Note:
Gấu biết đến Bei Dao, là qua tờ Văn Học Á Châu, qua
bài thơ Phong Cảnh Trên Không Độ.
Mê quá!
Không Độ, ở đây, theo Gấu, không phải là
tọa độ, mà là điểm chia.
Nên nhớ, con số 0, là con số con người biết đến nó,
chậm nhất. Số, là để đếm, nhưng không đếm được, làm
sao có... số?
Từ khi biết đến con số 0, thì loài người mới bắt đầu
chiêm nghiệm về cô đơn, về hư vô, về.... không
có gì!
It was the seagull that taught
the song to swim
It was the song that found the first wind's source
We shared shards of happiness
Entering the home from different directions
It was father who recognized
darkness
It was darkness that led us to sudden lightning
The weeping door slammed shut
And echo pursued its cries
It was the pen that bloomed in
despair
It was the flower that refused the necessary journey
It was rays of love that awoke
Lighting the landscape above zero
Bei Dao
Phong cảnh ở bên trên con số không
Đó là hải âu
dậy bài ca bơi
Đó là bài ca tìm thấy nguồn gió
Chúng ta chia nhau những
mảnh vụn của hạnh phúc
Về nhà từ nhiều hướng khác nhau
Đó là người cha
nhận ra bóng tối
Đó là bóng tối dẫn chúng ta tới ánh
sáng bất thần
Cánh cửa nức nở đóng
sầm lại
Và tiếng vang đuổi theo tiếng khóc của nó
Đó là cây
viết nở hoa trong chán chường
Đó là bông hoa từ chối một chuyến đi cần thiết
Đó là những tia
tình yêu thức giấc
Soi sáng phong cảnh ở trên con số không
Bạn đọc Tin Văn đã
đọc bài thơ trên, qua bản tiếng Anh & tiếng Việt của GCC.
Bi giờ vớ được nguyên bản tiếng Tầu, và 1 bản dịch
tiếng Anh khác đi kèm:
And the whole town is encased in ice,
Trees, walls, snow, as if under glass.
Timidly, I walk on crystals,
Gaily painted sleds skid.
And over the Peter of Voronezh-crows,
Poplar trees, and the dome, light green,
Faded, dulled, in sunny haze,
And the battle of Kulikovo blows from the slopes
Of the mighty, victorious land.
The poplars, like cups clashed together,
Roar over us, stronger and stronger,
As if our joy were toasted by
A thousand guests at a wedding feast.
But in the room of the poet in disgrace,
Fear and the Muse keep watch by turns.
And the night comes on
That knows no dawn.
[in Anna Akhmatova, Poet and Prophet, by
Roberta Reeder]
VORONEZH
(To Osip Mandelstam)
The city is caught in the grip of ice-
Trees, walls, snow, are as under glass.
Over crystals, I and the patterned sleighs
Go our separate, unsteady ways.
And above St. Peter's steeple--crows,
And poplars-a light-green vault that glows-
Blurred, lackluster, in the sunny dust.
The triumphant landscape blows into thought
This is where Kulikovo was fought.
And the poplars like wineglasses raised in a toast
Suddenly ring out more clearly above us.
As though at a wedding the assembled host
Were drinking our union to show how they love us.
But Fear and the Muse in turn guard the place
Where the banished poet has gone.
And the night that comes with quickened pace
Is ignorant of dawn.
1936
Osip Mandelstam: 1891-1939, noted Russian poet,
arrested twice, died in prison.
Kulikovo: great battle against the Tartars, 1378.
[Bản của Lyn Coffin]
VORONEZH
(To
Osip Mandelstam)
Thành phố bị băng giá tóm trọn
Cây, tường, tuyết, dưới thuỷ tinh
Trên lớp pha lê,
Tôi và bạn bè trượt tuyết
Chập choạng, tứ tán
Và ở bên trên gác chuông nhà
thờ St. Peter –
Quạ, bạch dương, ánh sáng xanh rực rỡ
Nhạt nhoà dần đi, lờ đờ, trong lớp bụi chiều tà
Khung cảnh chiến thắng thổi 1 đường hoành tráng
dài vào hồi ức
Chính là ở nơi đây trận chiến Kulikovo
đã xẩy ra
Và bây giờ hàng cây bạch dương ở
bên trên
Như những người khách quí
Cùng tham dự 1 buổi tiệc cưới
Cùng nâng chén chúc tụng
Như cùng muốn nói
Chúng yêu chúng ta biết là chừng
nào.
Nhưng Sợ Hãi và Nàng Thơ, tới lượt họ,
canh gác cung điện
Nơi nhà thơ bị biếm, đọa đày, thất sủng, đã
ra đi
Và đêm – không hề biết rạng đông là
gì –
Bèn mò tới.
Hạn tù lưu đày, tại thành phố trên
đây, của Mandelstam, chấm dứt Tháng Năm 1937. Khi cả hai
vợ chồng trở về lại Moscow, Akhmatova là người đầu tiên
tới thăm họ, và ông chồng hào hứng đi tới đi lui
trong căn phòng, đọc thơ của mình, những bài thơ
mới làm.
Akhmatova cũng đọc thơ của mình, viết về bạn mình.
Thoạt đầu, bài thơ chỉ là mô tả thành
phố trong mùa đông. Nhưng bất thình lình,
mùa đông thần kỳ, ướt át, lâm ly, hoành
tráng với trận đánh “Đống Đa”- nghe nói, Tôn
Sĩ Nghị bỏ cả ấn tín của Tập ban cho làm Trùm xứ
Bắc Kít - bèn trở thành quê kệch, cà
chớn, bố lếu bố láo, với sự thống trị của Trùm Của Mọi
Tên Vẹm, là Xì Tà Lỉn, khi đêm trùm
xuống thành phố và toàn cõi Mít, 1
đêm đếch bao giờ biết rạng đông, buổi mai, sáng sớm
là gì hết, hà, hà!
Bài thơ, ra mắt lần đầu tiên 1940, đếch có
4 dòng chót.
Với xứ Mít, phải đến bây giờ, mới được đọc, qua
trang Tin Văn của tên GCC!
Vợ chồng Mandelstam không được ở thủ
đô quá lâu. Những người như họ phải ở ngoại vi,
cách Moscow 100 cây số!
Note: Do cái còm của vị bằng
hữu FB, v/v con số 4, tò mò, Gấu mò ra 1 bản dịch
khác, cũng bài thơ này, của Roberta Reeder, tác
giả cuốn "Anna Akhmatova, Thi Sĩ & Tiên Tri", thay vì
số 4, thì là, kilometers from the end station of the trams.
Thú vị hơn nữa., bài thơ xuất hiện cùng
thời kỳ với từ Samizdat, và bài thơ là 1
trong số đó. Cũng đúng vào lúc này,
họ được quen Anna Akhmatova, và trở thành "những đứa
trẻ mồ côi" của Bà.
Đoạn này tuyệt lắm.
Brodsky khi đó 22 tuổi. Anh đọc thơ cho bà nghe,
bà có vẻ thích. Còn Brodsky, anh thú
thực, chưa nhận ra tầm vóc của Bà. He says he still did
not quite grasp the full significance of who she was, cho đến 1 ngày,
từ nhà Bà trên đường về bằng xe lửa, anh bất thình
lình hiểu ra. Và thế là ngày nào
cũng cố mò tới, và, mướn ngay 1 cabin ở Komaroso suốt
mùa đông để ngày nào cũng gặp.
Akhmatova viết về Brodsky:
I don’t weep for myself now,
But let me not be on earth to witness
The golden stamp of failure
On this yet untroubled brow.
(II, p. 223)
Tôi không khóc cho chính tôi bây
giờ
Nhưng đừng để cho tôi có ở trên thế gian này
Để chứng kiến cái ấn vàng của sự thất bại
Trên vầng trán chưa vướng u sầu này
The golden stamp: Ý muốn nói tới dấu ấn ngôi
sao trên trán bất cứ 1 tên Do Thái nào,
của Nazi. Bằng tính tiên tri, và đốn ngộ, Anna Akhmatova
đã tiên đoán, Ông Trời Già sẽ làm
1 cú test, về khả năng chịu đòn của Brodsky. Y chang thằng
cha GCC, hà, hà!
Đừng nghĩ Gấu vơ vào. Bài thơ "The Last Rose", Anna
Akhmatova viết tặng Brodsky, chẳng là để tặng BHD ư?
THE LAST ROSE
You will write about us on a slant
J. Brodsky
With Morozova I should bow and obey,
I should rise with the smoke from Dido's pyre,
I should dance with Salome,
And thus be again with Joan in the fire.
Oh Lord! You see how tired one grows
Of resurrection, and dying, and living,
Take it all except this crimson rose-
Let me feel the freshness of the gift it's giving.
1962 Akhmatova
Bông Hồng Cuối
Bạn sẽ viết, nghiêng nghiêng, về
chúng ta J. Brodsky
Với Morozova tôi sẽ cúi
đầu vâng lời
Tôi sẽ bay lên cùng khói từ giàn thiêu
Dido
Tôi sẽ khiêu vũ với Salome
Và rồi lại bắt đầu với Joan trong giàn hỏa
Ôi Chúa ơi! Người cũng biết đấy, ta mệt đến bã người
Với ba chuyện làm xàm phục sinh, và chết, và
sống,
Lấy mẹ hết đi, cha nội, trừ CM –
Hãy để cho ta cảm thấy sự mát rượi của món quà
mà nàng mang tới!
With her usual gift for prophecy and insight, she predicted destiny
would soon test Brodsky’s ability to endure adversity.
One time, in 1962, Bobyshev brought Akhmatova a poem he had written
for with a bouquet of five beautiful roses. It was her birthday, and
she was staying at Kornarovo. Akhmatova mentioned the roses on his next
visit, saying, “Four of them soon faded, but the fifth bloomed extraordinarily
well and created a miracle, almost flying around the rooms.”
Soon the young poets found out what this “miracle” was -Akhmatova
had written poems to them. "The Last Rose" was devoted to Brodsky, "The
Fifth Rose" to Bobyshev, and "Non-existence" to Nayman. The poem to Brodsky
was the one she recited to Robert Frost when he came to see her. In it
she asks God to let her live a simple life and not share the terrible fate
of famous women in history like Joan of Arc and Dido. She opens with an
epigraph containing a line from Brodsky: "You will write about us on a
slant” which appeared when Akhmatova's poem was first published, but disappeared
after Brodsky's trial.
Brodsky had written his poem to her earlier that year:
I did not see, will not see your tears,
I will not hear the rustling of wheels,
carrying you to the bay, to the trees,
along the fatherland without a memorial to you.
In a warm room, as I recall, without books,
without admirers, but there you are for them,
resting your brow on your palm
you will write about us on a slant.
Có 1 sự gần gụi đến là tài tình, ông
Trời sắp đặt khiến Gấu nhận ra mình bà con với Brodsky, hà,
hà!
Trong bài "Để hài lòng 1 cái bóng",
viết để tặng Auden, B. tả cảnh, ở nông trường cải tạo, đọc Auden,
và ngộ ra thơ là cái chó gì, đâu
có khác Gấu, lần đầu tiên nghe “nhạc sến”, đồi trụy
của Ngụy, nào "Ngày mai đi nhận xác chồng", nào
"Thuyền Viễn Xứ", và ngộ ra điều Kafka phán, có thứ âm
nhạc chỉ để hát lên ở địa ngục.
Một cách nào đó, ông Trời cũng thử thách
Gấu, như Brodsky, nhưng gian nan, thê thảm hơn rất nhiều.
Lần đầu tiên được nghe. Đúng như thế, với bản Ngài
mai đi nhận xác chồng. Thuyền Viễn Xứ, tuy là
đã nghe nhiều lần rồi, nhưng lần nghe ở nông trường cải tạo
Đỗ Hòa, khác hẳn mọi lần...
Snow is what it does.
It falls and it stays and it goes.
It melts and it is here somewhere.
We all will get there.
Hàng cũ, mới vồ được.
Tay này Tin Văn đã giới thiệu. Tiếng Tây thần
sầu, rất mê Apollinaire. Noel này đọc thơ mệt nghỉ.
Đâu chỉ ông này, mà còn Mallarmé,
W.S. Merwin, toàn đồ lạc xong. Thế mới lại càng thú.
Mỗi lần ghé tiệm sách cũ là 1 lần nhớ ngày
đầu tới Toronto. Cái shelter đầu tiên, ở ngay kế đó.
Lần đầu gặp lại cô bạn, ở đó... Đó, đó....
Những từ như shelter, asylum seeker..... phải đến khi ra được hải ngoại,
Gấu mới hiểu được chúng.
Bài thơ sau đây, của W.S. Merwin, ở trong cuốn mới vồ được,
"The First Four Books of Poems", nói giùm Gấu cái nghĩa
của từ "shelter".
Shelters, rising into the native air,
And that, though perhaps cold, he is at home there.
Tks. NQT
A Sparrow Sheltering under a Column
of the British Museum
Conceived first by whom? By the Greeks perfected,
By the Romans, the Renaissance, and the Victorians copied.
Almost from the first more massive than our uses
And so indicating something more, the stone rises
Into the clear sunlight rare for a London January.
Why about columns does it seem always windy?
Still, he restores this one to bare use, convenient
For huddling between its base and pediment
Where though the wind still ruffles him it is somewhat broken.
Porches are places of passage; and again
To us they indicate something beyond; to him
It's shape and position in the wind are the column.
And whereas to him the feet of children and scholars
Who pass all day through the merely useful doors
To inquire of the rich uncertainty of their farthing
Are not shaped like danger unless too near, may even bring
Crumbs to offer to a necessity
Which they both conciliate so differently
(He, alive not to limits but presences,
They hungering less for shapes than significances),
Skelton's bird or Catullus's, or even
That pair whose fall figured our need of heaven
Would mean nothing to him, for he would never
Recognize them as now they are
Beyond doors there, where the wind is unknown,
But knows simply that this stone
Shelters, rising into the native air,
And that, though perhaps cold, he is at home there.
MIDNIGHT VERSES
Seven Poems
A mirror dreams only of another mirror,
Silence watches over silence . . .
"Reshka" Một cái gương bèn mơ 1 cái
gương khác
Im lặng căn me im lặng
INSTEAD OF A DEDICATION
I hide in the forest and wander the ocean too,
I'm in enamel, but can be seen without it.
I can probably stand being apart from you,
But as for our meeting, I rather doubt it.
1. PRE-SPRING ELEGY
[Bi Khúc Tiền-Xuân]
. . . toi qui m'a consolée
Gerard de Nerval
[Mi, người an ủi ta]
The snowstorm's abated within the stand of pine,
Silence sang to us as Ophelia might,
Drunk as she was even without wine,
Silence herself sang to us there all night.
And he whom I saw only as I saw my breath
Was betrothed to that silent maid.
He took his leave, then generously stayed.
He stayed with me even unto death.
"Reshka": A poem by Akhmatova written in 1941. This quote is from
stanza 8, the last two lines. Reshka is "tails" in Russian cointossing.
Anna Akhmatova Translated by Lyn Coffin
He stayed with me even unto death.
Thằng khốn sẽ ở với ta, ngay cả khi cái chết mò tới!
Oh sorrow - she half turned around
And eyed the indifferent throng.
Her shawl, almost classical, hung
From her shoulders and turned to stone.
Drunk with pain - voice foreboding to say
Things that burst from her deepest soul:
Acting angry Phedre's role
Rachel used to stand that way.
OSIP MANDELSTAM
TRANS. H. TRACY
To Alexander Blok
I went to see the poet
At exactly twelve noon, Sunday.
It was quiet in the wide room.
Outside, freezing cold.
A raspberry sun
Trailed tatters of blue smoke ...
That sun, like my laconic host,
Cast a slant eye on me!
A host whose eyes
No one can forget;
Best be careful,
Don't look into them at all.
But I do recall how we talked
That Sunday noon, how we sat
Smoking in the tall grey house
By the mouth of the Neva.
Gửi Alexander Blok
Tôi tới gặp nhà thơ
Vào đúng ngọ, Chủ Nhật.
Trong căn phòng rộng, êm ả
Ngoài trời lạnh giá
Mặt trời hồng vạch một đường khói
xanh…
Nó giống vị chủ nhà gọn gàng
Ném 1 cái nhìn xéo
lên tôi!
Vị chủ nhà với cặp mắt
Không một ai có thể quên
được
Tốt nhất, hãy coi chừng
Đừng nhìn vào mắt ông
ta
Nhưng làm sao mà tôi
không nhớ lại
Cuộc trò chuyện bữa trưa Chủ Nhật
đó
Như thế nào chúng tôi
ngồi hút thuốc
Trong căn nhà màu
xám, cao
Kế cửa sông Neva
Note: Bài thơ này,
bản tiếng Anh trong Akhmatova & Thi Sĩ & Tiên Tri,
có tí khác.
Bài của Blok, đáp lại mới thú. Blok làm
nó, nhưng lại nghĩ đến người tình của ông, nữ ca
sĩ Lyubov Delmas.
TO ANNA AKHMATOVA
'Beauty is terrifying.' They'll say to you.
Languidly you throw your
Spanish shawl over your shoulders,
a red rose in your hair.
'Beauty is simple.' They'll say to you,
and you will cover your child
with a check shawl with hands unskilled,
a red rose on the floor.
But you will listen in a haze
to all the words, breaking out around,
and will contemplate sadly
and repeat to yourself about yourself.
'I am not terrifying. I am not simple;
I am not so terrifying to simply
kill, not so simple
that I do not know how terrifying life is.'
Trans R. McKane
Everyman's Library
Note: Bản trong "A. Thi sĩ & Tiên tri", khúc
chót:
Not terrible nor simple am I
I'm not so terribly simple
To kill, not so simple am I
Not to know how terrifying life is
TO ANNA AKHMATOVA
Đẹp thì khủng khiếp. Chúng
sẽ nói với bạn
Bạn sẽ lừng khừng quẳng cái khăn Tây Bán Nhà
lên vai
Một bông hồng đỏ, trên tóc.
Đẹp thì đơn giản. Chúng nói với bạn
Và bạn sẽ choàng cháu bé với chiếc
khăn ca rô
Bằng đôi tay vụng về của mình
Nhưng bạn sẽ mơ màng, lãng đãng nghe, tất
cả những lời nói đó
Và sẽ ngắm nghía mình, 1 cách buồn
rầu
Và lập lại, với mình, về chính mình
Ta đâu có khủng. Ta cũng đâu thèm đơn
sơ, giản dị
Ta không khủng đến giản dị, để giết
Ta không đơn giản đến mức không hiểu
Đời khủng khiếp thê lương như thế nào.
Đọc bài của Simic, thi sĩ nào thì cũng 1 khúc
bút chì, tình cờ làm sao, vớ được bài
thơ của W.S. Merwin, cũng về bút chì - Nguyễn Tuân cũng
có 1 bài về ném bút chì, trong Vang
Bóng 1 Thời, thật là thần sầu –
Bèn chơi luôn.
Trên tờ NYRB có bài điểm cuốn mới ra lò
của Merwin, đọc tuyệt lắm:
Inside this pencil
crouch words that have never been written
never been spoken
never been taught
they're hiding
they're awake in there
dark in the dark
hearing us
but they won't come out
not for love not for time not for fire
even when the dark has worn away
they'll still be there
hiding in the air
multitudes in days to come may walk through them
breathe them
be none the wiser
what script can it be
that they won't unroll
in what language
would I recognize it
would I be able to follow it
to make out the real names
of everything
maybe there aren't
many
it could be that there's only one word
and it's all we need
it's here in this pencil
Someone is harshly coughing on the next floor,
Sudden excitement catching the flesh of his throat:
Who is the sick one?
Who will knock at the door,
Ask what is wrong and sweetly pay attention,
The shy withdrawal of the sensitive face
Embarrassing both, but double shame is tender
-We will mind our ignorant business, keep our place.
But it is God, who has caught cold again,
Wandering helplessly in the world once more,
N ow he is phthisic, and he is, poor Keats
(Pardon, 0 Father, unknowable Dear, this word,
Only the cartoon is lucid, only the curse is heard),
Longing for Eden, afraid of the coming war.
The past, a giant shadow like the twilight,
The moving street on which the autos slide,
The buildings' heights, like broken teeth,
Repeat necessity on every side,
The age requires death and is not denied,
He has come as a young man to be hanged once more!
Another mystery must be crucified,
Another exile bare his complex care,
Another spent head spill its wine, before
(When smoke in silence curves
from every fallen side)
Pity and Peace return, padding the broken floor
With heavy feet.
Their linen
hands will hide
In the stupid opiate the exhausted war.
Delmore Schwartz
Note: Anh già ho dữ quá, sợ không qua khỏi
con đông lạnh giá này!
Một tên nào đó
ho dã man như trước đây
Một tên nào đó ho tàn nhẫn ở tầng kế
Một cú sảng khoái bất thần cào cổ họng hắn
ta
Tên bịnh nào thế?
Ai gõ cửa thế?
Có gì trục trặc, một giọng dịu dàng cất
lên
Cái nhìn bẽn lẽn rút lui cùng bộ
mặt khả ái
Có tí bối rối kèm theo
-Không có chi đâu…
Nhưng đó là Thằng Chả,
Thượng Đế
Còn ai trồng khoai ở chốn này này?
Hắn lại ho
Lang thang thế giới, vô vọng, một lần nữa
Bây giờ, hắn lao phổi, và hắn ta là Keats
tội nghiệp
(Tha lỗi cho con, Cha, Kẻ Đáng Yêu chẳng ai biết,
từ này,
Chỉ sáng suốt, trong hí họa, chỉ nghe được, khi
trù eỏ)
Hoài vọng Nước Chúa, sợ hãi cuộc chiến sắp
tới.
Quá khứ, cái bóng khổng lồ như hoàng
hôn, chạng vạng
Con phố chuyển động với xe cộ trơn trượt
Những tòa nhà cao, khấp khểnh như hàm răng
gẫy bể
Lập lại sự cần thiết, từ mọi phiá
Tuổi đời đòi hỏi cái chết và chẳng bao giờ
bị từ chối
Hắn ta tới, như 1 tên trai trẻ, để được treo cổ một lần
nữa
Một bí mật nữa phải được đóng đinh thập tự
Một lưu vong khác bóc trần sự âu lo chăm
sóc phức tạp của nó
Một cái đầu kiệt quệ làm tràn ly rượu, trước
đó
(Khi khói, trong im lặng, lượn lờ theo mọi phía
sa đọa)
Thương Hại và Bình An trở lại, với bước chân
nặng nề trên sàn nhà
Những bàn tay sô gai,
sẽ giấu
trong xì ke ngu đần,
cuộc chiến mệt nhoài.
Note: Bài thơ này, và tác giả của
nó, làm GCC nhớ tới Hoàng Trúc Ly của Mít.
Cũng 1 thiên tài thi ca, cũng chết trẻ, vì
ghiền.
Và tất nhiên, còn làm nhớ cuộc chiến
mệt nhoài!
Bàn của Gấu,
hè đường Lê Thánh Tôn, nơi người
bộ hành qua đường.
Cái Honda
thường dựng trên hè đường, đầu chiếc xe tải...
manhhai
SAÏGON - Rue
Catinat
đường Catinat, nơi
ngã tư Lê Thánh Tôn - Đồng Khởi ngày
nay
Avec
le salon de thé "La Pagode" sur la droite !
The
labyrinth has vanished. Vanished also
those orderly avenues
of eucalyptus,
the summer awnings,
and the watchful eye
of the ever-seeing
mirror, duplicating
every expression on
every human face,
everything brief and
fleeting. The stopped clock,
the ingrown tangle
of the honeysuckle,
the garden arbor with
its whimsical statues,
the other side of
evening, the trill of birds,
the mirador, the lazy
swish of a fountain,
are all things of
the past. Things of what past?
If there were no beginning,
nor imminent ending,
if lying in store
for us is an infinity
of white days alternating
with black nights,
we are living now
the past we will become.
We are time itself,
the indivisible river.
We are Uxmal and Carthage,
we are the perished
walls of the Romans
and the vanished park,
the vanished park
these lines commemorate.
-A.R.
J.L. Borges: Poems
of the Night
Gone was the labyrinth. Lost
The eucalyptuses so well aligned,
The summer awnings and the mirror’s
Incessant vigil, echoing
Every expression of every human face,
All their fleetingness. The stopped
Clock, the tangled honeysuckle,
The arbor, the frivolous statues,
The other end of the evening, the chirping,
The observation deck and the fountain’s idleness
All are things of the past. Or are they?
If there was no beginning and there’s no end in sight
If an infinite sum is what awaits us
Of days so white and nights so dark,
Then we already are the past we’ll be.
We are the time, the invisible river,
We are Uxmal, and Carthage, the Roman’s
Rubbed-out wall and the lost
Park these verses celebrate.
Nhớ là đã có bản tiếng Mít
CAFÉ
Of those at the table in the cafe
where on winter noons a garden of frost glittered on windowpanes
I alone survived.
I could go in there if I wanted to
and drumming my fingers in a chilly void
convoke shadows.
With disbelief I touch the cold marble,
with disbelief I touch my own hand.
It-is, and I-am in ever novel becoming,
while they are locked forever and ever
in their last word, their last glance,
and as remote as Emperor Valentinian
or the chiefs of the Massagetes, about whom I know nothing,
though hardly one year has passed, or two or three.
I may still cut trees in the woods of the far north,
I may speak from a platform or shoot a film
using techniques they never heard of.
I may learn the taste of fruits from ocean islands
and be photographed in attire from the second half of the
century.
But they are forever like busts in frock coats and jabots
in some monstrous encyclopedia.
Sometimes when the evening aurora paints the roofs in a poor
street
and I contemplate the sky, I see in the white clouds
a table wobbling. The waiter whirls with his tray
and they look at me with a burst of laughter
for I still don't know what it is to die at the hand of man,
they know-they know it well.
Warsaw, 1944
Czeslaw Milosz
Café Trieste: San Francisco
by Joseph Brodsky
to L.G.
To this corner of Grant and Vallejo
I’ve returned like an echo
to the lips that preferred
then a kiss to a word.
Nothing has changed here. Neither
the furniture nor the weather.
Things, in one’s absence, gain
permanence, stain by stain.
Cold, through the large steamed windows
I watch the gesturing wierdos,
the bloated breams that warm
up their aquarium.
Evolving backward, a river
becomes a tear, the real
becomes memory which
can, like fingertips, pinch
just the tail of a lizard
vanishing in the desert
which was eager to fix
a traveler with a sphinx.
Your golden mane! Your riddle!
The lilac skirt, the brittle
ankles! The perfect ear
rendering “read” as “dear.”
Under what cloud’s pallor
now throbs the tricolor
of your future, your past
your present, swaying the mast?
Upon what linen waters
do you drift bravely toward
new shores, clutching your beads
to meet the savage needs?
Still, if sins are forgiven,
that is, if souls break even
with flesh elsewhere, this joint,
too, must be enjoyed
as afterlife’s sweet parlor
where, in the clouded squalor,
saints and the ain’ts take five,
where I was first to arrive.
-from To Urania
Chờ Noel, bèn về lại Quán Chùa, gặp bạn
quí ngày nào:
“we are already the past we’ll be."
"Chúng ta đã là Quán Chùa
ngày nào chúng ta sẽ".
MT trước khi chết hỏi "Cậu" Dũng:
Tới Ký Con chưa?
Ký Con là nơi có tòa soạn Sáng
Tạo
1985. Geneva. Borges is
back in the city he spent his youth in, but this trip is his last.
He publishes Los Conjurados (The Conspirators). This work, which
is to become his final opus and is dedicated to the city of Geneva,
includes a short poem titled Elegia de un parque (Elegy for a Park).
A line from the poem reads “we are already the past we’ll be."
Return to Geneva, return to the past, return to non-being. This
was what the contemporary reader probably saw in it. It wasn’t until
2 years later that a Colombian writer, Héctor Abad Faciolince,
found a scrap of paper with a poem that included an almost word-for-word
repetition of the line from Elegy: "we are already the oblivion we will
be,” and bore the initials JLB at its bottom. Following years of
debate by literary scholars, the poem eventually became The Epitaph.
By Borges. A return to the past that eerily reminds us of the future
we have already witnessed? The ever-Borgesian time warp.
Note: Bài thơ sau đây, của Milosz, được Charles
Simic trích dẫn, trong bài viết của ông - điểm
cuốn tiểu sử của Milosz, theo GCC, cũng nằm trong dòng trên.
Cái kiểu lũ Ngụy nhìn lại quá khứ, theo
GCC, không giống Bắc Kít
Bắc Kít mê quá khứ khi chưa có Vẹm,
(1) khác Ngụy, chúng mê quá khứ như là
chứng tích, như Simic phán, khi lập lại ý của
Milosz:
"One of the honorable traits of men, is their will to leave
their reports as witnesses"
(1) GCC thực sự không tin, Bắc Kít còn
có người, thực sự tin tưởng về cái đỉnh cao ngất của
cả hai cuộc chiến!
Và chắc chắn, có người đã hiểu ra sự thực,
chính chúng giết chúng, khi làm thịt Ngụy!
Counsels
If I were in the place of young poets
(quite a place, whatever the generation might think)
I would prefer not to say that the earth is a madman’s dream,
a stupid tale full of sound and fury.
It's true, I did not happen to see the triumph of justice.
The lips of the innocent make no claims.
And who knows whether a fool in a crown,
a wine cup in his hand, roaring that God favors him
because he poisoned, slew and blinded so many,
would not move the onlookers to tears: he was so gentle.
God does not multiply sheep and camels for the virtuous
and takes nothing away
for murder and perjury.
He has been hiding so long that it has been forgotten how he
revealed himself in the burning bush
and in the breast of a young Jew ready to suffer for all who
were and who will be.
It is not certain if Ananke awaits her hour to pay back what
is due for the lack of measure and pride.
Man has been given to understand that he lives only by the
grace of those in power.
Let him therefore busy himself sipping coffee, catching butterflies.
Who cares for the Republic will have his right hand cut off.
And yet, the earth merits a bit, a tiny bit, of affection.
Not that I take too seriously consolations of nature, and baroque
ornaments, the moon, chubby clouds (although it's beautiful when bird-cherries
blossom on the banks of the Wilia).
No, I would even advise to keep farther from nature, from persistent
images of infinite space, of infinite time, from snails poisoned on
a path in a garden, just like our armies.
There is so very much death, and that is why affection for
pigtails, bright-colored skirts in the wind, for paper boats no more
durable than we are ...
The pungent smells of a California winter,
Grayness and rosiness, an almost transparent full moon.
I add logs to the fire, I drink and I ponder.
“In Ilawa,” the news item said, “at age 70
Died Aleksander Rymkiewicz, poet.”
He was the youngest in our group. I patronized him slightly,
Just as I patronized others for their inferior minds
Though they had many virtues I couldn’t touch.
And so I am here, approaching the end
Of the century and of my life. Proud of my strength
Yet embarrassed by the clearness of the view.
Avant-gardes mixed with blood.
The ashes of inconceivable arts.
An omnium-gatherum of chaos.
I passed judgment on that. Though marked myself.
This hasn’t been the age for the righteous and the decent.
I know what it means to beget monsters
And to recognize in them myself.
You, moon, You, Aleksander, fire of cedar logs.
Waters close over us, a name lasts but an instant.
Not important whether the generations hold us in memory.
Great was that chase with the hounds for the unattainable meaning
of
the world.
And now I am ready to keep running
When the sun rises beyond the borderlands of death.
I already see mountain ridges in the heavenly forest
Where, beyond every essence, a new essence waits.
You, music of my late years, I am called
By a sound and a color which are more and more perfect.
Do not die out, fire. Enter my dreams, love.
Be young forever, seasons of the earth.
Czeslaw Milosz
And the whole town is encased in ice,
Trees, walls, snow, as if under glass.
Timidly, I walk on crystals,
Gaily painted sleds skid.
And over the Peter of Voronezh-crows,
Poplar trees, and the dome, light green,
Faded, dulled, in sunny haze,
And the battle of Kulikovo blows from the slopes
Of the mighty, victorious land.
The poplars, like cups clashed together,
Roar over us, stronger and stronger,
As if our joy were toasted by
A thousand guests at a wedding feast.
But in the room of the poet in disgrace,
Fear and the Muse keep watch by turns.
And the night comes on
That knows no dawn.
[in Anna Akhmatova, Poet and Prophet, by Roberta Reeder]
VORONEZH
(To Osip Mandelstam)
The city is caught in the grip of ice-
Trees, walls, snow, are as under glass.
Over crystals, I and the patterned sleighs
Go our separate, unsteady ways.
And above St. Peter's steeple--crows,
And poplars-a light-green vault that glows-
Blurred, lackluster, in the sunny dust.
The triumphant landscape blows into thought
This is where Kulikovo was fought.
And the poplars like wineglasses raised in a toast
Suddenly ring out more clearly above us.
As though at a wedding the assembled host
Were drinking our union to show how they love us.
But Fear and the Muse in turn guard the place
Where the banished poet has gone.
And the night that comes with quickened pace
Is ignorant of dawn.
1936
Osip Mandelstam: 1891-1939, noted Russian poet, arrested twice,
died in prison.
Kulikovo: great battle against the Tartars, 1378.
[Bản của Lyn Coffin]
Note: Trong cuốn Akhmatova Thi sĩ & Tiên tri,
có những dòng thật là thê lương, về bài
thơ này, và về nhà thơ bị thất sủng, "poet in disgrace".
Bốn dòng chót bị bỏ khi xuất hiện lần đầu.
To Alexander Blok
I went to see the poet
At exactly twelve noon, Sunday.
It was quiet in the wide room.
Outside, freezing cold.
A raspberry sun
Trailed tatters of blue smoke ...
That sun, like my laconic host,
Cast a slant eye on me!
A host whose eyes
No one can forget;
Best be careful,
Don't look into them at all.
But I do recall how we talked
That Sunday noon, how we sat
Smoking in the tall grey house
By the mouth of the Neva.
Gửi Alexander Blok
Tôi tới gặp nhà thơ
Vào đúng ngọ, Chủ Nhật.
Trong căn phòng rộng, êm ả
Ngoài trời lạnh giá
Mặt trời hồng vạch một đường khói xanh…
Nó giống vị chủ nhà gọn gàng
Ném 1 cái nhìn xéo lên
tôi!
Vị chủ nhà với cặp mắt
Không một ai có thể quên được
Tốt nhất, hãy coi chừng
Đừng nhìn vào mắt ông ta
Nhưng làm sao mà tôi không
nhớ lại
Cuộc trò chuyện bữa trưa Chủ Nhật đó
Như thế nào chúng tôi ngồi hút
thuốc
Trong căn nhà màu
xám, cao
Kế cửa sông Neva
Note: Bài thơ này, bản
tiếng Anh trong Akhmatova & Thi Sĩ & Tiên Tri, có
tí khác. Bài của Blok, đáp lại mới thú.
Blok làm nó, nhưng lại nghĩ đến người tình của ông,
nữ ca sĩ Lyubov Delmas.
Bài này, đã post trên Tin Văn, nhưng
chưa có bản tiếng Mít
TO ANNA
AKHMATOVA
'Beauty is terrifying.' They'll say to you.
Languidly you throw your
Spanish shawl over your shoulders,
a red rose in your hair.
'Beauty is simple.' They'll say to you,
and you will cover your child
with a check shawl with hands unskilled,
a red rose on the floor.
But you will listen in a haze
to all the words, breaking out around,
and will contemplate sadly
and repeat to yourself about yourself.
'I am not terrifying. I am not simple;
I am not so terrifying to simply
kill, not so simple
that I do not know how terrifying life is.'
Trans R. McKane
Everyman's Library
Note: Bản trong "A. Thi sĩ & Tiên tri", khúc chót:
Not terrible nor simple am I
I'm not so terribly simple
To kill, not so simple am I
Not to know how terrifying life is
The madness of it, Miss Dickinson!
Then the dawning suspicion-
We are here alone ventriloquizing
For the one we call God.
Just to be sure, I lifted my eyes
From the star atlas to the night sky
And found one tiny star in it
Above a field covered in snow.
One more mystery for some boy
To ponder as he closes his schoolbook,
Sleepy boy chewing a thumb
As he rests his head on a table.
His tomorrow's classroom empty;
Its huge blackboard wiped clean.
Just a low voice talking on TV
In the janitor's quarters down the hall.
A quick tour by weather satellite
Of the bleak and desolate northern regions
or our planet, predicting dropping
Temperatures and a blizzard or two
Someplace out there hard to imagine,
Like these photos of distant nebulae-
Blurry remains where portraits of old gods
Once hung hiding the horror from us.
The once popular sitcom everyone watched
Recounting their furies and squabbles
Regarding the fate of their terrestrial subjects,
Has been canceled, some say indefinitely.
The huge cast joining the line of the unemployed
Winding around the globe, stamping
Their feet and blowing on their hands
To keep warm as the long freeze sets in.
Bản đồ sao
Khùng ơi là khùng, Miss Dickinson!
Và rồi thì là nỗi hồ nghi sơ khai –
Liệu, chúng ta, trơ cu lơ ở đây, là để
nói chuyện bằng bụng
Về một kẻ mà chúng ta gọi là Ông
Trời
Chỉ để cho chắc ăn, tớ bèn nhếch mắt
Rời cái bản đồ sao, nhìn lên bầu trời
đêm
Và thấy 1 vì xinh xinh
Trên 1 cánh đồng tuyết phủ
Thêm một bí mật cho 1 cậu học trò nào
đó
Để cậu ngạc nhiên khi đóng cuốn sách
học lại
Cậu bé buồn ngủ mút ngón tay
Khi gục đầu trên mặt bàn
Lớp học của ngày mai của cậu thì trống rỗng
Cái bảng to của nó đã được lau sạch
Chỉ còn tiếng nói nhỏ trên TV
Ở khu giám thị cuối hành lang.
Một cú đảo qua kênh vệ tinh thời tiết
Ở vùng bắc lạnh lẽo hoang vắng của trái đất
Tiên đoán nhiệt độ xuống thấp
Và một, hoặc hai cơn bão
Ở một nơi nào đó, ở ngoài đó,
thật khó tưởng tượng
Như những bức hình về một tinh vân xa xăm –
Lù tà mù, là nơi chân dung
các vì thần cổ xưa
Đã có thời được treo, che giấu chúng
ta nỗi ghê sợ.
Một xen hài đã có thời ai cũng coi
Kể lại những cuộc cãi lộn, những cơn giận dữ của họ
Liên quan đến số phận của đám thần dân
ở trên trái đất
Đã được huỷ bỏ, nghe nói, vĩnh viễn.
Đám nhân viên nghe nói khá
đông
Bèn gia nhập hàng ngũ của những kẻ thất nghiệp
Đi lang thang suốt một mùa hoang vu trên trái
đất
Chân giậm thình thịch
Tay vỗ tay
Cố giữ hơi ấm
Khi đợt rét dài thòng lọt vô.
THE NIGHT AND THE COLD
Torturers with happy faces,
You've made a prisoner strip naked
And stand strung with electric wires
Like a Christmas tree
In a department store window
Next to a smiling family gathered
Around a fake brick fireplace.
And as for you, men and women
Sprawled in dark doorways,
Along this street I'm walking,
Stuff your clothes with more newspaper,
The night will be long and cold.
Đêm và Lạnh
Những tên Cớm VC, chuyên tra tấn người
Với những bộ mặt hạnh phước, vui vẻ
Tụi mi bắt tù nhân Ngụy cởi trần cởi
truồng
Treo tòng teng bằng những sợi dây điện
Nơi kính cửa sổ của một gian hàng
Như cây Giáng Sinh
Kế bên nụ cười tươi cười của một gia đình
Bên cái lò sưởi giả bằng gạch,
tất nhiên, cũng giả!
Còn các người, các người, đờn
ông và đờn bà
Nằm la liệt ở những hành lang tối thui
Dọc con phố Gấu bèn đang lang thang tản bộ,
Nhồi nhét quần áo, với đủ thứ giấy
báo, nhựt trình
Đêm VC thì sẽ dài và
sẽ lạnh lắm đấy!
THE MESSAGE
Take a message, crow, as the day breaks.
And find the one I hold dear,
Tell her the trees are almost bare
And the nights here are dark and cold.
Learn if she lights the stove already,
Goes to bed naked or fully dressed,
Sips hot tea in the morning, watching
Neighbors' children wait for a school
bus.
Tell her nothing fills me with more sorrow,
Than the memory of seeing her
Covering her face with her hands
When she thought she was alone.
Help me, bird, flapping from tree to tree
And calling in a voice full of distress,
To some fond companion of yours
You'd like to see flying by your side.
Thông điệp
Này, quạ, mang giùm Gấu
bức thông điệp này
Khi ngày ló dạng
Tới người Gấu thươn ơi là thươn.
Nói với nàng, cây
gần như trụi sạch lá
Và đêm ở đây, tối,
lạnh làm sao
Coi coi nàng đã đốt lò
chưa
Nàng lên giường khỏa thân,
hay là với áo ngủ
Buổi sáng, nhâm nhi trà,
Ngắm trẻ hàng xóm lên
xe buýt tới trường
Nói với nàng, Gấu buồn ơi
là buồn
Vì nhớ
Nàng đã từng lấy tay ôm
mặt
Khi nghĩ rằng nàng cô đơn
Hãy giúp ta
Bay, từ cây này qua cây
khác
Gọi, thật là thê lương
Một bạn đường
Sóng đôi bay cùng.
BIRDS KNOW
There's a pond, a man said,
Far back in these woods,
Birds and deer know about
And slake their thirst there
In a water so cold and clear,
It's like a brand-new mirror
No one had a chance to look at,
Save, perhaps, that little boy,
Who went missing years ago,
And may've drowned in it,
Or left some trace of himself
Playing along its rocky edges.
I better go and find out,
This very night, I said to myself,
With my mind running wild,
And the moon out there so bright.
Chim biết
Có cái ao, một người đàn
ông nói
Ở mãi tít bìa rừng
Chim và hươu nai biết
Và vẫn thường tới đó thoả
cơn khát
Nước mới lạnh mới trong làm sao
Giống như là cái gương mới
tinh
Chẳng ai có cơ may soi mình
Ngoại trừ chú bé đó
Chú bé mất tích nhiều
năm trước đây
Chắc là chết đuối ở trong ao
Hay, để lại vài dấu vết
Khi chơi đùa với mấy bờ đá.
Tớ có lẽ nên đến đó
coi sao
Trong cái đêm thật là
đêm như đêm nay
Tớ bảo mình như vậy
Với cái đầu hoang dại
Và trăng đêm nay thì
mới sáng làm sao!
STRAY HEN
The hounds of hell are barking again,
Better look for a tree to climb,
Befriend a rat slipping into a sewer,
The kite someone set free in the sky.
The watermelons we saw last summer
Falling out of a truck and breaking
Into bloody chunks on the highway,
May have already foretold our story.
Stray hen, is what they call our neighbor,
The one always looking lost,
Always clucking about something
And crossing herself as if she were in church.
I fear she hears those hounds barking,
And so does that man I see every night
In the picture window of his home
Sitting with a lit candle at a long table.
Gà mái lạc
Chó địa ngục lại sủa
Tìm cái cây để mà trèo
lên thôi
Làm bạn với con chuột lọt vô cống
Cái diều ai đó thả rông lên
trời
Những trái dưa hấu chúng ta nhìn
thấy mùa hè năm rồi
Rớt ra khỏi cái xe tải
Bể ra làm đôi làm ba
Máu me tung toé trên xa lộ
Chúng, chính chúng
Có thể đã tiên tri câu chuyện
xứ Mít của chúng ta
Gà mái lạc
Đó là cái “mĩ từ” mà lũ
đàn ông Bắc Kít
Gọi một cái hĩm của xứ của chúng
Cô hàng xóm lúc nào
cũng như là thất lạc
Luôn luôn cục ta cục tác một điều
gì đó
Làm dấu thánh giá
Như thể đang ở trong nhà thờ
Gấu nghi cô nghe tiếng chó địa ngục sủa
Cũng nghe, là cái gã đờn ông
Gấu nhìn thấy hàng đêm
Từ bức hình cửa sổ căn nhà của người
đó
Ngồi, với cây đèn cầy thắp sáng
Nơi một cái bàn dài.
After a nervous breakdown in 1929, Robert Walser spent
the remaining twenty-seven years of his life in mental asylums. In 1936,
Carl Seelig-an admirer who became Walser's friend and eventually his literary
executor-began accompanying the great Swiss writer on his daily walks.
As they strolled, Walser told stories, shared his daily experiences of
the sanatorium, and expressed his opinions about books and art, writing
and history. Filled w...
Khi nao moi di Calif, NQThai moi ve lai VN. hom qua, sau
khi o day 1 thang.
tham nhe! ndt.
Tks.
Sức khoẻ OK. Muốn đi Cali, mà chưa đi được. Khi nào đi
được sẽ thông báo. Cho gửi lời hỏi thăm tới tất cả.
Take Care, both of U.
TT/NQT
Số phận một bài thơ
Bài thơ này, Viết Từ Thi Thiên, ra đời 1961,
có mặt trong tập bản thảo Hừng Đông Sau Rừng, nhưng
khi đưa nxb Thanh Niên in, tác giả
đã tự ý rút ra, không công bố (2003).
Đến 2014, nxb TRẺ in tập Cánh Cửa cũng không
nhận được lai cảo của bài thơ nầy.
Hơn nửa thế kỷ qua, nhân Lễ Thương Khó và Lễ
Phục Sinh, tác giả bỗng nhớ đến đứa con tinh thần thời rất trẻ của
mình, bèn thử cho nó một sinh mạng khác trên
trang Facebook này.
Mời bạn hiền đ ọc.
Viết từ Thi Thiên
Bây giờ chỉ còn bầy chim sẻ ríu rít
liệng trên nóc giáo đường sớm mai
tượng người đàn ông cúi xuống
cúi xuống lũng khổ đau loài người
và linh hồn nàng lên núi Sọ tìm
giải thoát
dấu vết xưa còn đây
đôi bàn tay khép nâng lên
Chứng tích cứu thế đó
Bây giờ chiến trận dàn ngoài đời
địa ngục chia đôi
tình người thôi đã ngắn hơn tầm súng
dọa nhau bằng thương tích hủy diệt thân thể
bằng khổ đau dại điếng linh hồn
ôi còn chi còn chi công lao Giê-hô-va
còn chi anh em đất nước
nàng nghe như đạn xoáy tim mình
lời kinh và máu nàng
Bây giờ nàng thành khẩn quỳ xuống
lần cuối cùng nhìn lại đây
một con chim rớt một dấu chấm hết ngày
còn thức cô đơn trên vai tượng
sự đổi thay tâm hồn nàng cùng tiếng nói
tương lai
là mối kiên tâm bí ẩn
của thao thức bước vào chiêm bao
của chiêm bao trở về cuộc đời
nỗi nhục nhằn nhược tiểu
và cơn đói khát tự do
bây giờ quê hương tôi
ôi mãi mãi đấng Ki-tô
cho con xin lại linh hồn này đã một lần tế lễ
nhà Chung đổ bóng dài lên sỏi đá
những thầm lặng đời đời hiến dâng
trong xương máu nàng chỉ còn là tiếng
nói hư vô
lời vĩnh biệt
Bây giờ linh hồn nàng
thi thể vùi sâu lũng khổ đau loài người
ở đó Chúa hoài hoài còn ngó
xuống
nguyễn thùy song thanh
1961
BEZHETSK
There are white churches there, and the crackle
of icicles,
The cornflower eyes of my son are blossoming there.
Diamond nights above the ancient town, and yellower
Than lime-blossom honey is the moon's sickle.
From plains beyond the river dry snow-storms fly in,
And the people, like the angels in the fields, rejoice.
They have tidied the best room, lit in the icon-case
The tiny lamps. On an oak table the Book is lying.
There stern memory, so ungiving now,
Threw open her tower-rooms to me, with a low bow;
But I did not enter, and I slammed the fearful door;
And the town rang with the news of the Child that
was
born.
26 December 1921
Akhmatova
Translated by D.M. Thomas
BEZHETSK
Ở đó có những giáo đường màu
trắng và những chuỗi nước đá đóng băng vỡ
rạn
Ở đó, đôi mắt như chòm hoa bắp của
con trai tôi cũng đang rộ nở tưng bừng (1)
Trời đêm lóng lánh kim cương soi
trên vòm con phố cổ
Và vầng trăng khuyết còn óng vàng
hơn cả màu mật hoa chanh
Những cơn bão tuyết khô khốc thổi về từ
những đồng bằng xa xa bên kia dòng sông
Và người dân, như những thiên thần
trong những ruộng đồng, cũng hoan ca hòa điệu
Họ đã dọn dẹp sắp xếp căn phòng đẹp nhất,
đã đốt sáng ngọn đèn nhỏ đặt trong chiếc hộp
xinh
Đã đặt lên chiếc bàn gỗ sồi cuốn
Thánh Kinh
Ở đó, ký ức khắc nghiệt xưa, giờ lại càng
khó chấp nhận, đã cúi đầu mở toang những căn
phòng trên ngọn tháp cho tôi.
Nhưng tôi đã không bước vào.
Và tôi đã đóng sầm lại cánh cửa
đáng sợ ấy.
Và khắp thành phố đã ngân
vang báo tin Chúa Hài Đồng vừa mới ra đời
(1)
Cornflower không phải là hoa bắp, mà
là thứ hoa này, tiếng Việt không biết gọi là
gì. Nó giống hoa cúc xanh. Tạm dịch, Ở đó, đôi
mắt màu xanh hoa cúc của con tôi đang bừng nở
.
Nghe vẫn kỳ kỳ .
K.
Yesterday the inimitable voice fell silent,
And he who conversed with the groves abandoned us.
He became a life-giving ear of grain
Or the first rain of which he sang.
And all the flowers in the world
Bloomed to greet this death.
But suddenly it became quiet on the planet
Bearing the humble name of ... Earth.
1960
Bữa hôm qua, giọng nói không thể nào bắt
chước đã im bặt
Và kẻ trò chuyện với những cánh rừng đã
bỏ chúng ta
Anh ta trở thành mầm hạt
Hay trận mưa đầu mà anh ta ca hát
Và tất cả những bông hoa trên thế giới
Đều nở rộ để đón nhận cái chết của anh
Và bất thình lình hành tinh trở nên
im lặng
Hành tinh mang cái tên khiếm tốn: Trái
Đất
II
Like the little daughter of blind Oedipus,
The Muse led the prophet toward death.
And a single frenzied linden tree
Blossomed in this funereal May-
Opposite the window, where once
He revealed to me that before him
Wound a path, winged and golden,
Where he would be protected by the will of the Most High.
June 11, 1960
Botkin Hospital
Note: Thường thì chúng ta chỉ biết có hai khúc
thơ trên, của Akhmatova, khi được tin Pat [Pasternak] mất. Trong
cuốn Anna Akhmatova, Thi sĩ, Tiên tri,
tác giả Roberta Reeder cho biết, còn 1 bài nữa, viết
từ khuya, 1949, nhưng ghi là 1947, (3) đã tiên tri
cái chết của Pat, khi báo chí Liên Xô xỉ
vả Pat, do cái vụ được Nobel, và do thiên hạ hiểu lầm
Bà, khi phán, Pat mà thánh tử đạo ư? Ông
ta là 1 kẻ hạnh phúc tuy hơi khác thường, an unusually
happy man.
11 juin [1960]. De l'hôpital
Botkine, Anna Akhmatova écrit à la mémoire
de Pasternak:
Oedipe aveuglé guidé
par sa fille,
La muse l'a conduit jusqu'à sa mort.
Un tilleul fou, auprès de ma fenêtre
A fleuri seul en ce mai de douleur,
Juste à l'endroit où il m’avait confié
Qu'il voyait serpenter devant ses yeux
Un sentier d'or aux ailes déployées
Où le gardait la volonté des cieux
Traduction Michel Aucouturier,
Revue des Belles-Lettres,
mars 1996.
Source: Pasternak,
éd Quarto Gallimard [NQT]
Note: Anna Akhmatova được
xe cứu thương đưa vô bịnh viện ngày 22, May, 1960. Pat mất
ngày May 30. Hội Nhà Thổ Liên Xô đề nghị họ
lo đám tang, nhưng bà vợ của ông từ chối.
BORIS PASTERNAK
He who compared
himself to the eye of a horse,
Peers, looks, sees, recognizes,
And instantly puddles shine, ice
Pines away, like a melting of diamonds.
Backyards
drowse in lilac haze. Branch-
Line platforms, logs, clouds, leaves ...
The engine's whistle, watermelon's crunch,
A timid hand in a fragrant kid glove. He's
Ringing,
thundering, grinding, up to his breast
In breakers ... and suddenly is quiet ... This means
He is tiptoeing over pine needles, fearful lest
He should startle space awake from its light sleep.
It means he
counts the grains in the empty ears,
And it means he has come back
From another funeral, back to Darya's
Gorge, the tombstone, cursed and black.
And burns
again, the Moscow tedium,
In the distance death's sleigh-bell rings ...
Who has got lost two steps from home,
Where the snow is waist-deep, an end to everything?
Because he
compared smoke with Laocoon,
Made songs out of graveyard thistles,
Because he filled the world with a sound no-one
Has heard before, in a new space of mirrored
Verses, he
has been rewarded with a form
Of eternal childhood, with the stars' vigilant love,
The whole earth has been passed down to him,
And he has shared it with everyone.
19 January
1936
Anna Akhmatova
Everyman's Library
(3) Bài
thơ sau đây, Anna Akhmatova đưa cho Chukovskaya, ở nhà thương,
khi được tin Pat mất.
… Chukovskaya
said all this to Akhmatova, who did not say a word. Then, suddenly,
Akhmatova handed her a piece of paper, saying a friend had brought poem
she had written to Pasternak in 1949 (although it is dated in her lions
as 1947), when the newspapers began to criticize him
And once
more the autumn blasts like Tamerlane
There is silence in the streets of Arbat.
Beyond the little station or beyond the haze
The impassable road is dark.
So here it
is, the latest one! And the rage
Subsides. It's as if the world had gone deaf ...
A mighty, evangelical old age
And that most bitter Gethsemane sigh.
(II, p. 307)
Chukovskaya thought to herself, "But the Gethsemane sigh-this is
the sight before Golgotha. Why is she arguing with me? It means she understood
his torment and more than understood it-she predicted it."
Vilenkin commented that in spite of all Akhmatova's reproach and
the often unjust things she said about Pasternak, no other poet accompanied
someone on his last journey with such bitter sighs when he died."
TO THE MEMORY OF A POET
Like a bird, echo will answer
me.
B.P. (Boris Pasternak)
1.
That singular voice has stopped:
silence is complete,
And the one who spoke with forests has left us behind.
He turned himself into a life-giving stalk of wheat
Or the fine rain his songs can call to mind.
And all the flowers that hold this world in debt
Have come into bloom, come forward to meet this
death.
But everything stood still on the planet
Which bears the unassuming name ... the Earth.
2.
Like the daughter of Oedipus
the blind,
Toward death the Muse was leading the seer.
And one linden tree, out of its mind,
Was blooming that mournful May, near
The window where he told me one time
That before him rose a golden hill,
With a winged road that he would climb,
Protected by the highest will.
1960
Boris Pasternak: 1890-1960,
renowned Russian poet and novelist.
