Tự", Bắc Đẩu Võ Lâm, để đổi lấy một cách đọc bí kíp/văn bản: Hãy đọc ở độ thấp nhất, mức độ ABC, của nó.
Tôi chỉ còn giữ được một kỷ niệm về Đỗ quân, về Nguồn Nước Ẩn, khi cuốn sách được xuất bản, thời gian tôi đang phụ trách trang Văn Học Nghệ Thuật cho một nhật báo. Bèn viết bài giới thiệu.
Phải nói rõ một điều: Đỗ Long Vân, cũng như tôi, và nhiều người khác nữa, đều có chung một số ông thầy. Và cái trường phái võ học/văn chương đang thịnh hành hồi đó là cơ cấu luận, với những đại gia như Roland Barthes, Claude Lévi-Strauss... Khi đọc Nguồn Nước Ẩn, trí óc tôi còn tràn ngập những hình ảnh, những chiêu thức phê bình văn chương, thí dụ như, phê bình là siêu-ngôn ngữ, phê bình là một bản văn (choàng, cover) trên một bản văn, là sáng tạo của sáng tạo... Nói tóm lại, tôi không đọc tác phẩm của Đỗ quân, mà chỉ lo ca tụng nguồn võ công đã sản xuất ra một chiêu thức kỳ tuyệt như thế.
Vẫn là câu chuyện Cửu Dương Chân Kinh, của Thiếu Lâm, và võ công của Trương Tam Phong, tổ sư Võ Đang. Tuy thoát thai từ Cửu Dương Công, nhưng Miên Chưởng, Thái Cực Quyền/Kiếm... là hoàn toàn do Trương Tam Phong tổ sư sáng tạo ra. Theo nghĩa đó, Cửu Dương thần công chỉ đạt tới mức siêu việt của nó, qua nhân vật Vô Kỵ, người mang trong mình tất cả những võ công chính tà: Cửu Dương/Càn Khôn Đại Nã Di. Nếu không có Trương Tam Phong, không có Cửu Dương Công, bởi vì nó sẽ mục nát trong Tàng Kinh Các, hay mãi mãi "ở trong dầu", tức là trong bụng một con vượn.
Đây một chân lý văn chương/võ học, theo ý nghĩa của Borges, khi ông viết về Kafka: mỗi nhà văn phải sáng tạo ra những tiền thân của riêng người đó. Bản thân Borges ảnh hưởng nặng nề Kafka, nhưng giữa những ngụ ngôn của ông, và của Kafka là một khoảng cách vời vợi.
Buổi sáng đó, Đỗ quân rời núi, tới chùa (quán Cái Chùa, ở đường Tự Do, Sài-gòn); khi một người nào đó, cùng ngồi bàn, nhắc tới bài điểm sách, và cho rằng, đây là những lời khen tác giả Nguồn Nước Ẩn, ông nhìn tôi, cười: Bạn ơi, bạn đâu có khen tôi, mà là khen Roland Barthes!
Tatyana Tolstaya, trong một bài tưởng niệm nhà thơ Joseph Brodsky, có nhắc đến một cổ tục của người dân Nga, khi trong nhà có người ra đi, họ lấy khăn phủ kín những tấm gương, sợ người thân còn nấn ná bịn rịn, sẽ đau lòng không còn nhìn thấy bóng mình ở trong đó; bà tự hỏi: làm sao phủ kín những con đuờng, những sông, những núi... nhà thơ vẫn thường soi bóng mình lên đó?
Chúng ta quá cách xa, những con đường, những sông, những núi, quá cách xa con người Đỗ Long Vân, khi ông còn cũng như khi ông đã mất.
Qua một người quen, tôi được biết, những ngày sau 1975, ông sống lặng lẽ tại một căn hộ ở đường Hồ Biểu Chánh, đọc, phần lớn là khoa học giả tưởng, dịch bộ "Những Hệ Thống Mỹ Học" của Alain. Khi người bạn ngỏ ý mang đi, ra ngaòi này in, ông ngẫm nghĩ rồi lắc đầu: Thôi để cho PKT ở đây, lo việc này giùm tôi...
*