Source: Anna Akhmatova, Poems, selected and
translated by Lyn Coffin [NQT]
Oedipe mù, được cô con gái dẫn dắt
Nữ thần thi ca đưa anh tới cái chết của mình
Một bông hoa đoan, khùng, độc nhất,
Nở, vào đúng Tháng Năm đau buồn đó
Ở gần cửa sổ
Nơi ông đã có lần tâm sự cùng
tôi
Ông nhìn thấy dựng lên một cảnh đồi
vàng
Cùng con đường dốc có cánh
Và ông trèo lên
Được bảo vệ bởi Thánh Ý.
To the German Language
My destiny is in the Spanish language,
the bronze words of Francisco de Quevedo,
but in the long, slow progress of the
night,
different, more intimate musics move me.
Some have been handed down to me by blood-
voices of Shakespeare, language of the
Scriptures-
others by chance, which has been generous;
but you, gentle language of Germany,
I chose you, and I sought you out alone.
By way of grammar books and patient study,
through the thick undergrowth of the declensions,
the dictionary, which never puts its thumb
on
the precise nuance, I kept moving closer.
My nights were full of overtones of Virgil,
I once said; but I could as well have
named
Holderlin and Angelus Silesius.
Heine lent me his lofty nightingales;
Goethe, the good fortune of late love,
at the same time both greedy and indulgent;
Keller, the rose which one hand leaves
behind
in the closed fist of a dead man who adored
it,
who will never know if it is white or
red.
German language, you are your masterpiece:
love interwound in all your compound voices
and open vowels, sounds that accommodate
the studious hexameters of Greek
and undercurrents of jungles and of nights.
Once, I had you. Now, at the far extreme
of weary years, I feel you have become
as out of reach as algebra and the moon.
-A.R.
J.L. Borges
Gửi tiếng Đức
Số phận của tôi là ngôn ngữ Tây Ban Nha
Những từ màu đồng của Francisco de Quevedo.
Nhưng trong tiến trình dài và chậm của đêm
Những âm nhạc khác nhau, riêng tư, mùi
mẫn hơn, kích thích tôi
Một số tới, qua đường huyết thống
Những giọng Shakespeare, ngôn ngữ Thánh Kinh
Số khác, bằng cơ may, và nó thì rộng
lượng;
Nhưng bạn, ngôn ngữ dịu dàng Đức
Tôi chọn bạn, và tôi, mình tôi,
lọc bạn ra
Bằng con đường của những cuốn sách văn phạm, và
sự nghiên cứu chăm chú, nhẫn nại
Qua tầng sâu dày đặc của những sa sút, trệch
đường, lạc lối,
Từ điển, nó chẳng bao giờ lấy ngón tay cái
của nó, chấm đúng vào điểm nhạy cảm, mà
nó gọi là sắc thái chính xác, tôi
tiếp tục tới gần hơn, sát hơn.
Đêm của tôi thì đầy những bội âm của
Vigil
Tôi, đã có lần, nói: Ta cũng có
thể gọi tên Holderlin và Angelus Silesius.
Heine cho tôi mượn con sơn ca kiêu kỳ của ông;
Goethe, vận may của tình muộn,
Cùng lúc, vừa tham lam vừa khoan dung
Keller, bông hồng, một cánh bỏ đằng sau
Trong nắm tay thật chặt của một người chết
Mê mẩn nó, thờ phụng nó
Và không biết, nó có thể màu
trắng, hay đỏ, thay vì đen
Ngôn ngữ Đức, mi là bậc trưởng thượng, bậc thầy,
tuyệt tác
Tình yêu cuồn cuộn, quấn quit trong tất cả những
giọng phức, phụ, kép của mi
Và những nguyên âm mở, những âm thanh
điều hợp những âm tiết nghiêm cẩn Hy Lạp
Và những dòng ngầm của những rừng rậm và
đêm đen
Đã có lần, ta có mi.
Bây giờ ở cái nơi cực kỳ xa xăm, của những năm tháng
rã rời, tàn tạ
Ta cảm thấy mi đã vượt quá tầm tay, như môn
đại số, và mặt trăng.
Café Trieste: San Francisco
by Joseph Brodsky
to L.G.
To this corner of Grant and Vallejo
I’ve returned like an echo
to the lips that preferred
then a kiss to a word.
Nothing has changed here. Neither
the furniture nor the weather.
Things, in one’s absence, gain
permanence, stain by stain.
Cold, through the large steamed windows
I watch the gesturing wierdos,
the bloated breams that warm
up their aquarium.
Evolving backward, a river
becomes a tear, the real
becomes memory which
can, like fingertips, pinch
just the tail of a lizard
vanishing in the desert
which was eager to fix
a traveler with a sphinx.
Your golden mane! Your riddle!
The lilac skirt, the brittle
ankles! The perfect ear
rendering “read” as “dear.”
Under what cloud’s pallor
now throbs the tricolor
of your future, your past
your present, swaying the mast?
Upon what linen waters
do you drift bravely toward
new shores, clutching your beads
to meet the savage needs?
Still, if sins are forgiven,
that is, if souls break even
with flesh elsewhere, this joint,
too, must be enjoyed
as afterlife’s sweet parlor
where, in the clouded squalor,
saints and the ain’ts take five,
where I was first to arrive.
Did you read Updike’s piece on
Kundera in The New York Times Book Review? He finished by referring to you,
citing you as one who has dealt with exile by becoming an American poet—
BRODSKY
That’s flattering, but that’s
rubbish.
Ông có đọc bài của
Updike trong đó có nhắc tới ông, kẻ "vặc lại" lưu
vong, bằng cách trở thành nhà thơ Mẽo?
Nghe khoái lỗ nhĩ, nhưng nói cho cùng,
cũng chỉ là cứt đái, rác rưởi mà thôi!
INTERVIEWER
I imagine that he was referring
not only to the fact that you have written a few things in English,
but also to the fact that you were beginning to deal with American landscapes,
Cape Cod—
BRODSKY
Could be—in that case, what can
I say? Certainly one becomes the land one lives in, especially at the end.
In that sense I’m quite American.
Ông
ta không tính nghe ông trả lời như thế, theo tôi,
mà chỉ nhắc tới sự kiện là ông có viết vài
bài bằng tiếng Anh, và sự kiện ông bắt đầu để
ý đến phong cảnh nước Mẽo - Mỏm Cod, thí dụ...
Thì hẳn là như vậy rồi, con người trở thành
mảnh đất mà hắn ta sống ở đó. Theo nghĩa đó, tớ
là 1 tênYankee mũi lõ!
Ui chao, bạn phải đọc Brodsky, khi
ông đào bới cứt đái ở 1 nông trường cải tạo,
và vớ được tập thơ 1 vì độc giả gửi cho, và cùng
lúc ngộ ra thơ, mới sướng làm sao.
Sướng hơn nữa, với riêng Gấu, là, cũng đã
từng trải qua những giây phút thần tiên, như vậy,
ở Trại Tù Đỗ Hoà.
Khi được hỏi ông nghĩ gì
về những năm tháng tù đầy, Brodsky nói cuối cùng
ông đã vui với nó. Ông vui với việc đi giầy
ủng và làm việc trong một nông trại tập thể, vui
với chuyện đào xới. Biết rằng mọi người suốt nước Nga hiện cũng
đang đào xới "cứt đái", ông cảm thấy cái gọi
là tình tự dân tộc, tình máu mủ. Ông
không nói giỡn. Buổi chiều ông có thời giờ ngồi
làm những bài thơ "xấu xa", và tự cho mình
bị quyến rũ bởi "chủ nghĩa hình thức trưởng giả" từ những thần
tượng của ông. Hai đoạn thơ sau đây của Auden đã làm
ông "ngộ" ra:
Time that is intolerant
Of the brave and innocent,
And indifferent in a week
To a beautiful physique,
Worships language and forgives
Everyone by whom it lives;
Pardons cowardice, conceit,
Lays its honor at their feet.
Thời gian vốn không khoan dung
Đối với những con người can đảm và thơ ngây,
Và dửng dưng trong vòng một tuần lễ
Trước cõi trần xinh đẹp,
Thờ phụng ngôn ngữ và tha thứ
Cho những ai kia, nhờ họ, mà nó sống;
Tha thứ sự hèn nhát và trí trá,
Để vinh quang của nó dưới chân chúng.
Auden
Ông bị xúc động không hẳn bởi cách
mà Auden truyền đi sự khôn ngoan - làm bật nó
ra như trong dân ca - nhưng bởi ngay chính sự khôn
ngoan, ý nghĩa này: Ngôn ngữ là trên
hết, xa xưa lưu tồn dai dẳng hơn tất cả mọi điều khác, ngay cả thời
gian cũng phải cúi mình trước nó. Brodsky coi đây
là đề tài cơ bản, trấn ngự của thi ca của ông, và
là nguyên lý trung tâm của thơ xuôi và
sự giảng dạy của ông. Trong cõi lưu đầy như thế đó,
ông không thể tưởng tượng hai mươi năm sau, khăn đóng,
áo choàng, ông bước lên bục cao nơi Hàn
lâm viện Thụy-điển nhận giải Nobel văn chương, nói về tính
độc đáo của văn chương không như một trò giải trí,
một dụng cụ, mà là sự trang trọng, bề thế xoáy vào
tinh thần đạo đức của nhân loại. Nếu tác phẩm của ông
là một thông điệp đơn giản, đó là điều ông
học từ đoạn thơ của Auden: "Sự chán chường, mỉa mai, dửng dưng
mà văn chương bày tỏ trước nhà nước, tự bản chất
phải hiểu như là phản ứng của cái thường hằng - cái
vô cùng - chống lại cái nhất thời, sự hữu hạn. Một cách
ngắn gọn, một khi mà nhà nước còn tự cho phép
can dự vào những công việc của văn chương, khi đó
văn chương có quyền can thiệp vào những vấn đề của nhà
nước. Một hệ thống chính trị, như bất cứ hệ thống nào nói
chung, do định nghĩa, đều là một hình thức của thời quá
khứ muốn áp đặt chính nó lên hiện tại, và
nhiều khi luôn cả tương lai..."
Hôm
trước đang nói dở câu chuyện về "bi ca" tức "élégie",
Rilke và nhà thơ Việt Nam nào thực sự viết "bi
ca", thì vướng tí chút lộn xộn :p nên giờ
mới nói tiếp được.
Bi ca là một vấn đề hết sức lớn của văn chương phương
Tây. Tôi từng dịch một bài (xem ở
đây), một người đã gọi ngay một người là
"élégiaque", tức là một cách vinh danh
rất lớn; vì kinh ngạc quá nên tôi đã
dịch ngay bài ấy: hai ông thầy của tôi, một trực
tiếp, một gián tiếp, xưa kia chẳng ưa gì nhau, thế mà
về già lại đổ đốn đi ca ngợi nhau :p
Thơ Việt Nam nếu có một thứ rất đặc biệt, thì
là "thơ thể hành".
Đặc điểm của thơ thể hành là rất dễ làm.
Ai cũng làm được, gần gần như lục bát. Tôi chỉ
cần ngồi năm phút là tạo ra được một bài nhìn
qua rất là giống "Tống biệt hành" (không hề nói
phét). Lời lẽ hoang vắng, đầy mélancholie và nostalgie,
chữ nghĩa khúc khuỷu, nhịp thơ uất hận vân vân. Nhưng
đó là nhìn vẻ ngoài.
Thơ thể hành dễ làm nhưng có một đòi hỏi
cốt yếu, chệch một li là hỏng: bài thơ phải thực sự nhất
khí quán hạ. "Thăm mả cũ bên đường" của Tản Đà
chưa hề ăn thua, mà tôi thấy đỉnh cao của thể này chính
là "Giời mưa ở Huế" của Nguyễn Bính.
Người ta rất ca ngợi bài "Ta về" của Tô Thùy
Yên, nhưng đó là một bài thơ hỏng.
Còn bi ca? Nhà thơ Việt
Nam duy nhất viết bi ca là Thanh Tâm Tuyền.
Bài thơ dưới đây, trong tập Mặt trời tìm
thấy, là một kiệt tác lớn.....
Note: Đọc, thì lại nhớ đến Giáo
Chủ Tân Hình Thức, là nhà thơ Khế Iêm.
Bố này chê, thay vì "hành", thì là
"biên tái".
Theo GCC, vấn đề này, không mắc mớ đến thi sĩ,
mà đến thi ca, chính nó.
Borges đã từng phán, nhớ đại khái, bạn
cứ làm thơ đi, và bài thơ sẽ quyết định số phận
của nó, theo nghĩa, sẽ ban cho nó 1 hình thức.
Đẩy lên 1 mức nữa, cái thời của bạn quyết định
thể thơ của bạn. Ta Về, và những bài thơ của Khoa Hữu,
thí dụ, chúng chọn thể thơ, hành, biên tái,
vì tiện lợi, dễ hợp với tâm trạng của nhà thơ.
Hay dở, là do tài năng của người làm thơ,
đâu có dính dáng gì tới thể thơ.
Ông Trùm THT cũng chê thơ TTT, vậy. Người
phán, thơ tự do, TTT hết thời rồi. Bây giờ là
thời của Tân Hình Thức.
Nhớ là 1 nhà thơ, hình như là Phan
Nhiên Hạo - trả lời, giá mà THT có 1 đấng
như TTT thì chẳng ai cãi lại được Ông Trùm
cả!
"Nobel văn chương năm này được trao cho Eugenio
Montale, [Nobel 1975], nhưng ít người bây giờ còn
nhớ, sức mạnh thơ của ông, là nó luôn luôn
nằm thật thấp, không nhấn mạnh bất cứ kiểu gì, sử dụng
một giọng điệu thực là khiêm tốn, và hồ nghi. Chính
vì thế có nhiều người nghe, kéo dài ba thế
hệ."
Note: Khi đọc I Tà Lồ, cuốn “Tại sao đọc cổ điển”,
Gấu bỏ qua bài viết của ông về Montale. Lướt Tin Văn, gặp
dòng trên, bèn lụi cụi lục, và lôi ra
đọc.
Quá đỗi thần sầu.
Bài viết còn giải ra cho Gấu, thế nào
là 1 cú “ngoạn mục” - Bạn đọc Tin Văn chắc còn
nhớ, 1 vị thân hữu than thở giùm Gấu, tội nghiệp mi quá,
cứ trông chờ 1 cú ngoạn mục từ những đấng tinh anh Bắc
Kít....
Thời của bạn quyết định thể thơ của bạn.
Ôi chao, Gấu cứ nghĩ mình phát giác
ra điều thần kỳ này, nhưng hóa ra là 1 mô
phỏng Brodsky. Ông phán, thơ là thời gian được cấu
trúc lại.
Và nếu như thế, những hành, biên tái,
bi khúc... đều là "thời gian được cấu trúc lại".
Cũng Brodsky, cũng trong 1 lần trò chuyện với Volkov
về nữ sư phụ của ông, là Tsveteava: Thời gian nói
với cá nhân bằng nhiều giọng, Thời gian có cái
giọng trầm, giọng bổng riêng của nó...
There are white churches there, and the crackle
of icicles,
The cornflower eyes of my son are blossoming there.
Diamond nights above the ancient town, and yellower
Than lime-blossom honey is the moon's sickle.
From plains beyond the river dry snow-storms fly in,
And the people, like the angels in the fields, rejoice.
They have tidied the best room, lit in the icon-case
The tiny lamps. On an oak table the Book is lying.
There stern memory, so ungiving now,
Threw open her tower-rooms to me, with a low bow;
But I did not enter, and I slammed the fearful door;
And the town rang with the news of the Child that
was born.
26 December 1921
Akhmatova
Translated by D.M. Thomas
BEZHETSK
Ở đó có những giáo đường màu trắng và
những chuỗi nước đá đóng băng vỡ rạn
Ở đó, đôi mắt như chòm hoa bắp của con trai
tôi cũng đang rộ nở tưng bừng (1)
Trời đêm lóng lánh kim cương soi trên
vòm con phố cổ
Và vầng trăng khuyết còn óng vàng hơn
cả màu mật hoa chanh
Những cơn bão tuyết khô khốc thổi về từ những đồng
bằng xa xa bên kia dòng sông
Và người dân, như những thiên thần trong những
ruộng đồng, cũng hoan ca hòa điệu
Họ đã dọn dẹp sắp xếp căn phòng đẹp nhất, đã
đốt sáng ngọn đèn nhỏ đặt trong chiếc hộp xinh
Đã đặt lên chiếc bàn gỗ sồi cuốn Thánh
Kinh
Ở đó, ký ức khắc nghiệt xưa, giờ lại càng khó
chấp nhận, đã cúi đầu mở toang những căn phòng trên
ngọn tháp cho tôi.
Nhưng tôi đã không bước vào. Và
tôi đã đóng sầm lại cánh cửa đáng sợ
ấy.
Và khắp thành phố đã ngân vang báo
tin Chúa Hài Đồng vừa mới ra đời
(1)
Cornflower không phải là hoa bắp, mà là
thứ hoa này, tiếng Việt không biết gọi là gì.
Nó giống hoa cúc xanh. Tạm dịch, Ở đó, đôi
mắt màu xanh hoa cúc của con tôi đang bừng nở
.
Nghe vẫn kỳ kỳ .
K.
Joseph Brodsky's speech at the Nobel
Banquet, December 10, 1987
Your Majesties, Ladies and Gentlemen,
I was born and grew up on the other shore of the Baltic, practically
on its opposite grey rustling page. Sometimes on clear days, especially
in autumn, standing on a beach somewhere in Kellomaki, a friend would
poke his finger north-west across the sheet of water and say: See that
blue strip of land? It's Sweden.
He would be joking, of course: because the angle was wrong,
because according to the law of optics, a human eye can travel only
for something like twenty miles in open space. The space, however, wasn't
open.
Nonetheless, it pleases me to think, ladies and gentlemen,
that we used to inhale the same air, eat the same fish, get soaked
by the same - at times - radioactive rain, swim in the same sea, get
bored by the same kind of conifers.
Depending on the wind, the clouds I saw from my window
were already seen by you, or vice-versa. It pleases me to think that we
have had something in common before we ended up in this room.
And as far as this room is concerned, I think it was empty
just a couple of hours ago, and it will be empty again a couple of
hours hence. Our presence in it, mine especially, is quite incidental
from its walls' point of view. On the whole, from space's point of view,
anyone's presence is incidental in it, unless one possesses a permanent
- and usually inanimate - characteristic of landscape - of a moraine,
say, of a hilltop, of a river bend. And it is the appearance of something
or somebody unpredictable within a space well used to its contents that
creates the sense of occasion.
So being grateful to you for your decision to award me
the Nobel Prize for literature, I am essentially grateful for your imparting
to my work an aspect of permanence, of a glacier's debris, let's say,
in the vast landscape of literature.
I am fully aware of the danger hidden in this simile:
coldness, uselessness, eventual or fast erosion. Yet if it contains a single
vein of animated ore - as I, in my vanity, believe it does - then this
simile is perhaps prudent.
As long as I am on the subject of prudence, I should like
to add that through recorded history, the audience for poetry seldom
amounted to more than 1 % of the entire population. That's why poets
of antiquity or of the Renaissance gravitated to courts, the seats of
power; that's why nowadays they flock to universities, the seats of
knowledge. Your academy seems to be a cross between the two; and if
in the future - in that time free of ourselves - that 1 % ratio will
be sustained, it will be, not to a small degree, due to your efforts. In
case this strikes you as a dim vision of the future, I hope that the
thought about the population explosion may lift your spirits somewhat.
Even a quarter of that 1 % will make a lot of readers, even today.
So my gratitude to you, ladies and gentlemen, is not entirely
egoistical. I am grateful to you for those whom your decisions make
and will make read poetry, today and tomorrow. I am not so sure that
man will prevail, as the great man and my fellow American once said standing,
I believe, in this very room; but I am quite positive that a man who
reads poetry is harder to prevail upon than upon one who doesn't.
Of course, it's one hell of a way to get from Petersburg
to Stockholm; but then for a man of my occupation the notion of a
straight line being the shortest distance between two points has lost
its attraction long time ago. So it pleases me to find out that geography
in its own turn is also capable of poetic justice.
Thank you!
Note: Cái đoạn mở ra bài nói ngắn,
trước khi ăn, làm Gấu nhớ đến thơ của Gấu, có lẽ là
bài tuyệt vời nhất, vì nhờ nó mà quen Seagull.
Nhớ, lần đầu NTV đọc, anh mang địa lý ra chỉnh, đúng
cái ý "He would be joking".
Oceans and roses are surely
among the most shopworn images in poetry, as Ocean Vuong is well aware:
“I place your finger on a flower so / familiar it’s almost synthetic.”
In this poem, however, Rose is not only the English name of the speaker’s
mother, Hong, but a metaphor for displacement: from Vietnamese to
English, and from speech to writing, since this is a poem addressed
to a mother who cannot read it. The rose is no longer Shakespeare’s
(or whoever’s) symbol of fleeting beauty. Instead, “like something ruptured
/ by a bullet,” the rose is a wound or, later, the open mouth of the
infant Ocean. We’ve been told that a rose by any other name would smell
as sweet, but Hong, who has become Rose as a result of a colonial war,
knows that a name must “bear the scent of its corpses.”
Part of the power of this poem derives from its eloquent
ambivalence about its own power. A book seems to open like a door,
only to shut like a coffin lid. The poet admits that he imposes
the significance he hopes to discover in the zigzagging patterns
of ants. In lieu of action, vacillation: “I put in the fish sauce
I take out / the fish sauce.” Other voices discourage him: “stop writing
/ about your mother they said.” And so on. Vuong’s compelling mixture
of determination and doubt shapes the form of the poem, which combines
a strict stanzaic pattern with heavily enjambed lines, one meaning
dissolving into another across the margins like the “linear / fish-spine
dissolved by time” in the sauce that Rose prepares. The fish sauce is
Rose’s art and, like Ocean’s, it both preserves and destroys, transforms
and crushes — a composition that depends on decomposition: “these words
these / insects anchovies bullets salvaged / & exiled by art.”
I first met Ocean Vuong when he passed through one of
my undergraduate classes at Brooklyn College. My pedagogic strategy
was to recommend books and quickly get out of the way. His first collection,
Night Sky with Exit Wounds, was published
by Copper Canyon Press in 2016 and won the Whiting Award and the
Forward Prize, among other honors. “Dear Rose” is from a manuscript
in progress. Vuong began teaching at the University of Massachusetts
Amherst this fall.
To the German Language
My destiny is in the Spanish language,
the bronze words of Francisco de Quevedo,
but in the long, slow progress of the night,
different, more intimate musics move me.
Some have been handed down to me by blood-
voices of Shakespeare, language of the Scriptures-
others by chance, which has been generous;
but you, gentle language of Germany,
I chose you, and I sought you out alone.
By way of grammar books and patient study,
through the thick undergrowth of the declensions,
the dictionary, which never puts its thumb on
the precise nuance, I kept moving closer.
My nights were full of overtones of Virgil,
I once said; but I could as well have named
Holderlin and Angelus Silesius.
Heine lent me his lofty nightingales;
Goethe, the good fortune of late love,
at the same time both greedy and indulgent;
Keller, the rose which one hand leaves behind
in the closed fist of a dead man who adored it,
who will never know if it is white or red.
German language, you are your masterpiece:
love interwound in all your compound voices
and open vowels, sounds that accommodate
the studious hexameters of Greek
and undercurrents of jungles and of nights.
Once, I had you. Now, at the far extreme
of weary years, I feel you have become
as out of reach as algebra and the moon.
-A.R.
J.L. Borges
Place
On the last day of the world
I would want to plant a tree
what for
not for the fruit
the tree that bears the fruit
is not the one that was planted
I want the tree that stands
in the earth for the first time
with the sun already
going down
and the water
touching its roots
in the earth full of the dead
and the clouds passing
one by one
over its leaves
Nơi, chỗ
Vào ngày cuối cùng thế giới
Tớ muốn trồng một cái cây
Để làm chi
Không phải để cho trái
Cây cho trái
Không phải cây được trồng
Tớ muốn cái cây đứng,
Trên mặt đất, lần thứ nhất
Với mặt trời
Đã lặn
Và nước
Đụng vô rễ của nó
Trên trái đất đầy người chết
Và mây bay qua
Từng đám, từng đám
Bên trên lá của nó.
Witness
I wanto to tell what the forests
were like
I will have to speak
in a forgotten language
Chứng tích
Tớ muốn nói, rừng nó ra làm sao,
Trông như thế nào, giống cái chi chi
Và tớ sẽ nói, bằng thứ tiếng đã quên
Losing a Language
A breath leaves the sentences and does not come back
yet the old still remember something that they could
say
but they know now that such things are no longer believed
and the young have fewer words
many of the things the words were about
no longer exist
the noun for standing in mist by a haunted tree
the verb for I
the children will not repeat
the phrases their parents speak
somebody has persuaded them
that it is better to say everything differently
so that they can be admired somewhere
farther and farther away
where nothing that is here is known
we have little to say to each other
we are wrong and dark
in the eyes of the new owners
the radio is incomprehensible
the day is glass
when there is a voice at the door it is foreign
everywhere instead of a name there is a lie
nobody has seen it happening
nobody remembers
this is what the words were made
to prophesy
here are the extinct feathers
here is the rain we saw
Mất ngôn ngữ
Hơi thở rời câu kệ và không trở lại
Nhưng những người già vẫn còn nhớ một điều
gì đó mà họ có thể nói
Nhưng họ biết những sự tình như thế chẳng ai còn
tin
Và những người trẻ thì chi có 1 dúm
từ
Rất nhiều điều câu chữ nói về
Không còn hiện hữu
Danh từ, cho, đứng trong sương mù bên cạnh
1 cái cây có ma
Động từ, cho “Tôi”
Những đứa trẻ sẽ không lập lại những câu bố
mẹ nói
Một người nào đó đã thuyết phục
chúng
Tốt hơn, hãy nói mọi điều khác đi
Như thế, chúng sẽ được thán phục, đâu
đó, xa thật xa
Nơi chẳng có chi, ở dây, ở đó biết
Chúng ta có, ít thật ít, những
điều để nói với nhau
Chúng ta thì lầm lạc và tối thui
Trong mắt những người chủ nhân mới
Ra dô, đài thì không thể hiểu
được
Ngày thì là thuỷ tinh
Khi, nghe tiếng nói ở cửa thì là
tiếng ngoại
Ở mọi nơi, thay vì 1 cái tên thì
là 1 lời dối trá
Chẳng ai nhìn thấy nó xẩy ra
Chẳng ai nhớ
Đó là cách mà những từ được
làm ra
Để tiên đoán
Nơi đây là chim muông đã tuyệt
chủng
Nơi đây là cơn mưa chúng ta đã
nhìn
Note: Cuốn mới nhất của W.S. Merwin, Gấu nhớ là
đã giới thiệu mấy bài rồi, kiếm không ra. Bài
sau đây, trên tờ NY, viết về cuốn này, đọc cũng
OK lắm:
The Ascetic Insight of W. S. Merwin: [Tạm dịch: Đốn ngộ khổ
hạnh của W.S. Merwin]
After escaping the anxiety of influence, the poet discovered
a brilliant, elemental poetry.
Sau khi trốn được cái xốn xang của ảnh hưởng,
nhà thơ bèn khám phá ra 1 thứ thơ sáng
sủa, cơ bản
Books
September 18, 2017 Issue
The Ascetic Insight of W. S. Merwin
After escaping the anxiety of influence, the poet
discovered a brilliant, elemental poetry.
Tôi gặp anh Vũ Ngọc Thăng lần đầu vào năm 2006,
tầm tháng Chín tháng Mười gì đó, tại
Hà Nội. Trước đó đã có viết email trao đổi,
hình như qua giới thiệu của Phạm Thị Hoài, nhưng gặp nhau
cũng chẳng nói mấy chuyện; đi theo Italo Calvino hình như
toàn những người không nói lắm. Anh Vũ Ngọc Thăng là
một trong vài người đang sống ở Canada đóng góp cho
dịch thuật tiếng Việt, thuần túy vì văn chương. Hai người nữa
là Nguyễn Khánh Long (Vu khống và Lại chơi với lửa)
và Nguyễn Quốc T...
Cái sừng lửa lớn của ngọn lửa cũ
Bắt đầu lắc lư chính nó, lẩm bẩm
Y hệt 1 ngọn lửa chống lại gió
Và tới tới lui lui ngọn ngọn lửa
Như 1 cái lưỡi thốt nên lời, và phán:
"Khi nào..."
Sau đó, là chấm hết.
Hồi ức, vào lúc đẹp nhất của nó, bèn
phản bội chúng ta.
Gấu nhớ là, đã kiếm ra trọn bài viết, và
đã dịch ra tiếng Mít...
Took a turn whispering in his ear
In some quiet hour of the night,
Telling him how much happier
He'd be if he were to desire nothing,
Urging him to stop dwelling
On the many ups and downs in his life-
Some of them still fresh in his mind-
That brought him to this sorry state,
And make peace with everything
That can't be changed,
Understood, or ever properly resolved-
Like God and one's fate,
And devote his remaining days
To minding that inner light
So that it may let him walk without stumbling
As little by little night overtakes him.
Rất như là nhiều Thằng Cu Gấu
Làm 1 tua thì thầm vào tai anh ta
Vào 1 giờ im ắng nào đó trong đêm,
Mi hạnh phúc biết là bao
Nếu mi đếch muốn 1 cái chó gì!
Thúc vào đít anh ta
Rằng, hãy ngưng luần quần
Về những lên voi xuống chó trong đời
Một số đương tươi rói trong đầu mi
Chính chúng khiến mi lâm vào tình
trạng khốn khổ như lúc này
Hãy làm hòa với tất cả mọi chuyện
Những chuyện không thể nào thay đổi,
Đã được thấu hiểu, hay đã từng được giải đáp
rất ư là tới chỉ
Như Thượng Đế, và phần số một người,
Và dâng hiến những ngày còn lại của
mi
Chăm chút tí ánh sáng nội tại, ở bên
trong mi
Và như thế nó sẽ khiến cho mi đi đứng không
loạng quạng
Khi đêm,
Từng chút, từng chút
Ôm trọn mi
THE LIFEBOAT
That cow left alone tonight
Out in the fields
Does it look up at the stars?
How about the cricket
That has just gone silent?
Was it in awe of what it saw?
The night sky loves
Men and women who climb mountains
To confide in its ear.
O the things I' d say to it
If I were to find myself
Alone in a lifeboat at sea.
Bài này, nhớ là đã làm thịt rồi,
kiếm không ra, bèn làm thịt lần nữa
Thuyền cứu mạng
Con bò bị bỏ lại ngoài cánh đồng mình
ên đêm nay
Liệu nó có mô phỏng Mai Thảo ngẩng lên
bầu trời ngắm sao, mần thơ?
Còn con dế mèn của Bạn Cà
Tại sao lại nín thinh?
Hay đã quá buồn, bèn tự làm thịt mình?
Hay là nó nhìn thấy điều gì quá
ghê rợn
Thí dụ như Bạn Cà quỳ trước nhà đao phủ Mậu
Thân
Xin được vấn an Người?
Bầu trời mê cực mê đờn ông cũng như đờn bà
Trèo lên đỉnh núi
Để thầm thì vào tai nó
Ôi những điều mà Gấu tính nói với nó
Nếu Gấu thấy mình
Minh ên
Trên 1 cái xuồng cứu mạng
Ở giữa biển cả.
Translations of
Akhmatova and Tsvetaeva
by Paul Schmidt
Why is this age worse than all the others? Perhaps
in this: it has touched the point of putrefaction, ...
Berlin có 1 thời là
người yêu của Akhmatova. Trong cuốn "Akhmatova,
thi sĩ, nhà tiên tri", có nhắc
tới mối tình của họ.
Berlin là
nguyên mẫu của “Người khách từ tương
lai”, "Guest from the future", trong “Bài thơ không
nhân vật”, “Poem without a Hero”.
Cuộc gặp gỡ
của cả hai, được báo cáo cho Xì,
và Xì phán, như vậy là
nữ tu của chúng ta đã gặp gián điệp
ngoại quốc, “This mean our nun is now receiving visits
from foreign spies”.
Cuộc gặp gỡ
của họ đậm mùi chiến tranh lạnh. Và
thật là tuyệt vời.
Vào ngày Jan 5,
1946, trước khi về lại Anh [Berlin khi đó
là Thư ký thứ nhất của Tòa ĐS
Anh ở Moscow], Berlin xin gặp để từ biệt.
Kết quả là
chùm thơ “Cinque”, làm giữa Nov 26,
1945 và Jan 11, 1946. Những bài thơ tình
đẹp nhất và bi đát nhất của ngôn
ngữ Nga.
Bài
dưới đây, viết ngày 20 Tháng Chạp,
Akhmatova ví cuộc lèm bèm giữa đôi
ta như là những cầu vồng đan vô nhau:
Sounds die away in the ether,
And darkness
overtakes the dusk.
In a world
become mute for all time,
There are only
two voices: yours and mine.
And to the
almost bell-like sound
Of the wind
from invisible Lake Ladoga,
That late-night
dialogue turned into
The delicate
shimmer of interlaced rainbows.
(II, p. 237)
Tiếng buồn nhạt nhòa
vào hư vô
Và bóng tối lướt lên cõi
chạng vạng
Trong một thế giới trở thành câm
nín đời đời
Vưỡn còn, chỉ hai giọng, của anh và
của em
Và cái âm thanh giống như
tiếng chuông
Của gió, từ con hồ Ladoga vô hình
Cuộc lèm bèm muộn trong đêm
– hay, trong đêm muộn –
Biến thành hai cái cầu vồng
Lù tà mù, mờ mờ ảo ảo, lung
la lung linh
Quấn quít – hay, cuống quít - cuộn
vào nhau.
The last poem of the cycle, written
on January 11, 1946, was more prophetic than Akhmatova realized:
We hadn't breathed the poppies'
somnolence,
And we ourselves
don't know our sin.
What was in
our stars
That destined
us for sorrow?
And what kind
of hellish brew
Did the January
darkness bring us?
And what kind
of invisible glow
Drove us out
of our minds before dawn?
Bài thơ chót
trong chuỗi thơ, hoá ra còn tiên tri hơn nhiều,
so với dự đoán của Anna Akhmatova:
Chúng ta
không thở cái mơ mơ màng của 1 tên phi
xì ke
Và chúng ta, chính chúng
ta, chẳng biết tội lỗi của mình
Điềm triệu nào, ở những vì sao của chúng
ta
Phán, đây là nỗi u sầu phiền muộn
của tụi mi?
Thứ men bia quỉ quái nào
Bóng tối tháng giêng mang tới
cho chúng ta?
Nhiệt tình vô hình nào
Kéo chúng ta ra khỏi thần trí,
trước rạng đông?
(II, p. 239)
In 1956, something unexpected
happened: the man who was to become "Guest from
the Future" in her great work Poem Without a Hero-Isaiah
suddenly returned to Russia. This was the famous "meeting
that never took place”. In her poem, "A Dream" (August
14, 1956), Akhmatova writes:
This dream was prophetic or not
prophetic . . .
Mars shone
among the heavenly stars,
Becoming crimson,
sparkling, sinister-
And that same
night I dreamed of your arrival.
It was in everything
... in the Bach Chaconne,
And in the
roses, which bloomed in vain,
And in the
ringing of the village bells
Over the blackness
of ploughed fields.
And in the
autumn, which came close
And suddenly,
reconsidering, concealed itself.
Oh my August,
how could you give me such news
As a terrible
anniversary?
(II, p. 247)
Another poem, "In a Broken Mirror"
(1956), has the poet compare Petersburg to Troy
at the moment when Berlin came before, because the
gift of companionship that he brought her turned
out to poison her subsequent fate:
The gift you gave me
Was not brought
from altar.
It seemed to
you idle diversion
On that fiery
night
And it became
slow poison
In may enigmatic
fate.
And it was
the forerunner of all my misfortunes-
Let’s not remember
it! ...
Still sobbing
around the corner is
The meeting
that never took place.
(II, p. 251)
Sir Isaiah Berlin.
Cuộc thăm viếng Anna Akhmatova của ông liền sau Đệ Nhị Thế
Chiến, là một trong những lý do khiến bà bị tống
ra khỏi Hội Nhà Văn .
ở nơi. đó
mùa thu về. chậm hơn. giọt nước rơi
ngôì. tô màu. trên
từng chiếc lá
chiếc xe. quẹo vào hẽm. vắng
cứ ngỡ. người về
áo dày. khăn quấn. mũ dạ
cùng phố. mêng mông lá
giữ lại màu. lá cũ
quán. lặng lẽ một ghế. trống
phóng xe. như bay
những con đường. ngắn lại
những xa lộ. ngắn lại
rồi những. tiếng động. thân quen
bàn tay nào? bấu. víu
bọt. thời gian
đường phố nào? hoài cơn say. không
dứt
đợi. một tiếng gõ. cửa
tờ lịch. cũ
in bóng. một lần
Đài Sử
OU YANG HSIU
1007-1072
There's a considerable number of Chinese poems in
this book, for a simple reason: the pictorial qualities of that
poetry, expressed in close cooperation with a calligrapher and
an artist. "Fisherman" is really like a painting. And in fact the
poem has been "translated" into an image by the brush of a painter,
many times imitated and often reproduced in books on Chinese art.
Drizzle and mist form an obstacle to seeing clearly, and this reminds
us that a seeing person-an observer-exists.
Milosz
Có khá nhiều thơ Tầu trong cuốn sách
này, vì 1 lý do giản dị: những phẩm chất
tranh của thơ Tầu. "Ngư Phủ" quả đúng là 1 bức họa.
Thực sự, bài thơ đã được chuyển dịch thành hình
ảnh, bằng nhát cọ của họa sĩ. Mưa phùn và sương
mù tạo thành 1 chướng ngại, làm cảnh vật trở
nên mờ ảo, và điều này nhắc nhở chúng ta,
một người nhìn-một quan sát viên - hiện hữu
FISHERMAN
The wind blows the line out from his fishing pole.
In a straw hat and grass cape the fisherman
Is invisible in the long reeds.
In the fine spring rain it is impossible to see very
far
And the mist rising from the water has hidden the
hills.
Translated from tile Chinese
by Kenneth Rexroth
Ngư phủ
Gió thổi sợi dây ra khỏi cần
Trong nón rơm, áo lá,
Ngư phủn biến thành tàng hình
theo lớp sậy dài
Mưa xuân, dù mịn màng, đủ để ngăn
tầm nhìn
Và sương mù dâng lên từ mặt
nước
Bèn giấu biến mấy ngọn đồi
CAUTE
He'll leave behind dozens of books,
a couple of
engravings, a green coat, one quilt, seven
shirts, and a few other objects.
-Leszek Kolakowski
You open your hand cautiously, it's
blind and dumb. Shameless, stripped bare. Stamped,
entered in the records. Spinoza's friends
are gone now, so are those who denied him,
and the inquisitors of his time,
and the clouds crossing the borders of his time,
and the reasons for his demise likewise no longer obtain;
his coat, quilt, and shirts now
cover no one, new books
are in new bookstores,
exiles in exile, papillary lines
in folders, barbed wire on borders, occupants in apartments,
jurors in boxes, manuscripts in desk drawers, smiles
on lips, blood in veins, workers in workplaces, soldiers
in uniforms, potatoes in stomachs, citizens
in country, documents in pockets, country
inside, foreignness outside, tongue behind teeth, prisoners
in prisons, teeth on concrete, earth in universe
(which either contracts or expands), temperature
in degrees, each in his place, heart
in throat, any questions,
Charles Simic đọc cuốn tiểu
sử của Milosz: Thơ từ Hố Thẳm.
Trên Tin Văn đã giới thiệu bài điểm cuốn
này, của tờ Điểm Sách Hồng Mao, theo GCC, rất OK. Từ
từ làm thịt cả hai.
Czeslaw Milosz
(1911-2004)
A witness or a prophet?
Czeslaw Milosz saw himself as a poet who only happened
to wander in long corridors of history; poetry came first
and went last-he was among the most remarkable poets still creative
in old age. And yet he witnessed more of the dark side of history
than did the majority of his contemporaries. Born as the son of
an engineer who worked for the Russian government, Milosz was a student
and a young poet in between-the-wars Poland, a Resistance member
(though never a combatant) under the Nazi occupation, a middle-rank
diplomat in the postwar People's Republic administration, an exile
in Paris, a U.S. university professor and citizen, and finally
a world-famous poet who returned to Poland (Krakow) during his final
years.
Poetry
was for Milosz the highest vocation-and he never separated
it from thought and philosophy. He was a religious person,
a thinker with a great gift for putting words together. A long
series of his books of poetry was accompanied by a long series
of his collections of essays: what couldn't become a poem was
turned into an essay. His writing was an endless meditation on
the meaning of life, the quest for God, the place of justice in
human society. He gave himself the right-something only great
poets can afford-to attack the most central themes.
Milosz
was passionately interested in other literatures and
cultures; he translated poetry from several languages. Because
he lived and taught in the United States for many decades-though
he never tried to write poetry in English-he was regarded
by many as an American poet and man of letters.
He was a teacher and a friend
to many of his younger acquaintances. Milosz was of
those few writers who not only outlived the monsters of the
twentieth century, but also succeeded in defeating them and
in keeping the serenity of great mind.
AZ: Polish Writers on
Writing
Czeslaw Milosz
(1911-2004)
Một chứng nhân hay một nhà tiên
tri? Milosz coi chính mình như là 1 nhà
thơ mà sự tình chỉ xẩy ra, là, rong chơi
ở những hành lang dài của lịch sử; thơ tới trước, và
đi sau chót – ông là ở trong số những nhà
thơ đáng kể nhất vẫn còn sáng tác trong
tuổi già. Tuy nhiên ông chứng kiến nhiều cái
phần u tối của lịch sử hơn đa số những nhà thơ cùng
thời của ông. Là con 1 vì kỹ sư làm việc
cho nhà nước Nga, Milosz là sinh viên và
nhà thơ trẻ ở giữa những cuộc chiến ở Ba Lan, một thành
viên Kháng Chiến (tuy nhiên chưa từng bắn 1 phát
súng nào, như cas TTT), dưới thời bị Nazi đô
hộ, một nhà ngoại giao trung cấp trong nhà nước thời hậu
chiến, một kẻ lưu vong ở Paris, một giáo sư Đại Học, và
là công dân Mỹ, và sau cùng một nhà
thơ nổi tiếng thế giới trở về Krakow (Ba Lan) trong những năm cuối đời
của ông.
Thơ là một thiên hướng cao nhất
đối với Milosz, và ông chưa từng chia cắt nó,
làm tách rời nó, ra khỏi tư tưởng và
triết học. Ông là 1 con người tôn giáo,
một nhà suy tưởng, với 1 thiên bẩm lớn trong việc
sử dụng từ ngữ, đan xen chúng với nhau, thí dụ vậy.
Những cuốn - xuất hiện như những chuỗi - thơ của ông thì
được đi kèm với những chuỗi tiểu luận: Cái mà
không thể trở thành 1 bài thơ thì bèn
biến thành 1 tiểu luận. Cái viết của ông mà
một trầm tư bất tận về ý nghĩa của cuộc đời, sự tìm
kiếm Thượng Đế, chỗ của công lý trong xã hội con
người. Ông ban cho chính ông, cái quyền
- một điều gì mà chỉ những đấng đại thi sĩ như ông
mới dám đương đầu – tấn công vào đúng
những tử huyệt, đúng tim đen, những đề tài rốt ráo
nhất.
Milosz thực là say mê hết mình,
quan tâm tới chỉ, với những nền văn học văn hóa
khác; ông dịch thơ từ vài ngôn ngữ.
Bởi là vì ông sống và dạy học trong nhiều
thập kỷ ở Mẽo – ông chẳng bao giờ thử làm thơ bằng
tiếng Anh – nên ông bị coi như là một nhà
thơ Mẽo, và là 1 văn nhân, bởi rất nhiều người.
Ông là 1 vị thầy dạy học, và
1 người bạn, đối với những mối quen viết trẻ tuổi hơn. Milosz
là 1 trong 1 số ít, những nhà văn sống
dai hơn những con quỉ của thế kỷ 20, không chỉ thế, mà
còn đánh bại chúng và vưỡn luôn
luôn ở mãi với đời, với cái thanh cao, thanh
thản, tao nhã của một tâm hồn lớn.
Note: Ôi chao, đúng là
thi sĩ viết về thi sĩ. Quá đỗi thần sầu.
Thơ Milosz quả đúng là thứ
thơ trí tuệ, 1 ngọn đỉnh trời!
Có mấy cõi mà Gấu nghĩ
là mình không thể nhập vô được, tới
chỉ, là thơ Brodsky, Milosz, và những bài
viết của Simone Weil, do thiếu cái linh tính, mẫn
cảm, trực giác - chẳng biết gọi là gì -.... mà
chỉ những tín hữu Ky Tô mới có được.
Murakami, khi mặc khải ra mình sẽ
là nhà văn, trong khi coi 1 trận dã cầu
Mẽo, sau đó, vẫn ngạc nhiên, dân Nhật không
tin vào mặc khải, tại sao lại lòi ra mình.
Gấu không có cái may
này, khi đụng vô Ky Tô giáo!
ARS POETICA?
BERKELEY, 1968
I have always aspired to a more spacious form
that would be free from the
claims of poetry or prose
and would let us understand
each other without exposing
the author or reader to sublime
agonies.
In the very essence of poetry
there is something indecent:
a thing is brought forth which
we didn't know we had in us,
so we blink our eyes, as if
a tiger had sprung out
and stood in the light, lashing
his tail.
That's why poetry is rightly
said to be dictated by a daimonion,
though it's an exaggeration
to maintain that he must be an angel.
It's hard to guess where that
pride of poets comes from,
when so often they're put
to shame by the disclosure of their frailty.
What reasonable man would
like to be a city of demons,
who behave as if they were
at home, speak in many tongues,
and who, not satisfied with
stealing his lips or hand,
work at changing his destiny
for their convenience?
It's true that what is morbid
is highly valued today,
and so you may think that
I am only joking
or that I've devised just
one more means
of praising Art with the help
of irony.
There was a time when only
wise books were read,
helping us to bear our pain
and misery.
This, after all, is not quite
the same
as leafing through a thousand
works fresh from psychiatric clinics.
And yet the world is different
from what it seems to be
and we are other than how
we see ourselves in our ravings.
People therefore preserve
silent integrity,
thus earning the respect of
their relatives and neighbors.
The purpose of poetry is to
remind us
how difficult it is to remain
just one person,
for our house is open, there
are no keys in the doors,
and invisible guests come
in and out at will.
What I'm saying here is not,
I agree, poetry,
as poems should be written
rarely and reluctantly,
under unbearable duress and
only with the hope
that good spirits, not evil
ones, choose us for their instrument.
Translated
by Czeslaw Milosz and Lillian Vallee
ARS POETICA?
Tôi luôn thèm, một thể dạng,
rộng rãi hơn
Nó sẽ thấy nó thoải mái
hơn, nếu nói về những đòi hỏi của thơ ca hay văn
xuôi
Và cho phép chúng ra hiểu
nhau hơn,
Không cần phải bày ra những nỗi
thống khổ, tới chỉ, giữa,
Một bên là tác giả, một
bên là độc giả, thì cứ phán đại như
vậy.
Trong cái rất ư là yếu tính
của thơ, có điều gì khiếm nhã, tục tĩu,
dơ dơ…
Một điều gì mà Mít thường
nói, anh đưa cái của anh ra, chị bèn
đáp ứng bằng cái của chị
Không phải theo nghĩa nhơ bẩn,
Một điều gì mà chúng ta
không biết có, ở trong chúng ta
Thế là chúng ta bèn nháy
mắt
Như thể một con hổ phóng ra - chị chìa
của nọ - và đứng sững trong ánh sáng,
quất cái đuôi 1 phát
Chính vì thế mà thơ, đúng
là được phán, bởi quỉ thần
Nói thần thơ, bà chúa
thơ, cái con mẹ gì đó, là nói
quá.
Thật khó mà hãnh diện
tao là thi sĩ, nhớ chưa, nhớ chưa!
Bởi là vì thật khó mà
biết cái hãnh diện đó tới từ đâu
Trong khi thường ra là, làm thơ
chỉ là để tán gái,
Nghĩa là, nó đẩy con người làm
thơ phải bày ra cái sự nhục nhã, tủi hổ,
cái bạc nhược là thi sỡi, của họ.
Một người biết phải trái, sẽ thích
gì, khi ở trong 1 thành phố của quỉ
Chúng sử sự, như thể đây là
nhà của chúng,
Nói bằng nhiều thứ tiếng
Và, không hài lòng với
sự chôm chĩa môi và tay của mình,
Anh ta bèn hành động, bằng cách
thay đổi số mệnh của mình, vì sự tiện lợi của chúng?
Đúng là như thế, cái khốn kiếp,
ghê tởm thì được coi là có giá,
số 1, vào những ngày này
Và như vậy, bạn có thể nghĩ, tôi
chỉ nói dỡn chơi
Hay tôi lại phịa ra, thêm 1 một phương
thức mới
Để vinh danh Nghệ Thuật, với sự trợ giúp
của hài hước.
Có 1 thời, chỉ những cuốn sách dạy
khôn ngoan, minh triết, được viết ra
Chúng giúp chúng ta chịu được
đau khổ và bần cùng
Điều này, nói cho cùng, thì
không hẳn là cũng vậy.
Chẳng khác gì, lật giở hàng
ngàn những tác phẩm mới tinh, còn cáu
cạnh, từ những bịnh viện tâm thần, nhà thương điên.
Tuy nhiên, thế giới, thì khác
so với vẻ bề ngoài của nó
Và chúng ta cũng khác, cái
thứ chúng ta nhìn chúng ta, từ những đam mê,
đắm đuối của mình.
Con người, do đó, bèn gìn giữ
cái trọn vẹn câm lặng
Để được hàng xóm, họ hàng,
bà con kính nể.
Mục đích của thơ ca là để nhắc nhở
chúng ta
Rằng, thật khó mà cứ trọn 1 cục, trọn
1 người, toàn vẹn, không sứt mẻ.
Bởi là vì nhà của chúng
ta thì cửa mở toang hoác, lại không có
gắn khoá cửa,
Và những vị khách vô hình
thì cứ vô tư, thoải mái ra vô.
Điều mà tôi phán ở đây,
không phải là thơ ca, OK.
Khi mà những bài thơ nên được
viết, một cách hiếm hoi, ngần ngại
Với 1 sự cứng rắn không làm sao chịu
đựng nổi, và chỉ với hy vọng
Rằng những tinh anh tốt, cái tâm linh
thiện, không phải cái quỉ ma, hay "cái ác
bắc kít", chọn chúng ta, như là đồ nghề của chúng.
Note: Ui chao, bài thơ quá thần sầu,
thảo nào AZ đưa vô tuyển tập của ông.
Bản dịch, dởm, nhưng chí ít, nó
cũng lộ ra được, phần nào, "Ars Poetica" là gì,
vào lúc này, với lũ Mít!
PAGES FROM A DIARY
The Hut
I WAS BORN IN THE same year as Charlie Chaplin,
Tolstoy's Kreutzer Sonata, the Eiffel Tower, and, it seems, T.
S. Eliot.' That summer Paris celebrated the one-hundredth anniversary
of the fall of the Bastille-1889. The ancient festival of St. John's
Eve (Midsummer Night) was-and is still-celebrated on the night of
my birth, June 23rd. I was named Anna in honor of my grandmother,
Anna Yegorovna Motovilova.' Her mother, a descendant of Genghis Khan,
was the Tatar princess Akhmatova, whose name I took for my literary
name, not realizing that I was about to become a Russian poet. I
was born in Sarakina's dacha (Bolshoi Fontan, the 11th railroad stop)
near Odessa. This little dacha (more like a hut) was situated at the
bottom of a very narrow and steep tract of land next to the post office.
The seashore there is steep and the railroad tracks went along the very
brink. When I was fifteen years old and we were living in the dacha at
Lustdorf, we were traveling through this area for some reason, and my
mother suggested that we go and see Sarakina's dacha, which I had never
seen. At the hut's entrance I said, "Some day they'll put up a memorial
plaque here." I wasn't being vain. It was just a silly joke. My mother
was distressed. "My God," she said, "how badly I've brought you up."
1957
... I Know How to Love
I know how to love.
I know how to be submissive and
tender.
I know how to gaze into one's eyes with a smile,
Beckoning, inviting, vacillating.
And my supple figure is so airy and graceful
And the fragrance of my curls caresses.
0, he who is with me is uneasy in his soul
And embraced by sweet bliss ...
I know how to love. I am deceptively shy.
I am so timidly tender and always quiet,
Only my eyes speak.
They are clear and pure,
So translucently radiant,
They promise happiness.
If you believe them, they will deceive you.
They will only become bluer,
They are both tenderer and brighter
Than the pale blue gleam of a fire.
And on my lips is scarlet bliss,
My breast is whiter than mountain snow,
My voice murmurs of azure streams.
I know how to love. A kiss
awaits you.
Yevpatoriya, 1906
[Trong thư gửi Sergei Vladimirovich]
Ta biết yêu
Ta biết làm ra vẻ phục tùng, dịu dàng
Như thế nào, khi nhìn vào mắt
với nụ cười
Gật gật cái đầu, mời mọc, run lẩy bẩy
Và khuôn mặt của ta ư, làm ra
vẻ chịu đựng, luồn cúi, làm ra vẻ xa vắng, làm
ra vẻ khả ái như thế nào
Và những nét cong mềm mại vuốt ve
Ôi chao, chàng là ai mà
vào lúc này hồn dưng không quằn quại
Bên… tui
Ngọt ngào ân sủng
Tôi biết yêu là như thế nào
Và tôi mới ngượng ngùng làm
sao
Cái gì gì, đừng nhìn như
tôi như thế làm tôi phát ngượng!
Ôi, em mới bẽn lẽn rụt rè làm
sao, và luôn luôn, đời đời trầm lặng
Chỉ đôi mắt em, nói.
'YOU'RE LIKE A STRANGE AND
VERY STRICT DIET'
You're like a strange and very strict diet;
I'm learning to obey and be quiet.
Your love, my lover, my squire,
Is a trial by iron and fire.
You forbid me to sing and to smile,
And praying's been banned for quite a while.
As long as we don't separate,
You think everything's great!
So, a stranger to everything,
I live and no longer sing.
You might just as well
Forbid me heaven and hell.
December 1917
Anna Akhmatova Translated by D.M. Thomas
Chàng như kẻ lạ và
rất ư là kiêng khem
Tôi học vâng lời và im lặng
Tình yêu của chàng, người yêu
của tôi, cận vệ của tôi
Là một thử thách bằng sắt và bằng
lửa
Chàng cấm tôi hát và mỉm cười
Và cầu nguyện đã bị bãi bỏ, từ một
thuở hồng hoang nào, thì đúng là như vậy!
Kể từ khi đôi ta đừng phân rẽ, anh đi đường
anh, tôi đường tôi
Và chàng phán, mọi điều OK!
Và như thế, dửng dưng với tất cả mọi điều, mọi
chuyện
Tôi sống, và không hát hò
Chàng cấm tôi, như thế, là cả thiên
đàng lẫn địa ngục.
This craft of ours, sacred
and bright,
Has lasted too many years to tell .
. .
The world is lit by it without light,
But, still, a poet has yet to dwell
On the thought that there's no wisdom
or hell,
No age and, perhaps, no death as well.