Car si la musique en soi est étrangère au bien et au le mal, elle se déploie, indifféremment semble-t-il, dans la sphère du divin comme dans celle de l'infernal. Doktor Faustus, le grand roman musical dans lequel Thomas Mann interroge et dénonce le voisinage entre esthétisme et barbarie, s'inscrit sur le fond apocalyptique du nazisme et de la Seconde Guerre mondiale; de manière éminemment signifiante, Adrian Leverkühn a signé un pacte avec le diable, mais sa musique - exigeante, somptueuse et foudroyante- se joue du bien et du mal, elle se meut en sa propre sphère.
*
TCS đã ký bản hợp đồng với... Quỉ, nhưng âm nhạc của ông, như mọi âm nhạc, vốn vượt khỏi ngưỡng xấu tốt, thiện ác, cho nên được miễn nhiễm?
Nhờ vậy đám Yankee mũi tẹt cũng thưởng thức "được", nhạc của ông, hay là, với chúng, nhạc của ông cũng là một thứ "chiến lợi phẩm"?
Bởi vì âm nhạc, tự thân, thì xa lạ với thiện và ác, cho nên có vẻ như nó hơi bị vô tư, tha hồ nở rộ ở cả nơi thiên đàng lẫn hỏa ngục...
Ui chao, Gấu này, lại nhớ cái lần phê nhạc TCS ở nơi trại tù Đỗ Hòa. (1)
(1)
Trong tù VC, có lần Gấu đã được nghe Hạ Trắng, tấu bằng một cây khẩu cầm, harmonica, giữa trưa nắng gắt, đói, một thằng cha tù nào đó, bất thình lình, như quá nhớ nhà, nhớ Sài Gòn, lôi cây kèn ra mà gào mà rống, đếch thèm để ý đến lệnh cấm nhạc vàng của quản giáo.
Gấu vừa nghe vài đường kèn, là run rẩy như "con thằn lằn đứt đuôi", trưa nắng gắt, đói như thế, mà cảm thấy "nhẹ tênh". Sau này, nhiều lần nghe ông nhạc sĩ Trần Mạnh Tuấn, nổi tiếng chơi saxo, tấu bài này, vậy mà cũng chẳng thể nào cảm thấy "phê" như lần ở trong trại cải tạo Đỗ Hòa, Nhà Bè.
Hạnh phúc nhất, và cũng đau thương nhất, là lần nghe Tình Nhớ, tại Trung Tâm Ba, Quang Trung.
Hạnh phúc này, Gấu đã từng khoe, nhiều lần rồi, nhưng cứ muốn khoe tiếp. Vả chăng, còn rất nhiều chi tiết, vừa hạnh phúc vừa bi thương, chưa từng kể.
Lần này, chơi xả láng!
Cũng là một cách tưởng nhớ ông nhạc sĩ tài hoa, nhiều đào, "chim thiêng, nhưng mệnh bạc"! (1)
(1) Chim thiêng, ở đây, còn có nghĩa, chim được phong thánh, như chim của Bác!
Dzui thôi mà!
V/v “Chim phong Thánh” này, Gấu nghe một bà dân Ky Tô ra câu đố: Đố mày biết Đức Giáo Hoàng có một món không bao giờ được sử dụng tới, món đó là món gì? Mày mà trả lời được là tao gả con gái cho.
Bà là mẹ của “Hà Cóc Khụ” nick bà cụ TTT ban cho cô con gái thứ của bà. Cô gái ngồi cái đu, trong truyện ngắn Những Con Dã Tràng. Cô còn xuất hiện trong bài viết Một Người Anh của Gấu.
Gấu bèn nghĩ ngay đến con chim của Ngài, bà mẹ vợ hụt bèn vả cho một cái, cấm lảng vảng nơi khu nhà bà, ở đường Cao Thắng, Sài Gòn, nơi có lần Gấu tính bệ bức tượng Đức Bà về đó, để cho cô con gái khỏi mất công mỗi chủ nhật ra Nhà Thờ Lớn dự Thánh Lễ.
Bà giải câu đố: Không phải con chim, mà là cái tên cúng cơm của Đức Giáo Hoàng!
NQT
*
Trở lại chuyện cô Hà. Có lần tôi viết cho cô một lá thư, đại để: Đây là lá thư thứ nhì, bởi vì lá thư thứ nhất kể như không có. Kể như là chuyện anh yêu em, em đã biết rồi, và đã được em chấp nhận. Sau bức thư, một buổi sáng tôi cuốc bộ đến trường Thánh Mẫu ở khu Hoà Hưng chờ đón cô tan học về. Ngày trọng đại, hút đâu cỡ chừng cũng cả gói thuốc lá. Khi tan trường ra, trông thấy tôi, chắc cô cũng có chút bối rối, nhưng thản nhiên kêu xích lô đi một mách, ra ý, ngay cả một bức thư tỏ tình mà anh cũng không viết nổi, nói chi đến chuyện yêu thương, khoan nói chuyện ăn đời ở kiếp.

Một Người Anh

*
V/v nhạc Trịnh, chiến lợi phẩm.
Gấu có một thắc mắc rất ư là tầm phào. Trước 1975, Mẽo ở Miền Nam ưa xài xe Falcon. Vào ngày 30 Tháng Tư, cùng với cuộc bỏ chạy tán loạn, xe Falcon ngổn ngang trên đường phố Sài Gòn, nhất là khu Tòa Đại Sứ Mẽo.
Sau đó, chúng biến mất. Gấu không hiểu chúng đi đâu, vì cũng không thấy chạy ở Hà Nội. Quái thế.
Còn cái chuyện nhạc TCS chiến lợi phẩm, là Gấu được Brodsky gợi ý. Ông được coi những phim Tây phương lần đầu tiên theo kiểu đó, phim nào cũng có dòng chữ, chiến lợi phẩm.

Thành thử nên đổi tên nhạc Trịnh, trước 1975, là phản chiến, sau 30 Tháng Tư, chiến lợi phẩm.
Thế là hết cãi nhau.
*
Nhưng, nói đến chim, mà quên không nói đến lồn[g] thì thật là uổng!
Nhất bên trọng, nhất bên khinh!

Bác Hồ có một con chim
Hỏi thăm chị Định đi tìm cái lông! [cái lồng]

Nhân đây xin giới thiệu bài viết về lồng nhốt chim, liên quan đến giai thoại Tạ Từ.
“Trong nhạc phẩm còn có câu “Khi về son thắm lồng người, thu cánh tạ mây trời” . Câu này có nghĩa là: việc Ánh Hà cùng bố mẹ trở về Hà Nội dưới ách thực dân Pháp khác nào việc chui vào “lồng người” , chui vào “lồng son cóng sứ” (tức lồng đẹp nhốt chim quý hoạ mi), mất hết tự do, chỉ còn biết nhìn ra mây trời để mà nhớ thương, để mà tạ từ mây trời, tạ từ người bạn trai thân thiết Nguyễn Văn Huấn còn ở lại với cuộc kháng chiến.
Vì vậy, hai chữ  “tạ từ” được tôi (tức Tô Vũ) dùng để dặt tên cho nhạc phẩm.
Nhiều ca sĩ không hiểu ý nghĩa hai chữ “lồng người” cho nên đã hát lầm thành “lòng người”.
Nguồn


HERMANN BROCH

Đây có lẽ là bài viết tuyệt vời nhất của Canetti, và càng tuyệt vời hơn nữa, khi áp dụng vào thực tế Mít của chúng ta. Đọc bài này, song song với bài của Sontag viết về Canetti, Mind as Passion, mới lại càng tuyệt.
Tin Văn sẽ đi cả hai bài, trong khi, cùng lúc, tưởng niệm TCS, và tất nhiên, thời của cả lũ chúng ta: Những ngày còn Miền Nam, trước 30 Tháng Tư 1975.
Có thể, đây cũng là tưởng niệm chót của Gấu, cũng nên!
Hơn bẩy bó rồi còn gì nữa!
“Hiền” đi, là vừa rồi!


NMG vs Lưu Vong

Gấu này cứ loay hoay, hì hục, dằn vặt, làm tình làm tội chính mình, với câu hỏi, tại làm sao mà ngay lần đầu đọc NMG, đã dám phán, ông này không thể nào viết truyện dài, và, liệu, những Sông Côn Mùa Lũ, Mùa Biển Động, đã có cơ hội nhìn thấy ánh sáng mặt trời, chính vì câu phán chết người đó ?
Bây giờ, Gấu như mơ hồ nhận ra, tại sao ngày đó đã phán “vừa sai, vừa đúng” như vậy.
NMG thiếu sự tưởng tượng của một nhà văn. Từ đó, không thể viết truyện dài.
NMG quá mê mẩn với Dos, và thờ Dos làm thầy, và viết trường thiên tiểu thuyết, viết sử thi… chỉ là là vì muốn nối gót Thầy!
NMG, dân Bình Định, và còn mang trong người giấc mơ Quang Trung Nguyễn Huệ, thống nhất giang sơn về một cõi, và, nếu dư dả thì giờ, đánh Tầu chơi, đòi lại hai tỉnh Lưỡng Quảng!
Chính là do thiếu tưởng tượng nên NMG bệ ngay nhân vật ngoài đời vô trong tiểu thuyết của mình.
Gấu mường tượng ra điều này, nhân đọc Greene viết về Dickens trẻ.
THE YOUNG DICKENS
…. It is a mistake to think of Oliver Twist as a realistic story: only late in his career did Dickens learn to write realistically of human beings; at the beginning he invented life and we no more believe in the temporal existence of Fagin or Bill Sykes than we believe in the existence of that Giant whom Jack slew as he bellowed his Fee Fi Fo Fum. There were real Fagins and Bill Sykes and real Bumbles in the England of his day, but he had not drawn them, as he was later to draw the convict Magwitch; these characters in Oliver Twist are simply parts of one huge invented scene, what Dickens in his own preface called “the cold wet shelter-less midnight streets of London”. How the phrase goes echoing on through the books of Dickens until we meet it again so many years later in “the weary western streets of London on a cold dusty spring night” which were so melancholy to Pip. But Pip was to be as real as the weary streets, while Oliver was as unrealistic as the cold wet midnight of which he formed a part.”
Thật sai lầm khi coi Oliver Twist là một câu chuyện hiện thực. Chỉ đến cuối đời viết Dickens mới chịu cắp sách đi học cách diễn tả theo kiểu hiện thực [xạo hết chỗ nói] về lũ người lũ ngợm; ở vào thuở thoạt đầu, ông phịa ra cuộc đời… ; những nhân vật ở trong Oliver Twist giản dị chỉ là những phần của một sàn diễn rộng lớn được tác giả phịa ra, điều mà Dickens trong lời Tựa của chính ông cho cuốn sách của mình gọi là “những con phố khuya lạnh lẽo, ướt át, không nơi trú ẩn của London”. Ôi chao, câu văn cứ rền rĩ  xuyên suốt những tác phẩm của ông, cho tới khi chúng ta lại gặp lại nó, bao nhiêu năm sau, trong những “con phố phía Tây rã rượi của London, trong một đêm xuân lạnh lẽo, bụi bặm”, buồn ơi là buồn với Pip. Nhưng Pip thì thực, y như cái đêm lạnh lẽo bụi bặm mà anh ta đang buồn bã cùng với nó, trong khi Oliver thì không thực như là nửa đêm lạnh lẽo ướt át mà thằng bé cũng đóng góp cái phần ‘mưa ở đâu về như vết thương’,
của nó vào trong đó.