1944
Anna Akhmatova
Thủ bản này -Tứ
Tấu Khúc - của chúng ta, thiêng liêng
và sáng ngời
Nó sẽ sống dài dài
rất nhiều năm để kể….
Thế giới được chiếu sáng nhờ
nó, đếch cần đến ánh sáng
Tuy nhiên, thi sĩ Gấu Cà
Chớn thì vưỡn cư ngụ - trong căn nhà của hữu
thể, thì cứ chôm đại chữ của Heidegger –
Khư khư với cái ý nghĩ,
là,
Làm đếch gì có
minh triết, hay địa ngục
Không tháng năm, tuổi tác,
thế hệ, thời kỳ cái con mẹ gì hết
Và có lẽ
Đếch có, luôn, cả, cái
chết!
ANNA Swirszczynska [Swir] was born in Warsaw, daughter
of a painter, and grew up in an artistic milieu. Her first volume, short
prose-poems published in 1936, secured for her the reputation of
a refined crafts woman consciously drawing from medieval Polish poetry
and from the imagery of painting. The years spent in Nazi-occupied
Warsaw and her service as a military nurse during the Warsaw Uprising
of 1944 marked her profoundly, but she f...
Anna Swir sinh tại Warsaw, bố là họa sĩ, lớn lên
trong môi trường nghệ thuật. Tác phẩm đầu tay, những
bài thơ xuôi ngắn, xb năm 1936 đã bảo đảm với thiên
hạ, đây là một nữ thi sĩ rất ư là ưu tư về việc
làm thơ, và thơ của bà lấy nguồn từ thơ Ba Lan
thời trung cổ, và từ hình ảnh hội họa. Những năm Warsaw
bị Nazi đô hộ, và thời gian phục vụ, như nữ y tá
trong quân ngũ, trong cuộc nổi dậy Warsaw Uprising 1944, tạo ấn
tượng sâu đậm ở nơi bà, nhưng phải những năm sau đó,
nó mới khiến bà tìm ra được một thể loại xứng đáng
với những kinh nghiệm này.
Như chính bà nói, một nhà văn
thì có hai nhiệm vụ cơ bản, thứ nhất, kiếm ra 1 văn
phong riêng cho mình, thứ nhì, huỷ diệt nó.
Cái nhiệm vụ thứ nhì thì rất ư là khó
khăn.
Bà tới được cái “goal” này - một văn
phong trần trụi bám chặt vào thực tại – vào lúc
muộn màng ở trong đời của bà, thập niên 1970, nhưng
những ai biết những dòng thơ đầu đời của bà, thì
nhận ra, cái lô gic nội tại của phát triền, nảy nở.
Vào cái lúc trưởng thành rất ư là
bảnh tỏng của mình, bà là tác giả của những
bài thơ, nữ tính, dữ dằn, cũng như là những bài
huê tình tàn ác, dã man, "của 1 thứ
súc tích hiếm hoi". Ký của bà, về cuộc nổi
dậy, gồm có những bài thơ miêu tả, căng thẳng, “Xây
dựng 1 chiến tuyến”, xuất hiện năm 1972. [Bài thơ này, Mít
đọc, thì bèn nhớ đến "Hãy cho anh khóc bằng
mắt em, những cuộc tình duyên Budapest", của TTT]
Bà thì thật là hung dữ, sáng suốt,
tới đỉnh, cực kỳ ngây ngất… khủng khiếp.
Tuy được coi là nhà thơ thần sầu, nhưng lại chiếm
giữ 1 vị trí riêng lẻ, có lẽ là do bà
rất tởm lũ phê bình gia!
Bài thơ dưới đây, cũng trong The Book of Luminous
Things, và được cho vô chương "da thịt đờn bà",
của 1 nhà thơ nữ Ba Lan rất được Milosz trọng nể và giới
thiệu nhiều bài, được minh họa bằng bức Nuy thì hết sẩy
con cào cào.
*
ANNA SWIR
1909-1984
Anna Swir wrote many poems about flesh. I wonder whether
she was too brutal for her readers in Poland, or whether her feminism
contributed to her being less valued than she should have been. Her
love poems are somewhat strange in that they are not confessional.
Milosz
THANK YOU, MY FATE
Great humility fills me,
great purity fills me,
I make love with my dear
as if I made love dying
as if I made love praying,
tears pour
over my arms and his arms,
I don't know whether this is joy
or sadness, I don't understand
what I feel, I'm crying,
I'm crying, it's humility
as if I were dead,
gratitude, I thank you, my fate,
I'm unworthy, how beautiful
my life.
Translated from the Polish by Czeslaw Milosz and Leonard
Nathan
Cám ơn mi, số phận đờn bà
của ta
Khiêm nhường nhớn lấp đầy ta
Trong trắng nhớn tràn đầy ta
Ta hầu hạ chồng ta
Như thể ta mần tình, chết
Như thể ta mần tình, cầu nguyện
Nước mắt tuôn đầy tay ta, tay ông chủ, đấng quân
vương, của ta
Ta không biết đó là vui
Hay buồn,
Ta không biết cái ta cảm,
Và ta khóc
Ta khóc
Đó là sự khiêm nhường
Như thể ta đã chết
Với lòng biết ơn, ta cám ơn mi, phần số của
ta
Ta không xứng đáng,
Ui chao, sao mà đời ta lại tuyệt vời đến như thế!
Dịch nhảm quá, tên GCC!
Tuyet
NguyenBài thơ buồn chết người với những câu
...as if I made love dying / as if I made love praying / tears poor...
TN muốn dịch như vầy bác ạ, ... như thể ta làm tình
khi đang chết dần / như thể ta làm tình khi cầu nguyện
/ ... Bác duyệt há.
Quoc Tru
NguyenTôi thay bằng cái dấu phảy, cho
nhẹ câu thơ. Tks
CONSTANTINE CAVAFY
1863-1933
This poem has often been quoted, because it fits well the
division of Europe, after World War II, by the Cold War. Nobody seems
to have paid attention to the date of its writing, 1898. Cavafy, though
he explored in his poems all the aspects of his Hellenistic world, including
the Greek-speaking Byzantine empire, understood the word "barbarian"
in its original Greek meaning, as applied to all those who are outside
and have, instead of human speech, incoherent gibberish. His intuition
allowed him to capture a centuries-old opposition between the inside and
the outside of civilization.
Milosz
Bài thơ này, thường
được trích dẫn, vì nó thật hợp với sự phân chia
của Âu Châu, sau Đệ Nhị Thế Chiến, bởi Cuộc Chiến Tranh
Lạnh. Hình như chẳng có ai để ý đến cái
chuyện là bài thơ được làm vào năm 1898.
Cavafy, mặc dù khai triển trong bài thơ của mình
những sắc thái của thế giới La Hy của ông, bao gồm luôn
cả đế quốc Byzantine nói tiếng Hy Lạp, đã hiểu từ “rợ” theo
cái nghĩa cổ xưa của tiếng Hy Lạp, như nó được áp
dụng cho những người ở bên ngoài, và, thay vì
nói tiếng người, thì nói 1 thứ tiếng chí choé
không làm sao hiểu được! Trực giác của ông cho
phép ông nắm bắt được sự đối nghịch từ bao nhiêu đời
giữa Đàng Ngoài và Đàng Trong của 1 nền văn
minh!
WAITING FOR THE BARBARIANS
What are we waiting for, assembled
in the forum?
The barbarians are due here today.
Why isn't anything going on in the senate?
Why are the senators sitting there without legislating?
Because the barbarians
are coming today.
What's the point of
senators making laws now?
Once the barbarians
are here, they'll do the legislating.
Why did our emperor get up so early,
and why is he sitting enthroned at the city's main gate,
in state, wearing the crown?
Because the barbarians
are coming today
and the emperor's waiting
to receive their leader.
He's even got a scroll
to give him,
loaded with titles,
with imposing names.
Why have our two consuls and praetors come out today
wearing their embroidered, their scarlet togas?
Why have they put on bracelets with so many amethysts,
rings sparkling with magnificent emeralds?
Why are they carrying elegant canes beautifully worked in
silver and gold?
Because the barbarians
are coming today
and things like that
dazzle the barbarians
Why don't our distinguished orators turn up as usual
to make their speeches, say what they have to say?
Because the barbarians are coming today
and they're bored by rhetoric and public speaking.
Why this sudden bewilderment, this confusion?
(How serious people's faces have become.)
Why are the streets and squares emptying so rapidly,
everyone going home lost in thought?
Because night has fallen
and the barbarians haven't come.
And some of our men
just in from the border say
there are no barbarians
any longer.
Now what's going to happen to us without barbarians?
Those people were a kind of solution.
Translated from the Greek by Edmund Keeley and Philip Sherrard
Czeslaw Milosz tuyển chọn &
giới thiệu
Note: Bạn đọc bài thơ này, không thể
không nghĩ đến cái cảnh Big Minh chờ VC tới để bàn
giao Miền Nam!
Nhưng cái cảnh Bắc Kít đón Tập mấy bữa
nay, để bàn giao xứ Mít, thê lương hơn nhiều
Đợi bọn rợ
Đợi cái chi chi, chúng ta họp ở đây,
ở diễn đàn này?
Đám rợ tới hẹn lại lên, là bữa nay
Thế thì cái gì xẩy ra ở Thượng Viện?
Tại sao mấy đấng nghị sĩ lại ngủ gà ngủ gật không
chịu làm luật?
Một khi đám rợ tới, thì để tụi nó làm
luật.
Tại sao mới sáng sớm Big Minh đã ngồi ở Dinh
Gia Long,
Y phục chỉnh tề,
đầu đội vương miện VNCH?
Bởi vì bữa nay đám rợ tới,
Và Big Minh chủ tịt VNCH ngồi ở Dinh GL,
chờ gặp chủ tướng của bọn rợ là me-xừ Bùi Tín
để bàn giao Miền Nam.
Không thấy tay Người cầm bản đồ Miền Nam,
cùng là danh sách kho tàng, của
cải, tiền bạc, kim quí… ?
Tại sao hai vị Cố Vấn Tối Cao và Thủ Lĩnh Quân
Đội VNCH
cũng có mặt bữa nay?
Kìa coi kìa, hai vị áo choàng,
khăn choàng xúng xính,
Tại sao họ đeo nhiều vòng tay đính rất nhiều
thạch anh,
Những chiếc nhẫn đính rất nhiều kim cương?
Tại sao họ chống những cây ‘quốc trượng’ vàng,
‘quốc trượng’ bạc?
Bởi vì bọn rợ tới ngày hôm nay
Và những vật như thế làm choáng mắt
chúng.
Tại sao những nhà diễn thuyết bậc Thầy
của Miền Nam chúng ta không xuất hiện,
với những bài diễn văn thần sầu của họ?
Ui chao, bọn rợ không khoái tí nào,
ba thứ văn chương tu từ,
hào nhoáng, thùng rỗng kêu to,
và những bài nói chuyện dành
cho công chúng.
Tại sao cái sự hỗn độn hoang mang như thế đó?
(Kìa coi kìa, vẻ mặt mọi người mới nghiêm
trọng làm sao)
Tại sao phố xá vắng hoe,
quảng trường chẳng còn một mống, nhanh đến như vậy?
Mọi người đều về nhà ư, họ mất trí hay sao?
Bởi vì đêm xuống, mà bọn rợ vưỡn chưa
thấy tới
Và mấy tên lính VNCH gác ở Bến
Hải cho biết,
chẳng còn bọn rợ nào hết!
Nothing visits the silence,
No apparition of lilac,
But an inexplicable lightness
I sense when I breathe your name.
It's not All Souls'. The planet
Spins on without you, Anna.
You're now the Modigliani
Abstract. No candles flame
To amass shadows. Light elected
You. Annenkov's portrait ... erect head
That tilts with a swan's curve
Towards the Neva, towards the living
Surge of the iced river
That will not stop nor
swerve
But plunge, if need be, within you ...
Till room and time started
spinning,
I've
gazed, I've tried to splinter
With love that smiles at stone
This photo of nineteen-twenty,
The only one where your tender
Pure and gamine face, grown
One with the page you've entered,
Blurs at the lips, half-surrenders
A smile ... And your lips
open
To me,
or familiar Chopin ...
It must have been a dream.
But dreams are something substantial,
The Blue Bird, the soft
embalmer.
It doesn't
smell of catacombs
There, and your black fringe is no nimbus.
A cathedral bell tolls
dimly.
The
unmoving stylus hums.
So deep has been this trance,
Surely its trace fell once,
Caught your eyes and startled
you,
Between the legendary embankment
And your House on the Fontanka?
I, like the woman who
Had touched the healer's soul,
Find everything made whole
In your poetry's white
night,
Envy the poor you kept watch
With, outside the prison; the touch
Of a carriage-driver, your
slight
Hands bearing down with a spring, one
Moment in the tense of his fingers.
Poems outlive a Ming case,
But
your ageing portraits bring me
The rights of a relative
To grieve. Tonight alone I could spare
All that is written here
To restore
the chaos where
The Neva deranges your hair,
You laugh, weep, burn notes, live.
Note: D.M. Thomas, nhà văn, nhà thơ, dịch giả,
tác giả cuốn tiểu sử Solzhenitsyn. Chuyên gia về văn học
Nga. Ông nhận viết tiểu sử Solz, như 1 thách đố với chính
ông.
Gần như chưa ai dám đụng vô tiểu sử của Solz. Cuốn
tiểu sử của Solz, cách viết, lập đi lập lại những chương hồi,
là theo cấu trúc những trại tù, cứ thế lập đi lập
lại, nhân thêm lên mãi, cùng sự hoán
đổi hai hình tượng, Thiên Sứ và Quỉ Đỏ.
GCC chôm, làm trang Tin Văn, mở ra là hình
ảnh Thiên Sứ của Sến, khép lại bằng Con Quỉ Chuồng Heo
trong Y Sĩ Đồng Quê của Kafka.
Cuốn này, là sách gối đầu giường của GCC.
Cô Út, nhân bố đi chơi với cháu trong dịp hè,
bèn chở cả kho sách, cho bịnh viện, để họ bán xon
lấy tiền cho bịnh nhân.
Bố đừng đọc sách nữa. Chơi với cháu, không
khoẻ hơn sao?
Cuốn trên, cũng sách xon, thư viện thải ra. Mua
thêm được cuốn Milosz giới thiệu thơ Ba Lan hậu chiến. Cũng OK
lắm.
'YOU'RE LIKE A STRANGE AND
VERY STRICT DIET'
You're like a strange and very strict diet;
I'm learning to obey and be quiet.
Your love, my lover, my squire,
Is a trial by iron and fire.
You forbid me to sing and to smile,
And praying's been banned for quite a while.
As long as we don't separate,
You think everything's great!
So, a stranger to everything,
I live and no longer sing.
You might just as well
Forbid me heaven and hell.
Anna Akhmatova Translated by D.M. Thomas
TU FU
713-770
Rexroth
translated much Tu Fu, the leading poet of the Tung Dynasty. As far as
I know, he was helped by French translations. Nevertheless, comparing
his versions with others, I admire his conciseness and choices of image.
In "Sunset" Tu Fu enumerates actions of nature and of people at dusk-time
(a series of moments).
Mention of the "thousand cares" at the end of the poem
introduces duration, and thus the poem, though it praises the very
capturing of a moment, also expresses joy at the wine's ability to
liberate us from the burden of the past.
Milosz
SUNSET
Sunset glitters
on the beads
Of the curtains. Spring flowers
Bloom in the valley. The gardens
Along the river are filled
With perfume. Smoke of cooking
Fires drifts over the slow barges.
Sparrows hop and tumble in
The branches. Whirling insects
Swarm in the air. Who discovered
That one cup of thick wine
Will dispel a thousand cares?
Translated from the Chinese by Kenneth Rexroth
TU FU
713-770
Rexroth translated
much Tu Fu, the leading poet of the Tung Dynasty. As far as I know, he
was helped by French translations. Nevertheless, comparing his versions
with others, I admire his conciseness and choices of image. In "Sunset"
Tu Fu enumerates actions of nature and of people at dusk-time (a series
of moments).
Mention of the "thousand cares" at the end of the poem introduces
duration, and thus the poem, though it praises the very capturing of
a moment, also expresses joy at the wine's ability to liberate us from
the burden of the past.
Milosz
SUNSET
Sunset glitters
on the beads
Of the curtains. Spring flowers
Bloom in the valley. The gardens
Along the river are filled
With perfume. Smoke of cooking
Fires drifts over the slow barges.
Sparrows hop and tumble in
The branches. Whirling insects
Swarm in the air. Who discovered
That one cup of thick wine
Will dispel a thousand cares?
Translated
from the Chinese by Kenneth Rexroth
Bài thơ dưới đây, cũng
trong The Book of Luminous Things, và được cho vô chương
"da thịt đờn bà", của 1 nhà thơ nữ Ba Lan rất được Milosz
trọng nể và giới thiệu nhiều bài, được minh họa bằng bức
Nuy thì hết sẩy con cào cào.
ANNA SWIR
1909-1984
Anna Swir wrote many poems about flesh.
I wonder whether she was too brutal for her readers in Poland, or whether
her feminism contributed to her being less valued than she should have
been. Her love poems are somewhat strange in that they are not confessional.
Milosz
THANK YOU, MY FATE
Great humility fills me,
great purity fills me,
I make love with my dear
as if I made love dying
as if I made love praying,
tears pour
over my arms and his arms,
I don't know whether this is joy
or sadness, I don't understand
what I feel, I'm crying,
I'm crying, it's humility
as if I were dead,
gratitude, I thank you, my fate,
I'm unworthy, how beautiful
my life.
Translated from the Polish by Czeslaw
Milosz and Leonard Nathan
Cám ơn mi, số phận đờn bà
của ta
Khiêm nhường nhớn lấp đầy ta
Trong trắng nhớn tràn đầy ta
Ta hầu hạ chồng ta
Như thể ta mần tình, chết
Như thể ta mần tình, cầu nguyện
Nước mắt tuôn đầy tay ta, tay ông chủ, đấng quân
vương, của ta
Ta không biết đó là vui
Hay buồn,
Ta không biết cái ta cảm,
Và ta khóc
Ta khóc
Đó là sự khiêm nhường
Như thể ta đã chết
Với lòng biết ơn, ta cám ơn mi, phần số của ta
Ta không xứng đáng,
Ui chao, sao mà đời ta lại tuyệt vời đến như thế!
At any moment in our life we are entangled
in all the past of humanity, and that past is primarily language,
so we live as if upon a background of incessant chorus, and of course
it is possible to imagine the presence of everything which has ever
been spoken.
Milosz
Ở bất cứ khoảnh khắc nào của cuộc đời của chúng
ta, thì đều quấn quít trong trọn 1 cõi quá
khứ nhân gian, cái quá khứ này, trước tiên
có tính ngôn ngữ, và như thế, chúng
ta sống ở trong 1 đống nhạc sến, đồng giao đồng ca... không
lúc nào ngừng, và tất nhiên, THNM, chúng
ta bèn tưởng tượng ra mọi thứ, mọi điều chưa từng được thốt thành
lời
UTTERANCE
Sitting over words
very late I have heard a kind of whispered sighing
not far
like a night wind in pines or like the sea in the dark
the echo of everything that has ever
been spoken
still spinning its one syllable
between the earth and silence
Úi Một Phát
Ngồi lên 1 đống chữ
Mãi sau đó tôi nghe có tiếng
thở dài thầm, đâu đó, không xa
Như gió đêm trong đám thông
Như biển trong bóng tối
Tiếng vọng của mọi thứ chưa từng được thốt lên
Vưỡn cố rặn ra 1 âm tiết
Giữa trái đất và sự câm nín.
THE BEGGAR'S SONG
Always I go from gate to gate,
rained on, scorched by the sun;
suddenly I press my right ear
into my right hand.
And now my own voice comes to me
as if I'd never known it.
So that I'm not certain who's crying out,
I or someone else.
I cry for a pittance.
The poets cry for more.
At last I close my face
by closing both my eyes;
lying so heavy in my hand
it almost looks like rest.
So they won't think I hadn't
a place to lay my head.
Rilke
in The Essential Rilke
Bài ca của người hành khất
Luôn luôn đi từ cổng này qua cổng khác
Mưa mặc mưa, nắng kệ nắng;
Bất thình lình tôi đè mạnh tai
phải vào tay mặt.
Và bây giờ tiếng nói của chính
tôi lọt vô tai
Như thể tôi chưa từng biết nó
Như thế, tôi không chắc rằng ai đang khóc
Tôi, hay là ai khác
Tôi khóc là vì tiền thiên
hạ bố thí ít ỏi
Những đấng thi sĩ khóc, vì nhiều
Sau cùng tôi ôm mặt
Nhắm cả hai mắt
Đầu đè nặng lên tay
Trông đúng như nằm nghỉ
Như thế, họ không nghĩ
Tôi không có nơi đặt đầu
Note: Không hiểu ý nghĩa của bài thơ,
và không chắc, ý nghĩa của nó mắc mớ tới
bài thơ của W.S. Merwin.
Thơ vốn đã khó hiểu, mà thơ của Rilke
lại càng khó hiểu. Nhưng Coetzee, trong 1 bài
về Rilke cho biết, trong một, trong rất nhiều vụ thăm dò ý
kiến bạn đọc, năm 1999, của Folio Society, một câu lạc bộ sách
của Anh, về câu hỏi, hãy kể ra năm Bài Thơ của Thế
kỷ, bốn bài được nêu ra, là của những nhà
thơ tiếng Anh, [cũng chẳng có gì đáng kinh ngạc]:
Yeats, Eliot, Auden, Plath. Nhưng bài thơ thứ năm, là của một
nhà thơ tiếng Đức, Rainer Maria Rilke. Và là một bài
thơ khó nhai: Duino Elegies.
Black and enduring separation
I share equally with you.
Why weep? Give me your hand,
Promise me you will come again.
You and I are like high
Mountains and we can't move closer.
Just send me word
At midnight sometime through the stars.
1946
Trong mơ
Xa cách, đen thui và dai
như đỉa
Ta chia đều với mi
Tại sao khóc? Già rồi mà
còn vãi lệ hoài, không sợ con nít
nó cười cho ư?
Đưa tay ra, ta cho phép mi cầm tay ta,
như lần từ giã chót, trên chiếc xe mà
ta mượn của 1 người bạn
Hãy hứa với ta, mi sẽ lại qua Cali,
thăm ta.
Ta và mi là hai ngọn đỉnh trời,
Sừng sững, khó mà gần gũi nhau
hơn.
Hãy mail cho ta, vậy là OK rồi
Vào lúc nửa đêm, cỡ đó,
Qua những vì sao.
To Seagull, en attendant Noel.
Take Care
Missing U
GNV
****
It is your lynx eyes, Asia,
That spied something in me,
Teased it out, occult
And born of stillness,
Oppressive and difficult
Like the noon heat in Termez.
As though pre-memory's years
Flowed like lava into the mind ...
As if I were drinking my own tears
From a stranger's cupped hands.
1945
Anna Akhmatova
Everyman’s Library
THE WILLOW
And a decrepit bunch of trees.
Pushkin
I grew up where all was patterned and silent,
In the cool nursery of the age, itself young;
I didn't like human words, spoken or sung,
But I understood what the wind meant.
I liked burdock and nettles but the willow tree,
The silver willow, I liked especially.
It lived gratefully with me till now
And with its weeping branches seemed
To make dreamlessness like something dreamed.
It's hard to believe I outlived it somehow.
There's a stump. And in alien tongues, other
willows
will
Be saying whatever it is they say
Under our skies, under theirs. I'm completely
still.
It's as if my brother had died today.
1940
Translated by Lyn Coffin
WILLOW
In the young century's cool nursery,
In its checkered silence, I was born.
Sweet to me was not the voice of man,
But the wind's voice was understood by me.
The burdocks and the nettles fed my soul,
But I loved the silver willow best of all.
And, grateful for my love, it lived
All its life with me, and with its weeping
Branches fanned my insomnia with dreams. But
- Surprisingly enough! - I have outlived
It. Now, a stump's out there. Under these skies,
Under these skies of ours, are other
Willows, and their alien voices rise.
And I am silent ... As though I'd lost a brother.
Everyman's Library
Liễu
Và một nhúm
cây già
Pushkin
Tôi lớn lên khi
tất cả đều tỏ ra gương mẫu và im lặng
Trong cái thời đại mát
mẻ của vườn ươm cây, chính nó thì
cũng trẻ măng;
[Câu này dịch trật: Trong cái
nhà trẻ mát mẻ của thời đại, chính nó
thì cũng trẻ măng]
Tôi không ưa tiếng người, nói
cũng thế, mà hát thì lại càng chính
thế;
Nhưng tôi hiểu, gió nghĩa là
gì.
Tôi mê burdock, tầm ma, nhưng đặc biệt,
liễu, cực mê liễu bạc
Tôi sống thật biết ơn cùng với nó
cho tới bây giờ
Và với những nhánh liễu rưng rưng,
thì một điều gì không mơ mộng cũng trở
thành mộng mơ
Thật khó mà tin được tôi sống
dai hơn nó, cho tới lúc này.
Một cái gốc cây. Và trong những
âm điệu ngoại lai, những loài liễu khác
sẽ nói bất cứ điều gì chúng nói
Dưới bầu trời của chúng ta, dưới bầu trời
của chúng.
Tôi nín thinh.
Như thể người anh của tôi mất bữa nay.
11 juin [1960]. De l'hôpital
Botkine, Anna Akhmatova écrit à la mémoire
de Pasternak:
Oedipe aveuglé guidé
par sa fille,
La muse l'a conduit jusqu'à
sa mort.
Un tilleul fou, auprès de ma
fenêtre
A fleuri seul en ce mai de douleur,
Juste à l'endroit où
il m’avait confié
Qu'il voyait serpenter devant ses yeux
Un sentier d'or aux ailes déployées
Où le gardait la volonté
des cieux
Traduction Michel Aucouturier,
Revue des Belles-Lettres,
mars 1996.
Source: Pasternak,
éd Quarto Gallimard [NQT]
TO THE MEMORY OF A POET
Like a bird, echo will answer
me.
B.P. (Boris Pasternak)
1.
That singular voice has stopped:
silence is complete,
And the one who spoke with forests
has left us behind.
He turned himself into a life-giving
stalk of wheat
Or the fine rain his songs can call
to mind.
And all the flowers that hold this
world in debt
Have come into bloom, come forward
to meet this
death.
But everything stood still on the planet
Which bears the unassuming name ...
the Earth.
2.
Like the daughter of Oedipus
the blind,
Toward death the Muse was leading the
seer.
And one linden tree, out of its mind,
Was blooming that mournful May, near
The window where he told me one time
That before him rose a golden hill,
With a winged road that he would climb,
Protected by the highest will.
1960
Boris Pasternak: 1890-1960, renowned
Russian poet and novelist.
Source: Anna Akhmatova, Poems, selected and
translated by Lyn Coffin [NQT]
Oedipe mù, được cô con
gái dẫn dắt
Nữ thần thi ca đưa anh tới cái
chết của mình
Một bông hoa đoan, khùng,
độc nhất,
Nở, vào đúng Tháng
Năm đau buồn đó
Ở gần cửa sổ
Nơi ông đã có lần
tâm sự cùng tôi
Ông nhìn thấy dựng lên
một cảnh đồi vàng
Cùng con đường dốc có
cánh
Và ông trèo lên
Được bảo vệ bởi Thánh Ý.
Life is for others, not for you,
Cold in the snow you lie,
Bayonets made twenty-eight wounds,
Bullets-another five.
A garment of new grief I made,
I sewed it for my love.
Oh Russian earth, it loves the taste,
It loves the taste of blood.
Akhmatova
Đời dành cho kẻ khác,
đâu phải cho anh Tuyết lạnh anh nằm Lưỡi lê anh lãnh:
hai mươi tám mũi Cộng thêm năm vết
đạn Tấm áo, nỗi đau
mới, Tôi may nó
cho tình tôi. Ôi đất Nga ơi, mi
yêu mùi vị, Của máu
It was not, however, as a research
editor or a memoirist but as a poet that Akhmatova gave her
most immediate, personal response to the deaths of Gumilyov
and Blok and the destruction of the world of her youth. After the
virtual silence of 1920, Akhmatova wrote some thirty-four
poems in 1921, eleven of which are specifically dated August 1921.
These poems are filled with images of bitter and irreversible separation,
violence, and death. They reflect not only Akhmatova's personal
agony, but the agony of her country. Thus in one lyric of eight simple
and devastating lines she uses traditional folk diction and imagery
to evoke the lament of a Russian peasant Everywoman.
IN MEMORY OF MIKHAIL BULGAKOV
This, not graveyard roses, is my gift;
And I won't burn sticks of incense:
You died as unflinchingly as you Jived,
With magnificent defiance.
Drank wine, and joked - were still the wittiest,
Choked on the stifling air.
You yourselflet in the terrible guest
And stayed alone with her.
Now you're no more. And at your funeral feast
We can expect no comment from the mutes
On your high, stricken life. One voice at least
Must break that silence, like a flute.
O, who would have believed that I who have
been tossed
On a slow fire to smoulder, I, the buried days'
Orphan and weeping mother, I who have lost
Everything, and forgotten everyone, half-crazed
_
Would be recalling one so full of energy
And will, and touched by that creative flame,
Who only yesterday, it seems, chatted to me,
Hiding the illness crucifying him.
House on the Fontanka, 1940
Everyman's Library
IN MEMORY OF MIKHAIL BULGAKOV
This poem comes to you instead of
flowers,
Graveyard roses, or incense smoke;
You who even in the final hours
Showed marvelous disdain. You drank
wine. You joked
Like no one else. As for the rest-
You suffocated in a walled-off square;
You yourself admitted the terrible
guest,
And remained alone with her there.
Now you don't exist: no one says
a thing
About your bitter and beautiful
life;
Only my flutelike voice will sing
At this, your silent funeral feast.
It's unbelievable, to say the least,
That I, half-mad, mourning the past,
Smouldering on top of the slowest
coal,
Having lost everything and forgotten
them all,
Am fated to commemorate someone
so strong,
Bright and steady to the final breath-
Was it yesterday we spoke? Has it
been so long?-
Who hid the shuddering throes of
death.
1940
Tưởng nhớ MIKHAIL BULGAKOV
Bài thơ này cho bạn,
thay vì hoa
Hồng nghĩa trang, hay khói
trước mồ
Bạn, những giờ cuối
Vẫn khinh khi lũ VC Nga thật là
tuyệt cú mèo
Bạn uống hồng đào
Bạn chọc quê, kể chuyện hài,
như chưa từng có ai làm được như thế
Về những gì còn lại
–
Bạn nghẹt thở giữa bốn bức tường
Bạn, chính bạn đã
chấp nhận vị khách khủng khiếp
Và một mình với nàng
ở đó
Bây giờ bạn : Chẳng ai nói
một điều gì
Về cuộc đời cay đắng và đẹp
đẽ của bạn
Chỉ có giọng sáo diều
của ta
Sẽ hát, ở đó,
Ở tang lễ im lìm của bạn
Thật là không thể tin
nổi, chỉ nói thế thôi,
Rằng, ta, nửa khùng, nửa
điên,
Tưởng niệm quá khứ
Âm ỉ trên đỉnh mớ than
thấp, ở dưới đáy
Mất mọi thứ, và quên
tất cả mọi thứ
Là người được số phận trao
Tưởng nhớ một người nào đó
thật mãnh liệt,
Sáng ngời, và kiên
định cho đến hơi thở chót –
Mà có phải là
ngày hôm qua chúng ta nói tới?
Sao lâu thế? –
Kẻ giấu những cơn giãy dụa
của cái chết?
1940
Akhmatova
You invented me. No such person
exists, that's for sure,
There's no such creature
anywhere in sight.
No poet can quench my
thirst, no physician has a cure,
The shadow of your ghost
haunts me day and night.
We met in an unbelievable
year,
The energies of the world
were worn through,
The world was in mourning,
everything sagged with
fear,
And only the graves were
new.
In the absence of light,
how black the Neva grew,
The deaf night surrounded
us like a wall . . .
That's exactly when I
called out to you!
What I was doing-I didn't
yet understand at all.
And, as if led by a star
you came to me,
As if walking on a carpet
the tragic autumn had grown,
Into that house ravaged
for the rest of eternity,
From whence a flock of
burned verses has flown.
1956
Mi phịa ra ta. Làm
gì có cô gái nào tên
là BHD, chắc chắn như thế,
Làm gì có
thứ bông hoa lạ như thế ở khắp mọi nơi, trong tầm
nhìn
Chẳng tên thi sĩ nào
có thể làm dịu cơn khát của ta,
không tên y sĩ nào có thứ thần
dược chữa trị,
Cái bóng của
con ma tình, là mi, tên GCC, làm
khổ ta ngày và đêm
Hai đứa ta gặp nhau đúng
trong cái năm không thể nào tin
tưởng được đó
Nhiệt tình trọn thế
gian đốt trọn cuốn lịch
Thế giới ư, tóc tang
tang tóc, mọi chuyện chùng xuống vì
sợ hãi
Chỉ những nấm mồ là
mới.
Thiếu vắng ánh sáng,
con sông Neva bèn càng đen thui
Đêm điếc đặc bao quanh
đôi ta như bức tường
Đúng là vào
lúc như thế ta gào tên mi, GCC!
Ta đang làm gì
đây - Ta chẳng thể nào hiểu
Và, như thể được
1 vì sao dẫn dắt,
Mi bèn đến với ta....
A witness or a prophet? Czeslaw
Milosz saw himself as a poet who only happened to wander
in long corridors of history; poetry came first and went last-he
was among the most remarkable poets still creative in old age.
And yet he witnessed more of the dark side of history than did
the majority of his contemporaries. Born as the son of an engineer
who worked for the Russian government, Milosz was a student and a
young poet in between-the-wars Poland, a Resistance member (though
never a combatant) under the Nazi occupation, a middle-rank diplomat
in the postwar People's Republic administration, an exile in Paris,
a U.S. university professor and citizen, and finally a world-famous
poet who returned to Poland (Krakow) during his final years.
Poetry was
for Milosz the highest vocation-and he never separated
it from thought and philosophy. He was a religious person,
a thinker with a great gift for putting words together. A long
series of his books of poetry was accompanied by a long series
of his collections of essays: what couldn't become a poem was
turned into an essay. His writing was an endless meditation on the
meaning of life, the quest for God, the place of justice in human
society. He gave himself the right-something only great poets
can afford-to attack the most central themes.
Milosz was
passionately interested in other literatures and cultures;
he translated poetry from several languages. Because he lived
and taught in the United States for many decades-though he
never tried to write poetry in English-he was regarded by many
as an American poet and man of letters.
He was a teacher and a friend
to many of his younger acquaintances. Milosz was of those
few writers who not only outlived the monsters of the twentieth
century, but also succeeded in defeating them and in keeping
the serenity of great mind.
AZ: Polish Writers on Writing
Czeslaw Milosz
(1911-2004)
Một chứng nhân hay một nhà tiên
tri? Milosz coi chính mình như là 1 nhà
thơ mà sự tình chỉ xẩy ra, là, rong chơi
ở những hành lang dài của lịch sử; thơ tới trước, và
đi sau chót – ông là ở trong số những nhà
thơ đáng kể nhất vẫn còn sáng tác trong
tuổi già. Tuy nhiên ông chứng kiến nhiều cái
phần u tối của lịch sử hơn đa số những nhà thơ cùng
thời của ông. Là con 1 vì kỹ sư làm việc
cho nhà nước Nga, Milosz là sinh viên và
nhà thơ trẻ ở giữa những cuộc chiến ở Ba Lan, một thành
viên Kháng Chiến (tuy nhiên chưa từng bắn 1 phát
súng nào, như cas TTT), dưới thời bị Nazi đô
hộ, một nhà ngoại giao trung cấp trong nhà nước thời
hậu chiến, một kẻ lưu vong ở Paris, một giáo sư Đại Học, và
là công dân Mỹ, và sau cùng một nhà
thơ nổi tiếng thế giới trở về Krakow (Ba Lan) trong những năm cuối đời
của ông.
Thơ là một thiên hướng cao nhất
đối với Milosz, và ông chưa từng chia cắt nó,
làm tách rời nó, ra khỏi tư tưởng và
triết học. Ông là 1 con người tôn giáo,
một nhà suy tưởng, với 1 thiên bẩm lớn trong việc sử
dụng từ ngữ, đan xen chúng với nhau, thí dụ vậy. Những
cuốn - xuất hiện như những chuỗi - thơ của ông thì được
đi kèm với những chuỗi tiểu luận: Cái mà không
thể trở thành 1 bài thơ thì bèn biến
thành 1 tiểu luận. Cái viết của ông mà
một trầm tư bất tận về ý nghĩa của cuộc đời, sự tìm
kiếm Thượng Đế, chỗ của công lý trong xã hội con người.
Ông ban cho chính ông, cái quyền - một điều
gì mà chỉ những đấng đại thi sĩ như ông mới dám
đương đầu – tấn công vào đúng những tử huyệt,
đúng tim đen, những đề tài rốt ráo nhất.
Milosz thực là say mê hết mình,
quan tâm tới chỉ, với những nền văn học văn hóa
khác; ông dịch thơ từ vài ngôn ngữ.
Bởi là vì ông sống và dạy học trong nhiều
thập kỷ ở Mẽo – ông chẳng bao giờ thử làm thơ bằng
tiếng Anh – nên ông bị coi như là một nhà
thơ Mẽo, và là 1 văn nhân, bởi rất nhiều người.
Ông là 1 vị thầy dạy học, và
1 người bạn, đối với những mối quen viết trẻ tuổi hơn. Milosz
là 1 trong 1 số ít, những nhà văn sống dai
hơn những con quỉ của thế kỷ 20, không chỉ thế, mà còn
đánh bại chúng và vưỡn luôn luôn
ở mãi với đời, với cái thanh cao, thanh thản, tao
nhã của một tâm hồn lớn.
Note: Ôi chao, đúng là thi
sĩ viết về thi sĩ. Quá đỗi thần sầu.
Thơ Milosz quả đúng là thứ thơ
trí tuệ, 1 ngọn đỉnh trời!
Có mấy cõi mà Gấu nghĩ
là mình không thể nhập vô được, tới
chỉ, là thơ Brodsky, Milosz, và những bài
viết của Simone Weil, do thiếu cái linh tính, mẫn
cảm, trực giác - chẳng biết gọi là gì -.... mà
chỉ những tín hữu Ky Tô mới có được.
Murakami, khi mặc khải ra mình sẽ là
nhà văn, trong khi coi 1 trận dã cầu Mẽo, sau đó,
vẫn ngạc nhiên, dân Nhật không tin vào
mặc khải, tại sao lại lòi ra mình.
Gấu không có cái may này,
khi đụng vô Ky Tô giáo!
ARS POETICA?
BERKELEY, 1968
I have always aspired to a more spacious form
that would be free from the claims
of poetry or prose
and would let us understand each
other without exposing
the author or reader to sublime
agonies.
In the very essence of poetry
there is something indecent:
a thing is brought forth which
we didn't know we had in us,
so we blink our eyes, as if a
tiger had sprung out
and stood in the light, lashing
his tail.
That's why poetry is rightly
said to be dictated by a daimonion,
though it's an exaggeration to
maintain that he must be an angel.
It's hard to guess where that
pride of poets comes from,
when so often they're put to
shame by the disclosure of their frailty.
What reasonable man would like
to be a city of demons,
who behave as if they were at
home, speak in many tongues,
and who, not satisfied with stealing
his lips or hand,
work at changing his destiny
for their convenience?
It's true that what is morbid
is highly valued today,
and so you may think that I am
only joking
or that I've devised just one
more means
of praising Art with the help
of irony.
There was a time when only wise
books were read,
helping us to bear our pain and
misery.
This, after all, is not quite
the same
as leafing through a thousand
works fresh from psychiatric clinics.
And yet the world is different
from what it seems to be
and we are other than how we
see ourselves in our ravings.
People therefore preserve silent
integrity,
thus earning the respect of their
relatives and neighbors.
The purpose of poetry is to remind
us
how difficult it is to remain
just one person,
for our house is open, there
are no keys in the doors,
and invisible guests come in
and out at will.
What I'm saying here is not,
I agree, poetry,
as poems should be written rarely
and reluctantly,
under unbearable duress and only
with the hope
that good spirits, not evil ones,
choose us for their instrument.
Translated
by Czeslaw Milosz and Lillian Vallee
ARS POETICA?
Tôi luôn thèm, một thể dạng,
rộng rãi hơn
Nó sẽ thấy nó thoải mái hơn,
nếu nói về những đòi hỏi của thơ ca hay văn xuôi
Và cho phép chúng ra hiểu
nhau hơn,
Không cần phải bày ra những nỗi thống
khổ, tới chỉ, giữa,
Một bên là tác giả, một bên
là độc giả, thì cứ phán đại như vậy.
Trong cái rất ư là yếu tính
của thơ, có điều gì khiếm nhã, tục tĩu, dơ
dơ…
Một điều gì mà Mít thường
nói, anh đưa cái của anh ra, chị bèn đáp
ứng bằng cái của chị
Không phải theo nghĩa nhơ bẩn,
Một điều gì mà chúng ta không
biết có, ở trong chúng ta
Thế là chúng ta bèn nháy
mắt
Như thể một con hổ phóng ra - chị chìa
của nọ - và đứng sững trong ánh sáng, quất
cái đuôi 1 phát
Chính vì thế mà thơ, đúng
là được phán, bởi quỉ thần
Nói thần thơ, bà chúa thơ,
cái con mẹ gì đó, là nói quá.
Thật khó mà hãnh diện tao
là thi sĩ, nhớ chưa, nhớ chưa!
Bởi là vì thật khó mà
biết cái hãnh diện đó tới từ đâu
Trong khi thường ra là, làm thơ
chỉ là để tán gái,
Nghĩa là, nó đẩy con người làm
thơ phải bày ra cái sự nhục nhã, tủi hổ,
cái bạc nhược là thi sỡi, của họ.
Một người biết phải trái, sẽ thích
gì, khi ở trong 1 thành phố của quỉ
Chúng sử sự, như thể đây là nhà
của chúng,
Nói bằng nhiều thứ tiếng
Và, không hài lòng với sự
chôm chĩa môi và tay của mình,
Anh ta bèn hành động, bằng cách
thay đổi số mệnh của mình, vì sự tiện lợi của chúng?
Đúng là như thế, cái khốn kiếp,
ghê tởm thì được coi là có giá,
số 1, vào những ngày này
Và như vậy, bạn có thể nghĩ, tôi
chỉ nói dỡn chơi
Hay tôi lại phịa ra, thêm 1 một phương
thức mới
Để vinh danh Nghệ Thuật, với sự trợ giúp của
hài hước.
Có 1 thời, chỉ những cuốn sách dạy khôn
ngoan, minh triết, được viết ra
Chúng giúp chúng ta chịu được
đau khổ và bần cùng
Điều này, nói cho cùng, thì
không hẳn là cũng vậy.
Chẳng khác gì, lật giở hàng ngàn
những tác phẩm mới tinh, còn cáu cạnh, từ
những bịnh viện tâm thần, nhà thương điên.
Tuy nhiên, thế giới, thì khác so
với vẻ bề ngoài của nó
Và chúng ta cũng khác, cái
thứ chúng ta nhìn chúng ta, từ những đam mê,
đắm đuối của mình.
Con người, do đó, bèn gìn giữ
cái trọn vẹn câm lặng
Để được hàng xóm, họ hàng, bà
con kính nể.
Mục đích của thơ ca là để nhắc nhở chúng
ta
Rằng, thật khó mà cứ trọn 1 cục, trọn
1 người, toàn vẹn, không sứt mẻ.
Bởi là vì nhà của chúng
ta thì cửa mở toang hoác, lại không có
gắn khoá cửa,
Và những vị khách vô hình
thì cứ vô tư, thoải mái ra vô.
Điều mà tôi phán ở đây, không
phải là thơ ca, OK.
Khi mà những bài thơ nên được viết,
một cách hiếm hoi, ngần ngại
Với 1 sự cứng rắn không làm sao chịu đựng
nổi, và chỉ với hy vọng
Rằng những tinh anh tốt, cái tâm linh
thiện, không phải cái quỉ ma, hay "cái ác
bắc kít", chọn chúng ta, như là đồ nghề của chúng.
Note: Ui chao, bài thơ quá thần sầu,
thảo nào AZ đưa vô tuyển tập của ông.
Bản dịch, dởm, nhưng chí ít, nó
cũng lộ ra được, phần nào, "Ars Poetica" là gì,
vào lúc này, với lũ Mít!
ANNA SWIR 1909-1984
Anna Swir is the author of a moving cycle of
poems about her father and mother, of whom she speaks with attachment
and gratitude, which seems to me striking in view of a common
tendency, particularly among young poets today, toward just the
opposite. It is not without importance to know her biography. She
was the only daughter of a painter who was abysmally poor. She grew
up in his atelier in Warsaw.
I WASH THE SHIRT
For the last time I wash the
shirt
of my father who died.
The shirt smells of sweat. I remember
that sweat from my childhood,
so many years
I washed his shirts and underwear, I dried them
at an iron stove in the workshop,
he would put them on unironed.
From among all bodies in the
world,
animal, human,
only one exuded that sweat.
I breathe it in
for the last time.
Washing this shirt I destroy it
forever.
Now
only paintings survive him
which smell of oils.
Translated from the Polish by Czeslaw Milosz
and Leonard Nathan
Anna Swir có 1 vòng thơ thật cảm
động về bố và mẹ, và bà nói về họ
với sự quấn quýt và lòng biết ơn. Bà
là cô con gái độc nhất của họ, và ông
bố là một họa sĩ nghèo thê nghèo thảm.
Bà lớn lên trong xưởng vẽ của ông bố tại Warsaw
Tôi
giặt chiếc áo sơ mi
Đây là lần chót
tôi giặt chiếc áo sơ mi
của ông già tôi, người đã
mất.
Chiếc áo ngửi có mùi mồ hôi.
Tôi nhớ mùi mồ hôi này
từ còn là một đứa con nít
Bao nhiêu năm rồi
Tôi giặt chiếc áo sơ mi và quần
áo lót của ông già tôi
Tôi phơi khô nhờ cái lò
sắt ở xưởng vẽ
Và ông già tôi sẽ mặc
mà chẳng cần ủi
Từ tất cả những thân
xác trên thế giới
vật, người
chỉ có một, toát ra mùi mồ
hôi đó
Tôi hít nó lần chót.
Giặt áo lần cuối
Là tôi tiêu huỷ nó, đời
đời
Bây giờ chỉ còn những bức tranh sống
sót ông già tôi
Vì ngửi chúng có mùi
dầu
William Blake was inclined to see human sins
as phases through which humans pass and not as something substantial.
In this poem by Anna Swir there is a similar empathy and forgiveness.
Czeslaw Milosz
SHE DOES NOT REMEMBER
She was an evil stepmother.
In her old age she is slowly dying in an empty hovel.
She shudders
like a clutch of burnt paper.
She does,not remember that she was evil.
But she knows
that she feels cold.
Translated from the Polish by Czeslaw Milosz
and Leonard Nathan
Nhà thơ William Blake
coi tội lỗi như là những pha con người trải qua, chứ không
phải là bản chất. Trong bài thơ của Anna Swir, cũng
có sự thông cảm và tha thứ như vậy
Bà không nhớ
Bà mẹ ghẻ, mẹ kế
Khi về già bà chậm chạp chết trong
1 túp lều trống rỗng
Bà rùng mình
Như một cụm giấy cháy
Bà không nhớ bà ác, bà
độc, bà mẹ ghẻ
Nhưng bà biết
Bà đang lạnh
You will hear thunder and remember me,
And think: she wanted storms. The rim
Of the sky will be the colour of hard crimson,
And your heart, as it was then, will be on fire.
That day in Moscow, it will all come true,
When, for the last time, I take my leave,
And hasten to the heights that I have longed for,
Leaving my shadow still to be with you.
1961-63
Anna Akhmatova
Everyman's Library
Mi sẽ nghe tiếng sấm và sẽ nhớ ta
Và mi sẽ nghĩ: Ta muốn dông bão.
Viền trời sẽ có màu đỏ thật đậm
Và trái tim của mi, như nó
đã từng, vào lúc đó, sẽ cháy
bừng bừng
Ngày đó, ở Mát Cơ Va, tất cả
sẽ trở thành hiện thực,
Khi, lần cuối cùng, ta bèn bỏ mi
Tới ngọn đỉnh trời mà ta vẫn hằng mong đợi
Để lại cho mi cái bóng của ta
Và nó sẽ ở với mi, suốt quãng
đời thừa thãi còn lại của mi
Như là quà tặng của ta. (1)
Quà tặng, ở đây, là của... BHD:
Note: Tay Bolano này,
đọc, thấy có cái gì đó, giống PCT, tếu
thế, nhưng một PCT thực, trong khi PCT Mít thì lại là
đồ dởm!
Có vẻ như nhà văn Mít, nói
chung, thì đều như thế.
Bi giờ thì mới thấm câu của Hoàng
Ngọc Hiến, cái nước mình nó thế!
GCC hình như cũng mới mê Bolano đây
thôi, có thể là từ lần đọc bài thơ của
ông viết về… BHD, hà hà!
My gift to you will be an abyss,
she said,
but it will be so subtle you'll perceive it
only after many years have passed
and you are far from Mexico and me.
You'll find it when you need it most,
and that won't be
the happy ending,
but it will be an instant of emptiness and joy.
And maybe then you'll remember me,
if only just a little.
Roberto Bolano The Paris
Review Summer 2012
Xuống phố, đổi phim, ghé
tiệm sách, mua số The Paris
Review có bài thơ tuyệt vời
của Bolano, tả đúng tâm sự Gấu, đúng cái cảnh
tình cờ gặp lại Em, khi Em đi chợ Bến Thành, về, và
“kín đáo” nói cho biết, tại làm sao Em vờ
Gấu, và chọn một anh bồ, cùng học Y Khoa. (1)
Quà BHD tặng Gấu
Quà ta tặng mi sẽ
là 1 vực thẳm, em nói Nhưng nó "tế vi"
đến nỗi mi không thể nào nhận ra Chỉ sau thật nhiều năm,
có khi, chỉ sau khi ta đi xa rồi, Và cả hai đều chạy
ra khỏi cả hai quê hương Bắc Kít và Nam Kít
rồi Thì lúc đó
mi mới tìm thấy món quà ta tặng mi Khi mà mi cực cần
đến nó Và chắc chắn không
phải là một kết thúc hạnh phúc Nhưng sẽ là một thoáng
chốc của sự trống rỗng và niềm vui. Và có thể,
chỉ lúc đó mi mới nhớ ta, Và mới hiểu cái
gọi là "mono no aware",
“Nỗi
buồn cháy da, cháy thịt khi ta đã đi ra khỏi đời của
mi". Nhưng cũng chỉ được 1 tí
tí.
Note: Bài thơ trên, thấy trên blog
Đông A có dịch.
Gần như vào album (*)
Anh nghe thấy sấm sét và sẽ nhớ tới
em
Sẽ nghĩ em đãước mong
giông tố... Quầng mây
trời sẽ sậm màu thẫm đỏ Còn
trái tim dường khi đó trong lửa cháy lòa
Điều đó sẽ xảy ra vào cái ngày
Mạc-tư-khoa
Khi em sẽ rời xa đô thành vĩnh viễn Và tiến tới biên trời ước nguyện Giữa các
người lưu lại
bóng hình em
Anna Akhmatova
(*) Bài thơ nằm
trong chùm ba bài thơ Ba lá Mạc-tư-khoa.
Почти в альбом
Услышишь гром и вспомнишь
обо мне,
Подумаешь: она грозы желала…
Полоска неба будет твердо-алой,
А сердце будет как тогда - в огне.
Случится это в тот московский день,
Когда я город навсегда покину
И устремлюсь к желанному притину,
Свою меж вас еще оставив тень.
Анна Ахматова.
Trang kế, trong Akhmatova,
Everyman's Library, là bài thơ Noel:
CHRISTMASTIME (24 DECEMBER)
Last Day in Rome
The conclusion of a cycle of poems
Is harder than this parting, after all.
I gave up many things in life,
There's almost nothing I need anymore-
For me, Komarovo's pines
Speak in their own individual tongues,
And as if each were its own springtime,
They stand in pools that have drunk up the sky.
1964
Ngày cuối ở La Mã
Cái kết của một chùm thơ
Thì khó nhá hơn, so với khởi đầu, nói
cho cùng.
Ta vờ đi rất nhiều điều ở trong đời,
Hầu như chẳng còn chi ta thèm để ý đến
nữa
Với ta, những cây thông ở Đà Lạt
Mỗi cây reo mỗi giọng
Như thể mỗi cây có riêng cho nó,
một mùa xuân
Chúng đứng sừng sững ở những con hồ
Và uống trọn bầu trời.
Note: Ôi chao, đọc 1 phát, là nhớ Đà
Lạt đến phát khùng!
'Beauty is terrifying.' They'll say to you.
Languidly you throw your
Spanish shawl over your shoulders,
a red rose in your hair.
'Beauty is simple.' They'll say to you,
and you will cover your child
with a check shawl with hands unskilled,
a red rose on the fioor.
But you will listen in a haze
to all the words, breaking out around,
and will contemplate sadly
and repeat to yourself about yourself.
'I am not terrifying. I am not simple;
I am not so terrifying to simply
kill, not so simple
that I do not know how terrifying life is.'
ALEXANDER BLOK
TRANS. R. McKANE
[trong tuyển tập Russian Poets, Everyman's Library]
Re: Mi nghe tiếng sấm.
Không chỉ là tên 1 bài thơ của
Anna Akhmatov, mà cả 1 tập.
You Will Hear Thunder
byAnna Akhmatova,
D.M. Thomas
OLD MARX
I try to envision his last winter, London, cold and damp, the snow's curt kisses
on empty streets, the Thames' black water.
Chilled prostitutes lit bonfires in the park. Vast
locomotives sobbed somewhere in the night.
The workers spoke so quickly in the pub that
he couldn't catch a single word. Perhaps
Europe was richer and at peace, but the
Belgians still tormented the Congo. And Russia? Its tyranny? Siberia?
He spent evenings staring at the shutters.
He couldn't concentrate, rewrote old work,
reread young Marx for days on end, and secretly
admired that ambitious author.
He still had faith in his fantastic vision, but in
moments of doubt he worried
that he'd given the world only
a new version of despair; then
he'd close his eyes and see nothing
but the scarlet darkness of his lids. -Adam Zagajewski (Translated,from
the Polish, by Clare Cavanagh.)
[The New Yorker, Jan 21, 2008]
Cụ
Mác
Tôi cố tưỏng tượng ra mùa
đông cuối cùng của ông,
Luân Đôn, lạnh, ẩm.
Tuyết đè ngửa, hôn tàn bạo lên
phố vắng, lên mặt nước đen thui của dòng sông
Thames.
Bướm co ro, run rẩy nhóm lửa nơi công
viên.
Có tiếng sụt sùi của những đầu máy,
ở đâu đó trong đêm.
Những người thợ nói quá nhanh trong tiệm
rượu,
khiến ông không kịp bắt, chỉ một từ.
Có lẽ Âu Châu thì giầu có
hơn, và thanh bình,
nhưng người Bỉ vẫn hành hạ xứ Congo.