Thần sầu!
Đọc, lại cám cảnh thằng cu Gấu nhà quê, mồ côi, ngày nào trong Hà Nội.
*
Q đi lễ, và hỏi tôi có thể đi cùng, tôi lắc đầu, gọi mua một gói lạc rang. Người đàn ông làm tôi nhớ tới người Tầu già bán lạc rang ở bờ hồ Hà Nội. Tôi có nhiều kỷ niệm về thành phố nhỏ bé và cũ kỹ đó. Nhà tôi ở Bạch Mai, gần ngay bên đường xe điện. Tôi thường tinh nghịch để những viên sỏi nhỏ lên trên đường sắt, rồi hồi hộp chờ chuyến xe chạy qua. Suốt thời thơ ấu, tôi bị chiếc xe điện mê hoặc. Một lần trốn vé xe, tôi cùng một thằng bé đánh giầy ngồi ở cuối tầu, nơi dùng để nối hai toa xe lại với nhau. Thằng bé đánh giầy nói, nó thường ngồi như vậy, ngay cả khi có tiền mua vé. Hôm đó trời lạnh, tôi đội một chiếc béret dạ đen, một tay nắm vào thanh sắt, một tay cầm cặp sách vở. Thằng bé đánh giầy đầu tóc bù xù, tay cầm hộp đồ nghề, tay cầm khúc bánh mì nhai ngồm ngoàm. Những người đi đường nhìn chúng tôi với vẻ buồn cười, ngạc nhiên. Lúc đầu tôi rất sợ, nhưng dần dần cảm thấy thích thú. Bỗng nhiên, không hiểu sao, tôi nhớ lại được một đoạn nhạc tôi đã quên từ lâu, và tôi hát nho nhỏ, đầu lắc lư theo điệu nhạc. Thằng bé đánh giầy nhìn tôi cười ngặt nghẽo. Tôi tức giận, hát thật lớn, vừa hát vừa đập vào thành xe ầm ầm. Bỗng tôi cảm thấy đầu lành lạnh. Tôi ngửng lên, và thấy người soát vé đang giận dữ nhìn tôi, tay cầm chiếc mũ dạ. Thằng bé đánh giầy vẫn tiếp tục cười, tôi ngưng hát, và ngưng đập vào thành xe. Cuối cùng không biết nghĩ sao, người soát vé vứt chiếc dạ xuống đường. Xe lúc đó đang chạy nhanh. Tôi cúi nhìn xuống con đường nhựa chạy vùn vụt, tôi sợ hãi không dám nhảy xuống. Tôi chợt nghĩ tới đến cha tôi. Tôi nhìn thằng bé đánh giầy ra vẻ cầu cứu. Nó nhẩy xuống, nhặt chiếc mũ dạ, đội lên đầu, rồi nhìn tôi nhe răng cười, tỏ vẻ chế nhạo. Sau đó, tôi thỉnh thoảng gặp thằng bé đánh giầy quanh quẩn tại khu tôi ở, đầu đội chiếc mũ dạ của tôi. Mỗi lần thoáng thấy nó, là tôi vội vã lẩn tránh, chỉ sợ nó nhận ra tôi.
Những con dã tràng


Hot
Đào Hiếu, từ “Lạc Đường” đi vào “Mạt Lộ”
Gấu kính nể nhất, là cái giọng viết của Đỗ Văn Minh. Tuyệt. Không một chút lên giọng. Thật lịch sự, thật "elegant" [chữ này Gấu thuổng của PNH].
Viết như thế thì DH phải đi một đường, ông viết làm chi, chứ tại sao lại, ông thắc mắc làm chi, cho mệt?
Tks DVM. NQT

Dọn Kít

Là Quỉ hay là Thượng Đế?
Biển và Chim

“… chi tiết rất quan trọng trong tiểu thuyết. Nhưng đưa quá nhiều chi tiết mà chưa được tổ chức một cách chặt chẽ như Bùi Ngọc Tấn, theo anh không hẳn đã là một thành công. Thanh Sơn cũng nhấn mạnh, sự ngồn ngộn của chi tiết khiến độc giả rất khó đọc, rất mệt để đọc đến những dòng cuối cùng.”
Đây là lời phán nhà phê bình NTS, trong buổi họp chi bộ tại nhà xb Nhã Nam, để lên đề án, ra nghị quyết… đối với tác phẩm Biển và Chim của Bùi Ngọc Tuấn. và nhà văn của chúng ta bèn tự kiểm điểm liền tù tì, đây cũng là một mối băn khoăn của chính tôi, trong khi viết dưới ánh sáng của Đảng!
Gấu, nhà văn, cũng đã băn khoăn về vấn đề chi tiết, là Thượng Đế, và là Quỉ ở trong văn chương. Vấn nạn nằm ở đây là, những chi tiết ở trong Biển và Chim, là Quỉ hay là Thượng Đế?
[If not God, the devil lies in the detail. Câu này của Beardsley, Steiner trích dẫn, trong Errata]
Đây cũng là vấn đề làm nhức đầu Steiner. Biện chứng về cái một/cái hơn một, the one/the many. Về cái vẫn vậy, cái khác biệt, the same/the different....
Gấu sẽ trích dẫn ông, ở hai tác phẩm liên quan tới buổi họp chi bộ tại trang Tin Văn, bữa nay!
Note: Gérard Genette có hai bài viết về đề tài này, thật thú vị, trong Figures I. Vũ Trụ Đảo Điên [L'univers Réversible], viết về Thơ, và Không tưởng văn chương, [L'utopie littéraire], viết Borges.
Nhẩn nha, Gấu chơi luôn cả hai!


Sao bac ghet talawas...?

Kỷ niệm, kỷ niệm
Trăng ơi, cớ sao mà Mi cứ thơ ấu mãi?

Trăng ơi, cớ sao mà Mi cứ thơ ấu mãi?
Đây cũng là một vấn nạn mắc mớ đến Cái Ác.
NMG, khi đọc bài viết của Gấu, dùng làm bài tựa cho tập truyện ngắn của NCK, đã chú ý đến một đoạn ở trong đó, liên quan đến tính tình của tác giả của nó, là NCK, và cùng với NCK, là thứ văn chương giống như vầng trăng thơ ấu mãi của con người.
*
Khi đọc sơ mấy truyện anh đưa, (Trăng Ơi Thơ Ấu Mãi], tôi chợt nẩy ra ý nghĩ, hay là mình thử đề nghị với anh, với người đọc, một cách viết "kép", theo kiểu Faulkner, khi viết Những Cây Cọ Dại, The Wild Palms: hai truyện viết song song, xen kẽ, bề ngoài chẳng có chi liên hệ.

Ở đây, có quá nhiều liên hệ. Hai đứa cùng thời, cùng bị cuộc chiến hành hạ, và khi thoát ra, mỗi đứa một cách. Và tôi cũng tin rằng, khó có ai còn lành lặn, sau một cuộc chiến như thế. Sau những ngày học tập dài như thế. Tuy vậy, vết thương của anh, có vẻ không nặng nề, qua những truyện ngắn kế bên. Anh mang theo vầng trăng qua những trại tù, và nó cứ thơ ấu mãi, như một cậu học trò ở trong anh. Cái cậu học trò này, ngày xưa, chỉ mong được cô giáo gõ cho vài cái vào tay, sau này bắt chước Anatole France, nhẹ nhàng an ủi cô giáo, khi cô nằm trên giường bệnh: "Hãy ngủ đi, ngày mai chúng ta sẽ lên đường." Cậu học trò, không có những bước chân sáo, không đi qua vườn Lục Xâm Bảo, nhưng ngày ngày mang cơm cho cô giáo của mình. Cậu có một ông bố ở trong quân đội, có một bà mẹ phải tần tảo nuôi con... Tôi không hiểu, tại sao cậu lại có mãi một vầng trăng thơ ấu, như thế, trong một cuộc sống như thế. Sau một cuộc chiến như thế. Đây là một phép lạ của những bài toán hình học, của những giờ học ngoại ngữ chăng? Nếu cậu không gặp một cô giáo như thế, liệu cậu có tìm ra vầng trăng "thề" thơ ấu mãi hay không? Và cái bài học văn chương, phải chăng nó cũng bắt nguồn từ đó?
Trăng ơi thơ ấu mãi
Nhưng cái hồn của văn chương Miền Nam, mà Gấu có lần phán ẩu, nằm trong nhạc sến, liệu nó còn nằm ở trong cái vầng trăng thơ ấu mãi?
*
"Đó là một điều cô dậy em, tâm hồn của em. Cô dậy em rất nhiều điều. Trước tiên, cô đã nhốt em trong nụ cười của cô, như người học trò trong lớp học tháng tám. Rồi cô trả em về thế gian, với bổn phận viết về nó, như nó là: đen rợn người ở bên trên, trong trắng nhiệm mầu ở bên dưới .
"C'est une chose que tu m'as apprise, mon âme. Tu m' as appris beaucoup de choses. Tu m'as d'abord enfermé dans ton rire comme un écolier dans la classe au mois d'aout, puis tu m'as rendu au monde avec pour devoir de l'écrire comme il est: affreusement noir en dessus, miraculeusement pur en dessous."