Còn Nga xô thì sao? Bạo chúa
của nó? Siberia,
chốn lưu đầy ư?
Ông
trải qua những buổi tối mắt dán lên những tấm màn cửa. Ông
không thể nào tập trung, viết lại những tác
phẩm đã xưa, cũ, đọc lại
Marx trẻ cho tới hết ngày, và
thầm lén ngưỡng mộ tay tác giả tham vọng này. Ông
vẫn còn niềm tin ở cái viễn ảnh thần kỷ, quái
đản của mình, nhưng
vào những lúc hồ nghi, ông
đau lòng vì đã đem đến cho thế giới, chỉ một viễn ảnh mới của sự
thất vọng, chán chường; rồi ông
nhắm mắt và chẳng nhìn thấy gì nữa, ngoài
bóng tối của mí mắt của mình.
Tháng Mấy rồi,
Em có biết?
tấm lịch sắp đi vào ngõ cụt
ngày không còn dông
dài nói chuyện cũ
hàng cây thưa lá cho
nắng và gió tự do bông đùa
chiếc xe em về đậu mỗi chiều
con đường dầy thêm với lá
rung rúc còi tàu không
tìm được sân ga
những ngôi nhà nhả khói
và đêm về thắp đèn
Tháng Mấy rồi, Em có biết?
chạy luống cuống những buổi sáng
muộn
ngày se lạnh no tròn hạt
sương sớm
đọng trên mái tóc
nụ hôn sâu trong đêm
những đổ vỡ chảy dài theo cuốn lịch
mất tích
Tháng Mấy rồi, Em có biết?
con sông ngưng chảy
nheo mắt qua những xa lộ
nhịp thở chậm
Rồi buổi chiều cuối năm
sẽ đến
ai bấm chuông cửa vào giữa
đêm
tuyết chắc chắn sẽ rơi
và trời sẽ lạnh vô cùng
Tháng Mấy rồi sẽ
qua
Vẫn còn một người
đợi em
Đài Sử
ARS POETICA?
BERKELEY, 1968
I have always aspired to a more spacious form
that would be free from the claims of poetry
or prose
and would let us understand each other without
exposing
the author or reader to sublime agonies.
In the very essence of poetry there is something
indecent:
a thing is brought forth which we didn't know
we had in us,
so we blink our eyes, as if a tiger had sprung
out
and stood in the light, lashing his tail.
That's why poetry is rightly said to be dictated
by a daimonion,
though it's an exaggeration to maintain that
he must be an angel.
It's hard to guess where that pride of poets
comes from,
when so often they're put to shame by the disclosure
of their frailty.
What reasonable man would like to be a city
of demons,
who behave as if they were at home, speak in
many tongues,
and who, not satisfied with stealing his lips
or hand,
work at changing his destiny for their convenience?
It's true that what is morbid is highly valued
today,
and so you may think that I am only joking
or that I've devised just one more means
of praising Art with the help of irony.
There was a time when only wise books were
read,
helping us to bear our pain and misery.
This, after all, is not quite the same
as leafing through a thousand works fresh from
psychiatric clinics.
And yet the world is different from what it
seems to be
and we are other than how we see ourselves
in our ravings.
People therefore preserve silent integrity,
thus earning the respect of their relatives
and neighbors.
The purpose of poetry is to remind us
how difficult it is to remain just one person,
for our house is open, there are no keys in
the doors,
and invisible guests come in and out at will.
What I'm saying here is not, I agree, poetry,
as poems should be written rarely and reluctantly,
under unbearable duress and only with the hope
that good spirits, not evil ones, choose us
for their instrument.
Translated by Czeslaw
Milosz and Lillian Vallee
Czeslaw Milosz
(1911-2004)
A witness or a prophet? Czeslaw Milosz saw
himself as a poet who only happened to wander in long corridors
of history; poetry came first and went last-he was among the most
remarkable poets still creative in old age. And yet he witnessed
more of the dark side of history than did the majority of his contemporaries.
Born as the son of an engineer who worked for the Russian government,
Milosz was a student and a young poet in between-the-wars Poland, a
Resistance member (though never a combatant) under the Nazi occupation,
a middle-rank diplomat in the postwar People's Republic administration,
an exile in Paris, a U.s. university professor and citizen, and finally
a world-famous poet who returned to Poland (Krak6w) during his final
years.
Poetry was for Milosz the
highest vocation-and he never separated it from thought and
philosophy. He was a religious person, a thinker with a great
gift for putting words together. A long series of his books of poetry
was accompanied by a long series of his collections of essays: what
couldn't become a poem was turned into an essay. His writing was an
endless meditation on the meaning of life, the quest for God, the place
of justice in human society. He gave himself the right-something only
great poets can afford-to attack the most central themes.
Milosz was passionately
interested in other literatures and cultures; he translated
poetry from several languages. Because he lived and taught in
the United States for many decades-though he never tried to write
poetry in English-he was regarded by many as an American poet and
man of letters.
He was a teacher and a friend to many of his
younger acquaintances. Milosz was of those few writers who
not only outlived the monsters of the twentieth century, but
also succeeded in defeating them and in keeping the serenity of
great mind.
AZ: Polish Writers on Writing
Note: Những trích dẫn Simone Weil, dưới
đây, là từ bài viết về Milosz của AZ.
THE SAND IN THE HOURGLASS
1974
The contemplation of time is the key to human
life. It is a mystery that cannot be reduced to anything, and
to which no science has access. Humility is inescapable when
we know that we are not certain how we shall behave in the future.
We achieve stability only by disowning our I, which is subject
to time and changes.
Two things
cannot be reduced to any rationalizing: time and beauty.
One must begin from them.
- SIMONE WElL, SELECTED WRITINGS
Mystery deserves respect. If man were unaware
of the ephemeral nature of his life and of all human things,
he would not be man. Beauty, whose very essence is both impermanence
and the power of the moment confronting the passage of time, would
also be beyond his reach. The words of Ecclesiastes are a model for
all lyric poetry, for he who speaks through them both affirms that he
must die like all other men and rises above his vulnerability to destruction
through the rhythm of language. In just the same way, line and color
deliver us from our I, and regardless of the filth that may have nourished
the creative act, they are transposed into the not-I
….
.... The contemplation of time is the key to
human life - but one can only circle around that key, one cannot
touch it. One thing is certain: not every contemplation of time is
equally good; however, since it cannot be expressed in words, we
can recognize its quality by the use a given individual has made of
it. "I am suffering" It
is better to say this than to say, "The landscape is ugly.”
- SIMONE WElL, Selected Writings
Translated by Madeline
G. Levine
REALITY
1974
You shall forget these things, toiling in the
household,
You shall remember them, droning by the fire,
When age and forgetfulness sweeten memory
Only like a dream that has often been told
And often been changed in the telling. They
will seem unreal.
Human kind cannot bear very much reality.
- T. S. ELIOT, MURDER IN THE CATHEDRAL
Helen Vendler, trên tờ Điểm sách
New York, số đề ngày 31 tháng Năm, 2001, qua bài
viết "Nức nở bằng ba giọng" (A lament in three voices) cho rằng, đôi
khi, một bài thơ mãnh liệt đến nỗi phá bung mọi
câu thúc về ngôn ngữ, địa lý, và
thời đại. Và theo tác giả, đó là trường
hợp bài thơ Hoang Địa (The Waste Land) của Eliot.
Đôi khi: Hoang Địa được viết năm 1922. Bây
giờ, theo Helen Vendler, lại có một bài thơ mãnh
liệt chẳng kém. Đó là Luận về thơ (Treatise
on Poetry), của Milosz (sinh năm 1911, Nobel văn chương 1980). Nguyên
bản tiếng Ba Lan, bản dịch tiếng Anh do nhà thơ Robert Haas
và chính tác giả (nhà xb Ecco, 2001).
Đôi khi: Treatise được viết thời gian 1955-1956.
FORGETTING
CLOUDS
The quiet morning has a few
cloud friends
that are gone when I look for them again
in this one summer to which I have come
after everything that I remember
what can I call it before it has gone
it does not hear me and does not know
me
it passes without seeing I am here
it is only me going my own way
there is no one else who can forget it
-W. S. Merwin
The New Yorker, April, 21, 2014
Quên Mây
Buổi sáng yên tĩnh
có vài cụm mây bạn
Khi Gấu nhìn lại thì họ
đi rồi
Trong một mùa hè mà
Gấu tới
Sau khi mọi thứ mà Gấu nhớ
Điều Gấu gọi trước khi bỏ đi
Không nghe Gấu gọi mà cũng
chẳng biết Gấu
Đi, chẳng thèm biết Gấu đang ở
đây
Vậy là chỉ có nhõn
một mình Gấu trên con đường của riêng
Gấu
Chẳng có ai khác nữa có
thể quên nó
RUTH
In memory of Ruth Buczynska
She survived the war in Tarnopol.
In darkness and semi-darkness. In fear.
She was afraid of rats and heavy boots,
loud conversations, screams.
She died just now, in darkness, in a hospital
ward's white quiet.
She was a Jew. Sometimes she didn't know
what it meant.
. It's simple and incomprehensible, like
algebra.
At times she tried to work it through.
The Gestapo knew exactly what it meant
to be a Jew. The great philosophical tradition
helped,
definitions sharp as knives, direct as
a Buddhist arrow.
She was beautiful. She should have died
then, like the other men and women,
vanished without a trace, gone without
elegies, like so many others,
like the air, but she lived a long time,
in daylight, in the sun,
in the daily air, the oxygen of ordinary
Krakow.
Sometimes she couldn't understand what
beauty meant.
The mirror kept still, it didn't know
the philosophical definitions.
She didn't forget those other times, but
rarely
spoke of them. Once only she told this
story:
her beloved cat wouldn't stay put in the
ghetto, twice
it slipped back to the Aryan side at night.
Her cat
didn't know who Jews were, what the Aryan
side meant.
It didn't know, so it shot to the other
side like an arrow.
Ruth was a lawyer and defended others.
Maybe that was why she lived so long.
Because there are so many others, and
they need defending.
Prosecutors multiply like flies, but the
defenders are few.
She was a good person. She had a soul.
We know what it means.
-Adam Zagajewski
(Translated from the Polish by Clare Cavanagh)
Ruth
Tưởng niệm Ruth Buczynska
Bà sống sót cuộc
chiến ở Tarnopol.
Trong bóng
tối và chập choạng tối. Trong sợ hãi.
Bà sợ chuột, tiếng giày
đinh, chuyện lớn tiếng, la thét.
Bà mới chết đây, trong bóng
tối, trong cái yên tịnh màu trắng của
một bịnh viện
Bà là một người Do Thái.
Đôi khi bà không hiểu điều đó
nghĩa là gì.
Nó giản dị, và không
thể hiểu được, như môn đại số
Đôi khi, bà cố giải cho ra.
Gestapo hiểu rất rõ Do Thái nghĩa là gì.
Truyền thống triết học lớn giúp,
những định nghĩa sắc như dao, thẳng một lèo như mũi
tên Phật Giáo.
Bà thì đẹp. Bà đúng
ra thì đã chết rồi, khi đó, như những
người đàn ông và đàn bà khác,
Biến mất không để lại dấu vết, không
bi khúc, như rất nhiều người khác, như không
khí,
Nhưng bà sống một cuộc đời dài,
trong ánh sáng ban ngày, trong ánh
sáng mặt trời, trong không khí hàng
ngày, mỗi ngày, mọi ngày,
Trong khí trời của một thành
phố Krakow bình thường.
Đôi khi bà không thể
hiểu cái đẹp nghĩa là gì
Gương im, giữ như cũ, nó không
hiểu những định nghĩa triết học
Bà không quên những
thời kỳ khác đó, nhưng hiếm khi nhắc lại.
Chỉ có mỗi một lần, bà kể
câu chuyện này: Con
mèo thân thương của bà không chịu
ở trong ghetto,
Hai lần, nó chuồn trở về lại khu
Aryan vào ban đêm.
Con mèo không hiểu những
người Do Thái là những người nào, và
Aryan nghĩa là gì.
VIA DEL TRITONE
In Rome, on the street of that
name, I
was walking alone in the sun In
the noonday heat, when I saw a house With
shutters closed, the sight of which Pained
me so much, I could have Been
born there and left inconsolably.
The ochre walls, the battered
old door I
was tempted to push open and didn't, Knowing
already the coolness of the entrance, The
garden with a palm tree beyond, And
the dark stairs on the left.
Shutters closed to cool shadowy
rooms With
impossibly high ceilings, And
here and there a watery mirror And
my pale and contorted face To
greet me and startle me again and again.
"You found what you were looking
for," I
expected someone to whisper. But
there was no one, neither there Nor
in the street, which was deserted In
that monstrous heat that gives birth To
false memories and tritons.
Charles Simic
VIA DEL TRITONE
Ở Rome, trên con phố cũng
có tên đó Tôi
đi bộ một mình trong ánh mặt trời Nóng
ban trưa, và tôi nhìn thấy một căn nhà Những
tấm màn cửa thì đều đóng, Nhìn
một phát, là tôi cảm thấy quặn đau thốn
dế
Mình có thể sinh ra tại
căn nhà này, Và
bị bỏ mặc, không người an ủi.
Tường màu gạch son, cửa
cũ, rệu rạo Tôi
tính đẩy cửa, nhưng không làm Biết
rõ cái lạnh lẽo sau cánh cửa, lối dẫn
vào căn nhà, Căn
vườn với 1 cây sồi quá nó, Và
những cầu thang u tối ở phía trái.
Rèm cửa đóng dẫn
tới những căn phòng lờ mờ
Trần hơi bị thật là cao Và
đâu đó, là một cái gương long
lanh nước Và
khuôn mặt của tôi nhợt nhạt, méo mó Ðón
chào tôi, và làm tôi giật
mình hoài
"Mi kiếm ra cái mà
mi tính kiếm?" Tôi
uớc ao có ai đó thì thào Nhưng
làm đếch gì có một ai Ðếch
có ai, cả ở trên con phố hoang vắng Vào
cái giờ nóng khùng điên Làm
đẻ ra những hồi ức dởm Và
những con quái vật nửa người nửa cá
One poem is unlike any I've
ever read-if it had appeared in the lineup, I might not have recognized it
as Simic's. "Via Del Tritone" juxtaposes no surreal images. It begins simply:
In Rome, on the street of that
name, I
was walking alone in the sun In
the noonday heat, when I saw a house With
shutters closed, the sight of which Pained
me so much, I could have Been
born there and left inconsolably.
Simic goes on to describe the
interior, as he imagines it, a garden with a palm tree,
dark stairs leading to cool rooms with high ceilings. "'You
found what you were looking for,' / I expected someone to whisper."
Never, in his previous work, has Simic expressed the pain of his
exile in such a straightforward way. His outsider's status was always
an advantage, teaching him that life was unpredictable and that
anything might happen, as the antic careening of his poetry suggests.
In this poem his pain and loss blossom like the most fragile of tea
roses. He hasn't found what he was looking for. How can you reclaim
a childhood that never was? Simic, unlike Nabokov, has no Eden to recall.
His are "false memories," phantasms of heat. And as the war rages on
in the place where his childhood should have been, salvage becomes less
possible. The poet's cries flutter up from the page: "Help me to find
what I've lost, / If it was ever, however briefly, mine."
Lisa Sack: Charles the Great: Charles Simic’s A Wedding
in Hell
Bài thơ này thật
khác với những bài thơ của Simic. Không
có sự trộn lẫn những hình ảnh siêu thực.
Via Del Tritonemở ra, thật giản dị:
Ở Rome, trên con phố cũng
có tên đó Tôi
đi bộ một mình trong ánh mặt trời Nóng
ban trưa, và tôi nhìn thấy một căn nhà Những
tấm màn cửa thì đều đóng, Nhìn
một phát, là tôi cảm thấy quặn đau thốn
dế
Mình có thể sinh ra tại
căn nhà này,
Và bị bỏ mặc, không người
an ủi.
Sau đó, tác giả
tiếp tục tả bên trong căn nhà, như ông
tưởng tượng ra…Chưa bao giờ, trong những tác phẩm trước
đó, Simic diễn tả nỗi đau lưu vong một cách thẳng
thừng như ở đây. Cái vị thế kẻ ở ngoài lề luôn
luôn là lợi thế, nó dạy ông rằng đời
thì không thể tiên liệu trước được và chuyện
gì cũng có thể xẩy ra. Ở đây, nỗi đau, sự mất
mát của ông nở rộ như những cánh trà hồng
mảnh mai nhất. Ông làm sao kiếm thấy cái mà
ông kiếm, một tuổi thơ chẳng hề có? Simic, không
như Nabokov, chẳng hề có Thiên Ðàng để
mà hồi nhớ. Chỉ là hồi nhớ dởm, do cái nóng
khùng điên tạo ra. Và chiến tranh tàn
khốc xẩy ra ở cái nơi đáng lý ra tuổi thơ xẩy
ra, làm sao có cứu rỗi? Và tiếng la thét
của nhà thơ vọng lên từ trang giấy:
Hãy
giúp tôi tìm cái mà tôi
đã mất/Cho dù nhỏ nhoi, cho dù chốc lát,
cái tí ti đã từng là của tôi.
Đây có lẽ là
bài thơ tuyệt vời nhất của Simic, với GCC. Không
còn tí siêu thực, mà cái
đau lưu vong mới ghê gớm làm sao.
Mi đừng đụng tới nó, không
là nó biến mi thành lưu vong, là
bỏ mẹ mi, như 1 lần ông cảnh cáo mưa gió
Mẽo!
Wind
Touching me, you
touch
The country that has exiled you.
Gió
Mi sờ vô ta
Là mi sờ vô cái xứ
sở đã biếm mi, đày mi,
Làm ngọn gió lưu vong
Before you died I dreamed of cocktail
parties in your Harlem apartment
where you’d bring all our dead kin back to
life, for me! I was old enough to drink
with you, to wear a cocktail dress. Like the
best movies, the dream was black and white,
except for my grandmother’s lipstick,
which was red.
Trước khi Gấu ngỏm, em của Gấu mơ,
Những bữa cốc tay
Tại căn phòng của Gấu ở khu Harlem
Em mang tới tất cả bà con, đều ngỏm
rồi,
Họ lồm cồm sống dậy, tới chung vui, để làm
vui lòng em của Gấu!
Em thì nhí, U muời mí, chắc thế!
Nhưng cũng đủ tuổi rồi
Để cụng ly với Gấu
Để mặc 1 cái váy cốc tay
Như những cuốn phim đẹp,
Giấc mơ trắng và đen
Trừ son môi của bà em,
Màu đỏ.
Note: Ui chao, bản tiếng Mít thần sầu!
—Elizabeth Alexander, from “After” Photography
Credit Robert Frank
THE SAILOR
Những rừng gió kể chuyện biển
khơi
Khóc đi Nguyễn
Mùa này gió biển
thổi điên lên lục địa
TTT
In the autumn late,
The quays white with snow,
Out from the harbour
The heavy ships go.
Against black sky
A crane stands upright;
One lantern sways
In the blizzard night.
A sailor parted from his ship
Staggers on the shore:
"All is lost and drunk away;
And I can do no more."
See, the first snow
Has fallen, fallen on
The quays of the harbour
From which the ships have gone.
Most pure, most tender
Winding-sheet:
Wrapped in it, sailor,
Is your sleep sweet?
ALEXANDER BLOK
TRANS. F. CORNFORD AND E. P. SALAMAN
Everyman's Library
Thủy Thủ
Thu, muộn
Kè, trắng tuyết
Ngoài kia
Tầu lớn rời cảng
Vặc lại bầu trời đen
Chàng sếu đứng thẳng tắp
Độc ngọn đèn đong đưa
Trong đêm bão
Chàng thuỷ thủ bèn rời tầu
Lảo đảo nơi bến cảng
Chẳng còn chi, say khướt cò bợ
Tớ biết làm gì bây giờ!
Coi kià bông tuyết đầu rớt xuống, rớt xuống
Trên bến kè
Nơi tầu ra khơi
Trong trắng nhất, dịu dàng nhất
Gió gói trọn,
Chàng thuỷ thuỷ ơi,
Giấc ngủ ngọt ngào chăng?
Alexander Blok
Russian
1880-1921
Beyond the mountains beyond the forests
beyond the dust of the roads
beyond the grave mounds
under other skies you flower
Whiteness will spread on the mountain
but spring will come back to the valley
and I will recall with an older sadness
my past as though it were yesterday
In the grief of my dreams I will know you
and I will seize in my palms
your gentle hand that has borne miracles
and repeat the distance in your name
Quá núi, quá rừng
Quá bụi đường
Quá gò mả
Dưới những bầu trời khác, em nở rộ
Một màu trắng trắng sẽ trải dài trên
núi
Nhưng mùa Xuân sẽ trở lại thung
lũng
Và ta sẽ nhớ với một nỗi buồn già
nua hơn
Quá khứ của ta, như thể ngày hôm
qua
Trong nỗi đau của ta, ta sẽ biết em
Và ta sẽ cầm, trong lòng bàn
tay của mình
Bàn tay dịu dàng của em, nơi phép
lạ nở ra
Và lập lại khoảng cách, trong tên
em.
September 30, 1915
1968, translated with
Olga Carlisle
W.S. Merwin: Selected Translations
Alexander Blok
TO ZINAIDA GIPPIUS
Those born in backwater years
forget their own way. Russia
gave birth to us in her years of anguish
and we can forget nothing.
Years of holocaust, do you
herald madness, or the advent of hope?
Days of war, days of freedom,
have stained our faces with bloody
light.
We are speechless. The bells'
alarms sealed our lips. Where there
was
a burning in our hearts once
there is nothing now, fixed, like a
death.
Over the bed where we are dying
let the hoarse ravens sail-
may others, more worthy, O God, O God,
gaze on Thy kingdom!
Những kẻ sinh ra vào những năm tù đọng
Sẽ quên đường lối, cung cách của
riêng họ.
Bà mẹ Nga sinh ra chúng ta vào
những năm thống khổ của bà
Và chúng ta không thể quên
điều gì
Những năm holocaust,
Bạn nghe ra khùng điên, hay, hy
vọng sẽ tới?
Những ngày chiến tranh, những ngày
tự do
Đã để những vết sẹo, trên mặt của
chúng ta, với ánh sáng máu me?
Chúng ta cạn lời, bặt tiếng
Những hồi chuông báo động đã
đóng khằn miệng chúng ta?
Đâu rồi, ánh lửa đã một thời
cháy bỏng trái tim của chúng ta
Bây giờ chẳng còn chi, cứng đờ,
như cái chết.
Trên cái giường nơi chúng ta nằm
chết
Hãy để loài quạ, giọng khàn
khàn, cất cánh
Cầu cho những kẻ khác, xứng đáng
hơn, Ôi Chuá, Ôi Chúa
Hãy chỉ ra Vương Quốc của Người!
1968, translated with Olga Carlisle
W.S. Merwin: Selected Translations
THE WINDOW
In the sweet, Atlantic
Breathing of spring
My curtain's like a butterfly,
Huge, fluttering
Like a Hindu widow
To a pyre's golden blaze,
Like a drowsy N aiad
To past-window seas.
MARINA TSVETAYEVA
TRANS. D. McDUFF
Everyman's Library
SEASHELL
Perhaps, Night, you have no need of me;
I am here on your seacoast, hurled
As a shell without pearls might be
Up out of the depths of the world.
You churn up the waves into froth
Not caring; you sing stubbornly on;
You wiUlove, you will know the worth
Of a useless shell's deception.
You will lie by its side in the sand,
You will draw your cope over the shell
And inseparably with it bind
The surf's great bell.
You will fill the frail shell's rooms,
Like the house of a heart not lived
in,
With the whispering offoam,
With mist, with wind, with rain ...
OSIP MANDELSTAM
THANS. R. THACY
Everyman's Library
Like a pickup with its wheels gone,
And some rusty and disassembled
Antique stoves and refrigerators
In a front yard choked with weeds,
Outside a shack with a plastic sheet
Draped over one of its windows,
Where a beer bottle went through
One star-studded night in June-
Or was it a shotgun we heard?
The police inquiry, if there is one,
Is proceeding at a snail's pace,
In the meantime, the old recluse
Got himself a bad-tempered mutt
To keep his junk company and bark
At all comers, including the mailman
Leaving a rare letter in the mailbox.
Thất tán tan hoang
Như cái pickup bốn bánh mỗi cái
mỗi nơi
Mấy cái lò, tủ lạnh,
từ thời ông bành tổ ở sân trước nhà
Tắc nghẹn cỏ
Bên ngoài cái
lán với cái khăn trải giường bằng nilông
Phủ lên 1 cái cửa sổ
Nơi cái vỏ chai bia bèn
đi hoang
[Cho hết một mùa hoang vu trên
mặt đất -thuổng PCT -
Simic khiêm tốn hơn]
Đi hết 1 đêm tháng Sáu,
trời vãi sao –
Nghe có tiếng shotgun?
Ôi dào rách việc,
kệ mẹ mấy tên cớm VC!
Chúng vốn chậm như sên,
nếu không được bôi trơn mõm
Cùng lúc này,
cái anh già sống ẩn dật
Tự sắm cho lão một con chó
tính tình khó đăm đăm
Để làm bạn đồng nát
Con chó sủa tất cả những người
tới
Kể cả anh phu trạm
Bỏ một cái thư hiếm vào hòm
thư.
ANCIENT COMBATANT
Veteran of foreign wars,
Stiff in arm and leg,
His baggy pants billowing in the wind
Salutes a crow in a tree,
And resumes his stroll
Past a small graveyard,
Swerving and waving his arms
As if besieged by ghosts
Lurking among headstones,
Waiting to accost him
And make a clean breast
Before he slips out of sight.
The tiger lilies bemused.
The curving dirt road in his wake
Deep in silence
And prey to lengthening shadows.
Cựu chiến hữu
Cựu chiến hữu của những cuộc chiến ngoại bang giật dây
Chân tay cứng đơ
Ống quần rộng thùng thình
như hai cánh buồm lộng gió
"Chàng" cúi chào
một con quạ ở trên cây
Và bèn tiếp tục cuộc đi dạo
Qua một nghĩa địa nhỏ
Chàng loạng quạng, ve vảy tay
Như bị bủa vây bởi những hồn
ma
Lấp ló, rình mò giữa đám
bia mộ
Đợi bắt chuyện
Và làm 1 cú thú
tội, sám hối, tự vấn... hay cái con mẹ gì
đó
Một điều mà tên già
NN và đồng bọn,
Không thể làm được,
Trước khi biến khỏi tầm nhìn.
Những bông hoa kèn bèn sững người.
Con đường đất bụi cong queo bèn
tỉnh giấc
Chúi sâu mãi vào
im lặng
Và bèn sửa soạn săn
mồi
Là những cái bóng
dài loằng ngoằng.
It's not as thought
I had a cow to milk,
or do I?
-James Tate
BEZHETSK
There are white churches there,
and the crackle
of icicles,
The cornflower eyes of my son
are blossoming there.
Diamond nights above the ancient
town, and yellower
Than lime-blossom honey is the
moon's sickle.
From plains beyond the river
dry snow-storms fly in,
And the people, like the angels
in the fields, rejoice.
They have tidied the best room,
lit in the icon-case
The tiny lamps. On an oak table
the Book is lying.
There stern memory, so ungiving
now,
Threw open her tower-rooms to
me, with a low bow;
But I did not enter, and I slammed
the fearful door;
And the town rang with the news
of the Child that
was born.
26. Dec 1921
Anna Akhmatova
Trans. D.M. Thomas
Everyman's Library
THE SONG OF THE FINAL MEETING
I was helpless, my breasts were freezing,
I walked one foot
on tiptoe,
I put my left
glove on
my right hand,
like an idiot.
There seemed to be so many steps then
but I knew there
were only three.
Autumn whispered
through the maples
"Die, like me:
that sick, truculent liar, Fate,
has stripped me,
for the hell of it."
"I've been flayed
like you," I remember answering
as I left, "and
I'll die when you do."
This is the song of our last meeting.
I looked back
at the shape of the dark house.
Candles guttered
in the bedroom window,
indifferent, yellow.
Tôi thì bất lực, ngực
lạnh toát
Chân bước như trên
quãng không
Xỏ cái tất trái
Vô tay mặt
Như 1 đứa ngu đần.
Có vẻ như còn nhiều bước nữa
Nhưng tôi biết, chỉ còn
ba.
Mùa Thu, thầm thì
qua đám lá phong,
Nửa thúc giục, nửa năn
nỉ:
Hãy chết cùng
ta, hỡi tên Gấu Cà Chớn, Gấu Cù
Lần
Ôi chao, Số Mệnh, tên dối trá,
tên bịnh hoạn, tên tàn bạo
Mi tính đánh lừa
ta ư, hay, lột da ta?
Ôi chao, là mi
đó, ư, nhưng cớ sao buồn bã quá
như thế?
Ta sẽ cùng chết với mi
đêm nay.
Là bài ca của lần gặp
gỡ cuối
Tôi nhìn lại bóng
căn nhà u tối
Ánh đèn cầy thấp
thoáng nơi cửa sổ phòng ngủ,
Vàng,
Dửng dưng.
(version by Stephen Berg)
My breast was bound with a cold band,
And still my steps
were light.
The glove intended
for my left hand,
I put upon my
right.
At the thought of the stairs, I grew
faint-hearted,
But I knew, there
were only three!
An autumnal whisper
in the maples started
Begging: "Die
with me!
"Fate cheated me-fate, so abysmal,
So moody and full
of spite . . ."
I answered: "My
dear! I too am dismal.
I'll die with
you tonight ... "
The final meeting: I stood on the road.
The house was
as dark as shame.
Only, in the bedroom,
candles showed
An indifferent
yellow flame.
1911
Bản của Lyn Coffin
Thu này, thầm thì trong
đám lá phong,
Thú giục,
năn nỉ Gấu Cà Chớn:
-Hãy chết
cùng ta nhé!
OK!
Sẽ đi liền, những dòng tụng
ca của Hirsch.
..... The opening soliloquy turns out, astonishingly,
to be the dramatic account of a farewell meeting, a last good-bye.
It has a title, "Song of the Last Meeting," and it must dramatize
the drastic burden of that encounter-the weight of irrevocable
loss-entirely on its own since the speech has been severed
from its context in the larger play. That's because
there is no play, no stage, no supporting cast, no collective
audience to gasp at the witty Chekhovian dialogue showing
us character in action. What we're listening to instead,
what each of us is in fact reading, is a lyric poem. Four
quatrains. A square of black marks surrounded by white margins,
white space.
These sixteen lines comprise one of the first poems
in the first book, Evening
(1912), by Anna Akhmatova, née Anna Gorenko.
Along with the two books that followed it, Rosary
(1914) and White Flock
(1917), Evening
sounds a note that had not been heard in
literature before and, perhaps, has not been heard again.
I hear that note whenever I recite this poem aloud. It echoes
down the century, surviving translation.
Every poem is a scene of language. It is a rite without
a ceremony. To set this particular scene, it is winter
1910-1911. Symbolism, the dominant literary mode of the time,
is in self-declared: crisis. In the Bryullov reading room in
the Russian Museum in St. Petersburg a twenty-one-year-old bohemian,
a provincial girl with a pagan childhood who has been writing
poems from the time she was eleven years old (her father had playfully
called her "a decadent poetess" even before that) read the galleys
of Innokenty Annensky's posthumous book, The Cypress
Box, and understood something dramatic about
poetry. Her husband, the faithful young symbolist poet Nikolay Gumilyov
("as a boy he believed in symbolism as people believe in God. It
was an inviolable sacrament. But the closer he approached symbolism
... the more his faith faltered") traveled to Africa for six months,
and his spouse started writing the poems that would help bring Russian
literature into the twentieth century. Acmeism and Futurism were
both being hatched. When Serge Makovsky accepted some of these poems
for the magazine Apollo, Anna Gorenko's father urged her "not
to befoul a good respected name" and to take a pseudonym. Thus Anna
Akhmatova"- a name with five open as and
an exotic Tatar feeling-entered Russian literature at the top of the
Russian alphabet.
It was Osip Mandelstam, the other great Acmeist
poet, who first observed that the roots of Akhmatova's art
are in the nineteenth-century Russian novel, in Tolstoy,
Turgenev, Dostoevsky, and that her poetic form "was developed
with a glance at psychological prose." Symbolism is indicted
by this poetry. A dramatic clarity of expression stands against
its moody vagueness and otherworldly mysticism. Look how swiftly
Akhmatova sets the scene with tangible details and bold novelistic
strokes. She also irrevocably marks that scene with her gender.
Here a literal translation is helpful:
So helplessly
my chest grew cold
But my steps
were light.
I put on my
right hand
My left-handed
glove. (translated by Joanna Trzeciak)
These lines
are spare, concentrated, severe.
What seems characteristic
of the dramatic lyric and not of the nineteenth-century
novel is the process of terrific distillation operating
here, a condensation so extreme it seems more reminiscent
of Sappho than of Dostoevsky, more Li Po than Tolstoy.
The speaker is narrator, observer, and actor all at once.
She speaks with the rhythm of Russian verse, her words rhyme.
She is not the author exactly ("When I state myself, as the
Representative of the Verse-it does not mean-me-but a supposed
person," Emily Dickinson explains), but she is not a full-fledged
fictional construct either (as in, say, a dramatic monologue
by Robert Browning). The sliding line between rhetorical projections
and revealing self-confession may be characteristic and perhaps
even constitutive of a certain first-person love poem.
I'm struck by
the helpless sense of exposure in the first two lines,
the
[suite]
Edward Hirsch: How to Read
a Poem and Fall in Love with Poetry
There are white churches there, and the crackle
of icicles,
The cornflower eyes of my son are blossoming there.
Diamond nights above the ancient town, and yellower
Than lime-blossom honey is the moon's sickle.
From plains beyond the river dry snow-storms fly in,
And the people, like the angels in the fields, rejoice.
They have tidied the best room, lit in the icon-case
The tiny lamps. On an oak table the Book is lying.
There stern memory, so ungiving now,
Threw open her tower-rooms to me, with a low bow;
But I did not enter, and I slammed the fearful door;
And the town rang with the news of the Child that
was born.
26. Dec 1921
Anna Akhmatova
Trans. D.M. Thomas
Everyman's Library
THE SONG OF THE FINAL MEETING
I was helpless, my breasts were freezing,
I walked one foot on tiptoe,
I put my left glove on
my right hand, like an idiot.
There seemed to be so many steps then
but I knew there were only three.
Autumn whispered through the maples
"Die, like me:
that sick, truculent liar, Fate,
has stripped me, for the hell of it."
"I've been flayed like you," I remember
answering
as I left, "and I'll die when you do."
This is the song of our last meeting.
I looked back at the shape of the dark
house.
Candles guttered in the bedroom window,
indifferent, yellow.
Tôi thì bất lực, ngực lạnh
toát
Chân bước như trên quãng không
Xỏ cái tất trái
Vô tay mặt
Như 1 đứa ngu đần.
Có vẻ như còn nhiều bước nữa
Nhưng tôi biết, chỉ còn ba.
Mùa Thu, thầm thì qua đám lá
phong,
Nửa thúc giục, nửa năn nỉ:
Hãy chết cùng ta, hỡi tên Gấu Cà
Chớn, Gấu Cù Lần
Ôi chao, Số Mệnh, tên dối trá,
tên bịnh hoạn, tên tàn bạo
Mi tính đánh lừa ta ư, hay, lột da ta?
Ôi chao, là mi đó, ư, nhưng cớ sao
buồn bã quá như thế?
Ta sẽ cùng chết với mi đêm nay.
Là bài ca của lần gặp gỡ
cuối
Tôi nhìn lại bóng căn nhà
u tối
Ánh đèn cầy thấp thoáng nơi cửa
sổ phòng ngủ,
Vàng,
Dửng dưng.
(version by Stephen Berg)
My breast was bound with a cold band,
And still my steps were light.
The glove intended for my left hand,
I put upon my right.
At the thought of the stairs, I grew
faint-hearted,
But I knew, there were only three!
An autumnal whisper in the maples started
Begging: "Die with me!
"Fate cheated me-fate, so abysmal,
So moody and full of spite . . ."
I answered: "My dear! I too am dismal.
I'll die with you tonight ... "
The final meeting: I stood on the road.
The house was as dark as shame.
Only, in the bedroom, candles showed
An indifferent yellow flame.
1911
Bản của Lyn Coffin
Thu này, thầm thì trong
đám lá phong,
Thú giục, năn nỉ Gấu Cà
Chớn:
-Hãy chết cùng ta nhé!
OK!
Sẽ đi liền, những dòng tụng ca của Hirsch.
..... The opening soliloquy turns out, astonishingly,
to be the dramatic account of a farewell meeting, a last
good-bye. It has a title, "Song of the Last Meeting," and it
must dramatize the drastic burden of that encounter-the weight
of irrevocable loss-entirely on its own since the speech has
been severed from its context in the larger play. That's because
there is no play, no stage, no supporting cast, no collective audience
to gasp at the witty Chekhovian dialogue showing us character in
action. What we're listening to instead, what each of us is in fact
reading, is a lyric poem. Four quatrains. A square of black marks
surrounded by white margins, white space.
These sixteen lines
comprise one of the first poems in the first book, Evening
(1912), by Anna Akhmatova, née Anna
Gorenko. Along with the two books that followed it, Rosary (1914)
and White Flock (1917),
Evening sounds a note that
had not been heard in literature before and, perhaps, has not been
heard again. I hear that note whenever I recite this poem aloud. It
echoes down the century, surviving translation.
Every poem is a scene
of language. It is a rite without a ceremony. To set this
particular scene, it is winter 1910-1911. Symbolism, the dominant
literary mode of the time, is in self-declared: crisis. In the Bryullov
reading room in the Russian Museum in St. Petersburg a twenty-one-year-old
bohemian, a provincial girl with a pagan childhood who has been writing
poems from the time she was eleven years old (her father had playfully
called her "a decadent poetess" even before that) read the galleys of
Innokenty Annensky's posthumous book, The Cypress
Box, and understood something dramatic about
poetry. Her husband, the faithful young symbolist poet Nikolay Gumilyov
("as a boy he believed in symbolism as people believe in God. It was
an inviolable sacrament. But the closer he approached symbolism
... the more his faith faltered") traveled to Africa for six months,
and his spouse started writing the poems that would help bring Russian
literature into the twentieth century. Acmeism and Futurism were both
being hatched. When Serge Makovsky accepted some of these poems for
the magazine Apollo, Anna Gorenko's father urged her "not to
befoul a good respected name" and to take a pseudonym. Thus Anna Akhmatova"-
a name with five open as and an exotic Tatar
feeling-entered Russian literature at the top of the Russian alphabet.
It was Osip Mandelstam,
the other great Acmeist poet, who first observed that the
roots of Akhmatova's art are in the nineteenth-century Russian
novel, in Tolstoy, Turgenev, Dostoevsky, and that her poetic form
"was developed with a glance at psychological prose." Symbolism
is indicted by this poetry. A dramatic clarity of expression stands
against its moody vagueness and otherworldly mysticism. Look how
swiftly Akhmatova sets the scene with tangible details and bold novelistic
strokes. She also irrevocably marks that scene with her gender.
Here a literal translation is helpful:
So helplessly my chest grew cold
But my steps were light.
I put on my right hand
My left-handed glove. (translated by
Joanna Trzeciak)
These lines are spare, concentrated,
severe.
What seems characteristic of the dramatic
lyric and not of the nineteenth-century novel is the process
of terrific distillation operating here, a condensation
so extreme it seems more reminiscent of Sappho than of Dostoevsky,
more Li Po than Tolstoy. The speaker is narrator, observer, and
actor all at once. She speaks with the rhythm of Russian verse,
her words rhyme. She is not the author exactly ("When I state myself,
as the Representative of the Verse-it does not mean-me-but a
supposed person," Emily Dickinson explains), but she is not a
full-fledged fictional construct either (as in, say, a dramatic
monologue by Robert Browning). The sliding line between rhetorical
projections and revealing self-confession may be characteristic
and perhaps even constitutive of a certain first-person love poem.
I'm struck by the helpless sense of
exposure in the first two lines, the
[suite]
Edward Hirsch: How to Read a Poem and Fall
in Love with Poetry
FOUNTAIN AT TSARSKOYE SELO
The girl has dropped the urn, and broken it on a rock.
Sadly the girl sits, and holds the empty shard.
But miraculously the water does not dry up;
The girl sits timelessly sad over the timeless stream.
Alexander Pushkin
Trans. D.M. Thomas
CON SUỐI Ở TSARSKOYE SELO
Cô gái đánh rớt cái
bình, và làm bể nó, trên phiến
đá
Buồn bã, cô ngồi, ôm cái bình
không
Huyền diệu thay, là, nước không khô
cạn;
Và cô gái cứ ngồi, không cạn
buồn, bên suối nước, không cạn thời gian.
You will hear thunder and remember me,
And think: she wanted storms. The rim
Of the sky will be the colour of hard crimson,
And your heart, as it was then, will be on fire.
That day in Moscow, it will all come true,
When, for the last time, I take my leave,
And hasten to the heights that I have longed for,
Leaving my shadow still to be with you.
1961-63
Anna Akhmatova
Everyman's Library
Mi sẽ nghe tiếng sấm và sẽ nhớ ta
Và mi sẽ nghĩ: Ta muốn dông bão.
Viền trời sẽ có màu đỏ thật đậm
Và trái tim của mi, như nó đã
từng, vào lúc đó, sẽ cháy bừng bừng
Ngày đó, ở Mát Cơ Va, tất cả sẽ trở
thành hiện thực,
Khi, lần cuối cùng, ta bèn bỏ mi
Tới ngọn đỉnh trời mà ta vẫn hằng mong đợi
Để lại cho mi cái bóng của ta
Và nó sẽ ở với mi, suốt quãng đời
thừa thãi còn lại của mi
Như là quà tặng của ta.
Kẻ biến mất
Lúc này trời ấm áp, ngồi ở cổng, vào
lúc đêm
Một người nào đó chợt nhớ tới một người
hàng xóm
Chuyện xẩy ra cũng đã hơn ba mươi năm rồi
Sau bữa ăn chiều, bà làm cú tản bộ
Và chẳng bao giờ trở về nhà nữa
Với ông chồng và mấy đứa nhỏ.
Chẳng ai lúc này còn nhớ nhiều về bà
Ngoại trừ, như thế nào, bà nở nụ cười, và
nét mặt trở nên suy tư
Bất thình lình, và chẳng hiểu tại
sao, khi được hỏi
Như thể bà đã ôm trong lòng
một điều gì bí mật
Hoặc, cực đau lòng, khi chẳng thể nào có
một.
I'm back to
childhood when I see it weirdly
Raining on only one side of the
street.
You're born that way-or else you're
not.
It's snowing-or else it's hot.
It's like the strangeness, that's
also natural,
When it's raining on one side of
the street.
I'm back to childhood when I see
it weirdly
Raining on only one side of the
street. I stare
Because it's rare. How does nature
dare!
It's like the first time you hear
Bach. You stop and stare-and hear!
Bạn sinh ra cách đó – hay
đếch phải cách đó
Trời đang tuyết – hay đếch phải đang tuyết,
mà là, nóng chảy mỡ ra!
Nó thì lạ lạ - hay, thì
cũng tự nhiên, bình thường
Khi,
Mưa nửa con phố bên kia.
Tớ bèn trở lại thời thơ ấu của
mình
Khi nhìn thấy mưa rơi kỳ kỳ
Ở chỉ một nửa con phố
Tớ trố mắt nhìn, vì lạ quá,
hiếm quá
Sao con mụ thiên nhiên dám
làm 1 chuyện như thế, hử, hử!
Cứ như lần đầu tiên bạn nghe Bach.
Bạn ngưng, và trố mắt thô
lố - và nghe!
Everybody watches the weather report
On morning TV when everybody's
getting dressed.
You always see something. You never
see nothing.
If you don't like what you're wearing,
change the channel.
But it's always the same weather,
isn't it,
On every channel, and always changing
With the times? I like that
It wasn't raining, and then it
was, but the sun was shining at least
On one side of the street for homosexuals
In those not-so-long-ago pre-Stonewall
days,
Though it was difficult and even
dangerous
And they were often unhappy,
However happy they were.
Samuel Barber at the Curtis Institute
In Philadelphia with Menotti and
oh my what gifted fun.
I think of the hard-drinking tough-guy
GI Bill fags
I knew in Cambridge, Mass., Harvard
Teachers and fiends with a taste
for straights, doing their best on weekends
Not to get caught or killed,
And basically brilliant and frightened
and thrilled.
You saw hysterical, theatrical,
paranoid men,
Given to hissy fits and Carmen
Miranda outfits,
Become calm when a shot was fired,
When it came down to taking off
the costume and loving someone.
And Leonard Bernstein was vamping
around.
And Aaron Copland
Gave manly kisses. Wasn't Dvorak
mildly gay?
Renee Fleming singing Dvorak's
dragonfly-winged, ethereal
"Song to the Moon" from his opera
Rusalka
Is what beauty really is and does.
The water nymph Rusalka, a spirit
in a lake,
Broadcasts her sorrow
And longing to the moon
To ask the moon to tell the prince-a
mortal man-
That she loves him even if he's
queer,
Which she deeply does, whom she'll
later kill with a kiss.
Note: Tay này, rất mê
Tẩy, esp. Apollinaire. Bài dịch qua tiếng Anh,
"Cầu Mia Rà Bồ", trong 1 số Paris Review, phán,
của Tòa Soạn, nhưng của ông. GCC lại thấy nó,
trong cuốn thơ của ông, cùng vô số bài
dịch thơ Apollinaire. Trên số Paris Review, mới nhất,
có 1 bài của ông, GCC dùng Ipod chôm,
đọc được lắm, sẽ post & dịch liền.
DON'T BLINK, LIFE!
In 1960 I was twenty-four.
I'm not anymore.
Don't blink, life!
Don't move any part of you until
I tell you to.
Đời, đừng nháy!
1960, tớ hăm bốn
Đâu còn hăm mẹ gì
nữa
Đời, đừng nháy!
Đừng nháy bất cứ 1 sợi lông
nào trên người mi
Cho tới khi ta cho phép!
SONG
I want to amputate
My death and live.
I want to be asleep.
That way they can't put me to sleep.
They won't!
I won't.
I want to be alive and be awake.
I want a field block.
Give me the epidural
To remove my Haiti.
Bài Ca
Tớ muốn thiến
Cái chết của tớ, và sống
Tớ muốn thiu thiu ngủ,
Cái cách mà chúng
không thể bắt tớ ngủ
Chúng không thể
Tớ cũng rứa!
Tớ muốn sống nhăn và tỉnh như
sáo
Tớ muốn 1 khoảnh đồng
Cho tớ 1 cú epidural
Để cắt bỏ Haiti của tớ
Frederick Seidel: Widening Income
Inequality
The Toy
The brightly painted horse
Had a boy's face,
And four small wheels
Under his feet,
Plus a long string
To pull him this way and that
Across the floor,
Should you care to.
A string in waiting
That slipped away
With many wiles
From each and every try.
•
Knock and they'll answer,
My mother told me,
So I climbed the four flights
And went in unannounced.
And found the small toy horse
For the taking.
In the ensuing emptiness
And the fading daylight
That still gives me a shudder
As if I held in my hand
The key to mysteries.
•
Where is the Lost and Found
And the quiet entry,
The undeveloped film
Of the few clear moments
Of our blurred lives?
Where's the drop of blood
And the tiny nail
That pricked my finger
As I bent down to touch the toy,
And caught its eye?
•
Wintry light,
My memories are
Steep stairwells
In dusty buildings
On dead-end streets,
Where I talk to the walls
And closed doors
As if they understood me.
*
The wooden toy sitting pretty.
No quieter than that.
Like the sound of eyebrows
Raised by a villain
In a silent movie.
Psst, someone said behind my back.
Charles Simic: New and Selected Poems
1962-2012
Món đồ chơi
Con ngựa sơn màu tươi vui
Có gương mặt của một cậu bé
Với bốn bánh xe dưới chân
Và một sợi dây dài để kéo
nó đi
Trên sàn
Về phía này, phía kia
Nếu thích
Sợi dây như chờ
Tuột ra
Bướng bỉnh đi ngược lại
Mỗi lần bị kéo
•
Cứ gõ và cửa sẽ mở
Mẹ tôi từng bảo tôi
Thế là tôi leo lên bốn
chuyến bay
Bước vào chẳng báo trước
Và đã tìm ra món đồ
chơi, con ngựa nhỏ
Trong khoảnh khắc trống rỗng sau đó
Và trong ánh sáng nhạt nhòa
của chiều
Tôi khẽ rùng mình khi tôi
nắm trong tay
Chìa khóa của những gì kỳ
bí
*
Đâu rồi
Những ghi chú lặng lẽ
Trong chốn Mất Đi và Tìm Thấy,
Những thước phim tráng dở dang
Về đôi khoảnh khắc trong sáng
Của cuộc đời mờ nhòa của chúng ta
?
Đâu rồi giọt máu nhỏ ra
Và chiếc đinh bé tí
Đã đâm vào ngón tay
tôi
Lúc tôi cúi xuống sờ vào
món đồ chơi
Và bắt gặp mắt nó ?
*
Dưới ánh sáng ảm đạm
Những kỷ niệm như những bậc thang
Trong những tòa nhà bụi bám
Trên những ngõ cụt
Nơi tôi ngồi nói chuyện với những
bức tường
Và những cánh cửa đóng chặt
Như thể chúng có thể hiểu tôi
*
Con ngựa gỗ ngồi yên
Như không thể nào câm lặng hơn
Khác nào cái nhướng mày
Của một gã ác
Trong một phim câm
Suỵt, ai đó thầm thì sau lưng.
WILLIAM STAFFORD
AT THE BOMB TESTING SITE
At noon in the desert a panting lizard
waited for history, its elbows tense,
watching the curve of a particular road
as if something might happen.
It was looking at something farther off
than people could see, an important scene
acted in stone for little selves
at the flute end of consequences.
There was just a continent without much on it
under a sky that never cared less.
Ready for a change, the elbows waited.
The hands gripped hard on the desert.
Giữa trưa trên sa mạc, con thằn lằn hổn hển
đợi lịch sử, khuỷu căng thẳng
Chăm chăm nhìn về khúc quanh của
con đường
Như thể một điều gì đó sắp xảy ra
Nó nhìn thấy, rất xa, nơi con người
không thể thấy được
Một cảnh tượng, in hằn trên đá, dành
cho những kẻ nhỏ nhoi
Cuối con rãnh hẹp, tận cùng của những
hậu quả
Ở đó chỉ là một lục địa trống vắng
dưới bầu trời vẫn đời đời bất nhân, vô
tình.
Sẵn sàng đợi đổi thay, khuỷu chân
căng chờ
Tay, bấu chặt vào sa mạc.
Tks. NQT
Bài thơ này, đọc 1 phát, Gấu
bèn nhớ đến Lão Tử, cái gì gì,
thánh nhân bất nhân, trời đất vô tình,
coi con người như rơm chó [sô cẩu].
Nhưng đọc lại, 1 phát nữa, thì lại nhớ
tới me xừ cha đẻ bom nguyên tử Oppenheimer.
Ông này, lúc đó đứng kế
bên con thằn lằn, và thuộc vào nhóm người
nhỏ bé, ti tiện mà con thằn lằn chọn nghiệp của Hồ
Hữu Tường nhắc tới, với 1 sự khinh miệt, hà, hà; vị này
bỗng nhớ đến 1 dòng thơ trong Gita:
Ta bi giờ trở thành Thần Chết, kẻ huỷ diệt
thế giới.
Oppenheimer and the Gita
by Alex Wellerstein, published May 23rd, 2014
What was going through J. Robert Oppenheimer's head
when he saw the great fireball of the Trinity test looming above
him? According to his brother, Frank, he only said, "it worked." But
most people know a more poetic account, one in which Oppenheimer says
(or at least thinks) the following famous lines:
I remembered the line from the Hindu scripture, the
Bhagavad-Gita; Vishnu is trying to persuade the Prince that he
should do his duty and, to impress him, takes on his multi-armed
form and says, "Now I am become Death, the destroyer of worlds." I
suppose we all thought that, one way or another.
Re: Visions
Điêu tàn ư, ôi, đâu chỉ điêu
tàn?
Xuân Sách, đọc thơ Chế Lan Viên,
nhìn ra 1 cõi Mít như hiện nay.
TTT đọc Trầm Tư, của HHT, nhìn ra Quỷ, thay
vì Đức Phật, trở lại xứ Mít...
Bạn không có vision, mà vị K của
trang Tin Văn gọi là THNM, là bạn không đọc
được bất cứ 1 cái gì.
Sợ không sống nổi, nói gì đọc!
Đang lèm bèn về vision, về tận
thế, FB bèn phụ họa, bằng 1 cú nhắc, sau đây:
Có ít nhất là ba lịch sử con người
khác nhau, không phải một. Lịch sử sức mạnh. Lịch sử nhan
sắc, và lịch sử của sự đau khổ. Chỉ hai cái đầu là
được nghiên cứu, xếp loại, ghi chú, ghi âm, ghi nhận…
nhiều hoặc ít. Chúng có những vị giáo sư, những
sổ sách. Nhưng đau khổ đếch để lại một vết tích. Nó
câm. Nghĩa là, câm, về mặt lịch sử mà nói.
Một tiếng la đâu có kéo dài. Và đếch có
1 biểu tượng, sử dụng như là ghi chú, tiểu chú cái
con mẹ gì đó, để thay mặt nó, trình
nó ra, và làm cho nó có tuổi thọ.
Chính vì thế mà thật là
khó khăn khi tìm, hiểu, cái gọi là yếu
tính của Lò Thiêu. Nhìn từ quan điểm
lịch sử của sức mạnh, thì nó là một thời kỳ,
không đáng để bỏ công nghiên cứu, gần hay
không gần, xa hay không xa. Cuộc chiến tranh thần thánh
đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào, thí dụ, bảnh
hơn nhiều, cần nghiên cứu cho ngàn ngàn đời sau.
Nhìn từ lịch sử của khổ đau, Lò Thiêu
là cơ bản, là chủ yếu. Nhưng than ôi, làm
đếch gì có thứ lịch sử của khổ đau?
Những sử gia của nghệ thuật cũng đếch thèm
để ý đến Lò Thiêu. Bùn, trại tù
dây kẽm gai, bầu trời lùn tịt. Thềm sương mù lù
tà mù, rừng bạch dương trơ xương. Orpheus đâu
có đi dạo hướng đó. Ophelia đâu chọn nơi chốn
tệ hại như thế để mà trầm mình.
Adam Zagajewski: Two Cities
THREE HISTORIES
THERE ARE AT least three different human histories, not
one: the history of force, the history of beauty, and the history
of suffering. Only the first two are cataloged and recorded, more or
less. They have their professors and their textbooks. But suffering
leaves no traces. It is mute. That is, mute historically. A scream does
not last long, and there is no note symbol to represent it and make
it last.
That is why it is so difficult to understand
the essence of Auschwitz. From the point of view of the history
of force, it was an episode, undeserving of closer study. How much
more interesting was the Battle of Wagram, for example. As the history
of suffering, Auschwitz was fundamental. Unfortunately, the history
of suffering does not exist. Art historians are not interested in
Auschwitz either. Mud, barracks, low skies. Fog and four skinny poplars.
Orpheus does not stroll this way. Ophelia doesn't choose to drown here.
Adam Zagajewski: Two Cities
As the history of suffering, Auschwitz was fundamental.
AZ
GCC đã từng nhắc tớí 1 vị BVVC - Bạn văn VC
- quen lần về Hà Nội.
Không có vị này, là Gấu khổ
với VC rồi.
Có lần, vị này mail, rất ư là ngạc
nhiên, Lò Thiêu thì mắc mớ gì
tới xứ Mít?
Mới đây, cũng 1 vị Bắc Kít, cũng rất hay
dịch dọt, trên net, cũng bực mình vì câu
của Adorno, sau Lò Thiêu mà còn làm
thơ, thì thật là dã man.
Gấu suy ra là, Bắc Kít, do cách biệt
với thế giới quá lâu, nên mất mẹ 1 khoảng lịch
sử thật là dài.
Akhmatova chẳng đã từng phán, mi phải sống ở
đó, hàng ngày nghe Đài, qua cái
loa ở đầu ngõ, thì mới hiểu chủ nghĩa CS là gì.
Mấy đấng Bắc Kít, được BCC cho làm bồi,
thay lũ Ngụy, sau 1975, khi Solz chết, đi 1 đường ai điếu, ông
ta là tác giả của "bán đảo" Gulag: Họ lầm "bán
đảo" với "quần đảo", là do mù tịt về hệ thống nhà
tù Liên Xô.
Nhưng thê thảm nhất, là chúng không
hề biết đến Trại Tù Ngụy, do chính chúng lập
nên, với mục đích, đưa cả lũ Nguỵ lên đó,
như Gulag của Liên Xô:
Như Xì, Vẹm không tính đến chuyện thả
tù, khi lập trại tù cải tạo.
Quãng đời thứ nhì của Gấu, khi ra được
hải ngoại, quả là bắt đầu bằng mặc khải Lò Thiêu.
Quái thật!
Ôi chao, còn lời khen Tin Văn nào
bảnh hơn, của K, sau đây:
There are many souls in me, Marina Tsvetaeva once
wrote, and readers of her work often have the feeling
that spiritual forces compete in every line she ever
wrote. The emotional intensity of her writing, whether
in prose or in poetry, seems startlingly able to bend her language
into unimaginable new shapes. That linguistic fearlessness
makes her a challenge for translators, but readers of
this volume will palpably sense the sheer force of her language.
In choosing and ordering these writings, IIya Kaminsky and Jean
Valentine create force fields across the poems and prose fragments;
they have lifted a small number of texts from the massive Tsvetaeva
legacy, creating luminous new versions for us to behold. The
translations attain a kind of light-showered clarity before
our eyes, with each scrap of text commanding our focused attention
as if nothing else mattered
Có nhiều linh
hồn trong tôi, Marina Tsvetaeva có lần viết,
và độc giả của bà, thường có cảm nghĩ,
những sức mạnh thần linh ma quỉ này, uýnh lộn nhau,
trên mọi dòng thơ mà bà đã
từng viết ra. Sức căng cảm xúc của cái viết của bà,
dù thơ hay dù văn xuôi, có vẻ
khủng tới mức, ngôn ngữ bèn chịu thua, và
bèn cho ra những thể dạng mới. Cái sự chẳng hề sợ
hãi ngôn ngữ của bà, quả là 1 thách
đố đối với những dịch giả, nhưng những độc giả của cuốn thơ này,
sẽ có cảm giác sò mó được, vào
cái sức mạnh dựng đứng của ngôn ngữ của bà.
Trong khi chọn và sắp xếp những cái viết, IIya Kaminsky
and Jean Valentine tạo ra những “trường lực”, force fields, qua
những bài thơ và những mẩu văn. Họ lấy ra một số nhỏ
những bản văn, ra khỏi cái di sản lớn lao của Tsvetaeva, tạo
ra những ấn bản mới, lấp lánh, cho chúng ta cầm giữ.
Những bản dịch như thế đó, đạt được cái sáng
sủa trước ánh sáng, trước con mắt chúng ta, khiến
chúng ta chú mục vào chúng, không
màng tới chuyện khác.
MARINA TSVETAEVA
Volkov. People have referred to you as
a poet belonging to Akhmatova's circle. She loved you and
supported you at difficult moments, but from talking with
you I know that the work of Marina Tsvetaeva had a much greater
influence on your development as a poet than did Akhmatova's. Tsvetaeva
was the poet of your youth. When you speak about Tsvetaeva's poetry,
you often call it Calvinistic. Why?
Brodsky. Above all, bearing in mind just
how unprecedented her syntax was. This allowed-or rather,
forced-her to spell everything out in her verse. In principle,
Calvinism is a very simple matter: it is man keeping strict accounts
with himself, with his conscience and consciousness. In that sense,
by the way, Dostoevsky is a Calvinist as well. A Calvinist, to
put it briefly, is someone who is constantly declaring Judgment Day
against himself-as if in the absence (or impatient for) the Almighty.
In this sense, there is no other poet like her in Russia.
Volkov: Bạn thường được coi như 1 nhà
thơ quanh quẩn bên Akhmatova. Nhưng có vẻ như
Tsvetaeva mới ảnh hưởng đậm lên bạn, như 1 nhà
thơ của tuổi mới lớn. Khi nói về thơ Tsvetaeva, bạn thường
dùng từ Calvinistic. Tại sao?
Brodsky: Trên hết, hãy để
ý tới syntax. Trước bà chưa có thứ
syntax đó. Cái đó cho phép - bắt
bà phán mọi thứ ra thơ, bằng thơ. Theo nguyên
tắc, Calvinism là về 1 người lúc nào cũng
nghiêm khắc tới chỉ với chính mình, với lương
tâm với ý thức của mình. Dos là 1 đấng
như thế. Nói ngắn gọn, Calvinist là 1 kẻ lúc
nào cũng cà khịa với Lão Tặc Thiên, ngày
nào, với anh ta hay chị ả, thì cũng là Ngày
Xét Đoán, Ngày Tận Thế... Theo nghĩa đó,
không có nhà thơ nào khác ngoài
Tsveteava, ở xứ Nga Xô
"Như Brodsky có lần viết về Tsvetaeva:
giọng của bà có cái gì "không
giống ai" - và khiếp sợ, với 1 cái tai Nga: Sự
không thể chấp nhận thế giới"
FROM INSOMNIA
After a sleepless night the body weakens.
It grows dear, not one's own, it's nobody's.
Sluggish, the veins still retain an ache
of arrows,
One smiles to all with a seraph's ease.
After a sleepless night the hands weaken.
Deeply indifferent are both friend and enemy.
Each casual sound contains an entire rainbow.
And the frost smells of Florence suddenly.
Lips glow softly, the shadow's more golden
Under sunken eyes. Night has set ablaze
This most radiant countenance - and dark
night
renders
But one part of us dark - the eyes.
MARINA TSVETAYEVA
TRANS. D. McDUFF
Everyman's Library Mất ngủ
Sau một đêm không ngủ, cơ
thể yếu xìu
Nó trở nên trân quí,
chẳng của riêng ai, của “không ai”
Uể oải, gân mạch vưỡn còn nguyên
cơn đau của những mũi chích
Bèn cười 1 phát, với tất cả,
bằng sự hài lòng của thiên thần
Cực dửng dưng, với cả hai, kẻ thù
và bạn quí.
Mỗi âm thanh ngẫu nhiên chứa
đựng trọn 1 cái cầu vồng
Và sương mù bất thình
lình bèn có mùi Mùa Thu,
Hà Nội. (1)
Môi mềm ơi là mềm, cái
bóng bèn vàng ánh mãi lên
Dưới cặp mắt sụp xuống. Đêm bốc cháy
Ngời ngời - Và đêm đen bèn
dâng nộp, trao trả
Nhưng 1 phần của chúng ta cứ đen
hoài - Cặp mắt.
BHD
(1)
Dante
Chàng đếch thèm
trở lại
Ngay cả sau khi mất
Thành phố Hà Lội
của chàng
Rời bỏ, chàng đi thẳng
một mách
Vì chàng mà
tôi hát bài hát này
Đêm. Một bó đuốc.
Nụ hôn sau cùng.
Bên ngoài, âm
thanh số mệnh – Như gió hú
Từ Địa Ngục, chàng gửi
cho nàng một lời trù ẻo.
Ở Thiên Đàng, nàng
vẫn giữ chàng ở trong đầu
Chàng không bước
chân trần, muộn trong đêm
Bị quyến rũ, như 1 tên tội
đồ
Qua Hà Lội - phản bội,
đầy hờn oán
Thành phố chàng
chân thành ao ước.
Bài thơ trên, kỳ
cục thay - tuyệt vời thay - làm liên tưởng tới
nhà thơ tội đồ gốc Bắc Kít, trong bài thơ
nhớ vợ; cũng cái giọng ngôi thứ nhất, cũng chỉ
là riêng tư, mà trở thành “sử thi”
của lũ Ngụy.
Bài thơ thần sầu nhất
của Thơ Ở Đâu Xa:Bài Nhớ Thi Sĩ
Đâu có phải tự nhiên
mà đám sĩ quan VNCH lại phổ thơ, và đi đường tụng ca,
khi còn ở trong tù VC.
Mỗi ông thì đều
có 1 bà vợ như vậy.
The Keening Muse ["Nữ thần thơ than van", tên
bài viết của Brodsky về Akhmatova]
Sáng nay thức giấc trong
nhà giam
Anh nhớ những câu thơ viết
thời trẻ Bừng
cháy trong lòng anh bấy lâu
u ám quạnh quẽ
Ánh lửa mênh mang
buổi tình đầu
Mưa bụi rì rào
Gió náo nức mù
tối
Trễ muộn mùa xuân
trên miền cao
Đang lay thức rừng núi
biên giới
Đã qua đã qua chuỗi
ngày lạnh lẽo anh tự nhủ
Cũng qua cơn khô hạn khác
thường
Tắt theo ngọn nắng chon von mê
hoặc
đầu óc quái gở
Từng thiêu đốt anh trên
đồi theo vào đêm
hành hạ anh đớn đau
Từ bao giờ anh đứng trân
trối cô đơn
Hôn ám trời sơ khai
nhìn qua song tù ngục
Hoang vu lời thơ ai reo hát
cùng cỏ lá heo hút
Dẫn đưa anh về tận nẻo nguồn
chốn bình minh lẩn lút
(Bình minh bình
minh anh kêu khẽ cảm động muốn khóc
Mai Mai xa Mai như hoa Mai về
tình thơ hôm nay)
Em, em có hay kẻ tội đồ
biệt xứ
sớm nay về ngang cố quận
Xao xuyến ngây ngô
hắn dọ hỏi bóng tối sâu thẳm
Đêm vây hãm
lụn dần
Thủ thỉ mưa ru ngày khốn
đốn
Em, soi bóng em hồn nhiên
trên lối thời gian
Lặng lẽ anh gầy nhóm lửa
tinh mơ đầm ấm.
Lào Kay 4/78
Vĩnh Phú 1/79
Thanh Tâm Tuyền
Em, em có hay kẻ tội đồ
biệt xứ
sớm nay về ngang cố quận
Xao xuyến ngây ngô
hắn dọ hỏi bóng tối sâu thẳm
Đêm vây hãm
lụn dần
Thủ thỉ mưa ru ngày khốn
đốn
Em, soi bóng em hồn nhiên
trên lối thời gian
Lặng lẽ anh gầy nhóm lửa
tinh mơ đầm ấm.
Note: Tình cờ, đọc bai bài thơ của vị bằng
hữu TN, trên Gió O
Vị này, phu nhân của nhà thơ Khoa
Hữu, cũng sĩ quan Ngụy, cũng thi sĩ Nguỵ, như TTT, và những
dòng thơ của Bà, có thể coi như ứng tác
với bài thơ của TTT, và với riêng Gấu, quả thật
xứng đáng:
Bỏ em mà đi.
Thơ tình gởi lại
Anh về cõi hằng, em ở với thơ
Bình yên như núi đá giấu ngậm
ngùi
Quên khoảnh khắc thác trào cơn nức
nở
Bàn tay đã hôn cõi lòng
đã nhớ
Nỗi buồn cũng lộng lẫy đủ trăm năm
Không có
vision, không có thơ. Nhưng thơ văn nào thì
cũng là tiểu sử, tự thuật cả, nhất là cõi thơ
văn của TTT.
Nhân vật Thùy, phu nhân của trung uý
Kiệt, có nhiều nét của bà MH, cũng "mù
tịt" về thơ văn; "đảo xa" ở ngoài đời quả có thực.
Loạt bài “Những kỷ niệm với nhà thơ”, G
bị cảnh cáo, và phải bỏ ngang là vì thế,
hà, hà!
Thời gian là chiến thắng vượt quá sự thất trận,
và chiến thắng này là một điều mà những
kẻ thắng trận không thể nào tiên đoán, hay
hiểu được. Một chốn tới, một bãi biển lánh nạn ở bờ bên
kia của sự bại trận, những cái tên trên những nấm
mồ chỉ đường, được nâng niu, gìn giữ không phải bởi
vinh quang chiến thắng, bởi vị nữ thần chiến tranh với cành cọ
vàng và lưỡi gươm, nhưng mà là bởi một con
hầu, một đầy tớ gái, của chính sự thất vọng chán chường.
Và cô bé đứng trầm ngâm, bất động.
Con người thực ra đâu cần sự thành đạt,
cho lắm. Điều này lại càng đúng, ít
ra là, đối với cả một quốc gia, một dân tộc. Về cái
chuyện này, thất bại có khi lại là một điều
tốt, cho nó.
William Faulkner đọc Con Đường Trở Lại, The Road Back,
của Erich Maria Remarque, trong W. Faulkner: Tiểu luận, Diễn văn,
Công Thư [Public Letters], nhà xb The Modern Library,
NY, ấn bản 2004.
Cảm ơn bác Trụ, Tin Văn, thỉnh thoảng đưa lên
trang của bác để khen. Bác này hay chê
nhưng luôn nhẹ tay với phụ nữ nhất là mấy bà
tập sự, mới quọt quẹt viết như tôi.
HH
Không phải như vậy. Gấu không có thói
quen khen vuốt đuôi, khen nhẹ tay, mà chỉ biết khen
thực tình, và chê cũng tới chỉ. Hồi mới vô
Làng, đánh thi sĩ chuyên làm thơ tán
gái 1 cú, ông đau tới già, vì, đánh
trúng tim của ông.
Những câu văn của Bà Tám, mà
Gấu khui ra, đều là những câu thật khó viết,
không phải thứ đánh vật mới có được, mà
nó tự nhiên vô cùng. Giả như có đánh
vật, chắc là phải có, thì trước đó, đến khi
viết ra, nó cực kỳ tự nhiên.
Viết được 1 câu như thế, là trở thành
nhà văn, đúng cái ý của Borges, thơ
là để trao cho thi sĩ, và nếu như thế, thì
văn cũng vậy.
Đa số những nhà văn nhà thơ Mít, nổi
tiếng, có khi cực nổi tiếng, không có nổi 1 câu
như vậy.
"Khói củi ướt nhóm trong lò bốc lên
màu xám trong buổi chiều đầy hơi nước biển mù
mù như sương”
Tôi nhìn thấy Pleiku lần đầu tiên vào
một buổi chiều trên đảo Bidong.
Trước khi thấy biển tôi thấy cái nghĩa địa
nhỏ có chừng chục ngôi mộ của người tị nạn.
[Nguyễn Hải Hà]
Mít cần, đúng thứ văn của Patrick Modiano,
thi học của sự tìm kiếm, nghệ thuật đào bới hồi ức,
để tìm lại linh hồn của hàng triệu con người bị Cái
Ác Bắc Kít huỷ diệt.
bỏ đi. những khối. óc
đừng tưởng. đó là sự. vĩ đại
những nhập nhằng. của tính toán
của thù hằn. và âm mưu
sự yếu đuối. của con tim
khi hoàng hôn. về. vắng nắng. loạn
nhịp
và chỉ. để yêu. một người
lá. lại cong
lá. cong. không thành những
vòng. tròn
chỉ xoăn. xoắn
trời. cóng
làm. cong màu. chiếc lá. úa
giọt mưa. rơi. ngỡ ngàng mùa. sắc
những. con đường tình. cong cớn
mùa thu. vương dáng. cong
làm ngắn lại. những giấc mơ
họ. yêu nhau. hơn
Đài Sử
SONG TO THE MOON
Mưa bên kia sông,
mưa nửa dòng nuớc
TTT
I'm back to childhood when I
see it weirdly
Raining on only one side of the street.
You're born that way-or else you're not.
It's snowing-or else it's hot.
It's like the strangeness, that's also natural,
When it's raining on one side of the street.
I'm back to childhood when I see it weirdly
Raining on only one side of the street. I stare
Because it's rare. How does nature dare!
It's like the first time you hear Bach. You stop and
stare-and hear!
Everybody watches the weather report
On morning TV when everybody's getting dressed.
You always see something. You never see nothing.
If you don't like what you're wearing, change the
channel.
But it's always the same weather, isn't it,
On every channel, and always changing
With the times? I like that
It wasn't raining, and then it was, but the sun was
shining at least
On one side of the street for homosexuals
In those not-so-long-ago pre-Stonewall days,
Though it was difficult and even dangerous
And they were often unhappy,
However happy they were.
Samuel Barber at the Curtis Institute
In Philadelphia with Menotti and oh my what gifted
fun.
I think of the hard-drinking tough-guy GI Bill fags
I knew in Cambridge, Mass., Harvard
Teachers and fiends with a taste for straights, doing
their best on weekends
Not to get caught or killed,
And basically brilliant and frightened and thrilled.
You saw hysterical, theatrical, paranoid men,
Given to hissy fits and Carmen Miranda outfits,
Become calm when a shot was fired,
When it came down to taking off the costume and loving
someone.
And Leonard Bernstein was vamping around.
And Aaron Copland
Gave manly kisses. Wasn't Dvorak mildly gay?
Renee Fleming singing Dvorak's dragonfly-winged, ethereal
"Song to the Moon" from his opera Rusalka
Is what beauty really is and does.
The water nymph Rusalka, a spirit in a lake,
Broadcasts her sorrow
And longing to tlte moon
To ask the moon to tell the prince-a mortal man-
That she loves him even if he's queer,
Which she deeply does, whom she'll later kill with
a kiss.
Note: Tay này, rất mê Tẩy, esp. Apollinaire.
Bài dịch qua tiếng Anh, "Cầu Mia Rà Bồ", trong 1
số Paris Review, phán, của Tòa Soạn, nhưng của ông.
GCC lại thấy nó, trong cuốn thơ của ông, cùng vô
số bài dịch thơ Apollinaire. Trên số Paris Review,
mới nhất, có 1 bài của ông, GCC dùng Ipod
chôm, đọc được lắm, sẽ post & dịch liền.
DON'T BLINK, LIFE!
In 1960 I was twenty-four.
I'm not anymore.
Don't blink, life!
Don't move any part of you until I tell you to.
SONG
I want to amputate
My death and live.
I want to be asleep.
That way they can't put me to sleep.
They won't!
I won't.
I want to be alive and be awake.
I want a field block.
GCC mới bê về nhà 1 cuốn
thơ mới ra lò của Frederick Seidel, nhưng không
làm sao khoe cái bìa. Tính copy
& paste từ Facebook nhưng fb cứ phập phà phập phù.
GCC đọc thơ của tay này, loáng
thoáng trên 1 số báo văn học. Có
vẻ như rất mê Apollinaire. Trong cuốn thơ mới ra lò
này, có mấy bài ông dịch thơ Apollinaire.
Post sau đây. Ông trả lời
tờ Guardian, khi cuốn thơ mà Gấu mới tậu ra lò:
Another person who turns up in this book – quite
a bit – is Apollinaire. There are translations and also a poem of your
own that borrows his title “La Jolie Rousse”. Why has he been
so much on your mind lately?
Apollinaire has always been with me, in his rhetoric,
in his music, the vivacity and melancholy at the same time. “La Jolie
Rousse” I think is just one of the great poems. Such a lovely, terrible
thing.
Bài "Tù và săn",
do ông dịch:
CORS DE CHASSE
(Apollinaire)
Our story is noble and tragic
As the face of a tyrant not fun not for
everyone
No drama or magic
No detail of what we've done
Can make our love pathetic
And Thomas de Quincey drinking
Opium poison sweet and chaste
Went dreaming to his poor Anne and listened
to his own eyelids blinking
Let it pass let it pass because everything
will pass and be effaced
I will be back not yet erased
Memories
Are hunting horns whose sound dies in
the breeze
Notre histoire est noble et tragique
Comme le masque d'un tyran
Nul drame hasardeux ou magique
Aucun detail indifferent
Ne rend notre amour pathétique
Et Thomas de Quincey buvant
L'opium poison doux et chaste
A sa pauvre Anne allait revant
Passons passons puisque tout passe
Je me retournerai souvent
Les souvenirs sont corsdechasse
Dont meurt le bruit parmi le vent Apollinaire: Alcools
CORSDECHASSE
Our story is noble and tragic
As the face of a tyrant not fun not for everyone
No drama or magic
No detail of what we've done
Can make our love pathetic
And Thomas De Quincey drinking
Opium poison sweet and chaste
Went dreaming to his poor Ann and listened to his own
eyelids blinking
Let it pass let it pass because everything will pass
and be effaced
I will be back not yet erased
Memories
Are hunting horns whose sound dies in the breeze
Ban biên tập The Paris Review dịch, số Mùa Thu 2012
Tù và săn
Chuyện chúng mình
thì phong nhã và bi thương
Như cái mặt nạ của tên bạo chúa
Chẳng bi kịch, phiêu lưu hay thần kỳ
Chẳng chi tiết, dửng dưng
Có thể làm cho cuộc tình của chúng
ta thống thiết
Gấu chơi xì ke,
Dịu dàng và trong trắng
Mơ màng nhớ BHD
Thôi bỏ đi, bỏ đi Tám
Mọi chuyện đều qua đi
Gấu sẽ thường quay trở lại
Kỷ niệm
thì giống như tiếng tù và săn
Lặng dần trong gió
NQT dịch
LE PONT MIRABEAU
(Apollinaire)
Under Eads Bridge over the Mississippi
at St. Louis
Flows the Seine
And our past loves.
Do I really have to remember all that again
And remember
Joy came only after so much pain?
Hand in hand, face to face,
Let the belfry softly bong the late hour.
Nights go by. Days go by.
I'm alive. I'm here. I'm in flower.
The days go by. But I'm still here. In
full flower.
Let night come. Let the hour chime on the
mantel.
Love goes away the way this river flows
away.
How violently flowers fade. How awfully
slow life is.
How violently a flower fades. How violent
our hopes are.
The days pass and the weeks pass.
The past does not return, nor do past loves.
Under the Pont Mirabeau flows the Seine.
Hand in hand, standing face to face,
Under the arch of the bridge our outstretched
arms make
Flows our appetite for life away from us
downstream,
And our dream
Of getting back our love of life again.
Under the Pont Mirabeau flows the Seine.
Tuyet NguyenNhà thơ Nguyễn
Quốc Trụ thần sầu mỗi khi đề cập đến tình yêu.
" Sự tưởng tượng là mây bão của cực kỳ hạnh
phúc.". Không giống ai, tôi
thích.
Tks.
Đây là GCC dịch Hirsch.
Nếu nói về “không giống ai”, áp
đụng vào Marina Tsvetaeav, thì phải là Brodsky.
Sư phụ của Brodsky, là bà này. Akhmatova
là bà chị của ông, và ông, cùng
đám bạn bè cùng tuổi là “những đứa
trẻ mồ côi” của bà.
Trong Chuyện trò với Volkov, cả hai dành
cả 1 chương để vinh danh Marina. Linda Lê cũng mê bà
này lắm.
Trong cuốn này
có cái thư Tsvetaeva gửi cho Xì
Ta Lỉn, xin tha cho chồng và con gái
Ta nâng niu một nhánh
u thảo: Thơ Marina Tsvetaeva
Ta có thể ăn ngủ với bàn
tay bẩn, nhưng, làm thơ, không.
"The magnitude of love, exile, loss, desperation
and faith is met with a fortitude most of us will never
have to muster; a vulnerability most would never expose. We
can thank the stolen paper, quills, red ink; the bells of Moscow,
piles of bills and bread from a stranger for a glimpse into the
lines and life of Marina Tsvetaeva in a tender 'reading' by poets
Ilya Kaminsky and Jean Valentine, a collaboration exquisitely suited
to deliver these earthly traces." -C. D. WRIGHT
"For a non-Russian reader, Tsvetaeva's
poetry has always been a house with neither doors nor windows.
This is the first time when the translators do not claim to
inhabit this house, but choose to stand outside-most importantly
outside of themselves, as when in ecstasy, in love with Tsvetaeva's
genius. With these brilliantly introduced and delivered poems,
Kaminsky and Valentine offer no less than the first real welcome of
Marina Tsvetaeva into English. To turn to Tsvetaeva's own words ('I
can eat-with dirty hands, sleep-with dirty hands, write with dirty
hands I cannot'), these two American poets wrote this Russian book
with sparkling clean hands." -VALZHYNA MORT
"As Brodsky once wrote ofTsvetaeva,
'[her 1 voice had the sound of something unfamiliar and
frightening to the Russian ear: the unacceptability of the
world.' Ilya Kaminsky's and Jean Valentine's homage is a work
of true translatus, carrying-across that voice, that sound,
'by hand-across the river,' into an English of commensurate intensity,
ferocity, and beauty. Dark Elderberry Branch is magnificent: absolutely
essential reading for anyone who loves Tsvetaeva." -SUJI KWOCK KIM
"The poems Ilya Kaminsky and Jean
Valentine have chosen to translate, by Marina Tsvetaeva,
are blessings of experience, blessings even of suffering,
though also of simpler causes of joy, someone's body, a ray of light,
a book. Kaminsky says he and Jean Valentine have very different
temperaments from hers, but they show here what they show, differently,
in their own poetry, that they are themselves, each of them, so very
good at blessing experience, finding its indomitable life. This
is radiant work. They chose the right poet to fall in love with,
and her poems responded." -DAVID FERRY
AFTERWORD
"There cannot be too much of lyric because
lyric itself is too much."
-TSVETAEVA
1.
As a child, Marina
Tsvetaeva had "a frenzied wish to become lost" in the city
of Moscow. As a girl, she dreamed of being adopted by the devil
in Moscow streets, of being the devil's little orphan. But Russian
poetry began in St. Petersburg-the new capital was founded in
the early eighteenth century. Moscow was the old capital, devoid
of literature. No literature existed in Russia before St. Petersburg's
cosmopolitan streets.
But St. Petersburg
was also, for two hundred years, the least free city in
Russia. It was dominated by the secret police, watched by the
Tsar, and full of soldiers and civil servants-the city of loneliness
Dostoevsky and Gogol shared with us.
A kiss on the forehead
A kiss on the forehead-erases misery.
I kiss your forehead.
A kiss on the eyes-lifts sleeplessness.
I kiss your eyes.
A kiss on the lips-is a drink of water.
I kiss your lips.
A kiss on the forehead-erases memory.
Hôn 1 phát lên trán
Hôn 1 phát lên trán
- xóa sạch khốn cùng
Gấu bèn hôn trán
em
Hôn 1 phát lên mắt
- nhấc đi cơn mất ngủ
Gấu bèn hôn mắt em
Hôn 1 phát lên môi
- chiêu ngụm nước
Gấu bèn hôn môi
em
Hôn 1 phát lên trán
- xóa sạch hồi ức
WILLIAM STAFFORD
AT THE BOMB TESTING SITE
At noon in the desert a panting lizard
waited for history, its elbows tense,
watching the curve of a particular road
as if something might happen.
It was looking at something farther off
than people could see, an important scene
acted in stone for little selves
at the flute end of consequences.
There was just a continent without much on it
under a sky that never cared less.
Ready for a change, the elbows waited.
The hands gripped hard on the desert.
Buổi chiều đứng trên bãi Wasaga
Nhìn hồ Georgian
Cứ nghĩ thềm bên kia là quê nhà.
Sóng đẩy biển lên cao, khi xuống kéo
theo mặt trời
Không gian bỗng đỏ rực rồi đêm tối trùm
lên tất cả
Cát ở đây được con người chở từ đâu
tới
Còn ta bị quê hương ruồng bỏ nên phải
đứng ở chốn này
Số phận còn thua hạt cát.
Hàng cây trong công viên
bên đường nhớ rừng
Cùng thi nhau vươn cao như muốn trút hết
nỗi buồn lên trời
Chỉ còn ta cô đơn lẫn vào đêm
Như con hải âu già
Giấu chút tình sầu
Vào lời thì thầm của biển...
Note:
Hàng cây trong công viên
bên đường nhớ rừng
Cùng thi nhau vươn cao như muốn trút hết
nỗi buồn lên trời.
Quá thần sầu. Thực
sự GCC không nghĩ, mình có thể làm được
bài thơ trên. Thú nhất, là đã trình
ông anh, trước khi ông đi xa.
Hàng cây trong công viên
bên đường nhớ rừng Cùng
thi nhau vươn cao như muốn trút hết nỗi buồn lên trời.
Một lần, nhậu cùng một ông bạn trẻ tuổi
hơn, cũng nòi thi sĩ, đã từng có thơ đăng trên
Trăm Con. Cũng cùng quê Bắc, và cái ý
thơ Đêm Mưa Gửi Bắc, Dạ Vũ Ký Bắc, là cũng cùng
ngậm ngùi.
Say thơ, say rượu, đọc tới
hai câu trên, anh gật gù:
-Thơ không cần làm nhiều. Chỉ hai câu
này, là có thể chẳng cần làm thơ nữa,
cũng vẫn được, anh ạ!
Hải Âu, lướt net, tình cờ đọc, bèn
có tí thương hại GCC, là nhờ bài thơ
trên.
Tks & Take Care
bỏ đi. những khối. óc
đừng tưởng. đó là sự. vĩ đại
những nhập nhằng. của tính toán
của thù hằn. và âm mưu
sự yếu đuối. của con tim
khi hoàng hôn. về. vắng nắng. loạn nhịp
và chỉ. để yêu. một người
lá. lại cong
lá. cong. không thành những vòng.
tròn
chỉ xoăn. xoắn
trời. cóng
làm. cong màu. chiếc lá. úa
giọt mưa. rơi. ngỡ ngàng mùa. sắc
những. con đường tình. cong cớn
mùa thu. vương dáng. cong
làm ngắn lại. những giấc mơ
họ. yêu nhau. hơn
Đài Sử
Unknown Soldier
Facing us under the helmet
a moment before he is killed
he is a child with a question
W.S. Merwin: The Essential
Tên lính vô danh
Đối diện chúng ta dưới cái
nón sắt
Khoảnh khắc trước khi bị giết
anh ta là một đứa bé với 1 câu
hỏi.
Elegy for the Jewish Villages
-After Antoni Slonimsky
The Jewish villages in Poland are gone now-
Hrubieszow, Karczew, Brody, Falenica . .
.
There are no Sabbath candles lit in the windows,
no chanting comes from the wooden synagogues.
The Jewish villages in Poland have vanished
and so I walked through a graveyard without
graves.
It must have been hard work to clean up after
the war:
someone must have sprinkled sand over the
blood,
swept away the footprints, and whitewashed
the walls
with bluish lime. Someone must have fumigated
the streets, the way you do after a plague.
One moon glitters here-cold, pale, alien.
I stood in the dark countryside in summer
but
could never find the two golden moons of
Chagall
glittering outside the town when the night
lights up.
Those moons are orbiting another planet now.
Gone are the towns where the shoemaker was
a poet,
the watchmaker a philosopher, the barber
a troubadour.
Gone are the villages where the wind joined
biblical songs
with Polish tunes, where old Jews stood in
the shade
of cherry trees and longed for the holy walls
of Jerusalem.
Gone now are the hamlets that passed away
like a shadow that falls between our words.
I am bringing you home the story of a world-
Hrubieszow, Karczew, Brody, Falenica . .
.
Come close and listen to this song-
the Jewish villages in Poland are gone now-
from another one of the saddest nations on
earth.
Edward Hirsch: The Living Fire
Bi Khúc cho làng
Do Thái
Làng Do Thái ở Ba Lan bây
giờ không còn nữa
Hrubieszow, Karczew, Brody, Falenica . . .
Chẳng còn ngọn nến nào thắp
lên cho lễ Sabbath ở cửa sổ
Những bài thánh ca từ những
giáo đường bằng gỗ cũng không còn
Làng Do Thái ở Ba Lan biến mất
Thế là tôi bèn thơ
thẩn qua những vườn nho không mồ, mả
Hẳn rồi, thật cực nhọc dọn dẹp, sau khi chiến
tranh chấm dứt
Một kẻ nào đó phải tưới cát
lên máu
Kỳ cọ vết chân, tẩy sạch tường bằng
lá chanh
Một người nào đó phải xông
những con phố,
Như sau 1 trận dịch
Một con trăng lấp lánh - lạnh, lạt,
xa lạ
Tôi đứng giữa 1 vùng đồng quê
âm u, mùa hạ,
Nhưng không làm sao kiếm thấy
hai vầng trăng vàng của Chagall
Lấp lánh bên ngoài thành
phố khi đêm sáng lên
Chúng bây giờ bay quanh một hành
tinh khác.
Hết rồi còn chi đâu em ơi, những
thành phố
Nơi thợ đóng giầy là thi sĩ
Thợ sửa đồng hồ, triết gia
Thợ cắt tóc, một tên hát
rong
Hết rồi, những làng mạc
Nơi gió cuộn những bài thánh
ca vào với những điệu nhạc dân giã Ba Lan
Nơi những người già cả Do Thái
đứng dưới bóng của những cây cherry,
Mơ màng về những bức tường thánh
ở Jerusalem
Hết rồi, hết rồi, những làng xóm
Chúng bỏ đi xa
Như 1 cái bóng
Té xuống giữa những từ ngữ của chúng
ta
Rồi một mai qua cơn mê
Anh đem về nhà cho em, câu chuyện
của một thế giới –
Hrubieszow, Karczew, Brody, Falenica . .
.
Hãy tới gần và lắng nghe bản
nhạc sến - Những làng mạc Do Thái ở Ba Lan đâu
còn –
Từ một trong những xứ sở buồn bã nhất
trên trái đất.
GREGORY
ORR
Three Dark
Proverb Sonnets
****
1.
None have
done wrong who still
Have a tongue: even Cain
Can explain.
Yet every atrocity
Breeds its reciprocity:
No murder
That doesn't lead to further.
If I was in charge, those who
Praise rage would be made
To visit more graves.
Skulls
Annul. All knives should
be dull.
And yet, once we'd built the coffin
We had no choice: we had
to find a corpse.
2.
Watch the leopard, not its spots.
It's the tiger that strikes,
Not the stripes.
The smart hide their claws
In their paws, then add
Fur for allure.
Combining smiles and wiles
And calling it "style."
A sword has a point,
But a needle
Is sharper and cleaner-
Less mess, less evidence.
It was never just the arrow
We bowed to; it was also
the bow.
3.
Remember: every fist
Began as an open hand.
Even a bridge is a ledge
If you stray to its edge.
You can lead a horse
To water, but
You can't make it drink.
You can guide a fool
To wisdom,
But you can't make him think.
You can close one eye to evil,
But you'd better not blink.
In the dark, adjust your eyes.
In the darker, your heart.
from Mississippi Review
Ba bài sonnet u ám
có tí ngụ ngôn ở trỏng
1.
Chẳng ai làm điều xấu,
Nếu kẻ đó vưỡn còn cái
lưỡi
Ngay cả tên Bắc Kít giết
thằng em Nam Kít
Vưỡn có thể giải thít:
Thắng trận này, lũ Mít
chúng ta sẽ xây 1 cái nhà to đùng
Như dinh cơ của tên Mafia Đỏ Yên
Bái, thấy không?
Tuy nhiên, mọi tàn ác đẻ ra cái
nghịch đảo của nó.
Nói rõ hơn, Bắc Kít
làm thịt Nam Kít, là làm thịt
chính Bắc Kít!
Không có cú sát
nhân nào mà… tuyệt tự cả.
Nếu GCC là Trùm Bắc Bộ Phủ
Thì bèn đưa cả lũ đi tham
quan Mả Ngụy
Mả Thuyền Nhân, ở mấy hòn
đảo Đông Nam Á…
Một khi không có sọ người
Thì mấy con dao gỉ sét
ư?
Tuy nhiên, một khi chúng ta đóng
1 cái áo quan, một cái hòm.
Chúng ta bèn không
có 1 giải pháp nào khác, ngoài
nỗi khốn khó như vầy:
Phải tìm cho được 1 cái
tử thi!
2.
Nhìn con báo, đừng nhìn mấy cái
sọc của nó
Con hổ đợp bạn, đâu phải mấy cái
vằn?
Con vật khôn ngoan giấu móng vuốt vào
chân, rồi thêm
“fur for allure”
[ôi cái áo lông
thú của nàng mới quyến rũ làm sao]
Trộn nụ cười với mưu ma chước quỷ
Và gọi nó là “văn phong”.
Cây gươm nào mà chẳng có mũi
Nhưng cái lỗ chân kim
Thì nhọn hơn và sạch hơn
Ăn vụng chùi mép
Càng ít lộn xộn, càng
ít chứng cớ.
Đâu có phải chỉ mũi tên
Phải cây cung nữa chớ!
Hãy nhớ: mọi cú đấm
Đều bắt đầu bằng bàn tay mở rộng
Mọi cây cầu, thì là
đá ngầm
Nếu bạn lạc mép, bờ.
Bạn có thể dẫn ngựa xuống nước
Nhưng biểu nó, này nước đây,
uống đi, chưa chắc nó đã chịu
Bạn có dẫn dắt, chỉ bảo 1 tên khùng
Tới với trí khôn, với minh
triết
Nhưng làm sao biểu nó, hãy
suy tư đi!
Bạn có thể nhắm 1 con mắt trước cái ác
Nhưng đừng chớp mắt , dù chỉ 1 phát!
Trong bóng tối, hãy điều chỉnh con mắt
Nếu tối thui, hãy chỉnh lại trái
tim.
Marina Tsvetaeva
Human thresholds are meant to be crossed,
so please come in and make yourself at home.
I'm certainly not going to deliver A Lecture
on Love (what an insufferable word, "lecture"),
though I shall speak about the essential home-
lessness oflove, always star-crossed ...
I have a talent for "non-reciprocal love"
and all my work is an argument for rapture.
When you love a person you always want him
to disappear so your mind can work on him.
The imagination is a storm-cloud of rapture
which I have scattered, like unhappy love.
"A person has to be condemned to poetry
like a wolf to his howling," A. Bely said,
"but you're a bird that keeps on singing."
I like to be torn apart by my own singing,
like one of Odysseus's men who, it's said,
destroyed himself for the Siren's poetry.
"I have lived with the shudder of longing"
(M. V. wrote), insatiable for the genuine.
I have held a boiling teapot, a frying pan,
a broom, an iron, three babies, and a pen
that stutters with knowledge of the genuine:
I have been hollowed out by sexual longing,
and I've paid for my transcendental passion.
What poet actually isn't a Negro, a woman,
or a Jew who has been slain by gentiles?
I know because I've lived among gentiles
as an outcast, a White, an emigre, a woman
despised for her deep and wayward passion.
Admitted: I have been devoured by life-
gathering firewood, feeding my small family.
I have a child who died in an orphanage
(how's that for being "a woman of the age"?)
and I've tried to resurrect my family.
But I've never really cared for "life"-
unmediated, inSignificant, all by itself.
Life has to have the plenitude of art.
If I were brought across the sea to Paradise
and forbidden to write, I'd refuse Paradise,
since what good is heaven without art,
which has a joyousness beyond the self?
There are moments in writing like love
when you suddenly set fire to the house
and push your friend from the mountaintop.
They are sublime feelings-the mountaintop
of experience-when you torch the house
and obey the innermost dictates of love.
Wherever you are, I'll reach you, love.
I've named my lust for you "holiness."
We've come to ourselves in a fresh hell
in our century (a godless Russian hell),
but we've also created passionate holiness.
I would be a wing that soars for love.
Edward Hirsch: The Living Fire
Marina Tsvetaeva
Những hoàn cảnh giới hạn của 1 đời người
Cái gì gì sinh bịnh lão
tử…
Chúng có đó là để vượt
qua
Nếu đúng như tên Gấu Cà Chớn phán,
thì
Mời Em vô và coi như đây là
nhà của Em
Gấu sẽ không lên lớp về “Bài Về
Tình Yêu”
(Cái từ “lecture” mới nhảm nhí – không
thể chịu nổi - làm sao)
Tuy nhiên, G. sẽ đi 1 đường về cái “vô
gia cư, vô địa táng” cơ bản, của tình yêu,
cái luôn luôn là bất hạnh, là trù
eỏ, là xấu số….
Gấu có tài, thì cứ coi như là
thiên bẩm, về cái gọi là “tình một
chiều”, về “yêu không cần hồi đáp”,
Tuy nhiên, tất cả những gì viết trên
trang Tin Văn thì đều đen thui, nhưng về… Em, thì
là cực kỳ hạnh phúc.
Khi Em thương ai, thì Em luôn muốn thằng
khốn biến mất, đi chỗ khác chơi, và như thế, cái
đầu, tâm trí em sẽ bèn dành hết cho
hắn.
Sự tưởng tượng là mây bão của cực
kỳ hạnh phúc
Gấu trải ra trên trang Tin Văn, như tình
yêu bất hạnh
“Kẻ mà bị kết án thơ thì như con sói,
với tiếng hú của nó,” A. Bely phán.
“Nhưng Em thì như chim ca hát suốt”
Gấu “thít” bị xé tan hoang bởi tiếng
hát của riêng hắn -những dòng trên Tin
Văn –
Như 1 trong những người của Odysseus, mà, theo
như truyền thuyết,
Tự huỷ mình vì Thơ Ca của Nhân
Ngư.
“Tớ sống với 1 cú rùng mình của ước mong,
khao khát, chờ đợi” (M.V. viết), tham lam vô độ, không
sao thỏa mãn, về sự xác thực.
Tớ cầm cái bình trà sôi
bỏng, cái chảo rán, cái chổi, cái bàn
ủi, ba đứa bé, và 1 cây viết
Cây viết thì lách cha lách
chách vì hiểu viết về sự xác thực:
Tớ bị khoét sạch, rỗng tuếch bởi thèm
sex
Và tớ bèn ăn bánh trả tiền cho
cái đam mê siêu thoát này.
Thi sĩ gì, thi sĩ nào không phải
là 1 tên mọi đen, 1 người đàn bà, hay
một tên Do Thái, hay một tên Ngụy, bị lũ Bắc
Kít làm thịt (gentile: không phải là
người Do Thái)
Tớ biết bởi là vì tớ đã từng sống
giữa đám gentile, như 1 kẻ đứng bên lề, bị gạt ra
khỏi xã hội, 1 tên Trắng, 1 tên émigré,
di dân, 1 người đàn bà bị ghét bỏ vì
đam mê hoang dại và sâu thẳm của mình.
Hãy thừa nhận: Tớ bị xâu xé bởi cuộc đời
- nhặt nhạnh củi, nuôi nấng 1 gia đình nhỏ.
Tớ có 1 đứa bé bị chết trong nhà
mồ côi (như thế là thế nào, “người đàn
bà của một thời”?)
Và tớ cố tái sinh, cố làm sống
lại, gia đình của mình.
Nhưng tớ chẳng bao giờ “care” về cái gọi là
“đời”
trực tiếp, vô nghĩa, tất cả bởi chính nó.
Đời thì phải đầy tới chỉ bởi nghệ thuật
Nếu tớ được đem qua biển cả, tới được Thiên Đàng
Và bị cấm viết, tớ từ chối Thiên Đàng
Bởi là vì, ích chi đâu 1
thứ Thiên Đàng không có nghệ thuật
Cái thứ có niềm vui vượt quá cái
tôi, cái ngã?
Có những khoảnh khắc, viết giống như iêu
Khi mà, bất thình lình, mi bèn
châm lửa đốt nhà của mi
Đẩy bạn bè lên chỏm núi
Chúng là những cảm nghĩ tới đỉnh, siêu
phàm – khi bạn đốt đuốc, không phải để chơi đêm
như Huấn Cao – nhưng mà là để đốt nhà, chính
căn nhà của bạn
Và vâng lệnh, thứ lệnh lạc được tình
yêu cực kỳ sâu thẳm trong đáy sâu ở trong
bạn, phán truyền.
Em ở đâu, bất cứ em ở đâu,
thì Gấu cũng tới bằng được em, yêu
Gấu đặt tên cho cái mê mẩn, thèm
em, là “thánh thiện”
Chúng mình, chính chúng
mình bèn mò xuống “đọa ngục”, tình
yêu, tươi mát, mơn mởn, trong thế kỷ của chúng
ta (một địa ngục Nga vô thần)
Nhưng chúng ta cũng xây dựng một thánh
đức đam mê, nồng cháy
Anh sẽ là cái cánh bay về tình
yêu.
Nothing's been taken
away!
We're apart -I'm delighted
by this!
Across the hundreds
of miles
that divide us, I
send you my kiss.
Our gifts, I know,
are unequal.
For the first time
my voice is still.
What, my young Derzhavin,
do
You make of my doggerel?
For your terrible
flight I baptize you -
young eagle, it's
time to take wing!
You endured the sun
without blinking,
but my gaze - that's
a different thing!
None ever watched
your departure
more tenderly than
this
or more finally. Across
hundreds
of summers, I send
you my kiss.
MARINA TSVETAEVA
(1916)
Peter Oram
Gửi Osip Mandelstam
Chẳng có gì bị lấy
đi
Đôi ta mỗi người mỗi ngả
- Em sướng điên lên vì chuyện này!
Qua ngàn dâu xanh
biếc một màu, em gửi tới chàng 1 nụ hôn
Tài năng thiên bẩm
của đôi ta, thì không đồng đều
Lần đầu tiên, tiếng nói
của ta câm nín
Hỡi anh yêu, tên tuổi
trẻ Derzhavin của ta ơi
Mi đã làm gì
với những vần thơ tồi tệ của ta?
Dành cho chuyến đi khủng
khiếp của mi
Tới đây, ta rửa tội cho –
Con chim ưng trẻ, tới giờ cất cánh
Hãy nhìn thẳng vào
mặt trời, chịu đựng chuyến bay, không thèm nháy
mắt
Nhưng cái nhìn ban
phước lành của ta cho mi, thì lại là
chuyện khác
Chẳng đứa khốn nào theo
dõi mi lên đường
Dịu dàng như thế này
Sau chót như thế này
Qua ngàn ngàn mặt
trời, ánh nắng, mùa hè
Ta gửi cho mi nụ hôn của
ta
The Toy
The brightly painted horse
Had a boy's face,
And four small wheels
Under his feet,
Plus a long string
To pull him this way and that
Across the floor,
Should you care to.
A string in waiting
That slipped away
With many wiles
From each and every try.
•
Knock and they'll answer,
My mother told me,
So I climbed the four flights
And went in unannounced.
And found the small toy horse
For the taking.
In the ensuing emptiness
And the fading daylight
That still gives me a shudder
As if I held in my hand
The key to mysteries.
•
Where is the Lost and Found
And the quiet entry,
The undeveloped film
Of the few clear moments
Of our blurred lives?
Where's the drop of blood
And the tiny nail
That pricked my finger
As I bent down to touch the toy,
And caught its eye?
•
Wintry light,
My memories are
Steep stairwells
In dusty buildings
On dead-end streets,
Where I talk to the walls
And closed doors
As if they understood me.
*
The wooden toy sitting pretty.
No quieter than that.
Like the sound of eyebrows
Raised by a villain
In a silent movie.
Psst, someone said behind my back.
None have done
wrong who still
Have a tongue: even Cain
Can explain.
Yet every atrocity
Breeds its reciprocity:
No murder
That doesn't lead to further.
If I was in charge, those who
Praise rage would be made
To visit more graves.
Skulls
Annul. All knives should be dull.
And yet, once we'd built the coffin
We had no choice: we had to find a corpse.
2.
Watch the leopard, not its spots.
It's the tiger that strikes,
Not the stripes.
The smart hide their claws
In their paws, then add
Fur for allure.
Combining smiles and wiles
And calling it "style."
A sword has a point,
But a needle
Is sharper and cleaner-
Less mess, less evidence.
It was never just the arrow
We bowed to; it was also the bow.
3.
Remember: every fist
Began as an open hand.
Even a bridge is a ledge
If you stray to its edge.
You can lead a horse
To water, but
You can't make it drink.
You can guide a fool
To wisdom,
But you can't make him think.
You can close one eye to evil,
But you'd better not blink.
In the dark, adjust your eyes.
In the darker, your heart.
from Mississippi Review
Ba bài sonnet u ám có
tí ngụ ngôn ở trỏng
1
Chẳng ai làm điều xấu,
Nếu kẻ đó vưỡn còn cái lưỡi
Ngay cả tên Bắc Kít giết thằng em Nam
Kít
Vưỡn có thể giải thít:
Thắng trận này, lũ Mít chúng
ta sẽ xây 1 cái nhà to đùng
Như dinh cơ của tên Mafia Đỏ Yên Bái,
thấy không?
Tuy nhiên, mọi tàn ác đẻ ra cái
nghịch đảo của nó.
Nói rõ hơn, Bắc Kít làm
thịt Nam Kít, là làm thịt chính Bắc
Kít!
Không có cú sát nhân
nào mà… tuyệt tự cả.
Nếu GCC là Trùm Bắc Bộ Phủ
Thì bèn đưa cả lũ đi tham quan Mả Ngụy
Mả Thuyền Nhân, ở mấy hòn đảo Đông
Nam Á…
Một khi không có sọ người
Thì mấy con dao gỉ sét ư?
Tuy nhiên, một khi chúng ta đóng 1 cái
áo quan, một cái hòm.
Chúng ta bèn không có 1
giải pháp nào khác, ngoài nỗi khốn khó
như vầy:
Phải tìm cho được 1 cái tử thi!
THE SONG OF THE FINAL MEETING
I was helpless, my breasts were freezing,
I walked one foot on tiptoe,
I put my left glove on
my right hand, like an idiot.
There seemed to be so many steps then
but I knew there were only three.
Autumn whispered through the maples
"Die, like me:
that sick, truculent liar, Fate,
has stripped me, for the hell of
it."
"I've been flayed like you," I remember
answering
as I left, "and I'll die when you
do."
This is the song of our last meeting.
I looked back at the shape of the
dark house.
Candles guttered in the bedroom
window,
indifferent, yellow.
(version by Stephen Berg)
The opening soliloquy turns out, astonishingly,
to be the dramatic account of a farewell meeting, a last
good-bye. It has a title, "Song of the Last Meeting," and it
must dramatize the drastic burden of that encounter-the weight
of irrevocable loss-entirely on its own since the speech has
been severed from its context in the larger play. That's because
there is no play, no stage, no supporting cast, no collective audience
to gasp at the witty Chekhovian dialogue showing us character in action.
What we're listening to instead, what each of us is in fact reading,
is a lyric poem. Four quatrains. A square of black marks surrounded by
white margins, white space.
These sixteen lines comprise
one of the first poems in the first book, Evening (1912),
by Anna Akhmatova, née Anna Gorenko. Along with the two
books that followed it, Rosary (1914) and
White Flock (1917), Evening sounds
a note that had not been heard in literature before and, perhaps,
has not been heard again. I hear that note whenever I recite this poem
aloud. It echoes down the century, surviving translation.
Every poem is a scene
of language. It is a rite without a ceremony. To set this particular
scene, it is winter 1910-1911. Symbolism, the dominant literary
mode of the time, is in self-declared: crisis. In the Bryullov reading
room in the Russian Museum in St. Petersburg a twenty-one-year-old
bohemian, a provincial girl with a pagan childhood who has been writing
poems from the time she was eleven years old (her father had playfully
called her "a decadent poetess" even before that) read the galleys of Innokenty
Annensky's posthumous book, The Cypress Box,
and understood something dramatic about poetry. Her
husband, the faithful young symbolist poet Nikolay Gumilyov ("as a boy
he believed in symbolism as people believe in God. It was an inviolable
sacrament. But the closer he approached symbolism ... the more his faith
faltered") traveled to Africa for six months, and his spouse started
writing the poems that would help bring Russian literature into the twentieth
century. Acmeism and Futurism were both being hatched. When Serge Makovsky
accepted some of these poems for the magazine Apollo, Anna Gorenko's
father urged her "not to befoul a good respected name" and to take a
pseudonym. Thus Anna Akhmatova"- a name with five open as
and an exotic Tatar feeling-entered Russian literature at the top of
the Russian alphabet.
It was Osip Mandelstam,
the other great Acmeist poet, who first observed that the
roots of Akhmatova's art are in the nineteenth-century Russian
novel, in Tolstoy, Turgenev, Dostoevsky, and that her poetic form
"was developed with a glance at psychological prose." Symbolism
is indicted by this poetry. A dramatic clarity of expression stands
against its moody vagueness and otherworldly mysticism. Look how
swiftly Akhmatova sets the scene with tangible details and bold novelistic
strokes. She also irrevocably marks that scene with her gender. Here
a literal translation is helpful:
So helplessly my chest grew cold
But my steps were light.
I put on my right hand
My left-handed glove. (translated by Joanna
Trzeciak)
These lines are spare, concentrated, severe.
What seems characteristic of the dramatic
lyric and not of the nineteenth-century novel is the process
of terrific distillation operating here, a condensation so extreme
it seems more reminiscent of Sappho than of Dostoevsky, more Li
Po than Tolstoy. The speaker is narrator, observer, and actor all
at once. She speaks with the rhythm of Russian verse, her words
rhyme. She is not the author exactly ("When I state myself, as the
Representative of the Verse-it does not mean-me-but a supposed person,"
Emily Dickinson explains), but she is not a full-fledged fictional
construct either (as in, say, a dramatic monologue by Robert Browning).
The sliding line between rhetorical projections and revealing self-confession
may be characteristic and perhaps even constitutive of a certain first-person
love poem.
I'm struck by the helpless sense of exposure
in the first two lines, the
[suite]
Edward Hirsch: How to Read a Poem
and Fall in Love with Poetry
Đêm đêm, như 1 tên
mộng du, một mình mi tìm cách
trở về lại Saigon, trở lại Quán Chùa....
2. A Treatise on Ecstasy
Touching your body
I was like a rabbi poring
over a treatise on ecstasy,
the message hidden in the scrolls.
I remember our delirium
as my fingers moved
backwards
across the page, letter by letter,
word by word, sentence by sentence.
I was a devoted scholar
patiently tracing the secret
passages of a mysterious text.
Our room became
a holy place
as my hands
trembled
and my voice shook
when I recited the blessings
of a book that
burst into flames.
Luận về Cực Khoái
Mò mẫm toà thiên nhiên
của Em
Gấu như Thầy Cả
Mải mê ngâm kíu Bí
Kíp Cực Khoái
Tìm thông điệp giấu kỹ ở trong
đó
Gấu nhớ là cả hai đều sướng điên
lên
Khi mấy ngón tay của Gấu mò
lên rồi lại mò xuống
Từng chữ
Từng trang
Từng dòng
Từng câu
Gấu là tên học dởm (giả)
Kiên nhẫn
Lần mò bí kíp
Căn phòng của chúng ta
Bèn biến thành Thánh
Địa
Và khi Gấu, tay run run
Ú ớ
Đọc lên lời ân sủng
Cùng lúc
Bí kíp biến thành ngọn
lửa.