(Christian Bobin, L'inespérée).
Đen một cách ghê rợn, phải chăng là những ngày dài, trước, trong, và sau trại tù?
Trong trắng nhiệm mầu, là vầng trăng thơ ấu mãi?
NQT
Christan Bobin, cũng là một phát giác tuyệt vời của Gấu, tại một thư viện Toronto, ở cái khu dành riêng cho sách Tiếng Tây của nó. Văn chương của tay này, thật ứng vào cái câu văn chương bèn cứ thơ ấu mãi, mà câu trên là một ví dụ.
Gấu khám phá Christian Bobin, đúng là cái cuốn Cô Bạn Không Làm Sao Mà Dám Ao Ước, và đúng cái câu trên.
Bèn bệ ngay cuốn sách về nhà!
Thú vị làm sao, là sau này, Gấu có một độc giả, rất quí trang Tin Văn, và cũng rất mê Bobin.
Bà hất hàm hỏi, Gấu mà cũng đọc Bobin ư, tôi có đủ sách của ông ta, muốn đọc thì tôi gửi cho mà đọc.
Tks again both of U. NQT


Kỷ niệm, kỷ niệm

Nếu bạn chỉ đọc bài TTT viết về MT, khi ông nằm xuống, thì mới chỉ biết một nửa tình cảm của ông, dành cho Hà Nội, khi ra khỏi tù VC.  May sao, chúng ta còn đọc được bài của Ninh Hạ, tả cái cảnh tác giả và nhà thơ tất tả thăm Hà Nội, nhân một cơ hội thật là hãn hữu, và tuyệt vời.
“Khi từ Phú Thọ ra, ghé lại Hànội chờ tầu về Nam, lúc chiều tối đứng trên ga Hàng Cỏ, trông xuống phố Hàng Lọng, phố Trần Hưng Đạo sâu hoắm bóng đêm rét lạnh của một ngày cuối năm, tôi thầm nhắc thành tiếng bên tai "... Nhìn xuống vực thẳm... dưới ấy..", câu của anh vẳng ngân như là một câu thơ…
TTT: Trong đất trời
“Thưa cán bộ thiếu mất một anh”. “Bỏ mẹ! Anh kiểm lại xem. Lúc lên tàu tôi đếm đủ. Không nhẽ rớt xuống đường. Ðếm lại!”. “Thưa cán bộ đúng là thiếu một”. “Có biết thiếu ai không?” “Thưa biết”. Ai?” “Nguyễn Thiệu Hùng”. Tôi vọt miệng nói tiếp “Tôi nghe nói anh ấy có bà cô ở đối diện ga. Chắc anh ấy tranh thủ ghé thăm. Cán bộ đừng lo. Ðúng giờ tàu vào Nam chắc chắn anh ấy sẽ có mặt thôi”. Tôi biết rõ vì trước khi lên tàu Mai Trung Tĩnh có nói với tôi. “Vô kỷ nuật. Ông nại cho vào tù ở thêm cho biết thế nào là nễ độ”. Tay cán bộ răn đe. “Anh đi ngay ra khỏi ga, túm đầu anh ấy về ngay cho tôi”. “Tôi không rành đường sá, nhỡ lạc không về kịp chuyến tàu thì bỏ bu”. “Ði. Tôi bảo đi là cứ đi. Ðừng nôi thôi”. “Hay là cán bộ cho anh Dư Văn Tâm cùng đi. Anh ấy là dân Hà Nội chính cống”. “Ðược. Nhớ tìm được thì về ngay nhé. Khẩn trương!”. “Vâng!”. Tôi chạy đến chỗ ông Thanh Tâm Tuyền. “Mình đi thăm Hà Nội ba sáu phố phường”. “Ði thế nào được. Chúng nó giam lỏng”. “Cứ theo tôi. Thế mới tài!”. Ông không tin. Tôi cười kể cho ông nghe. Ông vội vã khoác chiếc áo măng tô màu đen. Ðội nón công nhân kiểu Lenin. Nón này là bảo vật tôi để lại cho ông kỷ niệm chia tay. Không ngờ hai anh em cùng được tha. “Anh đem tôi đi tham quan Hà Nội”. “Ông Hùng thì sao?”. “Dẹp qua một bên. Lo bò trắng răng. Ðến giờ tàu chạy thì ông ấy mò về”.
Thanh Tâm Tuyền hóa xác. Thường ngày thong thả chậm chạp, giờ đi như chạy. Ðường phố dường như quá quen thân cho dẫu bao tang thương biến đổi. Ông bươn bả đi trước, tôi chạy theo. Không nói với nhau nhưng tôi biết ông đang xúc động khi trở về nơi chốn cũ. Tấp vào một quán phở bên kia đường để thưởng thức tô phở Bắc chính hiệu. Gọi mỗi đứa một cốc cà phê. Thế là nhất. Mấy năm đói khát thèm ăn, tô phở làm chúng tôi thất vọng đã đành mà ông chủ quán, thuộc loại bộ đội giải ngũ, trong bộ đồ lính cũ, lại càng làm cho tôi phát ngấy. “Phở ở đây mới là phở. Trong
Nam các anh nàm sao sánh được”. Tô phở phất phơ hai lát thịt nhỏ, mỏng dính. Nước dùng bột ngọt đậm chát. “Phét. Chúng mày lấy đâu ra thịt. Bố khỉ!” Tôi chửi thầm. “Ông đói dài mấy năm còn chả thấy ngon huống hồ...!”. “Các bác được Đảng khoan hồng nhớ về lao động...” Tôi nói đểu: “Thôi nhờ ông anh tốp lại! Mấy năm nghe chán rồi. Biết rồi khổ lắm nói mãi! Vào đây đớp phở mì chính (bột ngọt) chứ không phải nghe ông lên lớp. Tính tiền!”.
Ninh Hạ
Như vậy chỉ có Gấu này, về, thật là huy hoàng!
Và cũng một phần, là nhờ NTS và đồng bọn.