Lot's wife
And Lot's wife looked back
and became a pillar of salt.
And the just man followed God's ambassador
here,
Huge and bright against the mountain
black.
But alarm spoke loudly in the woman's
ear:
It's not too late, you can still look
back
At red-towered Sodom where you were
born,
At the square where you sang, where
you sat to spin,
At the windows of the high house, forlorn,
Where you bore your beloved husband
children.
She looked,-deadly pain found the fault,
Her eyes couldn't see if they saw or
not;
And her body became translucent salt,
Her lively feet were rooted to the
spot.
She's seen as a kind of loss and yet
Who will grieve for this woman, cry
for this wife?
My heart alone will never forget:
For a single look, she gave up her
life.
1922-1924
None have done wrong who still
Have a tongue: even Cain
Can explain.
Yet every atrocity
Breeds its reciprocity:
No murder
That doesn't lead to further.
If I was in charge, those who
Praise rage would be made
To visit more graves.
Skulls
Annul. All knives should be dull.
And yet, once we'd built the coffin
We had no choice: we had to find a corpse.
2.
Watch the leopard, not its spots.
It's the tiger that strikes,
Not the stripes.
The smart hide their claws
In their paws, then add
Fur for allure.
Combining smiles and wiles
And calling it "style."
A sword has a point,
But a needle
Is sharper and cleaner-
Less mess, less evidence.
It was never just the arrow
We bowed to; it was also the bow.
3.
Remember: every fist
Began as an open hand.
Even a bridge is a ledge
If you stray to its edge.
You can lead a horse
To water, but
You can't make it drink.
You can guide a fool
To wisdom,
But you can't make him think.
You can close one eye to evil,
But you'd better not blink.
In the dark, adjust your eyes.
In the darker, your heart.
from Mississippi Review
Note: Sẽ có bản tiếng Mít asap.
THE SONG OF THE FINAL MEETING
My breast was bound with a cold band,
And still my steps were light.
The glove intended for my
left hand,
I put upon my right.
At the thought of the stairs, I grew
faint-hearted,
But I knew, there were only
three!
An autumnal whisper in.the
maples started
Begging: "Die with me!
"Fate cheated me-fate, so abysmal,
So moody and full of spite
. . ."
I answered: "My dear! I too
am dismal.
I'll die with you tonight
... "
The final meeting: I stood on the road.
The house was as dark as
shame.
Only, in the bedroom, candles
showed
An indifferent yellow flame.
1911
Bản của Lyn Coffin
Thu này, thầm thì trong
đám lá phong,
Thú giục, năn nỉ Gấu
Cà Chớn:
-Hãy chết cùng
ta nhé!
OK!
Sẽ đi liền, những dòng tụng
ca của Hirsch.
Trong khi chờ đợi, post thêm, thơ
Akhmatova:
A chill
A chill on my helpless heart
Yet I am walking on air.
And I wear my left glove
On my right hand.
(from "The last date's song")
[in Strong Words]
LOT'S WIFE
And Lot's wife looked back
and became a pillar of salt.
And the just man followed God's ambassador here,
Huge and bright against the mountain black.
But alarm spoke loudly in the woman's ear:
It's not too late, you can still look back
At red-towered Sodom where you were born,
At the square where you sang, where you sat to
spin,
At the windows of the high house, forlorn,
Where you bore your beloved husband children.
She looked,-deadly pain found the fault,
Her eyes couldn't see if they saw or not;
And her body became translucent salt,
Her lively feet were rooted to the spot.
She's seen as a kind of loss and yet
Who will grieve for this woman, cry for this wife?
My heart alone will never forget:
For a single look, she gave up her life.
1922-1924
Translated by Lyn Coffin
LOT'S WIFE
And the just man trailed God's messenger,
His huge, light shape devoured the black hill.
But uneasiness shadowed his wife and spoke to
her:
'It's not too late, you can look back still
At the red towers of Sod om, the place that bore
you,
The square in which you sang, the spinning-shed,
At the empty windows of that upper storey
Where children blessed your happy marriage-bed.'
Her eyes that were still turning when a bolt
Of pain shot through them, were instantly blind;
Her body turned into transparent salt,
And her swift legs were rooted to the ground.
Who mourns one woman in a holocaust?
Surely her death has no significance?
Yet in my heart she never will be lost,
She who gave up her life to steal one glance.
1922-24
Everyman’s Library
Lot's wife
A man of God, he followed in the afterglow
Of an angel's footsteps across a black hill.
An anxious need nettled at his wife;
"It's never too late to look back on
The red towers of your birthplace, Sodom,
The square in which you sang, the spinning shed,
The window in the upper room, the bed
In which you birthed your children."
She stole an almost inadvertent look
And, unsuspecting, was struck stone blind;
Her body turned to translucent salt,
Her feet were rooted in desert grit.
No one mourns a single death by firestorm!
What does such a dying woman signify?
She simply wanted to whisper goodbye.
For that alone, that last look, she had to die.
in Strong Words
Note: Cái tay dịch giả Strong Words,
là cư dân Toronto như GCC.
Mỗi bản dịch mỗi khác, và Gấu tin,
họ đều biết đã có những bản dịch trước đó,
nhưng vẫn dịch.
Seagulls are flying close to
the ground.
They say this means it's going to rain.
But it's not raining yet. Right now
There are seagulls close to the ground
Flying-that's all.
Likewise, when there's happiness,
They say sadness is on its way.
Perhaps, but so what? If today
Is full of happiness, where
Does sadness fit in?
It doesn't. It belongs to tomorrow.
When it comes, then I'll be sad.
Today is pure and good. The future
Doesn't exist today. There's a wall
Between us and it.
Enjoy what you have, drunk on
being!
Leave the future in its place.
Poems, wine, women, ideals-
Whatever you want, if it's what is,
Is for you to enjoy.
Tomorrow, tomorrow ... Be, tomorrow,
What tomorrow brings you. For now
Accept, be ignorant, and believe.
Keep close to the ground, but flying,
Like the seagull.
FERNANDO PESSOA-HIMSELF
18 MAY 1934
Hải Âu bay là là
trên mặt đất
Người ta nói, sắp mưa.
Nhưng chưa mưa. Vào lúc này,
Hải Âu bay là là trên
mặt đất
Bay. Vậy đó.
Khi hai đứa hạnh phúc,
"Tụi nó" cảnh cáo, nè,
coi chừng cái buồn nó tới kia kìa!
Có lẽ. Nhưng rồi sao?
Nếu bữa nay, hai đứa vui tràn đầy,
Buồn chui vô bằng lối nào?
Chỗ nào chứa nó?
Nó đếch vô được.
Nó thuộc về ngày mai
Khi nó tới, OK, hai đứa lúc
đó, bèn buồn!
Bữa nay thì trong veo. Tươi rói.
Tương lai đâu phải là… hôm
nay?
Có 1 bức tường phân chia hai
đứa với nó.
Hãy chấp nhận.
Hãy ngu si hưởng thái bường.
Và tin tưởng.
Cứ bay là là trên mặt
đất.
Bay!
Như Hải Âu của Gấu!
When we were
fleeing the burning city
And looked
back from the first field path,
I said: "Let
the grass grow over our footprints,
Let the harsh
prophets fall silent in the fire,
Let the dead
explain to the dead what happened.
We are fated
to beget a new and violent tribe
Free from
the evil and the happiness that drowsed there.
Let us go
"-and the earth was opened for us by a sword of flames.
Goszyce, 1944
Bay
Khi chúng ta bỏ chạy thành
phố cháy đỏ
Và
nhìn lại từ cánh đồng lúa mì
đầu tiên
Gấu phán: Hãy để cho cỏ mọc xóa
vết chân của chúng ta
Hãy
để cho những tên tiên tri, thiên
sứ câm lặng trước ngọn lửa
Hãy
để cho người chết giải thích cho người chết
chuyện gì xẩy ra
Số mệnh của
chúng ta, là cho ra đời một giống Bắc
Kít mới, hung
bạo
Thoát
ra khỏi Cái Ác Bắc Kít Ngày
Xưa!
Nào
đi!
Và
thế là mặt đất mở ra cho chúng ta
Bằng một
lưỡi gươm lửa!
BARNSTONE: Would you tell us something
about the poems of Emily Dickinson? What do you think of Emily Dickinson
among American poets?
BORGES: Emily Dickinson is the most
passionate of all women who have attempted writing. At the moment I only
remember these hackneyed lines-but of course they're not hackneyed, they're
eternal: "Parting is all we know of heaven/ and all we need of hell."
The second line is perfect. The word need is the perfect word in
the context. She spent her life writing, forgetting what she had written,
leaving rough drafts, and now she is famous, but that is unimportant of
course. I think of her as if I had known her personally. I have personal
regard for her, personal love for Emily Dickinson. Borges Tám Bó
Ông Gấu nói về Emily Dickinson
đi.
Gấu Tám Bó: Ôi chao, Bà
thì là cực đam mê khi viết. Lúc này
Gấu chỉ nhớ mấy hàng sau đây, cũng thường thôi,
nhưng tất nhiên, thật thiên thu bất diệt:
Đi là chết ở trong lòng
1 tí
Và 1 tí là tất cả chúng
ta biết về thiên đàng
Và tất cả chúng ta cần
về địa ngục.
BARNSTONE: I am listening so intently
that it wipes out further thoughts and questions. I stand in need of Edgar
Allan Poe. Would you speak now about Poe?
BORGES: Every writer is undertaking two quite
different works at the same time. One is the particular line
he is writing, the particular story he is telling, the particular
fable that came to him in a dream, and the other is the image
he creates of himself. Perhaps the second task that goes on all
throughout life is the most important. In the case of Poe, I think
that our image of Poe is more important than any of the lines on the
pages that he wrote. We think of Poe as we may think of a character in
fiction. He is as vivid to us as Macbeth or Hamlet. And creating a very
vivid image and leaving that to the memory of the world is a very important
task.
Ông Gấu nói về "thế chênh
vênh siêu hình" của... Tô Thùy
Yên đi.
Mọi nhà văn thì mần hai việc
khác nhau cùng lúc. Một là dòng
đặc biệt anh ta đang viết, câu chuyện đặc biệt anh ta đang
kể, ngụ ngôn đặc biệt tới với anh ta trong mơ, và việc
kia, là hình ảnh anh ta sáng tạo về chính
anh ta.
Cái việc thứ nhì, mới quan trọng,
và đó là hình ảnh của TTY, một
bóng ma hờn tủi, là, kiếm cây nhang thật
quí, thắp lên thương tiếc chàng!
Chưa 1 tên Bắc Kít làm
được việc này, vẫn theo GCC.
Chúng còn bận cởi mặt nạ nhận
mặt kẻ cựu thù của chúng!
Anna Akhmatova with Boris Pasternak
just after he began writing Doctor Zhivago, 1946
I WRUNG MY HANDS UNDER MY DARK VEIL
I wrung my hands under my dark
veil ...
"Why are you pale, what makes you reckless?"
- Because I have made my loved one drunk
with an astringent sadness .
I'll never forget. He went out,
reeling;
his mouth was twisted, desolate ...
I ran downstairs, not touching the banisters,
and followed him as far as the gate.
And shouted, choking: "I meant
it all
in fun. Don't leave me, or I'll die of pain."
He smiled at me-oh so calmly, terribly-
and said: "Why don't you get out of the rain?"
ANNA AKHMATOVA
translated by Max Hayward
and Stanley Kunitz
Tôi
vặn tay tôi,
dưới chiếc khăn choàng màu
tối
Tôi vặn tay tôi,
dưới chiếc khăn choàng màu tối…
“Sao anh xanh lét, điều gì
làm anh bất cần như thế?
- Bởi là vì anh đã để
cho người yêu uống với nỗi buồn se sắt
Tôi sẽ chẳng thể nào quên
được. Anh bỏ đi, loạng choạng
Miệng méo xệch, hoang tàn,
đổ nát….
Tôi chạy xuống cầu thang không
đụng vô lan can,
Và theo anh tới tận cổng
Và la lớn, nghẹn ngào:
Em chỉ tính chọc quê anh một
tí thôi. Đừng bỏ đi. Đừng bỏ em. Em sẽ chết vì
đau buồn .
Anh nhìn tôi – ôi mới
lạnh lùng, câm nín làm sao –Và
nói:
“Người đẹp của anh ơi, đừng ra mưa, kẻo lạnh!”
SONG OF THE LAST MEETING
My breast grew cold and numb,
But my feet were light.
On to my right hand I fumbled
The glove to my left hand.
It seemed that there were many steps
- I knew there were only three.
An autumn whisper between the maples
Kept urging: 'Die with me.
Change has made me weary,
Fate has cheated me of everything.'
I answered: 'My dear, my dear!
I'll die with you. I too am suffering.'
It was a song of the last meeting.
Only bedroom-candles burnt
When I looked into the dark house,
And they were yellow and indifferent.
1911, Tsarskoye Selo
[ed Everyman's Library]
Note: Edward Hirsch, trong "Làm
sao đọc 1 bài thơ và tương tư thơ", đi 1 đường thần sầu về
bài thơ quá đỗi thần sầu trên. GCC thú thực,
rất mê thơ Akhmatova.
Bản tiếng Anh, trong "How to.."
I was helpless, my breasts were freezing,
I walked one foot on tiptoe,
I put my left glove on
my right hand, like an idiot.
There seemed to be so many steps then
but I knew there were only three.
Autumn whispered through the maples
"Die, like me:
that sick, truculent liar, Fate,
has stripped me, for the hell of it."
"I've been flayed like you," I remember answering
as I left, "and I'll die when you do."
This is the song of our last meeting.
I looked back at the shape of the dark house.
Candles guttered in the bedroom window,
indifferent, yellow.
(version by Stephen Berg)
THE SONG OF THE FINAL MEETING
My breast was bound with a cold band,
And still my steps were light.
The glove intended for my left hand,
I put upon my right.
At the thought of the stairs, I grew
faint-hearted,
But I knew, there were only three!
An autumnal whisper in.the maples started
Begging: "Die with me!
"Fate cheated me-fate, so abysmal,
So moody and full of spite . . ."
I answered: "My dear! I too am dismal.
I'll die with you tonight ... "
The final meeting: I stood on the road.
The house was as dark as shame.
Only, in the bedroom, candles showed
An indifferent yellow flame.
1911
Bản của Lyn Coffin
Thu này, thầm thì trong
đám lá phong,
Thú giục, năn nỉ Gấu Cà Chớn:
-Hãy chết cùng ta nhé!
Thèm khóc như thèm
mưa
Tóc khô như hoa cỏ
Ai có về trong đêm
Gội dùm khu vườn nhỏ
Thèm khóc như thèm
mưa
Thịt da như gạch nỏ
Ai có về trong đêm
Thổi mưa vào áo lụa
Thèm khóc như thèm
mưa
Trái tim khô mùa hạn
Ai có về trong đêm
Làm mưa rơi trên ngực
Ôi! Đêm nghiêng
theo gối
Thân cong như nhánh hoa
Hồn cong như giọt rượu
Vỡ òa thành mưa sa.
Bốn khổ thơ chót, tuyệt.
Hình ảnh "đêm nghiêng
theo gối", quái làm sao, làm Gấu nhớ tới
Brodsky.
Ông có câu thơ, You will write
about us on a slant, Anna Akhmatova dùng
làm đề từ cho bài thơ The Last Rose
Pages full of
women who are wet not because it's raining and men who are hard not because
they're cruel. Ôi, những trang đầy
đàn bà, ướt không phải bởi vì trời mưa,
và đàn ông, cứng không phải bởi vì
độc ác!
Em đã biết tay anh chưa!
TTT
"Thân cong như nhánh
hoa" thì Gấu hiểu, và tưởng tượng ra được,
nhưng "hồn cong như giọt rượu, vỡ òa thành
mưa sa", hình ảnh lạ thật!
Thịt da như gạch nỏ.
Từ "nỏ" dùng đắt quá!
Làm nhớ đến những cây đóm, dùng
để hút thuốc lào.
Hình ảnh “đóm nỏ
hút thuốc lào”...đưa chúng
ta trở lại với bài thơ của Akhmatova, như là 1 kết thức tuyệt
vời cho những dòng trên đây:
THE LAST ROSE
You will write about us on a slant
J. Brodsky
With
Morozova I should bow and obey, I should rise with the smoke
from Dido's pyre, I should dance with Salome, And thus be again with Joan
in the fire. Oh Lord! You see how tired
one grows Of resurrection, and dying,
and living, Take it all except this
crimson rose- Let me feel the freshness
of the gift it's giving. 1962 Akhmatova
Bông Hồng Cuối
Bạn sẽ viết, nghiêng nghiêng, về
chúng ta J. Brodsky
Với Morozova tôi sẽ
cúi đầu vâng lời
Tôi sẽ bay lên cùng khói
từ giàn thiêu Dido
Tôi sẽ khiêu vũ với Salome
Và rồi lại bắt đầu với Joan trong giàn
hỏa
Ôi Chúa ơi! Người cũng biết đấy, ta
mệt đến bã người
Với ba chuyện làm xàm phục sinh, và
chết, và sống,
Lấy mẹ hết đi, cha nội, trừ CM –
Hãy để cho ta cảm thấy sự mát rượi
của món quà mà nàng mang tới!
Note: Bản tiếng Anh, trong ấn bản Everyman's Library:
LAST ROSE
Bowing to the ground with Morozova,
Dancing with the head of a lover,
Flying from Dido's pyre in smoke
To burn with Joan at the stake -'
Lord! can't you see I'm weary
Of this rising and dying and living.
Take it all, but once more bring me close
To sense the freshness of this crimson rose.
Nhà thơ Thanh Tâm Tuyền đã qua đời tại
Minnesota hôm thứ tư, 22.03.2006, vì ung thư phổi, thọ 71
tuổi.
Sanh ngày 15 tháng 3 năm 1936
tại Vinh, tên thật là Dzư Văn Tâm, nhà
thơ Thanh Tâm Tuyền nổi tiếng rất sớm và là
một trong những nhà văn nhà thơ nồng cốt của nhóm
Sáng Tạo.
Ông đã in các tập thơ Tôi
không còn cô độc (1956), Liên, đêm
mặt trời tìm thấy (1964), Thơ ở đâu xa (1990),
và những tập truyện ngắn Bếp lửa (1957), Khuôn mặt
(1964), Tiếng động (1970).
Sau 1975, ông đi cải tạo 7 năm rồi đến
1982 sang định cư tại Minnesota, Hoa Kỳ. Ông sống yên
lặng và ít sáng tác.
Tạp Chí Thơ thành kính
chia buồn cùng gia quyến.
Bài thơ dưới đây đã đăng trên
Tạp Chí Thơ số Mùa Thu 2000.
N G Ồ I
Tặng Ngọc Dũng tức Công Tử Chí Hoà
(Lời dẫn: Mấy năm đầu mới qua Mỹ anh thường ra ngồi ở nghĩa
trang vào buổi chiều.)
Chiều chiều lững thững lên bãi tha ma. Trời thu
la đà không mùi hương trừ mùi cỏ ngái.
Trong khoé mắt hoen ửng loé góc trời mùa
hạ đang lụi.
Ngồi ngắm. Ngồi ngẫm.
Gió mát đầu óc tản.
Ngồi như trời trồng. Tự trồng cái bị
thịt.
Ngủ mở mắt không hay.
Ngày 30 tháng 6 năm 2000
Phố thị hiện nhấp nháy cao tít. Thoáng
xa thoáng gần. Nhớ ánh đom đóm lập loè
bờ tre, lửa ma chơi chốn đồng không mông quạnh.
Lẩn thẩn trở gót. Lối cây rậm lao
xao tối mắt. Trong ánh điện ngập ngụa mặt vợ con chuếnh
choáng quẩn quanh.
Ấy cơn mê mệt ruỗng. Ấy hoang phế lấp
mình, có phải?
Ngày 7 tháng 7 năm 2000
Bài tưởng niệm Mai Thảo, kể kỷ niệm
lần gặp gỡ đầu tiên giữa họ, có thể còn
là để cải chính cái trí nhớ lầm
lạc của MT!
Chàng lầm bạn chàng vói
1 anh thợ sắp chữ, và thằng khốn còn dám
hỏi xin chàng 1 điếu thuốc lá!
Todorov đã giải thích sự lầm
lẫn này, bằng 1 ý thật là bảnh: Trí
nhớ của con người, phải làm sao cho nó cảm thấy thoải
mái nhất, khi nhớ lại!
Commemoration is always the adaptation
of memory to the needs of today.
Tsvetan Todorov
Tưởng nhớ, hoài niệm…luôn luôn là sự sửa lại hồi ức
cho hợp với nhu cầu hiện tại.
Cynthia Ozick trích dẫn, trong bài
viết “Who owns Anne Frank?"
Nếu thế, trong ký ức của
Bắc Kít, liệu có nên vờ thời kỳ tem phiếu, cho nó
hợp với nhu cầu Mít hiện đại?
Nhưng khốn nạn thay, Bắc Kít
được nặn lên từ ký ức đó, như em Tẫu, Yiyun
Li, phán:
You were not who you were,
but what you were rationed to be.
Mi đâu phải là mi, mi là
cái mà tem phiếu nhào nặn thành.
'POEMS GROW'
Poems grow in the same way as stars and
roses,
Or beauty of no use to a family.
To all the wreaths and apotheoses
One answer: - from where has this come
to me?
We sleep, and suddenly, moving through
flagstones,
The celestial, four-petalled guest appears.
O world, grasp this! By the singer - in
sleep -
are opened
The stars' law, and the formula of the
flowers.
MARINA TSVETAYEVA
TRANS. D. McDUFF.
Nụ thơ
Thơ nở ra, như Sao, như Hoa Hồng
Như Vẻ Đẹp người cho là vô
dụng
Với những vòng
hoa, những lời tán tụng
Với câu hỏi rằng thơ đến từ đâu
Xin trả lời -Chúng tôi lúc
đang mơ,
Một dáng hình của loài
hoa 4 cánh
Đẹp như thiên thần chợt từ đâu
lướt đến
Này thế gian, hãy nhận lấy
từ ta!
Bên người ca nhân, còn
đượm giấc ngà,
Nở ra những công thức cho hoa, và
luật cho tinh tú .
World's End
by Jean Follain
At the world's end
on worn-out ground
the one talks of the flowers
adorning Argonne china
in their red pigment is mixed
the gold of old Dutch ducats
dissolved in aqua regia.
How soon the night falls
the other answers
time goes so fast
in this empty country.
Tận thế
Vào phút giây tận
thế
Đứng trên đất điêu tàn
Một người kể về những đóa hoa
Trang trí trên đĩa chén
Argonne bằng sứ
Vẽ bằng mầu đỏ trộn hoàng kim
Lấy từ những đồng tiền vàng Hà
Lan xưa cũ
Hòa tan trong aqua regia hóa
chất.
Trời tối sớm làm sao
Người kia trả lời
Thời gian trôi nhanh lắm
Trên xứ này hoang vu
Note: Tks. NQT
THE ESSENTIAL W.S. Merwin [Bìa sau]
The Essential Ws.
Merwin traces a poetic legacy that has changed the landscape
of American letters: seven decades of audacity, rigor, and
candor distilled into one definitive volume curated to represent
the very best works from a vast oeuvre, from his 1952 debut, A
Mask for Janus, to 2016's Garden Time. The Essential W S. Merwin includes
favorite poems from two Pulitzer Prize-winning volumes; a selection
of iconic translations; and lesser-known prose narratives. As
the formalism of Merwin's early work loosens into the open, unpunctuated
style he developed later in his career-when urgent times demanded
innovative modes of expression-readers can trace the evolution
of one voice's commitment to moral, spiritual, and
aesthetic inquiry. Across the decades, beyond headlines, policies,
and trends, W.S. Merwin's poems point to the lessons that hide in
the shadows of sentience.
Xuyên suốt những thập kỷ, thơ của W.S.
Merwin chỉ ra những bài học nằm trong những cái
bóng của tri giác.
Noah's Raven
Why should I have returned?
My knowledge would not fit into theirs.
I found untouched the desert of the
unknown,
Big enough for my feet. It is my home.
It is always beyond them. The future
Splits the present with the echo of
my voice.
Hoarse with fulfillment, I never made
promises.
Con Quạ của Noah
Ta về làm cái chó gì
nhỉ?
Cái hiểu biết của ta, chúng
đâu có hiểu được, hay đúng hơn, không
hợp với chúng.
Ta thấy mình không bị suy suyễn
bởi sa mạc vô tri
Khá lớn, đủ cho đôi chân
của ta.
Đây là nhà của ta
Nó luôn luôn vượt quá
chúng
Tương lai xẻ hiện tại với tiếng vang của
giọng nói của ta
Khàn khàn với chu tất, ta chẳng
bao giờ hứa hẹn
Note: Ui chao, đọc bài thơ này,
THNM, thì bèn nhớ đến lần đi thuyền rước Gấu
Cái từ Cai Lậy về Xề Gòn.
Cũng con thuyền Noah, vậy.
Cũng trận Hồng Thuỷ, vậy.
Nhà văn Nguyễn Quốc Trụ
qua bà Nguyễn Thị Kim Hồng
Sóng Văn (SV): Trong cơ duyên nào
bà đã đến với người bạn đời của mình ? Và trong
chiều dài thăng trầm của cuộc sống, bà có thể giới
thiệu một kỷ niệm buồn, vui ?
Nguyễn Thị Kim Hồng (NTKH): Chúng tôi quen nhau
qua sự sắp đặt của số mệnh. Kỷ niệm đáng nhớ nhất là đám
cưới phải dùng thuyền, vì năm đó nước lụt. Trên
thuyền có đủ hạnh phúc và khổ đau của hai đứa chúng
tôi
Roque Dalton
Spanish
1935-1975
THE CONCEITED
I'd be wonderful at being dead.
Then my vices would shine like
ancient jewels
with those delicious colors of poison.
There'd be flowers of every
scent on my tomb
and the adolescents would imitate my expressions
of joy,
my occult words of anguish.
Maybe somebody'd say I was loyal
and good.
But you'd be the only one who'd remember
the way I looked into eyes.
1971
W.S Merwin [translated]
Gấu Cà Chớn, Tên Phách Lối
Gấu sẽ tuyệt vời, vào
lúc ngỏm
Vào lúc đó,
bao nhiêu cái xấu, cái cà chớn,
cái phách lối.... của Gấu sẽ biến thành…
Đỉnh Cao Thời Đại,
The Zenith, hay cái con mẹ gì
gì đó
Giống nữ trang xưa, quí
Với những màu sắc tuyệt vời của thuốc
độc
Sẽ có hoa với mọi mùi
vị, hương thơm… ở mồ Gấu
Và đám trẻ, hậu huệ, đệ tử,
cái con mẹ gì đó, của Gấu
Sẽ bắt chước biểu hiện vui mừng của Gấu, cái
gì gì, cười như…. Phật,
Hay như thằng ngố, thằng cù lần!
Hay những từ ngữ thần bí của nỗi đau
thương, cũng của Gấu
Có thể có một
nguời nào đó, nói, thằng khốn đó “nhân
hậu và cảm động”!
Nhưng chính kẻ nói như thế,
sẽ nhớ hoài, cách mà Gấu nhìn vô
mắt,
Lần gặp độc nhất, ở Tiểu Sài Gòn!
Một bài thơ hay của NBS, sưu tầm trên Xuân
Sóng Thần năm 1973 được lưu trữ tại thư viện đại học
Cornell Ithaca NY và tin rằng tác giả đã
không còn giữ, và người đọc ít ai nhớ
hoặc biết. Nó chẳng những nói về tâm trạng
của một người trẻ tuổi mang thân phận lưu đày ngay trên
quê hương mình trong thời chiến tranh, mà kỳ
lạ thay, bây giờ – thời hòa bình – đọc nó
chúng ta cảm thấy như ông nói hộ cho những người
viễn xứ.
TRỜI CỐ XỨ
Nguyễn Bắc Sơn
Trời mưa ở Nha Trang làm tôi nhớ bạn đến
rơi nước mắt
Khi thấy rượu tràn sôi vành
ly
Hoa sứ đỏ rụng nhiều xui tôi nhớ ngày
đi trọ học
Nhà em láng giềng cửa sổ mở
đêm khuya
Tưởng tượng có người thanh niên
ngồi im trong quán gió
Khi chuyến xe đò tách bến trong mưa
Chuyến xe chở người đàn bà
mang áo khoác
Tóc dài như tóc của
em xưa
Tôi sợ tình yêu như sợ
nhìn về viễn kiếp
Tôi ngại quê nhà nhưng lại hoài
hương
Biết đâu mẹ tôi không đang
sơn xanh ngôi nhà, mở toang từng cánh cửa
Mong bóng tôi bỗng hiện cuối
con đường
Note: Hình NBS, dưới đây. Bài thơ cực
lạ, khác hẳn những bài từng làm chúng
ta nhớ đến NBS.
Nhân tiện, người khám phá
ra NBS là TTT, khi đọc thơ NBS lần đầu xuất hiện trên
Thời Tập.
Poems grow in the same way as stars and roses,
Or beauty of no use to a family.
To all the wreaths and apotheoses
One answer: - from where has this come to me?
We sleep, and suddenly, moving through flagstones,
The celestial, four-petalled guest appears.
O world, grasp this! By the singer - in sleep -
are opened
The stars' law, and the formula of the flowers.
MARINA TSVETAYEVA
TRANS. D. McDUFF.
Nụ thơ
Thơ nở ra, như Sao, như Hoa Hồng
Như Vẻ Đẹp người cho là vô dụng
Với những vòng hoa, những lời tán
tụng
Với câu hỏi rằng thơ đến từ đâu
Xin trả lời -Chúng tôi lúc đang
mơ,
Một dáng hình của loài hoa
4 cánh
Đẹp như thiên thần chợt từ đâu lướt
đến
Này thế gian, hãy nhận lấy từ ta!
Bên người ca nhân, còn đượm giấc
ngà,
Nở ra những công thức cho hoa, và luật
cho tinh tú .
When the War Is Over
When the war is over
We will be proud of course the
air will be
Good for breathing at last
The water will have been improved
the salmon
And the silence of heaven will
migrate more perfectly
The dead will think the living
are worth it we will know
Who we are
And we will all enlist again
Rồi khi hết chiến tranh
[Gió dâng khúc
nhạc thanh bình]
Rồi khi hết chiến tranh
Lũ Ngụy bèn tự hào,
Lẽ tất nhiên
Khí trời thì bèn
tốt để thở, sau chót
Nước sẽ khá hơn lên
Cá hồi và sự nín
thinh ở thiên đàng
Sẽ di trú hoàn hảo
hơn
Người chết sẽ nghĩ người sống xứng
đáng với nó
Chúng ta sẽ biết chúng
ta là ai
Và tất cả lũ Bắc Kít
bèn nhỏ máu đầu ngón tay viết đơn
Xin đi bộ đội
Xẻ dọc Trường Sơn kíu nước
một lần nữa!
Going
Only humans believe
there is a word for goodbye
we have one in every language
one of the first words we learn
it is made out of greeting
but they are going away
the raised hand waving
the face the person the place
the animal the day
leaving the word behind
and what it was meant to say
Worn Words
The late poems are the ones
I turn to first now
following a hope that keeps
beckoning me
waiting somewhere in the lines
almost in plain sight
it is the late poems
that are made of words
that have come the whole way
they have been there
Chữ xưa dù nhàu
Thơ muộn là những bài
Mà tôi quay lại trước, vào
lúc này,
Tiếp theo sau hy vọng
Rằng thì là, mình đang
đợi, đâu đó,
Trong những dòng
Hầu như trong tầm nhìn.
Đó là những dòng thơ muộn
Làm bằng những từ
Đi trọn đường trần
Và, chúng có đó.
[Cái gì gì, áo
xưa dù nhàu
Gọi mãi tên nhau]
Ash
The church in the forest
was built of wood
the faithful carved their names
by the doors
same names as ours
soldiers burned it down
the next church where the first
had stood
was built of wood
with charcoal floors
names were written in black by
the doors
same names as ours
soldiers burned it down
we have a church where the others
stood
it's made of ash
no roof no doors
nothing on earth
says it's ours
Tro
Nhà thờ trong rừng
Dựng bằng gỗ
Tín hữu khắc tên lên
cửa
Cùng những tên như của
chúng ta
Lính tráng đốt rụi
nó
Nhà thờ kế, cũng nơi đó,
Bằng gỗ
Sàn nhà bằng than
Những cái tên, màu
đen, ở cửa
Cũng những tên như của chúng
ta
Lính tráng đốt rụi
nó
Chúng ta có ngôi
nhà thờ, nơi những cái kia được dựng lên
Làm bằng tro
Không mái, không
cửa
Chẳng có gì trên
mặt đất
Nói,
Nó là của chúng
ta.
World's End
by Jean Follain
At the world's end
on worn-out ground
the one talks of the flowers
adorning Argonne china
in their red pigment is mixed
the gold of old Dutch ducats
dissolved in aqua regia.
How soon the night falls
the other answers
time goes so fast
in this empty country.
Tận thế
Vào phút giây tận thế
Đứng trên đất điêu tàn
Một người kể về những đóa hoa
Trang trí trên đĩa chén Argonne
bằng sứ
Vẽ bằng mầu đỏ trộn hoàng kim
Lấy từ những đồng tiền vàng Hà Lan
xưa cũ
Hòa tan trong aqua regia hóa chất.
Trời tối sớm làm sao
Người kia trả lời
Thời gian trôi nhanh lắm
Trên xứ này hoang vu
Note: Tks. NQT
THE ESSENTIAL W.S. Merwin [Bìa sau]
The Essential Ws. Merwin
traces a poetic legacy that has changed the landscape of American
letters: seven decades of audacity, rigor, and candor distilled
into one definitive volume curated to represent the very best works
from a vast oeuvre, from his 1952 debut, A Mask for Janus, to 2016's
Garden Time. The Essential W S. Merwin includes favorite poems from
two Pulitzer Prize-winning volumes; a selection of iconic translations;
and lesser-known prose narratives. As the formalism of Merwin's early
work loosens into the open, unpunctuated style he developed later
in his career-when urgent times demanded innovative modes of expression-readers
can trace the evolution of one voice's commitment
to moral, spiritual, and aesthetic inquiry. Across the decades, beyond
headlines, policies, and trends, W.S. Merwin's poems point to the
lessons that hide in the shadows of sentience.
Noah's Raven
Why should I have returned?
My knowledge would not fit into theirs.
I found untouched the desert of the unknown,
Big enough for my feet. It is my home.
It is always beyond them. The future
Splits the present with the echo of my voice.
Hoarse with fulfillment, I never made promises.
"Whenever I sleep"
by Yosa
Buson
Whenever I sleep
with my socks on
I have bad dreams
Bất cứ khi nào tôi
ngủ
Mà mang tất
Là bèn có
mộng dữ!
"Bất cứ khi nào tôi
ngủ"
1990-2010
with Takako Lento
W.S. Merwin, The Essential
Bài
thơ chót, trên, đọc 1 phát, là
Gấu bèn nhớ đến ông bạn luật sư kiêm ca
sĩ Khuất Duy Trác, và giai thoại tuyệt vời mà
anh kể, lần ghé thăm "vòm".
Hình như cũng kể ra rồi,
trên Tin Văn.
Bữa đó, chắc là
Thứ Bảy. Cả 1 băng, không biết làm gì,
bèn đến thăm vòm, nơi Gấu và ông
bạn Sĩ Phú, cũng dân ghiền đang nằm, ở trên
đỉnh 1 cái building, ở khu chợ Nancy, đại lộ Trần Hưng
Đạo. Có SP là chẳng cần bồi tiêm.
Có NDT, "em" TD nữa.
Họ Khuất có cả 1 kho truyện
làng bẹp. Thế là anh bèn kể.
Có 1 anh chuyên buôn
bán ve chai, đồng nát, mà lại ghiền,
ở kế nhà một nhà giàu, cũng ghiền, có
bàn đèn, có kẻ hầu, ngưòi hạ. Anh
làm nghề buôn bán ve chai, mỗi tối khuya,
sau khi có đủ tiền làm cữ chót trong ngày,
bèn ghé, và ông nhà giầu
bèn đưa cái giọc tẩu qua cửa sổ…
Thế rồi, có 1 ngày
đẹp trời, anh nhà nghèo, buôn bán
sao đó, bỗng trở nên khá giả, và
bèn tha hồ hút, nhưng không làm sao
thấy phê như khi còn lầm than nữa.
Bèn đi gặp bác sĩ,
kê bịnh. Vị bác sĩ mới nói, mi kể cho
ta nghe, những lần hút ở nơi cửa sổ. Anh ta bèn
kể là, vì cửa sổ hơi cao, tôi phải kiễng
1 chân, còn chân kia thì nhúng
vào 1 cái bồn nước kế cửa sổ.
Vị bác sĩ bèn phán,
bi giờ, mỗi lần hút, là mi nhúng
1 chân vào 1 cái bồn nước lạnh.
Anh ghiền bèn nghe theo,
và cảm thấy phê, y chang như ngày
nào!
Hồi ở trại tị nạn Thái Lan,
Gấu vớ được cuốn sách dạy tiếng Anh, cái
tít lấy từ thơ Frost, Promises to Keep, Những Lời Hứa
Phải Giữ. Phải đến mãi sau này, ở Xứ Lạnh, Gấu mới
ngộ ra ý nghĩa của cái tít.
Cuốn sách mở ra bằng những
giai thoại, THNM, thì đều na ná như giai thoại
trên!
Có chuyện, 1 anh, lần đầu
được ăn 1 trái chuối, và sau đó,
khi có chuối ê hề, không làm sao
tìm được cái sướng mê tơi, lần đầu được
xơi chuối, nhất là cái cảm giác lột cái
vỏ, rồi đút vô miệng, nguyên cả trái,
không theo kiểu của người thanh lịch Hà Thành,
phải bẻ đôi!
Gấu, lần đầu được ăn 1 con ốc nhồi,
ở cái ao trước nhà Cô Hồng Con. Vào
Nam, nhớ hoài, và có thể vì
thế, cực mê món bún ốc, chán thế!
Nhớ cái ao. Nhớ cô
gái bằng tuổi bà chị mình, con địa
chủ, bị cả 1 miền đất bỏ đói, sau chết, vì đói,
vì bịnh, vì khát nước, ở đúng cái
chỗ Gấu vớt được con ốc nhồi, sau khi gạt mấy cánh bèo…
Nằm trong dòng suy tư THMN này,
Gấu nhớ là, Lê Minh Hà, có 1 cái
truyện ngắn, đăng trên Văn Học, NMG, về 1 bà già
Bắc Kỳ, cố gìn giữ 1 cái bát cổ trong gia
đình, dù tang thương dâu bể tới cỡ nào,
ở cái xứ Bắc Kỳ ngày nào, và GCC nhân
đó bật ra vấn nạn, liệu Cái Đói - thay vì
Cái Đẹp - sẽ cứu chuộc thế giới?
Tôi rời Hà-nội vừa lúc mới lớn, chớm
yêu thành phố. Chớm nhận ra những vẻ đẹp của nó.
Khi viết Những Ngày Ở Sài Gòn (1965), trí
tưởng tôi vẫn còn tràn ngập những kỷ niệm
về Hà-nội.
Rồi tới những tác phẩm của Miền Bắc,
đọc sau 1975. Tôi cố tìm một Hà-nội của
tôi ở trong đó. Cố tìm một Hà-nội đẹp
như mơ bỏ lại. Những bè bạn bỏ lại.
Không thấy.
Cho tới khi đọc Lê Minh Hà.
Phải nói, tôi đã chờ hoài
một tác phẩm như vậy.
Trong bài viết Nhà văn và chủ nghĩa
Cộng sản (3), khi điểm cuốn Văn chương và Cách
mạng (Literatur und Revolution) của Jurgen Ruhle - một trong những
nhà văn, trí thức đã chủ trì, và
kinh nghiệm mùi vị chủ nghĩa Cộng-sản và sau đó
từ bỏ thực tại Stalinist, rồi chọn Đức quốc làm nơi trú
ẩn - George Steiner coi Văn chương và Cách mạng có
tầm vóc một cuốn lịch sử về nhà văn và chủ nghĩa
Cộng-sản trên toàn thế giới. Về định mệnh văn chương
Nga duới thời Lenin, và về bộ ba cách mạng Blok, Yessenin,
Mayakovsky: Bên dưới những câu chuyện kể về người và
việc, vọng lên thanh âm rền rĩ, về căn do của (những hành
động) lưu đầy, hành quyết và tự sát (4).
Tới Pasternak, Steiner cho rằng, Ruhle đã
nhận ra ở tác giả này, tiếng nói đích
thực của Nga, và cùng với nó, viễn ảnh vượt
lên mọi oan khiên tàn bạo của nhất thời; và
đồng ý với Edmund Wilson (5) khi tìm thấy ở trong
nhân vật Lara và Zhivago một thách đố không
thể trả lời, đối với chủ nghĩa duy lịch sử, và định mệnh thuyết
chối từ cuộc đời của ý thức hệ Cộng-sản. Thật hiển nhiên,
nếu Pasternak có thể giữ riêng cho mình một tình
yêu nổi loạn, riêng tư ngay trong lúc ăn nằm
với Liên-bang Xô-viết, điều này chứng tỏ tinh
thần Nga vẫn còn sống ở bên dưới lớp băng là kỷ
luật Đảng.
Như một đứa con của Hà-nội, từ lâu,
tôi vẫn cố tìm cho được cái tình yêu
riêng tư, nổi loạn, ngay trong lúc ăn nằm với
chế độ toàn trị, của cái gọi là "tinh thần
Hà-nội."
Sau này tôi thấy ở hai người,
Vũ Thư Hiên, và Lê Minh Hà.
G. Steiner nhận xét về tác phẩm đã
một thời làm say mê cả một Miền Nam Việt Nam - như một tác
phẩm chống Cộng: Do ở xa nước Nga, Ruhle đã "không
nhận ra, thế giới, hình ảnh, cảm nghĩ của đôi tình
nhân Lara-Zhivago đối với thế hệ trẻ hơn họ. Chính
đám cầm quyền, đám già đã sợ hãi
cuốn sách, và tìm đủ mọi cách để cho
nó im luôn." Và ông "tự hỏi, không
biết những người trẻ tuổi có tìm ra được một điều
gì trong Bác sĩ Zhivago (6), nhưng chắc họ chỉ coi đây
là một câu chuyện thần tiên làm mủi lòng
độc giả hay một mẩu giả tưởng về lịch sử, xa xưa như Anna Karerina."
Nhưng quan trọng hơn hết, Steiner cho rằng, "người ta không
thể nào nhìn ra tác phẩm (Bác sĩ
Zhivago) thường xuyên tự mâu thuẫn, mang tính
suy tư và tản mạn này, nếu không nhận ra một
điều: tác giả của nó đã đắm đuối chết chìm
trong những đau thương và hoài vọng về cách
mạng Nga. Trong nhiều chiều hướng, cuốn tiểu thuyết là một
biện minh, một cái cớ cho cách mạng: một cuộc cách
mạng hướng nội, toàn diện hơn cả cuộc cách mạng đưa đến
xã hội Xô-viết."
Đọc những nhà văn thuộc dòng "phản kháng"
("ly khai" đúng hơn, theo tôi) ở trong nước như
Dương Thu Hương chẳng hạn (7), họ cố vẽ ra một cuộc cách
mạng tưởng tượng như thế, khi chống Đảng, nhưng vẫn tin vào
chủ nghĩa Cộng-sản.
Ở Vũ Thư Hiên, trong Đêm Giữa Ban Ngày,
có vẻ như ông vẫn đắm đuối trong những đau thương
và hoài vọng như vậy. Ở Lê Minh Hà,
không. Bà như muốn một điều khác. Trong tập
truyện đầu tay, Trăng Góa (nhà xuất bản Thanh Văn,
1998), người ta đã nhận ra một giọng nói, tuy mệt
mỏi, chán chường - thí dụ giọng nói của vầng
trăng goá, tự nhủ lòng mình, lần này
lấy chồng, sự thực là kiếm cha cho đứa nhỏ - nhưng không
thể bị bẻ gẫy.
Vả chăng có sự khác biệt giữa hai người
viết, về tuổi tác, về "gia thế" - người Cộng-sản gọi là lý
lịch giai cấp. Với Lê Minh Hà, độc giả chỉ có
thể mường tượng ra, qua những nhân vật nữ trong truyện.
Còn với Vũ Thư Hiên, chúng ta đều biết thân
phụ ông là người thân cận với Hồ Chí
Minh, và vụ án chống lại Đảng gia đình ông
là nạn nhân, vốn chỉ là thanh trừng lẫn nhau giữa
những người Cộng-sản. Nạn nhân của Cộng-sản ở đây là
những người Cộng-sản, và vì là nạn nhân,
họ tin rằng họ trung thành với chủ nghĩa hơn là những
kẻ thắng thế đang nắm quyền.
Hơn nữa, còn khoảng cách giữa hai thế hệ
- mà Phạm Thị Hoài tin tưởng vào nó,
khi viết về vị thủ lãnh trong bóng tối, Trần Dần.
Chính khoảng cách này đã phân
chia những người như Vũ Thư Hiên, và Lê Minh Hà.
Nó cũng đã khiến Phạm Thị Hoài cay đắng chua
chát, "dù có rũ bụi tôi cũng không
dám làm quen" (8). Ở đây, là vấn đề
tầm nhìn. Là vấn đề anh hay tôi có thiết
tha với nó hay là không: chủ nghĩa Cộng sản.
Hãy bỏ qua những cơ hội chủ nghĩa, với những người Cộng-sản
Miền Bắc, tin vào chủ nghĩa là tin vào chiến
thắng miền Nam, vào thế tất thắng của chủ nghĩa bách
chiến bách thắng.
Với thế hệ đi liền theo sau đó, họ nhìn
xa hơn: chiến thắng Miền Nam không biện minh gì
hết.
There's
Nobody simpler than us, or with
More pride, or fewer tears.
(1922)
Our hearts don't wear it as an amulet,
It doesn't sob beneath the poet's hand,
Nor irritate the wounds we can't forget
In our bitter sleep. It's not the Promised
Land.
Our souls don't calculate its worth
As a commodity to be sold and bought;
Sick, and poor, and silen t on this
earth,
Often we don't give it a thought.
Yes, for us it's the dirt on our galoshes,
Yes, for us it's the grit between our teeth.
Dust, and we grind and crumble and crush it,
The gentle and unimplicated earth.
But we'll lie in it, become its weeds
and flowers,
So unembarrassedly we call it - ours.
ANNA AKHMATOVA
TRANS. D. M. THOMAS
Đất Bắc của Gấu Cà Chớn
Ở đó,
Chẳng ai giản dị hơn chúng ta,
hay, với
nhiều kiêu ngạo, hay, ít
nước mắt hơn.
(1922)
Tim của chúng ta không
đeo nó, như là lá bùa
Nó không sụt sùi
dưới bàn tay của tên thi sĩ
Cũng không chọc quê những
vết thương chúng ta không thể quên
Trong những giấc ngủ cay đắng của mình.
Nó đâu phải là
Đất Hứa
Linh hồn của chúng ta không
so đo hơn thiệt cái thế giá của nó
Như là 1 món đồ để mua,
hay để bán;
Đau ốm, nghèo khổ, và
câm nín ở trên thế gian này
Thường là chúng ta vờ
nó.
Đúng rồi, với GCC, nó là tí bụi
bám vô giày
Đúng rồi, nó là tí bựa bám
vô răng
Bụi, chúng ta nghiền nát ra rồi thổi phù
1 phát!
Ôi thì cũng là
đất, là quê mẹ, là quê cha, là
Đất Bắc, là Bắc Kít
Dịu dàng, khả ái, và
không ngụ ý
Chúng ta nằm trong nó,
trở thành cỏ, thành hoa
Trở thành… Cái
Ác Bắc Kít!
Và như thế, không 1 chút
ngượng nghịu, chúng ta gọi nó - của chúng
ta
There is nothing for you to say. You must
Learn first to listen.
Because it is dead
It will not come to
you of itself, nor would you
Of yourself master
it. You must therefore
Learn to be still
when it is imparted,
And, though you may
not yet understand, to remember.
What you remember is saved. To understand
The least thing fully
you would have to perceive
The whole grammar
in all its accidence
And all its system,
in the perfect singleness
Of intention it has
because it is dead.
You can learn only
a part at a time.
What you are given to remember
Has been saved before
you from deaths dullness by
Remembering. The unique
intention
Of a language whose
speech has died is order,
Incomplete only where
someone has forgotten.
You will find that
that order helps you to remember.
What you come to remember becomes yourself
Learning will be to
cultivate the awareness
Of that governing
order, now pure of the passions
It composed; till,
seeking it in itself,
You may find at last
the passion that composed it,
Hear it both in its
speech and in yourself.
What you remember saves you. To remember
Is not to rehearse,
but to hear what never
Has fallen silent.
So your learning is,
From the dead, order,
and what sense of yourself
Is memorable, what
passion may be heard
When there is nothing
for you to say.
Học một tử ngữ
Chẳng có gì để mi nói
Mi phải, trước tiên, lắng
nghe
Bởi là vì, chết rồi
Nó, tự nó, làm
sao tới với mi,
Mà mi, thì cũng rứa,
làm sao có thể làm chủ nó
Và nếu như thế
Mi phải học, câm nín
Khi được nó truyền đạt
Và nếu chưa hiểu, thì
nhớ
Điều mi nhớ đó, sẽ kíu mi,
Hay mi được kíu, nhờ nó
Hay chính nó, được
kíu
Để hiểu được chí ít
nhất, trọn một điều
Mi phải thấu đáo
Trọn văn phạm trong tất cả hình
thái của nó
Trọn hệ thống của nó
Và trong cái đơn độc
hoàn hảo nhất của toan tính
Bởi là vì nó
chết rồi
Mi chỉ học được mỗi lúc một
phần
Điều mi được ban cho để nhớ
Thì được kíu trước
mi
Từ cái cù lần - Gấu
Cà Chớn, Gấu Cù Lần - của cái chết,
do, nhớ.
Cái toan tính độc
nhất của ngôn ngữ
Mà tiếng, lời, thì
già hơn,
Không đầy đủ, chỉ một khi
kẻ nào đó quên.
Mi sẽ nhận ra là cái
trật tự đó giúp mi nhớ
Điều mà mi nhớ được sẽ trở thành chính
mi
Học sẽ là trau giồi nhận
thức
Về cái trật tự trị vì,
cai trị, lúc này, bằng đam mê tinh
khiết, nó sáng tác, biên soạn,
Cho tới khi mà, tìm
nó trong chính nó
Mi có thể sẽ kiếm ra, sau
hết, cái đam mê đã biên soạn nó
Nghe được nó, cả hai, trong
tiếng nói của nó, và trong chính
mi.
Cái mi nhớ kíu mi
Nhớ không có nghĩa
là tập rượt
Nhưng mà là nghe
Cái chẳng bao giờ té
vào câm lặng, nín bặt.
Như thế, cái học của mi là,
Từ cái chết, trật tự, và
cảm quan nào về chính mi
Thì đáng để nhớ lại,
Đam mê nào có
thể nghe
Khi mà mi
Chẳng có cái chó
gì để mà phán!
Wang
Wei chắc là
Vương Duy. Czeslaw Milosz rất mê ông
này. Trong cuốn sách giới thiệu
thơ của ông, Cuốn sách của muôn
điều thần sầu, A Book of Luminous
Things, có nhiều bài của Wang Wei
Sitting alone on an autumn night
I sit alone sad at my whitening hair
Waiting for ten o'clock in my empty house
In the rain the hill fruits fall
Under my lamp grasshoppers sound
White hairs will never be transformed
That elixir is beyond creation
To eliminate decrepitude
Study the absolute.
Ngồi một mình với đêm
thu
Tôi ngồi buồn một mình với mớ
tóc bạc trắng của mình
Đợi đồng hồ điểm 10 giờ
Trong căn nhà trống trơn
Trong mưa, trái đồi rớt
Dưới ánh đèn, châu chấu
rầm rì
Tóc trắng ư, chịu thua
Làm gì có nước gội trở
thành đen nhánh như ngày
nào
Để “làm thịt” cái già
cằn thiểu não
Để chiêm ngưỡng cái tuyệt đối
WANG WEI
701-761
War against
peoples pressing out from the center of the Asiatic
continent fills a considerable part of Chinese history.
The travels of soldiers or officials sent to the "outskirts"
are the frequent subject of poems. A whole cycle of such
travel poems was written by a famous painter and poet, Wang
Wei. He was a poet of Taoist and Buddhist inspiration, but
he pursued the career of an official as well, albeit somewhat
unwillingly, travelling through the vast spaces of the borderland
territory.
Chiến tranh với
các nước nhỏ là 1 phần không nhỏ trong lịch sử Tẫu.
Binh sĩ và sĩ quan được phái đi xa như thế,
là đề tài thường gặp trong thơ của họ. Vương
Duy, nhà thơ ảnh hưởng Đạo Lão, Phật Giáo,
nhưng ông còn là một viên chức nhà
nước. Bài thơ sau đây tả cảnh ông rong ruổi
cùng binh lính
SONG OF MARCHING WITH THE ARMY
Horns blow the
travelers into movement.
Noisily they
get under way with the 'sad sound
of reed pipes
and chaos of neighing horses
as everyone
struggles to ford Gold River.
The border sun
settles in the desert
while sounds
of war rise in smoke and dust.
We'll bind the
neck of every chieftain
and bring them
as presents for the emperor.
Translated from the Chinese by Tony
and Willis Barnstone and Xu Haixin
Bài ca quân hành
Tù và thổi thúc
giục chuyển quân
Binh sĩ ồn ào cùng
tiếng sáo buồn bã, tiếng ngựa hý hỗn
loạn
Khi mọi người vượt khúc cạn
dòng Hoàng Hà
Mặt trời biên giới định vị
nơi sa mạc
Trong khi âm thanh của cuộc
chiến bốc lên trong khói và bụi
Chúng ta sẽ tóm cổ
mấy tên trùm bộ lạc
Và đem chúng về dâng
hoàng đế như là những món quà.
And now a short,
economic (in movements of word and brush) poem by
Wang Wei.
Và bây giờ là
1 bài thơ ngắn (tiệm lời, tiệm nhát cọ) của
Vương Duy
MAGNOLIA BASIN
On branch tips
the hibiscus bloom.
The mountains
show off red calices.
Nobody. A silent
cottage in the valley.
One by one flowers
open, then fall.
Lũng Mộc Lan
Đầu cành dâm bụt nở
Núi khoe calices đỏ
Không một ai. Một căn lều im
lặng nơi thung lũng
Tùng cái, từng cái
hoa, nở, rồi tàn.
Translated from the Chinese by Tony
and Willis Barnstone and Xu Haixin
To be free, at least for a short time, to forget about
the court and the market, as here, in a boat on the lake.
Được thư thả, ít ra trong
một thời gian ngắn, quên triều đình, quên
cảnh chợ, như ở đây, trên con thuyền, nơi con hồ.
DRIFTING ON THE LAKE
Autumn is crisp and the firmament far,
especially far
from where people live.
I look at cranes
on the sand
and am immersed
in joy when I see mountains beyond
the clouds.
Dusk inks the
crystal ripples.
Leisurely the
white moon comes out.
Tonight I am
with my oar, alone, and can do
everything,
yet waver, not
willing to return.
Lang bạt trên hồ
Thu mát lạnh và bầu trời thì
xa
[Trời buồn gió cao, như họ
Trịnh phán]
Ít ra thì cũng xa khỏi
lũ người bụi bặm
Tớ nhìn đàn sếu trên
mặt cát
Và sướng điên lên
khi thấy núi bỏ xa mây một quãng dài
thật là dài.
Cái nhá nhem bèn
tẩm mầu mực của nó vào những gợn sóng
Nhàn nhã ơi là
nhàn nhã, con trăng màu trắng bèn
ló ra
Đêm nay, một mình với
cái mái chèo, tớ có thể làm
mọi chuyện
Tuy nhiên, luỡng lự 1 phát,
tớ đếch muốn trở lại.
Translated
from the Chinese by Tony and Willis Barnstone and Xu
Haixin
Con chó đen đùa
với bãi tuyết
Người đàn ông đi hết mùa
Đông
Cây khắc nét khô vào
nền trời xám
Nghe nói mùa
Thu ở đây đẹp lắm
Tụi mình chạy xe đuổi theo lá
đổi mầu
Trên xa lộ
Trong thơ Nguyễn Du
Trong hạnh ngộ.
Lạnh,
Hai vợ chồng ôm cặp
Đứng đợi xe
Ở đầu ngã tư
Cuối cuộc đời
Học giùm mấy đứa con còn kẹt
lại
Tuổi năm mươi gấp sách
lại đứng nghe
Đi trong gió
Nỗi nhớ Sài-gòn buốt trên
đầu ngón tay
Note: Bài này,
làm liền Mùa Đông đầu tiên đến xứ lạnh, 1994,
cỡ đó. Nghe nói mùa thu ở đây
đẹp lắm, có nghĩa là thế.
Cô bạn kể, đám nhà giầu
thuê máy bay, ngắm lá thu đổi mầu, Gấu bèn
mơ ngồi xế với cô bạn..
Và cái nỗi nhớ Sài Gòn,
y chang câu thơ trên.
Phương Nghi lúc nào
cũng vội vội, vàng vàng
Mùa Thu không đâu xa mà
ở trong đôi mắt
Hồ Thu và đôi mắt của cô
cùng một mầu.
PN là cô con gái
lớn của vợ chồng cô bạn, và là người chọn
cái CD đầu tiên trong đời Gấu được nghe, và
là 1 cái CD nhạc Yanni. Gấu nghe, và sống
lại suốt cả 1 thời yêu thương, thờ phụng cô bạn. Cái
đau em trai chết, như thế, như được âm thanh đền bù...
Phương Nghi
lúc nào cũng vội vội, vàng vàng
Mùa Thu không đâu xa mà
ở trong đôi mắt
Hồ Thu và đôi mắt của cô
cùng một mầu
Mấy câu trên, lấy
ý từ Đằng Vương Các Tự, của Vương Bột, một trong
tứ trụ, thời Sơ Đường Lạc dà dữ cô vụ tề phi, thu
thuỷ cộng trường thiên nhất sắc. Trần Trọng San, [trong
cuốn Hán Văn, nhà xb Bắc Đẩu, lần in thứ bẩy tại Canada],
dịch là: Ráng chiều rơi xuống cùng cái
cò đơn chiếc đều bay; làn nước sông thu với bầu
trời kéo dài một sắc. Nguyên tác, động
từ bay, phi, chỉ dùng một lần, để tả hai vật cùng bay
một lúc, một, từ dưới bay lên, và một từ trên
rơi xuống. Thành thử TTS, tuy đã nhận ra cảnh tuyệt vời
này, dịch "ráng chiều rơi xuống", nhưng sau đó,
ông lập lại động từ bay một lần nữa, trong "đều bay", hỏng! Theo
Hai Lúa, câu dịch đại khái phải như thế này:
Ráng chiều rơi xuống cùng lúc với cái cò
đơn chiếc kia bay lên [bay lên, không phải đều bay!]
Bởi vì, phải cả hai cái bay, mới nối liền một dải, như
câu sau cho thấy: Hồ Thu cùng Trường Thiên - nhờ
ráng chiều rớt xuống và cái cò cô
đơn bay lên cùng một lúc - nên mới - cộng
được cả trời đất - trời đất từ nay xa cách mãi - bỗng chốc
được liền lại - kéo dài thành một vạch - là
nhất sắc mùa thu!
Câu thơ của Hai Lúa,
từ ý thơ trên, nhưng, vì thiếu một cái
cò đơn chiếc, mà thành ra dư ra... hai
hồ thu. Bởi vì có tới ba hồ thu, ở đây.
Mùa Thu không ở đâu xa, [đâu cần phải vội
vội vàng vàng đi tìm], mà ở ngay trong
đôi mắt của cô. Hồ Thu và Đôi Mắt của cô
cùng một mầu.
AUTUMN DAY
Not hurrying, my quiet
friend
and I walk through the
stubble,
and my soul is unburdened
as in a village chapel.
The autumn day is still
and clear,
a crow raucously scoffing
at others is all you
can hear,
and an old woman coughing.
Mist spreads beside the
barn like gauze,
and long there under
cover
we follow with a steady
gaze
the cranes streaming
over ...
They fly, in a sharp
wedge they fly;
the leader cries out,
keening ...
Why does he cry out,
why, why?
This grief - what is
its meaning?
And the down-at-heel
villages
no eye can count or measure
...
and burning a hole in
the dusk
a fire in a distant pasture
...
Poor land, poor land,
what do you mean
to the heart that moves
in me?
Poor love, poor love,
poor wife of mine,
why do you weep so bitterly?
ALEXANDER BLOK
TRANS. J. STALLWORTHY
AND P. FRANCE
[from Russian Poets,
Everyman's Library]
Ngày thu
Không vội vã, người bạn trầm
lặng và tôi
Bước qua những gốc rạ
Và tâm hồn tôi thì
nhẹ hẫng
Như ở trong chùa làng
Ngày thu thì im im và
sáng sáng
Một con quạ khàn khàn chọc
quê những con khác
Đó là tất cả những gì
bạn có thể nghe được
Và một bà già ho.
Sương mù trải ra dọc theo kho thóc
như làn khói nhẹ
Và dài dài ở đó,
dưới mái nhà
Chúng tôi theo dõi với
cái nhìn chằm chằm
Những con sếu tuôn ra…
Chúng bay, theo cái hình
mũi nhọn, chúng bay;
Con đầu đàn kêu lớn, than van
thảm thiết
Tại sao nó kêu lớn, tại sao,
tại sao?
Nỗi đau buồn này – nghĩa là
gì?
Và ở dưới đó, dưới chân
đồi
Không mắt nào có thể
đếm, hay đo…
Và đốt một cái hố trong bóng
tối
Một ngọn lửa nơi đồng cỏ xa xa
Đất tang thương, đất nghèo nàn
Mi là chi, mi nghĩa là gì
Sao cứ nhè trái tim của ta
mà thọi vô?
Tình yêu đáng thương,
khốn khổ, ôi bà xã khốn khổ của tôi
Sao em khóc cay đắng đến như thế?
Wang Wei was a poet and a painter but also an official
and many of his poems juxtapose contemplative life in the spirit of Taoism
and Buddhism with active life and career from which it's
not easy to be liberated. But in his old age he achieved a peculiar
kind of nonattachment, when even poetry and painting seemed to
him too close to earthly delusions.
Milosz: The Book of Luminous Things
Vương Duy là thi sĩ, họa sĩ, nhưng còn là
1 viên chức nhà nước và nhiều bài
thơ của ông trộn cuộc đời trầm tư trong tinh thần Đạo Lão
và Phật Giáo với cuộc sống náo động và
nghề nghiệp và thật khó mà ruỗi ra được.
Nhưng về già chàng bèn
thực tập cái trò kệ cha đời, tao đếch thèm
để ý đến nó nữa, nói rõ hơn, 1 thứ
đặc biệt về buông xả, khi mà, ngay cả thơ và họa
cũng là trò trần tục.
LAZY ABOUT WRITING POEMS
With time I become lazy about writing poems.
Now my only company is old age.
In an earlier life I was a poet, a mistake,
and my former body belonged to a painter.
I can't abandon habits of that life
and sometimes am recognized by people of this
world.
My name and pen name speak my former being
but about all this my heart is ignorant.
Translated from the Chinese by Tony and Willis Barnstone
and Xu Haixin
Lười mần thơ
Với thời gian, tớ trở nên lười mần thơ.
Bi giờ bạn đồng hành độc nhất của tớ
là tuổi già
Khi sớm sủa vô đời, tớ là 1 thi
sĩ, một lầm lẫn
Và cái cơ thể trước đây
của tớ thuộc về 1 họa sĩ
Tớ không thể từ bỏ những thói
quen của cuộc đời đó
Và đôi khi được người đời nhận
ra tớ, là như thế đó
Tên của tớ, và bút hiệu
của tớ nói lên cái con người cũ kỹ,
Những tất cả những thứ đó, trái
tim bèn làm lơ, bèn vờ
Almost a thousand years later
I am asking the same questions
you did the ones you kept finding
yourself returning to as though
nothing had changed except the
tone
of their echo growing deeper
and what you knew of the corning
of age before you had grown old
I do not know any more now
than you did then about what
you
were asking as I sit at night.
above the hushed valley thinking
of you on your river that one
bright sheet of moonlight in
the dream
of the waterbirds and I hear
the silence after your questions
how old are the questions tonight
Thư gửi Tô Đông Pha
Kể như một ngàn năm sau
Tớ đang đánh vật với cũng những
câu
Ngài đã từng loay hoay
hì hục tự tìm hỏi
Như thể chẳng có gì thay
đổi
Ngoại trừ tiếng vang nghe ra có
vẻ khác
Nó trở nên sâu lắng
hơn
Và điều Ngài biết về “thời
của mình đã tới rồi”,
Trước khi trở nên già khằn,
hết xí oắt
Tớ cũng chẳng biết gì hơn Ngài,
Về điều mà Ngài hỏi
Vào lúc này,
Ban đêm
Ở bên trên một thung lũng
im ắng
Nghĩ về Ngài
Trên dòng sông của
Ngài
Một dải sông trăng sáng
ngời
Trong giấc mơ của những con chim nước
Và tớ nghe ra sự im lặng
Sau những câu hỏi của Ngài
Đêm nay,
Chúng bao nhiêu tuổi rồi
nhỉ?
(1) Vào cái thời của
Gấu, thì Gấu làm 1 tên bồi bàn, ở tiệm chả cá
Thăng Long, ở Sài Gòn
Note: Nóng hổi. 2017. Post liền 1 bài,
để nhờ bạn DV, ông thi sĩ Tầu, là ai.
Và để tặng nữ sĩ có
dòng thơ,
Lệ ai ngàn năm trước
sao lại ướt bàn tay ta,
lúc này?
Note:
Tks bạn DV
Take Care
NQT
Thằng khốn, 1 ngàn năm trước, đã thương
ta rồi, đúng là dai như đỉa!
(1)
Mi làm phiền ta quá.
Kiếp trước mi đúng là
con đỉa.
Ta bận chồng, bận con, bận chuyện
nhà thờ, bận "viết" nữa.
Đâu còn thì giờ
cho mi!
Tks
Take Care
GCC
Toki-no Ge (Satori Poem)
by Muso Soseki
Year after year
I dug in the earth
looking for the blue of heaven
only to feel
the pile of dirt
choking me
until once in the dead of night
I tripped on a broken
brick
and kicked it into the air
and saw that without a thought
I had smashed the
bones
of the empty sky
1977-89
Miscellaneous Translations
Note: Bài này tặng PNN & BN trong "chuyến
đi buồn" của họ, quá đã!
Tạm dịch:
Năm này qua năm khác
Tớ đào đất
Chỉ để cảm thấy
Đống đất bẩn làm tớ nghẹt thở
Thế rồi đêm đó
Nhớ là 1 đêm tận đêm
đen
Tớ vấp 1 cục gạch bể
Bèn đá 1 phát
Văng lên trời
Và tớ nhìn, đếch thèm
nghĩ
Tớ làm vụn nát những đốt
xương
Của một bầu trời trống rỗng.
Learning a Dead Language
There is nothing for you to say. You must
Learn first to listen. Because it is dead
It will not come to you of itself, nor
would you
Of yourself master it. You must therefore
Learn to be still when it is imparted,
And, though you may not yet understand,
to remember.
What you remember is saved. To understand
The least thing fully you would have to
perceive
The whole grammar in all its accidence
And all its system, in the perfect singleness
Of intention it has because it is dead.
You can learn only a part at a time.
What you are given to remember
Has been saved before you from deaths dullness
by
Remembering. The unique intention
Of a language whose speech has died is
order,
Incomplete only where someone has forgotten.
You will find that that order helps you
to remember.
What you come to remember becomes yourself
Learning will be to cultivate the awareness
Of that governing order, now pure of the
passions
It composed; till, seeking it in itself,
You may find at last the passion that composed
it,
Hear it both in its speech and in yourself.
What you remember saves you. To remember
Is not to rehearse, but to hear what never
Has fallen silent. So your learning is,
From the dead, order, and what sense of
yourself
Is memorable, what passion may be heard
When there is nothing for you to say.
Hôm nay là sinh nhật
của Sergei Esenin, thi sĩ tóc vàng mà mình
yêu mến. Nga nhất trong các nhà
thơ Nga, có cần phải nói thêm về anh…Nhớ
những câu thơ anh ấy viết thời trẻ và vô
tư … tr…
ninablog2008.wordpress.com
Sergei Esenin
Đêm tối sẫm dịu dàng, không ngủ được.
Tôi bước ra bãi
cỏ nhỏ ven sông
Có tia chớp cởi thắt
lưng bỏ xuống
Giữa những tia nước sủi bọt
trắng bong.
Cây bạch dương trên mô đất như ngọn
nến
Lấp lánh dưới trăng
như phủ bạc ròng.
Trái tim tôi yêu
thương bé bỏng,
Hãy nghe đàn
guxli trải tơ lòng!
Hay tôi sẽ ngắm nhìn, say đắm
Thiếu nữ tuổi xuân đẹp
tựa ngọc châu.
Nếu đàn guxli gọi tôi
ra nhảy múa,
Tôi sẽ xé khăn
voan em đội trên đầu.
Vào ngôi nhà tối, hay vào
rừng xanh biếc
Tới cánh đồng cỏ óng
mượt gọi mời,
Tôi sẽ đưa em theo những
sườn đồi
Cho đến tận bình minh
màu anh túc.
1911
'I AM THE LAST VILLAGE-POET'
I am the last village-poet,
A plain plank-bridge of songs
am I;
While leaves of the birch scatter
incense,
I stand for my poor good-bye.
Low from the wax of the body
In golden flames sinks the light,
And moons, the clocks of the
village,
Will rattle out my midnight.
Soon by the blue path in the meadow
The iron guest comes on his
way,
And with swarthy hand he will
gather
The oat-stalk spilt by the day.
O hands unfamiliar and lifeless,
My songs cannot live with you.
Only ears of corn like horses
Will mourn for the master they
knew.
The wind will suck the sad whinny
And dance at the funeral rite.
Soon, soon the clocks of the
village
Will rattle out my midnight.
SEHGEI ESENIN
THANS. C. M. BOWHA
[from Russian Poets, Everyman's Library, The Muse]
Oct 5 at 4:45 AM
Oat-stalk : Thân cây lúa
mạch , bó lúa mạch
Ear of corn : trái bắp / ngô
Bản nhuận sắc, từ 1 độc giả.
Những từ như Village Poets, Moons, [cán
bộ], so với Stalin, The Sun.... chỉ dân Nga sống dưới
thời CS mới hiểu được!
Tks
NQT
Tôi là thi sĩ làng
cuối cùng
Tôi là thi sĩ làng cuối cùng
còn lại
Là chiếc cầu ván của những
bài ca
Trong lúc lá cây bạch
dương đang tỏa hương xa,
Tôi lại đứng giã từ buồn bã
với dòng sáp đang khô dần trong cơ thể
Ánh sáng chìm dần dưới
ngọn lửa hoàng kim
Và những mặt trăng - những cái
đồng hồ của làng,
Sẽ lách cách dẫn thẳng tôi
vào khuya tối
Trên con đường xanh băng qua cánh đồng, sau
đó
Sẽ có một khách mời bằng sắt,
đến đây
Hắn sẽ gom hết, với lưỡi hái trên
tay
Những thân lúa mạch đã
bị rạp nằm trước đó
Ôi những bàn tay dửng dưng và xa lạ
Ca khúc tôi không thể
sống cùng người
Chỉ có những bắp ngô, như những
con ngựa không nài
Đang khóc lóc nhớ thương người
chủ cũ
Và ngọn gió sẽ cuốn đi lời than van ủ rũ
Sẽ múa ca cùng nghi thức điếu
tang
Sắp rồi, sắp rồi
Những chiếc đồng hồ làng,
lách cách dẫn đưa tôi
vào đêm tối
28 SEHGEI ESENIN
THANS. C. M. BOWHA
[từ Nga Poets, thư viện của Everyman, The
Muse]
Bài thơ trên được xếp vào
chương "The Muse", Nữ Thần Thi ca, trong cuốn Thi Sĩ Nga,
Russian Poets, nhà xb Everyman's Library. Post thêm
bài này:
'POEMS GROW'
Poems grow in the same way as stars and roses,
Or beauty of no use to a family.
To all the wreaths and apotheoses
One answer: - from where has this
come to me?
We sleep, and suddenly, moving through flagstones,
The celestial, four-petalled guest
appears.
O world, grasp this! By the singer
- in sleep -
are opened
The stars' law, and the formula
of the flowers.
MARINA TSVETAYEVA
TRANS. D. McDUFF.
Nụ thơ
Thơ nở ra, như Sao, như Hoa Hồng
Như Vẻ Đẹp người cho là vô dụng
Với những vòng hoa, những lời tán
tụng
Với câu hỏi rằng thơ đến từ đâu
Xin trả lời -Chúng tôi lúc đang
mơ,
Một dáng hình của loài hoa
4 cánh
Đẹp như thiên thần chợt từ đâu lướt
đến
Này thế gian, hãy nhận lấy từ ta!
Bên người ca nhân, còn đượm giấc
ngà,
Nở ra những công thức cho hoa, và luật
cho tinh tú .
Bài Muse, của Akhmatova, sau đây,
là từ Everyman's Library:
MUSE
When at night I wait for her to come,
Life, it seems, hangs by a single
strand.
What are glory, youth, freedom,
in comparison
With the dear welcome guest, a
flute in hand?
She enters now. Pushing her veil aside,
She stares through me with her
attentiveness.
I question her: 'And were you Dante's
guide,
Dictating the Inferno?' She answers:
'Yes.'
1924
THE MUSE
When at night I await the beloved
guest,
Life seems to hang by
a thread. "What is youth?" I
demand
Of the room. "What is
honor, freedom, the rest,
In the presence of her
who holds the flute in her hand?"
But now she is here. Tossing aside
her veil,
She considers me. "Are
you the one who came
To Dante, who dictated
the pages of Hell
To him?" I ask her. She
replies, "I am."
Ðêm, ta đợi vị khách
quí
Ðời như treo sợi
chỉ
"Tuổi trẻ là cái
chi chi"?",
Ta hỏi căn phòng
“Danh dự, tự do, cái
còn lại,
Thì là
cái gì, trước nàng, người cầm cây
sáo ở trong tay?
Nhưng bây giờ, nàng
ở đây. Kéo cái mạng che mặt qua một
bên,
nàng nhìn
ta ra ý dò hỏi. “Bà có phải
là người đọc từng trang Ðịa Ngục
cho Dante chép,
phải không?” Ta hỏi nàng.
“Không phải ta,
thì là ai?”
A Joseph Brodsky poem from 1964
(three translations) (1)
In Villages God Does Not Live
by Joseph Brodsky
In villages God does not live
only in icon corners as the scoffers claim, but plainly
everywhere. He sanctifies each roof and pan, divides
each double door. In villages God acts abundantly– cooks
lentils in iron pots on Saturdays, dances a lazy jig in flickering
flame, and winks at me, witness to all of this. He plants a
hedge, and gives away a bride (the groom’s a forester), and,
for a joke, he makes it certain that the game warden will never hit
the duck he’s shooting at. The chance to know and witness all of
this, amidst the whistling of the autumn mist, is, I would say, the
only touch of bliss that’s open to the village atheist.
1964 From “Selected Poems” (Harper
& Row, 1973), translated from the Russian by George
L. Kline.
In Villages God Does Not Live in Corners
God does not only live in the
corners of the ceiling,
as many scoffers like to say,
but everywhere. He sanctifies
roofs and plates,
bowls and cooking pans,
and honestly divides every
double door
into halves.
In the village,
God is found in great overabundance.
On Saturday, he cooks lentils
in the
big iron pot. He dances sleepily
over the fire
and waves at me, as to a witness.
He sets up the fences and
gives the
son of the forest warden a
nice young
woman for a wife.
And for sure playful fun he
lets the
game warden miss the duck
he tries to
shoot about one thousand times.
The openness to recognize
all these things,
by listening to the sounds
of the heart,
is by the way,
the only grace,
which is open to the
atheist in the village.
–Joseph Brodsky, Collected Poems in English
IN VILLAGES GOD DOES NOT LIVE IN CORNERS
In villages God does not live
in corners
as skeptics think. He’s everywhere.
He blesses the roof, he blesses
the dishes,
he holds his half of the double
doors.
He’s plentiful. In the iron
pot there.
Cooking the lentils on Saturday.
He sleepily jigs and bops
in the fire,
he winks at me, his witness.
He
assembeles a fence, he marries
some sweetheart
off to the woodsman. Then
for a joke
he makes the warden’s every
potshot
fall just short of a passing
duck.
The chance to watch all this
up close,
while autumn’s whistling in
the mist,
is the only blessed gift there
is
in villages, for the atheist.
— Joseph Brodsky
(1940-1996)
(Translated from the Russian,
by Glyn Maxwell and Catherine Ciepiela.)
Note GCC
đọc bài thơ trên, trong số báo
The New Yorker, Feb 25, 2013. Bản dịch của Glyn Maxwell và
Catherine Ciepiela. Tò mò, gõ Google,
ra thêm 1 số bản dịch khác nữa.
Số báo này, còn
bài thơ sau đây, chỉ có đúng 1 câu,
tả đúng cái tình trạng của GCC
bữa đó đó, hà, hà!
H/A viết, Cali chẳng có
gì lạ, Noel năm nay, ngoài tí flu
vương vất trong gió.
Christmas and New Year in
California is always with flu in the air, so don't feel
miss it.
Thành ra đừng tiếc,
đã lỡ hẹn!
I'm sorry. Please take care.
GNV
Bài thơ [câu
thơ đúng hơn] ly kỳ ở cái cụm từ "Tôi không
thể không", I cannot not...
ADVICE
Someone dancing inside us
learned only a few steps:
the "Do-Your-Work" in 4/4
time,
the "What-Do-You-Expect" waltz.
He hasn't noticed yet the
woman
standing away from the lamp,
the one with black eyes
who knows the rhumba,
and strange steps in jumpy
rhythms
from the mountains in Bulgaria.
If they dance together,
something unexpected will
happen.
If they don't, the next world
will be a lot like this one.
BILL HOLM
The Rag and the Bone
Shop of the Heart: A Poetry Anthology
[Ed by Robert Bly, James Hillman
and Michael Meade]
Khuyến cáo
Một người nào đó
bên trong chúng ta
Chỉ biết lèo tèo
vài đường “nhót”
Boléro thì như
đạp xế đạp,
“Son mì son” thì
như “Đường ra trận mùa này đẹp lắm”
Thẳng chả không để ý
đến một em
Đứng xa xa ngọn đèn
Người phụ nữ với đôi
mắt đen
Dáng thấp - nhớ đại
khái - hà, hà -
Rất rành Rumba
Với những bước đi hoang dại
của dân miền núi Bún Gà Ri
Nếu hai đứa mà cùng
khiêu vũ
Ui chao sẽ là một phép
lạ
Nếu không, thế giới
tiếp theo, sẽ tới
Sẽ “vũ như cẩn”.
Not hurrying, my quiet friend
and I walk through the stubble,
and my soul is unburdened
as in a village chapel.
The autumn day is still and
clear,
a crow raucously scoffing
at others is all you can hear,
and an old woman coughing.
Mist spreads beside the barn
like gauze,
and long there under cover
we follow with a steady gaze
the cranes streaming over ...
They fly, in a sharp wedge they
fly;
the leader cries out, keening
...
Why does he cry out, why, why?
This grief - what is its meaning?
And the down-at-heel villages
no eye can count or measure
...
and burning a hole in the dusk
a fire in a distant pasture
...
Poor land, poor land, what do
you mean
to the heart that moves in me?
Poor love, poor love, poor wife
of mine,
why do you weep so bitterly?
ALEXANDER BLOK
TRANS. J. STALLWORTHY AND P.
FRANCE
[from Russian Poets,
Everyman's Library]
Hàng
năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều,
là lại phải bắt đầu niên
học… mới!
Tóc trắng ba nghìn trượng
Theo mối sầu lê
thê
Chẳng hay trong gương
sáng
Còn chỗ nào
để lọt sương thu?
Bài thơ làm
nhớ Cao Bá Quát, và câu
thơ ông mượn Lý Bạch:
Quân bất kiến cao đường minh kính
bi bạch phát...
Bạch
phát. Sầu miên.
Ở đây có
hai chiều, một cao, một dài.
Tóc phát
cứ dựng đứng lên mãi, sầu cứ thế miên
man kéo dài.
Gấu thu hai chiều,
vào một:
Sầu
miên man kéo dài, tạo nên
trục hoành, trục x.
Tóc dựng đứng
lên mãi, tạo trục tung, trục
y.
Hợp nhất hai trục
thành một, còn là hành
động, thu gọn không gian, đời người... vào
trong một cái gương, và buồn quá,
hất hàm hỏi, 'quân bất kiến, cao đuờng minh kính,
triêu như thanh ti, mộ thành tuyết.... '
Gương
sáng, thì, chỉ cần một tí bi
lụy - tí bi lụy là cả một đời người: mới
tơ xanh khi đón em nơi trường Gia Long, mà giờ này
bạc trắng, em thì cũng đã đi trước, đang chờ,
đang đợi... - là đủ làm nhoè.
Thu
sương còn có nghĩa 'nước mắt mùa thu, khóc
cho cuộc tình'!
Tình
cờ đọc bài của Trần Văn Tích, trên
một số Văn Học cũ. Post lại, qua dạng scan, phần viết
về Thu Phố Ca, của Lý Bạch.
Kỳ tới, Tin Văn sẽ
đưa ra cách đọc của Gấu, ly kỳ hơn, và
thuyết phục hơn!
*
Mần chi cho dài
dòng , vầy được chăng?
Soi gương, sương điểm bao giờ Nối dài nghìn trượng,
tóc chưa bằng sầu K
Chúng ta đa
số đều biết giai thoại "củi 1 cành khô
lạc giữa dòng", và anh thợ sắp chữ nhà
in, đọc 1 phát, bèn xì 1 tiếng, kứt,
và bèn sửa, "lạc mấy dòng", và
anh thi sĩ đọc, bèn toát mồ hôi, đấng
này là... thầy ta!
The wind wakes,
sweeps the thoughts from my mind
and hangs me
in a light that smiles for no one:
what random beauty!
Autumn: between your cold hands
the world flames.
1933
Octavio Paz: First Poems (1931-1940)
Mùa Thu
Gió thức dậy
Quét những ý nghĩ ra khỏi cái
đầu của anh
Và treo anh
Trong ánh sáng mỉm cười cho
chẳng ai
Cái đẹp mới dưng không, tình
cờ làm sao?
Mùa thu: giữa lòng bàn
tay lạnh của em
Tình anh sưởi ấm
[nguyên văn, thế giới bập bùng
ngọn lửa]
~~oOo~~
Here
My footsteps in this street
echo
in
another street
where
I hear
my footsteps
passing in this street
where
Only the mist is real
[1958-1961]
Đây
Tiếng bước chân của
tôi
trong con phố này
vọng lên
trong một con phố khác
nơi
tôi nghe những bước chân của mình
qua con phố này
nơi
Chỉ sương mù là có thực
~~oOo~~
THE THREE AUTUMNS
I don't understand summer smiles
at all,
And winter holds no charm for me,
Yet as for autumn, almost without
fail
I've noticed every year has three.
And the first one is holiday
disorder
Spiteful of yesterday's summer fling.
The leaves fly like shreds of notebooks
and the odor
Of haze is incense-sweet. Everything
Is moist, many-colored, shining.
The birches are the first to
join the dance since they're
Draped in see-through lace and since
They've already shaken off every
transient tear
Onto the neighbor over the fence.
Here's what happens when you
use a story to
break the silence:
A second goes by, a minute, and
then
Comes the second autumn as dispassionate
as conscience,
As somber as an air raid siren.
Everyone immediately appears
pale and old.
Summer closeness doesn't exist.
And far away trumpets are parading
their gold
-Music floats through the fragrant
mist.
And in the waves of frankincense,
cold and gray,
Is locked the high unflooded land.
But the wind stormed, things opened
up,
and right away
Everyone understood: that's the
end of the play.
And this isn't an autumn but death
showing its hand.
Akhmatova
1943
Ba thu
Tôi đếch làm sao
hiểu mùa xuân cười
Và mùa đông
chẳng có tí “đẹp zai” gì đối với
tôi
Nhưng, chẳng khi nào lầm
lẫn,
Tôi ngửi ra liền, và
ngộ ra rằng, có tới ba mùa thu
Mùa đầu tiên thì
là một cú loạng quạng của ngày nghỉ
lễ.
Hằn học với cái ăn chơi lu
bù mùa hè, của ngày hôm
qua.
Lá cây bay như những
trang, những mẩu, từ những cuốn sổ tay
Và mùi sương mù
mới ngọt ngào làm sao.
Mọi vật thì ẩm ướt, sặc sỡ,
long lanh sáng.
Những cây bu lô
gia nhập cuộc khiêu vũ sớm nhất
Bởi là vì chúng
được phủ bằng một bức màn xuyên thấu,
và kể như rũ bỏ liền tù
tì mọi giọt lệ thoảng,
qua hàng rào nhà
hàng xóm.
Và bây giờ, là
điều xẩy ra,
Khi bạn dùng một câu
chuyện để phá vỡ sự im lặng:
Một câu chuyện thứ nhì,
bèn tiếp theo liền, và rồi thì
Mùa thu thứ nhì tới,
ngán như là lương tâm,
Âm u như là tiếng còi
báo động máy bay Mẽo tới vùng trời
Bắc Kít
Và mọi tên Bắc Kít,
liền lập tức, xanh rờn, và già cằn
Sự gần gụi mùa hè
kể như không còn, đếch hiện hữu
Và xa thật xa, tiếng kèn
dòn dã, đường ra trận mùa này
đẹp lắm,
Vàng của chúng ta
là chiến lợi phẩm Miền Nam.
Âm nhạc lững thững trong không
gian, qua thềm sương mù thơm ngát.
Và trong những đợt hương
trầm, lạnh và xám
Miền đất cao, không ngập lụt,
được khóa cứng
Nhưng gió tới, như bão,
mọi vật mở toang
Và ngay lập tức
Mọi tên Bắc Kít đều
hiểu: Cuộc chiến chấm dứt.
Xề gòn bị làm thịt
rồi
Và đó, đếch phải mùa
thu - một mùa thu năm qua, cách mạng tiến
ra –
Mà là Thần Chết
Chìa bàn tay của nó
ra cho lũ Mít cùng nhìn thấy.
Still
In sealed box cars travel
names across the land,
and how far they will travel so,
and will they ever get out,
don't ask, I won't say, I don't know.
The name Nathan strikes
fist against wall,
the name Isaac, demented, sings,
the name Sarah calls out for water for
the name Aaron that's dying of thirst.
Don't jump while it's moving,
name David.
You're a name that dooms to defeat,
given to no one, and homeless,
too heavy to bear in this land.
Let your son have
a Slavic name,
for here they count hairs on the head,
for here they tell good from evil
by names and by eyelids' shape.
Don't jump while it's moving.
Your son will be Lech.
Don't jump while it's moving. Not time yet.
Don't jump. The night echoes like laughter
mocking clatter of wheels upon tracks.
A cloud made of people
moved over the land,
a big cloud gives a small rain, one tear,
a small rain-one tear, a dry season.
Tracks lead off into black forest.
Cor-rect, cor-rect
clicks the wheel. Gladeless forest.
Cor-rect, cor-recto Through the forest a convoy of
clamors.
Cor-rect, cor-recto Awakened in the night I hear
cor-rect, cor-rect, crash of silence on silence.
Comment
This poem rhymes in the original, and is included here-un-rhymed-because
of its thematic importance. Unlike
Rozewicz, Szymborska wrote few poems on German
atrocities during World War II. This one is notable
not only for its condemnation of Nazi genocide, but also
for its implication that certain segments of Polish society
were indifferent to the fate of the Jews.
"A big cloud gives a small rain": renders the Polish
proverb "z duzej chmury-maty deszcz," a good example,
as it is developed in the next line, of Szymborska's
turning folklore material to poetic effect.
Still
Across the country's
plains
sealed boxcars
are carrying names:
how long will
they travel, how far,
will they ever
leave the boxcar-
don't ask, I
can't say, I don't know.
The name Nathan
beats the wall with his fist,
the name Isaac
sings a mad hymn,
the name Aaron
is dying of thirst,
the name Sarah
begs water for him.
Don't jump from
the boxcar, name David.
In these lands
you're a name to avoid,
you're bound
for defeat, you're a sign
pointing out
those who must be destroyed.
At least give
your son a Slavic name:
he'll need it.
Here people count hairs
and examine
the shape of your eyelids
to tell right
from wrong, "ours" from "theirs."
Don't jump yet.
Your son's name will be Lech.
Don't jump yet.
The time's still not right.
Don't jump yet.
The clattering wheels
are mocked by
the echoes of night.
Clouds of people
passed over this plain.
Vast clouds,
but they held little rain-
just one tear,
that's a fact, just one tear.
A dark forest.
The tracks disappear.
That's-a-fact. The rail
and the wheels.
That's-a - fact. A forest,
no fields.
That's-a-fact. And their
silence once more,
that's-a-fact, drums on
my silent door.
Note: Bài
thơ trên, trong "Map", ấn bản mới nhất của
Szymborska
Still
Qua những cánh đồng
Những chiếc xế thùng, niêm
phong, chuyên chở những cái tên:
Những chuyến viễn du, bao lâu,
tới đâu –
Có khi nào chúng
rời chiếc xế thùng –
Đừng hỏi, tôi không thể
nói, tôi không biết
Cái tên Bathan dùng
khuỷu tay đập lên tường
Cái tên Isaac hát
một điệu nhạc khùng
Aaron thì đang chết vì
khát nước
Sarah đang năn nỉ xin nước bạn
Đừng có nhảy ra khỏi xe thùng
đấy nhé, David
Ở xứ sở này, 1 cái tên
như của mi thì phải tránh
Mi bị gắn khằn với sự thất bại.
Tên của mi chỉ ra những kẻ nào
phải bị huỷ diệt
Ít nhất thì cũng cho
con trai của mi mang cái tên gốc Slave:
Nó sẽ cần 1 cái tên
như thế.
Ở đây người ta đếm tóc.
Săm soi lông mi của mi
Để nói, đúng hay sai,
“của chúng ông” hay “của chúng nó”
- thì cứ gọi đại, của lũ Ngụy -
Đừng nhảy vội
Tên con trai của mi sẽ là
Lech
Đừng nhảy vội. Chưa đúng lúc.
Đừng nhảy vội
Mi không nghe tiếng ken két
bánh xe, bị tiếng vang của đêm, chế nhạo ư?
Những đám mây người đã
từng bay qua đây, cánh đồng này
Những đám mây rộng lớn,
nhưng đếch chứa mưa,
Nếu có, thì chỉ 1 tí
ti
Chỉ 1 giọt, đúng như thế, đây
là 1 sự kiện, chắc như bắp
Một khu rừng đen tối. Những vết xe
biến mất.
Chỉ 1 sự kiện. Đường ray và
bánh xe
Chỉ 1 sự kiện. Một cánh rừng,
không cánh đồng
Chỉ 1 sự kiện. Và sự câm
lặng của nó, thêm một lần.
Chỉ 1 sự kiện, tiếng trống trên
cánh cửa nín lặng của tôi
Còm:
Bài thơ này, trong nguyên
bản, có nhịp, nhưng đưa vô đây, không
nhịp, là do sự quan trọng về đề tài của nó.
Không như Rozewicz, Szymborska
viết vài bài thơ về sự tàn ác
của người Đức trong Đệ Nhị Thế Chiến. Bài này
được chú ý, không chỉ do kết án diệt
chủng Do Thái của chế độ Nazi, nhưng mà còn
do, trong xã hội Ba Lan, có nhiều người dửng dung
trước số phận của họ.
“Một đám mây lớn cho
1 cơn mưa nhỏ”, một câu cách ngôn,
tục ngữ Ba Lan, một thí dụ tốt ở đây, như là
nó được phát triển sau đó, khi Szymborska,
trong dòng thơ sau, chuyển "ca dao thành thơ".
Nhân nhắc tới Tadeusz Rozewicz.
Trong lời giới thiệu Sobbing Superpower,
Edward Hirsch coi Rozewicz là nhà thơ "đếch thơ"
u tối, thi sĩ trần trụi, đếch còn trinh, impure poet,
"tôi kết tinh hóa, cái thứ thơ không
còn trinh", một nhà thơ "chống thơ" 1 cách thật
là tận tụy: Thi sĩ là kẻ tin tưởng/và kẻ không
thể, và Hirsch coi Rozewicz, như 1 Beckett của thơ Ba Lan.
Tadeusz Rozewicz is a poet of dark refusals, hard negations.
He is a naked or impure poet ("I crystallize impure poetry,"
he writes), an antipoet relentlessly, even ruthlessly determined
to tell the truth, however painful it may be. He scorns the idea
of the poet as prophet and speaks from the margins-a stubborn outsider.
"A poet is one who believes / and one who cannot," he declares. He
dwells in uncertainties and doubts, in the insecure, gray areas of
life-skeptic...
Note: Tay thi sĩ này,
khủng lắm. Tin Văn sẽ đi bài Forewod, và
luôn bản tiếng Mít.... Mua lâu rồi, nay
mới có dịp giới thiệu.
LEOPOLD STAFF
1878-1957
This poem was written immediately after
World War II, in Poland, among the ruins, of which those
in the figurative sense were even more oppressive than the
physical ones. There was literally nothing. How could a poet react
to that situation? What was left was to do what a child does, who
when trying to draw a house often starts with the smoke from the
chimney, then draws a chimney, and then the rest.
So this is a poem of naked faith.
FOUNDATIONS
I built on the sand
And it tumbled down,
I built on a rock
And it tumbled down.
Now when I build, I shall begin
With the smoke from the chimney.
Translated from the Polish by Czeslaw
Milosz
[in A Book of Luminous Things]
Dịch loạn cào cào:
Bài thơ này, được viết
liền sau ngày 30 Tháng Tư 1975, giữa điêu
tàn đổ nát, sau cuộc chiến Mít, trong
đó, cái ý nghĩa hình tượng của nó,
thì lại nhức nhối nhiều hơn, so với sự kiện thực.
Về nghĩa đen, chẳng có cái
đếch gì cả.
Làm sao 1 thi sĩ Ngụy như GCC
chẳng hạn, phản ứng trước hoàn cảnh đó?
Thôi đành để con nít
nói giùm vậy!
Tổ Quốc Ơi
Ta Yêu Người Mãi Mãi
Từ trận thắng hôm nay
Ta xây lại bằng mười
Tớ xây nhà trên
cát
Nó sụm bà chè
Tớ xây nhà trên
đá
Nó sụm bà chè
Và bây giờ, tớ sẽ bắt
đầu bằng
Khói.
Liu Xiaobo, translated from the Chinese by Ming Di
September 28, 2017 Issue
—For Xia
Between the gray walls
and a burst of chopping
sounds,
morning comes, bundled
and sliced,
and vanishes with the
paralyzed souls
of the chopped vegetables.
Light and darkness pass through my pupils.
How do I know the difference?
Sitting in the rust,
I can’t tell
if it’s the shine on
the shackles in the jail
or the natural light
of Nature
from outside the walls.
Daylight betrays everything,
the splendid sun
stunned.
Morning stretches and stretches in vain.
You are far away—
but not too far to collect
the love
of my night.
Buổi sáng
Giữa những bức tường xám
Và tiếng chặt rau
cỏ,
Buổi sáng tới, từng
cục, từng lát
Và biến mất, với những
linh hồn tê liệt
Của lũ rau cỏ bị băm, vằm,
chặt, thái…
Ánh sáng và bóng tối tuồn
qua mi mắt
Làm sao anh biết sự
khác biệt?
Ngồi trong gỉ sét,
anh không thể nói
Cái cùm lên
nước, bóng loáng
Hay là ánh
sáng Thiên Nhiên ở bên ngoài
phòng giam
Ánh sáng ban ngày phản bội mọi thứ
Cái ông mặt
trời ngời ngời ngỡ ngàng
Buổi sáng duỗi dài, duỗi dài, vô
phương
Em thì mới xa xôi
làm sao –
Nhưng cũng không quá
xa, để đong đầy tình yêu trong đêm
của anh,
I consider
him the Samuel Beckett of modern Polish poetry. -EDWARD
HIRSCH
Milosz,
cũng nhận ra Beckett, trong thơ Rozewicz
TADEUSZ
ROZEWICZ
1921-
This poem
by Tadeusz Rozewicz is about absence, but just as in
Samuel Beckett, absence expresses something that is
not attainable, yet nevertheless exists. And so love,
here, is defined only negatively.
Bài
thơ này là về trống vắng, nhưng y
chang Beckett, trống vắng diễn tả 1 cái gì
không nắm bắt được, tuy nhiên vưỡn hằng
hằng hiện hữu.
Và
tình yêu, như ở đây, chỉ được
định nghĩa theo kiểu phủ định
A SKETCH FOR A MODERN LOVE POEM
And yet
whiteness
can be
best described by greyness
a bird
by a stone
sunflowers
in december
love poems
of old
used to
be descriptions of flesh
they described
this and that
for instance
eyelashes
and yet
redness
should
be described
by greyness
the sun by rain
the poppies
in november
the lips
at night
the most
palpable
description
of bread
is that
of hunger
there is
in it
a humid
porous core
a warm
inside
sunflowers
at night
the breasts
the belly the thighs of Cybele
a transparent
source-like
description
of water
is that of thirst
of ash
of desert
it provokes
a mirage
clouds
and trees enter
a mirror
of water
lack hunger
absence
of flesh
is a description
of love
in a modern
love poem
Translated from the Polish by Czeslaw
Milosz
Nhân chuyện thằng khốn nào
thắng, thì dân Mít cũng khổ,
nhưng, giả như Nguỵ thắng, chắc đỡ khổ hơn!
Bèn
nhớ ra bài thơ sau đây
CHANG YANG-HAO
1269-1329
Several centuries have passed since Wang Wei was
writing his poems. We are now in a different
period of Chinese history,
and the
reflection on time's passing makes an integral part
of this poem-a poem like the Bible's vanity of vanities,
with two
magnificent concluding lines.
RECALLING THE PAST
AT T'UNG PASS
As if gathered together,
the peaks of the ranges.
As if raging,
the waves on these banks.
Winding along
these mountains & rivers, the road to the T'ung
Pass.
I look west
& hesitant I lament here where
opposing armies passed through.
Palaces
of countless rulers
now but dust.
Empires rise:
people suffer.
Empires fall:
people suffer.
"Made new" by C. H. Knock and G. G. Gach
Vài thế kỷ đã qua
đi kể từ khi Wang Wei viết những bài thơ của ông. Chúng
ta bây giờ ở trong 1 thời kỳ khác
của lịch sử TQ, và thời gian qua đi và
con người nghĩ về điều này, làm thành
cái nền của bài thơ - một bài thơ giống
như vô thường của mọi vô thường của Thánh
Kinh, với hai dòng thần sầu kết thúc.
Qua Hẻm Tung nhớ quá khứ
Như thể tất cả tụ hội, đỉnh tiếp
đỉnh, núi tiếp núi, rặng tiếp rặng
Như thể
tất cả cuồng nộ, những ngọn sóng quất túi
bụi vào vách đá
Dọc núi
dọc sông, là con đường nhắm hướng
Hẻm Tung
Tôi
nhìn về phía tây & ngập ngừng,
than thở
Nơi đây
ngày nào bao binh đoàn quân
đối nghịch đi qua
Lâu
đài của biết bao tên cai trị
Bây
giờ chỉ còn bụi
Những đế
quốc lên ngôi,
Dân
chúng đau khổ
Những đế
quốc tàn lụi
Dân
chúng đau khổ.
*
Chào bác: Mới
lên Tản Viên
và đọc mấy bài thơ "mới" , thấy
có bài thơ thần sầu “Qua Hẻm Tung
nhớ quá khứ”, tra cứu thì được biết
thêm, tác giả là Trương Dưỡng Hạo CHANG
YANG-HAO 1269-1329 , và nguyên tác là
bài Đồng Quan hoài cổ (mà
bản tiếng Việt dịch từ tiếng Anh của bác ghi là
hẻm Tung ), mời bác [và độc giả TV. NQT]
thưởng thức bản phiên âm Hán Việt
của bài thơ:
Đồng Quan
hoài cổ
Phong loan như tụ, ba đào
như nộ, sơn hà biểu lí Đồng
Quan lộ.
Vọng tây
đô, ý trù trừ, thương tâm
Tần Hán kinh hành xứ,
cung khuyết
vạn gian đô tố liễu thổ.
Hưng, bách
tính khổ;
vong, bách
tính khổ.
Bài thơ mini của Zagajewski
cũng thật tuyệt
Tks bác
Dã
Viên
Đa tạ.
Tôi
cũng đang có ý chờ bạn đọc giùm
cái tên của ông thi sĩ
NQT
ADAM ZAGAJEWSKI
1945-
What follows is probably the shortest
poem on the twentieth-century mania of visiting
places all over the earth, as tourists.
AUTO MIRROR
In the rear-view mirror suddenly
I saw the
bulk of the Beauvais Cathedral;
great things
dwell in small ones
for a moment.
Translated from the Polish by Czeslaw
Milosz and Robert Hass Czeslaw Milosz: A Book of Luminous
Things
Bài thơ sau đây có
lẽ là bài thơ ngắn nhất về căn
bịnh của thế kỷ 20: mê thăm thú những
nơi này chốn nọ trên toàn thế giới,
như du khách.
Trong cái
kính chiếu hậu của cái ô tô
Bất thình
lình tôi nhìn trọn ngôi
nhà thờ Beauvais Cathedral;
Những sự
vật lớn nằm trong những sự vật nhỏ
Trong một
thoáng chốc.
I keep dreaming of my graduation exam:
in a window
sit two chained monkeys,
beyond the
window floats the sky,
and the sea
splashes.
I am taking
an exam on the history of mankind:
I stammer
and flounder.
One monkey,
eyes fixed upon me, listens ironically,
the other
seems to be dozing-
and when silence
follows a question,
he prompts
me
with a soft
jingling of the chain.
Still
In sealed box cars travel
names across
the land,
and how far
they will travel so,
and will they
ever get out,
don't ask,
I won't say, I don't know.
The name Nathan
strikes fist against wall,
the name Isaac,
demented, sings,
the name Sarah
calls out for water for
the name Aaron
that's dying of thirst.
Don't jump
while it's moving, name David.
You're a name
that dooms to defeat,
given to no
one, and homeless,
too heavy
to bear in this land.
Let your son
have a Slavic name,
for here they
count hairs on the head,
for here they
tell good from evil
by names and
by eyelids' shape.
Don't jump
while it's moving. Your son will be Lech.
Don't jump
while it's moving. Not time yet.
Don't jump.
The night echoes like laughter
mocking clatter
of wheels upon tracks.
A cloud made
of people moved over the land,
a big cloud
gives a small rain, one tear,
a small rain-one
tear, a dry season.
Tracks lead
off into black forest.
Cor-rect,
cor-rect clicks the wheel. Gladeless forest.
Cor-rect,
cor-recto Through the forest a convoy of clamors.
Cor-rect,
cor-recto Awakened in the night I hear
cor-rect,
cor-rect, crash of silence on silence.
Comments
Two Monkeys by Brueghel
The poem refers to the painting "Two Monkeys" (1562),
by Pieter Brueghel the Elder. Szymborska often uses the monkey
and related animals such as the tarsier (see
the poem "Tarsier") by way of commenting on man's
cruelty, destructiveness, and selfishness.
But this poem
is more specifically relevant to Poland: written
in 1957, it was widely interpreted as a condemnation of
the repressive atmosphere of the recent Stalinist period.
Coincidentally, many scholars throughout the ages have
seen this painting as a protest against political repression
(notably the Spanish occupation of the Netherlands ).
The "graduation
exam" (matura) has traditionally been a traumatic
experience for students in Central and Eastern Europe.
Here, however, Szymborska develops the theme not in personal
but historical terms.
Still
This poem rhymes in the original, and is included here-un-rhymed-because
of its thematic importance. Unlike Rozewicz,
Szymborska wrote few poems on German atrocities
during World War II. This one is notable not only for
its condemnation of Nazi genocide, but also for its implication
that certain segments of Polish society were indifferent
to the fate of the Jews.
"A big cloud
gives a small rain": renders the Polish proverb "z
duzej chmury-maty deszcz," a good example, as it is developed
in the next line, of Szymborska's turning folklore material
to poetic effect.
Note: Sẽ có bản tiếng Mít sau. NQT
Cả hai bài, đều chửi bố cái thứ thơ Mít
lưu vong của lũ Mít lưu vong tên
nào cũng bò về bợ đít VC
cả.
Bài
Hai Con Khỉ - giá ba con thì
đủ bộ, tên số 2 chôm thơ Ông Số 1,
tên nghe diễn văn của Tông Tông Thiệu
đọc trước Miền Nam, ngày mất nước mà kiếm ra
được mấy cái lỗi văn phạm, và tên già
NN tay dầy máu Ngụy - được coi như lời tố cáo
Hội Nhà Thổ Ba Lan, thời kỳ Xì Ta Lin Nít.
Bài Still, là về số phận dân
Do Thái ở Ba Lan, thời kỳ Lò Thiêu.
Brueghel's Two Monkeys
This is what I see in my
dreams about final exams:
two monkeys, chained to
the floor, sit on the windowsill,
the sky behind them flutters,
the sea is taking its bath.
The exam is History of
Mankind.
I stammer and hedge.
One monkey stares and listens
with mocking disdain,
the other seems to be dreaming
away-
but when it's clear I don't
know what to say
he prompts me with a gentle
clinking of his chain.
Still
Across the country's plains
sealed boxcars are carrying
names:
how long will they travel,
how far,
will they ever leave the
boxcar-
don't ask, I can't say,
I don't know.
The name Nathan beats the
wall with his fist,
the name Isaac sings a
mad hymn,
the name Aaron is dying
of thirst,
the name Sarah begs water
for him.
Don't jump from the boxcar,
name David.
In these lands you're a
name to avoid,
you're bound for defeat,
you're a sign
pointing out those who
must be destroyed.
At least give your son
a Slavic name:
he'll need it. Here people
count hairs
and examine the shape of
your eyelids
to tell right from wrong,
"ours" from "theirs."
Don't jump yet. Your son's
name will be Lech.
Don't jump yet. The time's
still not right.
Don't jump yet. The clattering
wheels
are mocked by the echoes
of night.
Clouds of people passed
over this plain.
Vast clouds, but they held
little rain-
just one tear, that's a
fact, just one tear.
A dark forest. The tracks
disappear.
That's-a-fact. The rail and the wheels.
That's-a - fact. A forest, no fields.
That's-a-fact. And their silence
once more,
that's-a-fact, drums on my silent
door.
Note: Hai bài thơ
trên, trong "Map", ấn bản mới nhất của Szymborska,
Hai con khỉ của Brueghel
Đây là điều mà
tôi mơ về kỳ thi sau cùng:
Hai con khỉ, xiềng vô sàn
nhà, ngồi ở ngưỡng cửa sổ
Bầu trời dập dờn đằng sau chúng
Biển thì làm 1 cú
tắm
Đề thi thì là về Lịch
Sử Nhân Loại
Tôi thì lắp ba lắp
bắp, lấm la lấm lét, tránh na tránh
né
Một con khỉ nhìn tôi
chằm chằm, lắng nghe, ra vẻ chế nhạo
Con kia, mơ mòng, đâu
đâu –
Nhưng khi rõ ràng
hiểu, tôi đếch biết gì
Nó bèn nhắc bài,
bằng những tiếng tinh tinh nhẹ nhàng của sợi sên.
Bài thơ nhắc tới bức hoạ hai
con khỉ (1562) của Pieter Brueghel the Elder. Szymborska
thường dùng khỉ hay những con thú như cùng
loại, như khỉ lùn, thí dụ, trong bài “Tarsier”,
như là 1 cách để nói về sự độc ác,
huỷ hoại và ích kỷ của con người. Nhưng bài
thơ này quái hơn nhiều, vì nó xoáy
vào Ba Lan: Được viết năm 1957, nó được nhìn 1
cách rộng rãi như là 1 tố cáo không
khí đàn áp của thời kỳ Xì Ta Lin Nít
lúc đó.
Rất nhiều thế hệ học giả sau đó,
coi bài thơ như là sự tố cáo mọi thể
chế chính trị đàn áp.
Có lẽ lũ thi sĩ Mít
lưu vong cũng cần 1 con khỉ nhắc bài như thế, khi
làm thơ lưu vong, nhưng năm nào cũng thậm thụt
về thăm quê hương?
SONG ABOUT SONGS
It will burn you at the start,
As if to
breezes you were bare,
Then drop
deep into your heart
Like a single
salty tear.
And a heart full of spite
Will come
to know regret.
And this
sorrow, although light,
It will
not forget.
Others will reap. I only sow.
Of course!
When the triumphant horde
Of scythers
lays the grain low,
Bless them,
O Lord!
And so that I may lift
My eyes
in thanks to You above,
Let me give
the world a gift
More incorruptible
than love.
1916
Akhmatova
Nó sẽ đốt cháy bạn lúc thoạt
đầu
Như thể
bạn trần truồng trước những làn gió
Rồi thọi
1 cú thật sâu, ngay tim bạn
Như 1 giọt
nước, mặn, cực mặn, chỉ 1 giọt
Và trái tim đầy thù oán
Sẽ biết
như thế nào là, chưa đi mưa chưa biết
lạnh
Chưa thấy
quan tài chưa đổ lệ,
Nghĩa là,
biết, ân hận
Và
nỗi ân hận, mặc dù nhẹ nhàng
Sẽ chẳng
thể nào quên
Những kẻ khác, thu hoạch
Tôi,
chỉ gieo.
Lẽ tất nhiên!