Lên xe tiễn em đi , chưa bao giờ buồn xế!
Gấu là người đầu tiên hát, như trên, chưa bao giờ buồn xế, những ngày bài hát Phạm Duy phổ nhạc thơ Cung Trầm Tưởng vừa mới ra lò và ngay lập tức, chinh phục cả Sài Gòn.
Cả nhà bật cười.
Nhà ở đây, là nhà bà cụ C.
Ông anh cũng bật cười.
*
Thời gian đó, cụ C cũng đã mua phiá bên trên lầu, C. có phòng riêng. Ông anh có phòng riêng. Cụ còn nuôi thêm hai cô người làm. Hai chị em. Chắc cũng chẳng cần tới hai người, nhưng nuôi cô chị, chẳng lẽ bỏ cô em, đại khái vậy.
Hai cô xẩm. Cứ mỗi lần, vào buổi tối, Gấu ghé, thường là bụng đói, và cô chị biết liền, và bèn lấy cơm nguội ra cho Gấu ăn.
Thế rồi Gấu mê, cả cơm nguội, lẫn người ban cho mình cơm nguội.
Cô biết. Và có lẽ cũng thương Gấu!
*
Cụ nuôi cô chị trước, ít lâu sau, nuôi thêm cô em. Cô em, nhìn cái cảnh thằng cu Gấu tới, cô chị lăng xăng săn sóc cái bụng đói, hai con mắt đói, chắc là hiểu. Thành thử cô em đối với Gấu rất ư là tự nhiên, cứ như là người trong gia đình, đây là anh Hai của mình mà! Có những lần Gấu tới, không có cô chị, chắc là về nhà thăm gia đình, thế là cô em thay cô chị, lo săn sóc anh Hai, còn thân mật hơn cả cô chị, và chẳng hề có một tí mờ ám nào cả.
Gấu cũng thế.

Cho tới một bữa, Gấu, mắt lé, nhìn cô em ra cô chị, và lỡ dại cầm tay. Thế là xong.
*
Lần về thăm cụ, vào năm 2000, Gấu vẫn canh cánh trong lòng, về hai cô xẩm. Hỏi thăm, cụ nói, tụi nó đi nước ngoài hết cả rồi. Gấu mừng quá. Nhưng một lát sau, cụ nói, tao nhớ lộn. Hai đứa nó vẫn còn ở Việt Nam.
*

Khủng khiếp thay là trí tưởng tượng của Gấu! Vừa nghe đánh ầm một tiếng, quả pháo đầu tiên từ chi khu bắn đi làm mặt nước sông rung lên bần bật, là cái đầu của Gấu cũng ngộ ra là, mình yêu cô bạn, phải như thế, đúng như thế, nếu không làm sao có chấn động khủng khiếp đến như thế, vào đúng lúc đó ?
Nhưng có thể, cảnh phiên chợ vội vàng thu vén, chờ đêm xuống, giao lại cho VC, đã khiến cho tình cảnh thê thảm thêm lên chăng?

Ui chao, bao nhiêu năm trời, vậy mà đọc Rừng Tràm một phát, là đồng loạt hiện về, phiên chợ chiều Cai Lậy, cây cầu gỗ, và cô bạn, cô bạn….
*
Tôi biết anh còn muốn kể lại, lần đầu tiên anh xuống xe đò, đi lang thang trên con lộ dẫn vào quận lỵ, khi đi ngang cây cầu gỗ, rồi tiếng đạn từ chi khu bắn đi nghe chát chúa bên tai. Đó là lần đầu tiên anh nhận ra chiến tranh có thật, và tất cả những gì anh tưởng tượng về cô bạn đều có thật. Mặt nước sông nhăn nhó để lộ sự giận dữ của thiên nhiên, vẻ gớm ghiếc của số mệnh. Cùng lúc anh nhận ra nỗi đau khổ, sự thông cảm. Sau mặt nạ đầy hăm dọa của dối trá, anh nhận ra một khuôn mặt khác, một cuộc đời khác, đúng không, đúng không?...

Tự Truyện


*

Cuộc đời mỗi người là một cuốn tiểu thuyết.

Simenon trả lời tờ Le Magazine Littéraire, vào năm 1975, được đăng lại trong số đặc biệt về ông, Tháng Hai 2003
Tất cả cuộc hành trình ký giả, văn sĩ.. của Simenon, là để truy tìm con người trần trụi, l’homme nu.
"Ngay từ khi 14, 15 tuổi, tôi đã tò mò về con người ta, và sự khác biệt giữa một người ăn mặc quần áo, và một kẻ trần trụi."
Do muốn trình ra con người trần trụi mà ông viết bài "Phi Châu nói. Đây Phi Châu nói với bạn. Nó nói Đ.M. Cứt. Mẹc Xà Lù, Đồ Bú Dù".
[L'Afrique qui parle. "L'Afrique vous parle, elle vous dit merde"]. Vì bài viết, ông bị tịch thu thông hành, cấm không cho tới Phi Châu. Đối với Simenon, chủ nghĩa thực dân thuộc địa đụng tới phẩm giá của con người.
*
Ông vào nghề quá trẻ. Thiên hướng ư?
Làm gì có chuyện đó. Tôi làm nghề báo, chỉ là tình cờ. Đúng lúc bị mất job, tại một tiệm sách.
Tôi chẳng hề biết một tí gì về báo chí. Vào thời kỳ đó, trong nhà, chỉ có ông bố tôi là đọc báo. Mẹ tôi thì chiếm giữ tầng trệt của tờ báo, tức là nơi đăng ba truyện dài từng kỳ, le feuilleton. Trẻ con chẳng để ý gì đến chuyện chính trị, chẳng để ý gì đến bất cứ chuyện gì, phải nói như vậy. Tôi chẳng bao giờ đọc báo, trừ cái tên tờ báo hàng ngày mua dài hạn của ông via, là hết.
Một bữa, trong lúc đi tìm việc làm, tôi để ý tới cái bảng hiệu của tờ Le Gazette de Liège. Vô, xin gặp chủ bút, một ông rất thanh lịch, râu rậm, mũi đỏ, khá kỳ dị, ông ta nhìn tôi, có vẻ thích thú, hỏi:
Cậu là ai?
Tôi chẳng là ai. Chỉ là một thằng chạy việc tại tiệm sách Gegorges, ở khu phố Nhà Thờ, và vừa bị đá ra khỏi tiệm.
Có ai quen biết để đảm bảo cho cậu không?
Ngoại trừ ông chủ tiệm sách ra đâu có ai nữa?
Nhưng còn gia đình của cậu, bà con của cậu?
Tôi kể tên một số bà con tai to mặt lớn… ông ta nói, tôi biết ông chú của cậu, và cùng trong ban quản trị ngân hàng với ông. Ông làm vài cú điện thoại, và sau cùng bảo tôi:
Bây giờ mình làm cú thử nghiệm. Ngày mai, cậu làm như mình là người phụ trách mục tin “chó cán xe” [chiens écrasés]. Hãy đọc mục tin địa phương, rồi viết theo như vậy.

*

Tại sao ông trở thành tiểu thuyết gia?
Tôi luôn luôn muốn viết tiểu thuyết. Đâu phải một mình tôi muốn như thế. Nhưng với tôi, đây đúng là một cách để tìm kiếm chính tôi. Điều mà tôi gọi là tìm kiếm con người thực sự chỉ là tìm kiếm chính tôi, bởi vì tôi cũng là một trong những con người. Trong khi viết những cuốn tiểu thuyết, tôi có cảm tưởng đến gần được với con người, đi vào trong bộ da của những nhân vật. Có những cuốn tiểu thuyết được viết bởi tiềm thức, nói theo đúng nghĩa đen của từ này. Người viết chui vô bộ da của nhân vật, và chẳng thể biết được, nhân vật sẽ đưa mình đi tới đâu. Người ta đi theo nhân vật ngày này qua ngày khác và