Khi bầy người cầm hái chiến thắng
Để hạt xuống
Hãy
chúc phúc cho họ, ôi Chúa
Và như thế,
tôi có thể ngước mắt
Cám
ơn Người ở trên cao
Hãy
để cho tôi ban cho đời
Một món
quà
Không
thối rữa, hơn nhiều
So với tình
yêu.
It seems
that the voice we humans own
Will never
sound, never celebrate,
Only a wind
from the age of stone
Keeps on
knocking at the black gate.
And it seems
to me that under the sun
I alone remain-this
honor's mine,
Simply because
I was the first
Who wanted
to drink the deadly wine.
1917
It seems
that the voice we humans own
Will never
sound, never celebrate,
Only a wind
from the age of stone
Keeps on
knocking at the black gate.
And it seems
to me that under the sun
I alone remain-this
honor's mine,
Simply because
I was the first
Who wanted
to drink the deadly wine.
Có
vẻ như cái thứ tiếng người mà chúng
ta có đó
Nó
sẽ chẳng bao giờ kêu lên
Chẳng bao
giờ ăn mừng
Chỉ là
tiếng gió từ thời kỳ đồ đá
Liên
tục gõ lên chiếc cổng đen
Và
hình như chỉ còn tôi, đơn độc
dưới ánh mặt trời
Và
đây là niềm vinh quang của tôi
Giản dị,
ấy là vì tôi là người
đầu tiên
Muốn uống
ly rượu độc
Late
at night. Monday. The twenty-third.
The capital's outlines in the
mists.
Some idiot's given us the word,
He's informed the world that
love exists.
And out of boredom or laziness
Everyone believes and lives
that way:
They all look forward to trysts,
no less,
They sing their love songs night
and day.
But to some, the secret's revealed,
The smallest silence weighs
like a brick.
I too stumbled on what was concealed.
Since then I've felt as if I
was sick.
1917
Trong Anna
Akhmatova's Poems, do Lyn Coffin tuyển chọn và
dịch, có 9 bài thơ, chung đề tài,
"Song about songs".
Hôm
nay là ngày sinh của Anna Akhmatova,
nữ thi sĩ Nga. Nếu còn sống thì hôm
nay bà tròn 125 tuổi.
Cảm nhận
của mình về thơ bà luôn rất
phức tạp, gần gũi nhưng xa lạ,
đáng yêu nhưng cũng đáng
sợ... Tuy nhiên, dù sao chăng nữa thì
thơ bà cũng rất hay.
Anna Akhmatova
* * *
Ánh
sáng chiều tà mênh mang vàng
úa
Lạnh mát tháng tư dịu ngọt
vô cùng.
Anh đã đến muộn – nhiều năm lắm,
Nhưng dù sao vẫn khiến em mừng.
Hãy
ngồi lại đây, gần em một chút
Và hãy nhìn bằng cặp
mắt vui tươi
Đây, cuốn vở bìa xanh này
đấy
Là những vần thơ em viết thuở thiếu
thời
Em xin lỗi,
vì sống trong buồn bã
Và ít khi vui với mặt trời
Em xin lỗi, vì em đã tưởng
Và nhầm anh với rất nhiều người.
1915
Bản tiếng
Anh, trong Poems, selected and translated
by Lyn Coffin:
Broad
and yellow is the evening light,
The coolness of April is dear.
You, of course, are several years late,
Even so, I'm happy you're here.
Sit close at hand and look at me,
With those eyes, so cheerful and mild:
This blue notebook is full, you see,
Full of poems I wrote as a child.
Forgive me, forgive me, for having grieved
For ignoring the sunlight, too.
And especially for having believed
That so many others were you.
1915
CHARLES SIMIC
1938-
A dream may transform
a moment lived once, at one time, and change it into part of
a nightmare. Charles Simic, an American poet born in Serbia,
remembers the time of the German occupation in his country. This
scene from childhood is put in relief as the present which is
no more, but which now, when the poet writes, constantly returns
in dreams. In other words, it has its own present, of a new kind,
on the first page of a diary of dreams.
Czeslaw Milosz
Note Bài thơ này, Tin Văn
đã dịch & giới thiệu. Nay thêm còm
của Milosz, mà theo GCC, Mít có thể chôm
được và áp dụng vô thơ Mít, 40 năm
sau cuộc chiến, theo nghĩa, In other words, it has its own present,
of a new kind,
On the first page of my dream
book
It's always evening
In an occupied country.
Hour before the curfew.
A small provincial city.
The houses all dark.
The store-fronts gutted.
I am on a street corner
Where I shouldn't be.
Alone and coatless
I have gone out to look
For a black dog who answers to my whistle.
I have a kind of Halloween mask
Which I am afraid to put on.
CHARLES SIMIC
Đế quốc của những giấc mơ
Ở trang đầu cuốn sách
mơ của tôi
Thì luôn luôn là
1 buổi chiều tối
Trong 1 xứ sở bị chiếm đóng.
Giờ, trước giới nghiêm.
Một thành phố tỉnh lẻ.
Nhà cửa tối thui
Mặt tiền cửa tiệm trông chán
ngấy.
Tôi ở 1 góc phố
Đúng ra tôi không nên
có mặt ở đó.
Co ro một mình, không áo
choàng
Tôi đi ra ngoài phố để kiếm
Một con chó đen đã đáp
lại tiếng huýt gió của tôi.
Tôi mang theo 1 cái mặt nạ
Halloween
Nhưng lại ngại không dám đeo
vô.
These few
lines of poetry perfectly capture a nightmare, a disturbing
and recurring sleep dream. First Simic gives us the setting,
muted violence and destruction, isolation. Then he lays out the
plot. The dreamer gone out to find a dog on the streets, holding
a Halloween mask that he is afraid to put on.
This poem is a powerful recording of a
nightmare. It acts upon us, the readers, as discomfittingly
as would a nightmare of our own. It leaves us uncomfortable and
unsure.
While this nightmare comes from Mr. Simic,
as a work of art, and as the sharing of a dream, it belongs
to each of us to interact with as we will. The significance of
any dream is what we make of it.
What does this dream evoke in each of us?
What uncomfortable questions come up for us? Are we faced with
wearing the mask of “normalcy” in order to survive a dangerous
situation? Do we need to put it on, or throw it away? Where in
our lives are we unable to, or unwilling to, put on the mask of conformity
to violence? Where do we feel isolated on a dangerous street corner?
What do we need to do to find safety?
The key to creating meaning is to interact
with the dream (or work of art, or any life event) and fearlessly
become aware of what its message is for us, one that can be different
for each of us.
Then comes the hard part – to manifest
the change in our lives that the nightmare indicates is needed.
Note: Bình
loạn trên, tình cờ vớ được trên net.
Cái tay này có vẻ
không đọc ra bài thơ, mà chỉ có
những kẻ nào đã sống cuộc sống chiến tranh, giới
nghiêm, hoả tiễn VC.... mới hình dung ra được.
Bạn đọc phải đọc bài thơ, song song
với Cõi Khác của GNV thì mới thấy đã!
Đâu phải ‘vô tư’ mà
Milosz chọn bài này đưa vô Thơ Tuyển Thế
Giới!
Ông cũng kinh qua kinh nghiệm...
VC này rồi!
Bởi thế, thay vì Cõi Mơ,
Cõi Khác, thì Simic gọi là Đế
Quốc Của Những Giấc Mơ!
Đế Quốc Đỏ, Vương Quốc Ma Quỉ, và
bây giờ là Đế Quốc Của Những Giấc Mơ, Những
Ác Mộng.
Hai dòng thơ chót mới
tuyệt cú mèo:
Cầm cái mặt nạ Ma trong tay mà
không dám đeo vô, vì sợ biến thành
Quỉ. (1)
STATUE IN TSARSKOYE SELO
N.V.N
Already the leaves of the maple
Are falling on the swanpool,
And on the bloodstained
bushes
Of the late-ripening rowan.
And, dazzlingly slender,
Her crossed legs never cold,
Sitting on the northern
stone,
She gazes away along the
roads.
I felt confused and fearful
Before this girl whom Pushkin
sang,
Beams of the fading light
Playing on her shoulders.
For how can I forgive her
The pleasure of enamoured
praise ...
See - so elegantly naked,
She's happy being sad.
Autumn 1916
PHO TƯỢNG Ở TSARSKOYE
SELO
Lá thông rụng trên
swanpool
Và trên những bụi thanh
lương rướm máu, chín muộn
Và, mảnh khảnh chói chang
Hai chân, đan chéo, không
bao giờ lạnh
Ngồi trên phiến đá hướng
bắc
Nàng đưa mắt nhìn những
con đường
Tôi cảm thấy bối rối, và
sợ sệt
Trước cô gái mà
Pushkin ca tụng
Những đợt sáng
Đùa nghịch trên đôi
vai nàng
Làm sao tôi có
thể tha thứ cho nàng
Đẹp như thế…
Hãy nhìn kìa
Trần truồng thanh nhã
Buồn hạnh phúc,
Hạnh phúc buồn
Buồn buồn...
ANNA AKHMATOVA
TRANS. D. M. THOMAS
TRAUMEREI
I dreamt of autumn in the dim glass
light,
Of friends, with you, in their motley
love,
And like a falcon, tasting blood in
flight,
The swooping heart alighted on your
glove.
But time would grow old, and deaf,
and pass,
And, lightly touching frames with
webs of amber,
Dawns from the garden veined the terrace
glass
With sanguine tears of September.
But time would grow old, and pass.
And pliant,
Like ice, armchair silk would melt
and swell,
First audible, you stumbled and grew
quiet,
The dream grew silent like the echo
ofa bell.
And I awoke: was, like the autumn,
raw
The sunrise, and the wind drew into
distance,
Chasing the sled, a running rain of
straw,
The running birches chasing leaden
instants.
BORIS PASTERNAK
TRANS. A. NAVROZOV
FOR ALEXANDER BLOK
I came to him as a guest.
Precisely at noon. Sunday.
In the large room there was quiet,
And beyond the window, frost
And a sun like raspberry
Over bluish-grey smoke-tangles.
How the reticent master
Concentrates as he looks!
His eyes are of the kind that
Nobody can forget. I'd
Better look out, better
Not look at them at all.
But I remember our talk,
Smoky noon of a Sunday,
In the poet's high grey house
By the sea-gates of the Neva.
ANNA AKHMATOVA
TRANS. D. M. THOMAS
ON AKHMATOVA
Oh sorrow - she half turned around
And eyed the indifferent throng.
Her shawl, almost classical, hung
From her shoulders and turned to stone.
Drunk with pain - voice foreboding
to say
Things that burst from her deepest
soul:
Acting angry Phedre's role
Rachel used to stand that way.
OSIP MANDELSTAM
TRANS. R. TRACY
Note: Hai bài thơ [về Blok,
và về Akhmatova], đã có trên
Tin Văn, bản dịch tiếng Anh của Lyn Coffin.
SONG OF THE LAST MEETING
My breast grew cold and numb,
But my feet were light.
On to my right hand I fumbled
The glove to my left hand.
It seemed that there were many steps
- I knew there were only three.
An autumn whisper between the maples
Kept urging: 'Die with me.
Change has made me weary,
Fate has cheated me of everything:
I answered: 'My dear, my dear!
I'll die with you. I too am suffering.'
It was a song of the last meeting.
Only bedroom-candles burnt
When I looked into the dark house,
And they were yellow and indifferent.
1911, Tsarskoye Selo
Edward Hirsch, trong How to
Read a Poem and Fall in Love with Poetry,
có đi 1 đường thần sầu về bài thơ này.
Ông cũng rất mê thơ Akhmatova. Ông phán,
"Mọi bài thơ là 1 xen của ngôn ngữ. Nó
là một nghi lễ không lễ nghi" [tạm dịch "Every poem
is a scene of language. It is a rite without a ceremony"].
Bản tiếng Anh, do Stephen Berg dịch:
I was helpless, my breasts were freezing.
I walked one foot on tiptoe,
I put my left glove on
my right hand, like an idiot.
There seemed to be so many steps then
but I knew there were only three.
Autumn whispered through the maples
"Die, like me:
that sick, truculent liar, Fate,
has stripped me, for the hell of it,"
"I've been flayed like you," I remember
answering
as I left, "and I'll die when you do."
This is the song of our last meeting.
I looked back at the shape of the dark
house.
Candles guttered in the bedroom window,
indifferent, yellow.
(version by Stephen Berg)
GCC rất mê thơ Akhmatova! Cực kỳ
sang, cực kỳ lạnh. Cực kỳ nghiêm khắc. Hirsch viết,
Osip Mandelstam cho rằng gốc rễ thơ AA là ở tiểu thuyết
Nga, thế kỷ 19, trong Tolstoy, Turgenev, Dos; vóc thơ của
bà, her poetic form, được phát triển với 1 cái
thoáng nhìn vô cõi văn xuôi tâm
lý, was developed with a glance at psychological prose.
AT TENDER MERCY
O lone streetlight,
Trying to shed
What light
you can
On a spider
repairing his web
This autumn
night,
Stay with me,
As I push further
and further
Into the dark.
Khoan dung dịu dàng
Ôi ngọn đèn đường
cô đơn cuối [cúi] đầu
Với thứ ánh
sáng nào
Mi tỏa lên
hồn Gấu
Đang tìm
cách vá víu cuộc đời của nó
Đêm thu
này
Hãy
ở đây với nó
Khi nó
cố tìm cách tiến sâu
Sâu thêm
nữa
Vào
bóng tối.
MUSIC
for D.D.S.
A flame burns within her, miraculously,
While you look, her edges crystallize.
She alone will draw near and speak to me
When others are afraid to meet my eyes.
She was with me even in my grave
When the last of my friends turned away,
And she sang like the first storm heaven gave,
Or as if flowers were having their say.
1958
Dimitri D. Shostakovitch: 1906-1975, great
Russian composer.
[Anna Akhmatova: Poems, selected and translated
by Lyn Coffin; introduction by Joseph Brodsky]
*
poésie
par Jean-Yves Masson
LA RUSSIE INCARNÉE
Anna Akhmatova, l'une des grandes voix du
xxe siècle
*
La Musique
à D. D. Ch.
Il y a en elle un miracle qui brûle.
Sous nos yeux, elle forme un cristal.
C'est elle-même qui me parle
Quand les autres ont peur de s'approcher.
Quand le dernier ami a détourné
les yeux
Elle est restée avec moi dans ma tombe.
Elle a chanté comme le premier orage
Ou comme si les fleurs se mettaient toutes
à parler.
Anna Akhmatova (1889-1966)
*
Âm nhạc
Tặng Shostakovitch
Có ở trong nàng một phép
lạ rực cháy
Dưới mắt chúng ta nàng tạo thành
một khối pha lê
Chính là nàng đang nói
với tôi
Trong khi những kẻ khác không
dám tới gần.
Khi người bạn cuối cùng quay mặt
Nàng ở với tôi trong nấm mồ.
Nàng hát như cơn dông
bão đầu tiên
Như thể tất cả những bông hoa cùng
một lúc cùng cất tiếng.
Ce qu'Anna Akhmatova dit de la musique, dans
ce poème de 1958 dédié à Chostakovitch,
tous ses lecteurs peuvent le dire de sa poésie: non
seulement ceux qui lurent clandestinement ses poèmes au
temps où, célèbre dans toute la Russie,
elle était réduite au silence par la censure stalinienne,
mais tous les autres, ses lecteurs d'aujourd'hui et de demain.
Điều mà Anna Akhmatova nói về
âm nhạc, trong bài thơ tặng nhà soạn nhạc
Chostakovich, tất cả những độc giả có thể coi như là
điều bà nói về thơ của bà, không chỉ
những độc giả đọc thơ bà lén lút, vào
cái thời mà, nổi tiếng khắp nước Nga, bà bị
bắt buộc phải câm lặng, do chế độ kiểm duyệt của Stalin, nhưng
tất cả những độc giả khác nữa, bây giờ, hay sau này.
Depuis que Paul Valet, en 1966, traduisit
(chez Minuit) le Requiem qui la révéla en France-region>,la
renommée d'Akhmaatova n'a cessé de s'étendre
à travers le monde. Au fil des ans, Sylvie Técoutoff
ou Christian Mouze s'attachèrent à la traduction
de recueils entiers, tandis que Jeanne et Fernand Rude (chez Masspero
en 1982) ou Jacques Burko (éd. Orphée/La Différence,
1997) proposaient des anthologies. Venant après eux, le
choix de poèmes que publie aujourd'hui Jean-Louis Backès
dans la collection Poésie/Gallimard est le plus complet
qu'on ait eu à ce jour; il donne à lire environ la moitié
de l'œuvre de celle qui est peut-être le plus grand poète
russe du xxe siècle.
Même si l'on hésite à
bon droit à la placer au-dessus de Blok, de Mandelstam,
de Tsvetaïeva ou de Pasternak, qui furent ses amis, Anna
Akhmatova possède au suprême degré cette
qualité qu'on nomme la grandeur; elle éclate à
toutes les pages des Enntretiens avec AnnaAkhmatova publiés
par Lydia Tchoukovskaia (éd. Albin Michel, 1980), témoignage
irremplaçable qu'il serait urgent de rééditer.
La grandeur, en poésie, consiste peuttêtre simplement
à traiter le réel avec une intransigeance absolue. De
ses vers, Anna Akhmatova affirmait qu'ils avaient bien pu être
parfois « amerrtume et mensonge/Mais consolation, jamais ».
Après dix-sept mois passés à
faire la queue devant les prisons de Leningrad en 1938 pour
rendre visite à son fils, pendant que « l'innocente
Russie se tordait de douleur/sous les bottes sanglantes»,
celle qui avait été dans sa jeunesse « la joyeuse
pécheresse» de Tsarskoïe Selo et le plus virtuose
des poètes de l'école acméiste devint la
Russie en personne. Pas moins. Parce que l'époque l'exigeait
d'elle. Parce que la Russie réelle, comme la ville légendaire
de Kitège, s'était faite invisible, accessible seulement
aux cœurs purs. Nul mieux que Jean-LouisBackès, traducteur
de Pouchkine et de tant d'autres poètes, ne pouvait offrir
de cette œuvre une vision aussi sobre et juste, restituant dans sa
plénitude l'extrême tension de ces vers.
À quand des Poèmes complets
d'Akhmatova ?
*
Requiem, Poème sans héros et
autres poèmes
Anna Akhmatova (1889-1966) Présentation,
choix et traduction de Jean-Louis Backès
Ed. Gallimard, « Poésie »,
9,30 €.
[Le Magazine Littéraire, Avril 2007]
When
I begin a song
It sticks
And if I become aware of you
It is an illusion
And thus love wanted you
Humble and small
So that I win you
With being alone
Therefore you slipped from me
Until I learnt
Only flawless petitions
Betray nature
And only enraptured steps
The [eternal] trace.
blessed
Note: Từ eternal, gạch bỏ, thay
bằng blessed
Tạm dịch bài thơ của Walter
Benjamin:
Khi tôi bắt đầu một bài
ca
Nó dính
Và nếu tôi nghĩ đến
em
Nó trở thành một ảo
tưởng
Và như thế, tình yêu
muốn em,
khiêm nhường, và nhỏ
bé
Và nếu như thế, anh có
em
Là nhờ cô đơn
Vưỡn như thế, em tuồn ra khỏi anh
Tới khi nào anh hiểu
Chỉ những lời cầu xin hoàn
mỹ
Phản bội thiên nhiên
Và chỉ những bước chân
ơ thờ
Dấu vết được ban phước
****
Fig. 8.11
On "Kafka"-Revision
1) The analysis
of the idea of the father in the first part needs to take
account of the Eleven Sons. For this draw on
the play itself, Kraft's commentary on it, and the piece by Kaiser.
2) Fend off Kraft's
objection to the bit where I present the reference to
the posthumous reflections as illegitimate. Kraft: "This
posthumous volume stands .... accordingly on the same level
of illegitimacy as all the illegitimate novels." Certainly in
terms of publication, but not in terms of substance. Kafka wanted
to mediate this in reports and parables, in relation to which the
reflections are simply parerga and paralipomena-indeed a most peculiar
type of same.
3) Kraft repudiates
the characterization of the psychoanalytical exposition
of Kafka as "natural." He wants to see this label reserved for
another approach, which is closer to the representation of
the social conditionality of Kafka's world-to be considered.
4) Important note
on the animal stories, by Kraft: "For me his animal stories
are in most cases simply a technical means to represent the
inestimable aspects of empirical-metaphysical relations, e.g.
in Josefine or in the notations of a dog. In both
cases 'the folk' is represented." That is correct: need to show
how this connects with my interpretation of the animal world in Kafka.-For
Investigations of a Dog draw instead on Brecht's
Dream of Fewkoombey the Soldier, (a)
who spent the last six months of his life amongst dogs.
5) Kraft: "Each
of these women has a relationship to the castle, which
you ignore, and when, for example, Frieda reproaches K. for
never asking her about her past, she does not mean the 'swamp'
but her earlier life together with Klamm."
6) Request Kraft's
commentary on An Old Manuscript
7) The comparison
with Schweik is perhaps truly, as Kraft maintains, unacceptable-that
is because it is too short. Should it be placed within an
exposition of Kafka's derivation from Prague?
(a) In Brecht's Threepenny Novel
Ngô Nhật Đăng: Lâu mới thấy
lại, đúng là thơ Mít thiếu
tiếng khóc
Note: Tay
thi sĩ này, khủng lắm. Tin Văn sẽ đi bài
Forewod, và luôn bản tiếng Mít....
Mua lâu rồi, nay mới có dịp giới thiệu.
Foreword
Tadeusz Rozewicz is a poet
of dark refusals, hard negations. He is a naked or impure
poet ("I crystallize impure poetry," he writes), an anti-poet
relentlessly, even ruthlessly determined to tell the truth,
however painful it may be. He scorns the idea of the poet as prophet
and speaks from the margins-a stubborn outsider. "A poet is one
who believes / and one who cannot," he declares. He dwells in uncertainties
and doubts, in the insecure, gray areas of life-skepticism is
his native mindset -and strips poetry down to its bare essentials:
words alone on a page. He is bracingly clear and shuns the floridities-the
grand consolations-of the traditional lyric. His characteristic
free-verse style is a non-style, a zero-sum game. "I have no time
for aesthetic values," he says. Rather, he treats modern poetry
as "a battle for breath" and writes with an anxious, prolific, offhanded
urgency. He is wary and intense, a bemused seer of nothingness. I
consider him the Samuel Beckett of modern Polish poetry.
Rozewicz
belongs to a brilliant generation of Polish poets-the
half generation after Czeslaw Milosz-initiated in the apocalyptic
fires of history. He is a crucial part of the firmament-the
"Generation of Columbuses"-that includes such other great
modern poets as Zbigniew Herbert and Wislawa Szymborska. He grew
up during one of the few periods of independence in Polish history,
but came of age during the terrible years of World War II. Poland
lost six million people during the war, nearly one fifth of its
population, and all young writers felt the crushing burden of speaking
for those who did not survive the German occupation, "I'm twenty-four
/ Led to slaughter / I survived," Rozewicz wrote in "Survivor"
(Anxiety, 1947). It was no boast. For him,
poetry-or at least one kind of poetry-was murdered during the war.
The Holocaust loomed over everything. The war
was such a traumatic event that for a new generation
of Polish poets it called all moral and aesthetic values into
question. Those who survived could never believe in the future
again. Nor could they revert to traditional forms of poetry.
They rejected the aesthetics of elaborate, ornamental, or sonorous
language. No more intricate meters and rhymes, no more fancy metaphors.
It was as if poetry had to be reinvented from the ground up.
Rozewicz fostered this distrust of rhetoric, of false words and
sentiments. He was among the first to catch the mood in a stripped-down
poetry of drastic simplicity.
Here is the beginning of "In
the Middle of Life," which reads like a new kind of
primer:
After the end of the world
after my death
I found myself in the middle
of life
creating myself
building a life
people animals landscapes
this is a table I kept saying
this is a table
on the table are bread knife
the knife is used for cutting
bread
people feed on bread
man should be loved
I learned by night by day
what should one love
I answered man
Rozewicz's brutal simplicity
enacts his suspicion of all general ideas and philosophies.
He distrusts overarching concepts ("Concepts are only words").
He had a moment of embracing Communism, but soon gave it
up, and over the years he has shown himself to be temperamentally
allergic to political creeds or ideologies, public speech, sobbing
superpowers from the East or West. He is alert to official lies
and recognizes that evil comes "from
a human being / always a human
being / and only a human being." His clear-eyed view
of humanity is one of the constants of his work. "It would
be best to go insane / you're right Tadeusz," he writes to his
friend Tadeusz Konwicki, "but our generation never quite goes insane
/ we keep our eyes open / to the very end."
What an
abiding pleasure it is to read Joanna Trzeciak's precise
and insightful translation of Rozewicz's poetry. She captures
his cunning style of negation, his stark diction and sudden
turns, his talkativeness,
his well-timed silences, his
artful artlessness. For more than sixty years, Tadeusz
Rozewicz has remained utterly true to his values and commitments,
to his dark view that "nothing begets nothing." He is spare
and uncompromising, a magician without robes. "My poetry,"
he writes,
"justifies nothing / explains
nothing / renounces nothing / encompasses
no whole / fulfills no hope."
And yet: "it obeys its own imperative / its
own capabilities / and limitations
/ it loses against itself." In the end,
Rozewicz's unlikely creativity-the
life force itself-has always won out.
He inveighs against singing,
but sings nonetheless. He can't go on, he will go on.
"A poet is one who exits / and one who cannot," he concludes.
He has given us an unwavering and undefended poetry, a self-contradictory
poetry that attacks mankind but defends individual men.
So, too, over
the decades, the poet of negativity
has been slowly, cautiously, and firmly building "a
bridge / linking the past / to the future." He has created the
poetry of qualified humanism. He rescues consciousness from
oblivion.
As he writes in "so what it's
a dream":
I write on water
from a few sentences
from a few verses
I build an arc
to save something
from the flood
that catches us by surprise
-EDWARD HIRSCH
The Holocaust
loomed over everything.
Với Mít, câu này
có nghĩa Trại Tù VC phủ lên tất
cả.
Nên nhớ, Brodsky đã
từng phản bác câu của Adorno, Sau Lò
Thiêu, làm thơ là dã man, khi
hãnh diện phán, bất cứ 1 trại tù Gulag
nào cũng thay thế cái tên Lò Thiêu.
Ông nói đúng,
nhưng mà sai, do không phân biệt được
Cái Ác Nazi với Cái Ác Á
Châu, trong có Cái Ác Bắc Kít.
Và nếu như thế, Trại
Tù Cải Tạo VC thừa sức thay thế Lò Thiêu
của Nazi.
Rõ ràng là
chưa từng có 1 tên Bắc Kít nào
nhắc tới Tù Cải Tạo.
Đọc bài tham luận mừng
40 năm thơ Mít lưu vong của 1 tay ở trong nước
- Hoàng Hưng - Gấu mắc cười quá. Anh ta trích
dẫn 1 bài thơ, rồi hỏi, có chất Mít
không, và trả lời có, và đó
là 1 bài thơ của 1 tên Mít lưu vong.
Và Người kết luận, vậy
là thơ Mít còn, ở trong lẫn ngoài
nước!
Tay này đã từng
bị Vẹm bắt bỏ tù.
Theo GCC, phải quên mi
là Mít, thì may ra mới có
thơ Mít.
Sebald chẳng đã từng
mơ thấy mình đang đi giữa đường phố Paris, và
bị lột mặt nạ, là 1 tên Đức... dởm?
Note: Bài thơ trên,
của Rozewicz, được Hirsch trích dẫn, trong bài
viết về thơ Ba Lan. Bài viết này theo GCC, Mít
cũng cần đọc, thay vì đọc ba cái tham luận nhảm
nhí của mấy đấng phê bình gia dởm Mít.
Không tên nào
viết được 1 cái gì cho ra hồn, cả trong lẫn
ngoài nước, đó là sự thực.
Có 1 tay, "đối thủ" của
GCC, như anh viết - nhưng do cố không vướng vào
"đương thời", nên thật khó nói...
Buổi chiều vào chật
khoang xe. Đèn thắp lên.
Tiếng máy nổ bỗng
thành tiếng cười dài.
Mưa xuống bên ngoài
cửa sổ. Những bàn tay níu lấy vòng
sắt lạnh.
Mỗi ngày chúng
ta đứng bên nhau không quen nhau,
Thân mật ngó
lên mái tóc rối nền trời khuya.
Ngó vào mắt
hoang xa giòng sông không bờ.
Sau một ngày làm
việc em mơ về khói ấm khuôn mặt riêng.
Tôi nghĩ về cuộc đời
thầm thầm hàng ngày,
Trên những thành
ô tô buýt người ta xô chạm
vô tình.
Tôi bám chặt
cửa xe xin một chân đứng.
Nhớ đến chúng bạn:
một người bên Xóm Cỏ, một người ngoài
Phú Thọ.
Muốn gặp nhau mang tình
cảm cho nhau qua hai chặng đường len giữa ồn ào.
Chuyến xe buýt chạy
trong buổi chiều. Trời mưa, mưa ngoài châu
thành.
Không tìm thấy
bến không đỗ lại.
Vai áo đã
ướt đầy.
Tóc em rét
mướt.
Một ngày mới bắt
đầu với tờ báo phát hành sớm gói
trong tay.
Xe còn chạy mưa hoài
giòng sông hoang mắt bỏ cố níu lấy
cửa xe.
Nhưng chúng ta không
kiếm được một lời nào để mà nói.
Không tìm thấy bến không
đỗ lại
Không kiếm được một lời nào để mà nói
Tóc em
rét muớt
Human thresholds are meant to
be crossed,
so please come in and make yourself
at home.
I'm certainly not going to deliver
A Lecture on Love
(what an insufferable word, "lecture"),
though I shall speak about the
essential home-
lessness of love, always star-crossed
. . .
I have a talent for "non-reciprocal
love"
and all my work is an argument
for rapture.
When you love a person you always
want him
to disappear so your mind can
work on him.
The imagination is a storm-cloud
of rapture
which I have scattered, like unhappy
love.
"A person has to be condemned
to poetry
like a wolf to his howling," A.
Bely said,
"but you're a bird that keeps
on singing."
I like to be torn apart by my
own singing,
like one of Odysseus's men who,
it's said,
destroyed himself for the Siren's
poetry.
"I have lived with the shudder
oflonging"
(M. V. wrote), insatiable for
the genuine.
I have held a boiling teapot,
a frying pan,
a broom, an iron, three babies,
and a pen
that stutters with knowledge of
the genuine:
I have been hollowed out by sexual
longing,
and I've paid for my transcendental
passion.
What poet actually isn't a Negro,
a woman,
or a Jew who has been slain by
gentiles?
I know because I've lived among
gentiles
as an outcast, a White, an emigre,
a woman
despised for her deep and wayward
passion.
Admitted: I have been devoured
by life-
gathering firewood, feeding my
small family.
I have a child who died in an
orphanage
(how's that for being "a woman
of the age"?)
and I've tried to resurrect my
family.
But I've never really cared for
"life"-
unmediated, insignificant, all
by itself.
Life has to have the plenitude
of art.
If I were brought across the sea
to Paradise
and forbidden to write, I'd refuse
Paradise,
since what good is heaven without
art,
which has a joyousness beyond
the self?
There are moments in writing like
love
when you suddenly set fire to
the house
and push your friend from the
mountaintop.
They are sublime feelings-the
mountaintop
of experience-when you torch the
house
and obey the innermost dictates
of love.
Wherever you are, I'll reach you,
love.
I've named my lust for you "holiness."
We've come to ourselves in a fresh
hell
in our century (a godless Russian
hell),
but we've also created passionate
holiness.
I would be a wing that soars for
love.
Edward Hirsch: The Living Fire
To Osip Mandelstam
Nothing's been taken away!
We're apart -I'm delighted by this!
Across the hundreds of miles
that divide us, I send you my kiss.
Our gifts, I know, are unequal.
For the first time my voice is still.
What, my young Derzhavin, do
You make of my doggerel?
For your terrible flight I baptize you -
young eagle, it's time to take wing!
You endured the sun without blinking,
but my gaze - that's a different thing!
None ever watched your departure
more tenderly than this
or more finally. Across hundreds
of summers, I send you my kiss.
MARINA TSVETAEVA
(1916)
Peter Oram
Gửi Osip Mandelstam
Chẳng có
gì bị lấy đi
Đôi
ta mỗi người mỗi ngả - Em sướng điên lên
vì chuyện này!
Qua ngàn
dâu xanh biếc một màu, em gửi tới chàng
1 nụ hôn
Tài
năng thiên bẩm của đôi ta, thì không
đồng đều
Lần đầu tiên,
tiếng nói của ta câm nín
Hỡi anh yêu,
tên tuổi trẻ Derzhavin của ta ơi
Mi đã
làm gì với những vần thơ tồi tệ của
ta?
Dành
cho chuyến đi khủng khiếp của mi
Tới đây,
ta rửa tội cho –
Con chim
ưng trẻ, tới giờ cất cánh
Hãy
nhìn thẳng vào mặt trời, chịu đựng chuyến
bay, không thèm nháy mắt
Nhưng cái
nhìn ban phước lành của ta cho mi,
thì lại là chuyện khác
Chẳng đứa
khốn nào theo dõi mi lên đường
Dịu dàng
như thế này
Sau chót
như thế này
Qua ngàn
ngàn mặt trời, ánh nắng, mùa
hè
Ta gửi cho
mi nụ hôn của ta
STATUE IN TSARSKOYE SELO
N.V.N
Already the leaves of the maple
Are falling on the swanpool,
And on the bloodstained bushes
Of the late-ripening rowan.
And, dazzlingly slender,
Her crossed legs never cold,
Sitting on the northern stone,
She gazes away along the roads.
I felt confused and fearful
Before this girl whom Pushkin sang,
Beams of the fading light
Playing on her shoulders.
For how can I forgive her
The pleasure of enamoured praise
...
See - so elegantly naked,
She's happy being sad.
Books
September 18, 2017 Issue The Ascetic
Insight of W. S. Merwin
After escaping the anxiety of influence,
the poet discovered a brilliant, elemental poetry.
By Dan Chiasson
W. S. MERWIN
1927-
The following poem inspires us to reflect on
what seldom crosses our minds. After all (literally
after all), such an anniversary awaits every one of us.
Bài thơ sau đây gợi
hứng cho chúng ta, về cái điều hiếm chạy
qua đầu chúng ta. Nói cho cùng, "kỷ niệm
cái chết của tôi" đâu bỏ quên, bất
cứ ai?
Every year without knowing it
I have passed the day
When the last fires will wave
to me
And the silence will set out
Tireless traveler
Like the beam of a lightless star
Then I will no longer
Find myself in life as in a strange
garment
Surprised at the earth
And the love of one woman
And the shamelessness of men
As today writing after three days
of rain
Hearing the wren sing and the
falling cease
And bowing not knowing to what
Parting
Three hundred nights like three
hundred walls
must rise between my love and
me
and the sea will be a black art
between us.
Nothing will be left but memories.
o afternoons earned with suffering,
nights hoping for the sight of
you,
fields along my way, firmament
that I am seeing and losing ...
Final as marble
your absence will sadden other
afternoons.
-W.S.M.
J.L. Borges: Selected
Poems, Penguin Edition
Lên
đường
Ba trăm đêm như ba
trăm bức tường
Phải dựng lên giữa tình
anh và anh
Và biển sẽ là nghệ
thuật đen giữa đôi ta
Chằng còn lại gì
nếu có chăng thì là kỷ niệm
Ôi những buổi chiều có
được bằng khổ đau
Những đêm hoài vọng
dáng em
Những cánh đồng trải dài
con đường anh đi,
Bầu trời anh nhìn và
mất dần...
Cuối cùng như cẩm thạch
Sự thiếu vắng em sẽ làm
buồn những buổi chiều khác
V/v “Bad Gấu”.
Milosz viết, trong "Thư nửa riêng
tư về thơ, a semi-private letter about poetry" (
in “To Begin Where I Am”): Đôi khi thế giới mất
mẹ nó bộ mặt của nó. Phải có 1 tên
cực kỳ khốn nạn, như “bad Gấu”….(Sometimes the world loses
its face. It becomes too base. The task of the poet is to restore
its face, because otherwise, man is lost in doubt and despair.
It is an indication that the world need not always like this,
it can be different. (2)
Ui chao, nếu đúng như thế, thì
1 tên "bad Gấu", cần hơn 1 tên "Gấu nhân
hậu và cảm động", rất nhiều!
Hà, hà!
(2)
Đôi khi xứ Mít mất mẹ
nó bộ mặt của nó, và nhiệm vụ của thằng cha Gấu, "poet
GCC" - như 1 vị bằng hữu FB gọi - là tái
dựng lại bộ mặt của nó, nếu không, Mít
mất, trong hồ nghi và chán chường.
Đây là 1 dấu
chỉ, Mít không cần luôn luôn
như cũ, nó có thể khác đí.
Re: Nhân Hậu & Cảm
Động.
To: Seagull,
Gấu vừa đọc 1 cái viết thật
ngắn của Walser.
Và thật thèm
cái kỷ niệm của ông ta, và bèn
coi như của GCC.
Take Care
GNV
I am not here to write, but to be
mad
Gấu tới đời này không
phải để viết, nhưng mà là để khùng!
Và tất nhiên,
là để ngồi ở quán cà phê
Starbucks, bữa đó!
Và sau đó, để...
chết!
Hà, hà!
Is it perhaps my immaturity, my innocence
or, to put it in a more ordinary way, my foolishness
that has prompted me to ask myself whether I would like
to enter into relations with you. On account of my total lack
of life knowledge, I am called the Blue Page-Boy. And indeed
I have not yet ever experienced anything worth mentioning except
that now and then, i.e., relatively seldom, I glance into a little
mirror. To you who asks me whether I might perhaps at some time
or other, such as at nine in the morning, have kissed with my lips
a little spoon that a woman had used for the purpose of eating, I
reply with, as it were, self-possession, addressing you informally
[ ... ]
Đừng viết kịch, đừng viết “tỉu
thiết”, và cũng cóc cần “triện ngắn”.
Chỉ cần Gấu lèm bèm
về “thời của mình”, và “hiện tại chán
nản” là đủ tuyệt vời...
I know that I won't be able to
stop you if you want to post my words on TV. Please don't use my hand writing
letter. Please type and post.
Best regards,
Seagull
Trong đời Gấu, hơn 1 lần tự làm
thịt mình, và cũng hơn 1 lần bị “anh cu giời già” lắc
đầu.
Lần ăn hai trái mìn VC
ở nhà hàng nổi Mỹ Cảnh ở bờ sông Sài
Gòn, mà không khủng sao. Đi bốn thằng,
hai thằng chết, 1 thằng mất bộ đồ lòng. Gấu xơi cả hai
trái, đếch sao cả, tếu thế.
Làm BHD khóc quá
là khóc, không dám dụi mắt, sợ
mắt đỏ, mọi người trong nhà biết.
Cả nhà theo dõi, như em
kể lại!
Lần đó, giả như thoát chết,
nhưng mất "bộ đồ lòng", "không còn cây
súng nhỏ, giữa rừng sâu giết thù", như
ông trưởng đài VTD, thì cũng đâu
có khác gì... chết?
Ngay cả cái chuyện dính
Cô Ba, đòi phen, cố tình ngỏm, nào
overdose, nào chơi cái thứ chỉ cần sai 1 ly là
“đi” một dặm, chẳng làm sao "đi" được, quái thế.
Về già, đổ tội cho cái mẩu
“The Test” của Kafka.
Mi đã qua cái test của
Kafka, là mi kể như không thể nào chết
được, chỉ trừ khi mi làm xong cái "mission" ta
giao cho mi!
Nhưng, lần Seagull bỏ đi, và Gấu
bỗng thấy đời mình "quá hoang vu", bèn
cũng tính... bỏ đi thật xa, và, nhờ bà
xã của bạn Bạn, chỉ cho ông chồng, kìa coi
kìa, bạn anh tính làm trò khỉ gì
kìa, mà thoát, thú thực, Gấu không
làm sao giải thích được.
Chẳng có "dấu báo" con
mẹ gì hết, làm sao bà nhận ra?
Viết là Khiếp
Tôi trở nên khiếp đảm...
Đêm 23 tháng Chạp,
năm 1985, cùng lúc với ông Táo
chầu trời, trên một chiếc tầu vượt biển sắp sửa chìm
gần ngọn hải đăng ở cửa biển Vũng Tầu, có một ông
già bị cậu thanh niên đứng kế bên lầm là
người yêu của anh. Quá khiếp đảm trước cái
chết có thể xẩy tới bất cứ lúc nào, cậu thanh
niên điên cuồng vò đầu, vò tai người yêu,
tức ông già, lảm nhảm những lời hoảng loạn. Tuy đang
bận tâm vì một chuyện khác, ông già
vẫn nhận ra, nước biển mặn, lạnh buốt, còn nước mắt của cậu thanh
niên, mặn, nóng hổi, rát hằn một bên má.
Những cột nước như từ trên trời đổ mãi. Con thuyền
chúi sâu xuống khoảng không đen, sâu thẳm,
rồi bị đẩy bắn lên cao, chót ngọn sóng. Ông
già đang nhớ lại những lần chết trước đó.
Bẩy, tám tuổi, thấy bạn cùng
lớp nhào xuống ao, bơi lội ào ào, ông
nghĩ, ai cũng làm được. Và cứ thế lao xuống.
May có người đứng ngay kế bên, nhìn thấy thằng
bé sắp sửa chìm nghỉm, bèn nhảy vội xuống,
kéo lên.
Khi đã hoàn hồn, đứng
ngơ ngác trên bờ, cậu bé như cảm thấy,
cậu biết trước tai nạn. Như thể, cậu đã trải qua một
lần rồi, và lần này, chỉ là lập lại lần trước.
Nó đã từng xẩy ra, trong một giấc mơ, có thể.
Cậu có cảm tưởng, anh bạn lớn
tuổi đã "chờ", một sự kiện như vậy, sẽ xẩy ra, và
anh ta sẽ can thiệp, đúng lúc.
Rõ rệt nhất là lần chơi
bắn bi một mình. Nhà có một chiếc hòm
[cái rương] lớn, chiếm cả một góc gian nhà
chính, trên là bàn thờ ông
bà, trong đựng lúa, đặt trên hai tấm mễ gỗ, hay
ngựa gỗ, thấp. Người dân miền Bắc, từ xa xưa vẫn bị ám
ảnh bởi những cơn lũ lụt, và những năm hạn hán, lúc
nào cũng lo mất mùa, nên nhà nào
cũng lo trữ lúa.
Hòn bi lăn tít vào
gầm hòm. Cậu bò vào. Loay hoay cọ
quậy, cả hai tấm ngựa gỗ, quá mục, cùng sập
xuống.
Như sống lại giấc mơ, cậu xoài
người ra. Chiếc hòm đè cậu bẹp dí,
may nhờ hai chiếc mễ chia giùm sức nặng. Lần đó,
ba hồn bẩy vía đi luôn, mấy người lớn bắt ăn mấy
vắt cơm để thu hồi lại.
Lớn lên, cậu mất dần khả năng
kỳ cục, và mơ hồ cảm nhận - không tính
lần suýt bị bẹp dí - có một điều gì
liên can đến "nước", trong những lần như vậy.
Như thể gia đình ông bị
trù yểm, bởi nước.
*
Ông già của ông
già bị đảng phái thủ tiêu, bằng cách
cột đá vào người bỏ xuống sông.
Đứa em trai, tử trận tại một khúc
sông, do một viên đạn từ bên kia bờ bắn
xuống nước dội lên.
Bản thân ông đã từng
bị thương nặng tại bờ sông Sài-gòn.
Lần đó, đúng ra là
đi luôn, nếu không có kẻ thế mạng: một
chuyên viên Phi Luật Tân mới chân
ướt chân ráo tới Sài-gòn.
*
Nhưng được bỏ qua, không
có nghĩa là được tha thứ. Ông già
thấy nhẫn nhục, cam chịu.
Đó là một chuyến đi được
tổ chức rất chu đáo. Và có lúc
ông già nghĩ rằng sẽ thành công...
*
"Tôi trở nên khiếp đảm bởi nghệ thuật".
D. M. Dylan Thomas mở đầu “Hồi
tưởng & Hoang tưởng”.
Với ông, khả năng thấu
thị, nhìn thấy cái chết, trước khi nó
xẩy ra, ở một cậu bé, chính là "phép
lạ" của nghệ thuật, (ở chúng ta). Và ông
trở nên khiếp đảm, bởi nó. "Nghệ thuật là
những ngã ba ngã tư tàn khốc, mang tính
Oedipe. Nơi mộng mị, tình yêu, và cái
chết gặp gỡ. Zhivago của Pasternak chiêm nghiệm một điều,
rằng nghệ thuật luôn luôn là suy tư về cái
chết, từ đó sáng tạo ra sự sống.
Điều ngược lại cũng hoàn toàn
đúng. Cách đây vài năm, tôi
[D.M. THomas] đi thăm Lydia, người chị/em gái, của Pasternak.
Một căn nhà từ hồi Victoria, ọp ẹp, tối thui. Chủ nhà,
một người bà già nhỏ nhắn, rệu rạo, lưng còng,
mang đôi giầy cụt lủn, lủng lẳng bị chìa khoá...
Bà dẫn vào nhà bếp, mời dùng cà
phê. Một cái hũ cà phê, loại uống liền,
hai cái ly trắng, mẻ. Câu chuyện nhạt thếch. Tôi
không làm sao liên hệ bà với Boris, người
sáng tạo ra Zhivago, và Lara. Sau cùng, bà
hỏi tôi có muốn đi xem mấy bức họa của ông thân
sinh. Một cách biết ơn, tôi nói vâng. Tôi
đi theo đôi giầy cụt ngủn, bị chìa khoá lên
lầu. Bà mở cửa căn phòng.
Một luồng mầu sắc và ánh
sáng làm tôi chới với, nghẹt thở. Đúng
là một phòng tranh tuyệt vời. Tôi nhận
ra ngay Tolstoy, ở nơi Boris trẻ. Sàn ngổn ngang những
khung, giá vẽ.
"Tôi đang sửa soạn một cuộc triển
lãm", bà giải thích.
Như một bóng ma, tôi đi
theo, suốt căn phòng rộng, uống từng hớp thiên
tài Leonid Pasternak. Có đến vài phút
đồng hồ, tôi đứng ngẩn trước một bức họa. Chân dung
một người đàn bà đẹp, dáng mơ mộng, đang chải
tóc.
Tôi yêu liền ngay
nàng.
"Nàng là ai vậy ?"
Bà già còng nhún
vai:
"Ôi dào, tôi đó
mà".
Chẳng thèm để ý đến nỗi
mất mát lớn lao, là tuổi trẻ, và nhan
sắc, bà quay đi.
Chẳng có gì đáng
kể, ngoại trừ thiên tài bất tử của người cha.
Tôi có cảm giác những bức họa đã
hút sạch bao nhiêu ánh sáng, bao nhiêu
đời sống từ căn nhà của cô con gái.
"Tôi nghĩ chắc là bà
đã có bảo hiểm những bức họa?" "Không,
nếu bị đánh cắp, cái gì có thể
thay thế?"
Trở lại bếp, bà cho tôi
coi những bức hình gia đình, hầu hết là
của Boris và con cháu của ông.
Một trong những đứa cháu trai,
Lyovya, đã chết trong những tình huống thật
là kỳ bí, đáng sợ; bà bảo tôi.
Chưa tới 30, đang khoẻ mạnh, nó lăn quay ra chết, vì
đứng tim, ngay trên đường phố Moscow, đúng chỗ Zhivago
bị bịnh tim quật ngã..."
Thomas không thể không nghĩ
đến một điều, cái chết của nhân vật giả tưởng,
Zhivago, đã "ứng" vào người cháu trai.
Thiên tài Pasternak đã
biến đứa cháu thành một cái bóng,
y hệt như cô con gái Lydia đã trở thành
cái bóng của nghệ thuật, của ông thân
sinh.
Liền đó, ông kể lại một
kinh nghiệm của riêng ông, trong một lần đi trị
bịnh. Bà bác sĩ tâm thần làm ông
nhớ đến mẹ, và một lần không vâng lời bà.
(Ở đây có một cái
gì liên can đến mặc cảm Oedipe).
"Thay vì đi nhà thờ, cậu
đã tới một sex shop".
"Đúng như vậy". "
Rồi trí tưởng của tôi đầy
rẫy những hình ảnh chết chóc, của mẹ tôi,
của bạn bè...
Bữa sau, bà bác sĩ gọi
điện thoại:
"Tôi không thể gặp anh bữa
nay. Tôi phải đi đám ma.
"Oh, I am sorry, tôi mong không
phải là một người thân của bà.
"Thảm thay, đúng như vậy, ông
già của tôi."
Và Thomas kết luận, đâu
có gì là đáng ngạc nhiên,
nếu tôi trở nên khiếp đảm vì nghệ thuật
? "Không phải cuốn sách của tôi là
một tên sát nhân, nhưng đâu đó,
từ những trang sách vang lên, tiếng cười sảng khoái,
của quỷ...".
Chỉ là lộng giả thành
chân. Bóng ma giả tưởng Zhivago kiếm người
thế mạng để đi đầu thai.
Đó cũng là cảm giác
ghê rợn, khủng khiếp khi ông già gặp lại
cô bạn ở xứ lạnh. Như thể cuộc chiến lập lại, khi giả tưởng
"xuất hiện".
Chuyến đi "liên can" tới
lễ kỷ niệm 10 năm đại thắng Mùa Xuân, của
những người CS. Người bạn đi cùng ông già
mang theo những danh sách, những bản tin, những tài
liệu về miền Nam sau mười năm, phóng sự về những sĩ quan
đi học tập, tình cảnh vợ con ở nhà, và ...
MIA.
Ông già quen anh bạn, những
ngày cả hai cùng làm việc cho một hãng
tin nước ngoài. Anh là nhiếp ảnh viên. Gốc
"chệt", người nhỏ thó, tóc xoắn tít, có
lần, trong lúc hơi ngà ngà, anh tỏ ra tự hào
về mấy quí tướng của mình.
Ng. quả thực rất khôn ngoan. Nếu
có gì đó, làm anh thất vọng về
chính mình, có lẽ là, anh đã
không theo đuổi nghề "phóng viên chiến tranh"
cho tới cùng. Anh giải thích, làm cho hãng
tin Mỹ một thời gian, anh chuyển qua một hãng tin Nhật. Ông
già không gặp anh từ dạo đó. Rồi bỏ nghề, về
nhà đuổi gà cho vợ.
"Mày có nhớ được bao nhiêu
thằng tụi mình quen, đã tử mạng ? Ở chiến trường,
cái máy chụp hình trông xa giống
như khẩu súng. Còn chữ Press ở trên ngực,
gặp VC tụi nó cũng chẳng tha. Sau Mậu Thân, bà
vợ tao hoảng quá, không cho tao làm phó
nháy nữa".
Cũng có thể còn một lý
do. Tuy nhỏ con, nhưng anh có một sức hấp dẫn đặc
biệt, với phụ nữ.
Anh vẫn mơ tưởng, ngoài người
vợ anh đã ly dị, có với nhau một đứa con trai;
ngoài bà vợ sau anh đang chung sống, có
được một đứa bé gái - vì mê bả, anh
giải thích, anh đã không bỏ đi, những ngày
tháng Tư năm đó - còn một việc gì,
chiến cuộc dành riêng cho anh, những kẻ bỏ cuộc hơi
sớm. Như thể nó cho anh "hoãn dịch", để thực hiện
sứ mạng này.
"Tôi để dành tôi
cho tương lai", Phan Văn Hùm, (hay Tạ Thu Thâu
?), đã nói vậy, khi từ chối làm việc
với những người CS. Một người quen của ông già
cũng đã nói một câu tương tự, khi từ chối
lệnh nhập ngũ.
Anh bạn phóng viên mơ tưởng
"làm một việc, để trả ơn nhân dân Mỹ,"
khi đem đến cho họ tin tức, về những "con mực", mật ngữ của anh.
Anh giấu kín những "tài liệu vô giá"
đó, chỉ thêm vào, một bức thư, bằng tiếng Anh,
do ông già viết. Một thứ "bạch thư", đại khái
vậy. Thì cũng nhờ mớ tiếng Anh còn sót lại, ông
già đã được "tổ chức", qua anh bạn phóng viên,
chấp nhận.
Sau này, bữa theo vị
linh mục người Pháp, tới văn phòng ODP, tại Bangkok, nằm trong
building khổng lồ City Bank, ông thấy lại tất cả những đơn từ, thư
viết tay, hình ảnh, hôn thú, giấy khai sinh..., tất cả
những gì ông gửi từ Việt Nam, những ngày cực khổ, việc
gửi thư là một xa xỉ... Không thấy bức "bạch thư". Như vậy,
ông già nghĩ thầm, nó thuộc về một hồ sơ khác,
nằm ở Bộ Quốc Phòng, như Steel, nhân viên tại Toà
Lãnh Sự Mỹ, tại Vientiane, nói. "Steel, như cái này
này," anh giơ chân đập vào tủ sắt kế bên. Trong
bữa gặp gỡ, anh có nhắc tới Alan Dawson, một ký giả Mỹ làm
cho UPI. "Ông ta là bạn tôi, hiện đang làm việc
tại Bangkok. Các anh có thể tới đó gặp ông ta.
Nhưng tôi không thể giúp đỡ gì, trong việc này.
Tôi sẽ chuyển bức thư đi, vậy thôi." Trước khi nói chuyện
anh đã cẩn thận đóng cửa văn phòng, không cho
nhân viên người Lào tại sứ quán biết, về cuộc gặp
mặt giữa những điệp viên CIA, hoặc MIA, "dởm". Sau khi đọc qua hồ sơ
ODP, nhìn hình hai người lớn, và mấy đứa nhỏ, vị linh
mục người Pháp nói, "Bây giờ ta có thể giúp
con được rồi. Ta sẽ đưa con tới sở cảnh sát Bangkok. Họ sẽ bỏ tù
vợ chồng con mấy tháng. Sau đó, Cao Uỷ sẽ đưa các con
tới trại tị nạn."
Cũng lại một chuyến vượt biên,
nhưng bằng đường bộ. Ông già vốn không
tin con đường Đức Thánh Trần chỉ bảo. Gia đình
ông, bị thần nước trù yểm, kể từ thời Sơn Tinh,
Thuỷ Tinh, cũng nên. Quê ông vốn vùng
núi Tản, sông Hồng.
Trên ghe, đa số là
người theo đạo. Khi đã tuyệt vọng, họ hy vọng vào
Chúa. Tiếng cầu kinh nổi lên, lúc đầu
còn rời rạc, nhưng dần dần át tiếng mưa bão.
Phép lạ, phép lạ, ông già loáng
thoáng nghe có người suýt soa. Vài
phút trước đó, ông đã được anh thợ
máy, sau khi thất bại không thể làm cho máy
chạy, từ dưới hầm tầu bò lên, nhìn trời, ngó
đồng hồ... Sau đó, anh giải thích, bão ven biển
vốn vậy. Tới gần sáng là ngưng. Vả lại ghe chưa ra
xa bờ. Nếu sửa cho máy nổ, chắc là tiêu rồi, anh
vừa nhìn vào bờ vừa thẫn thờ nói. Trên
bờ loáng thoáng những ruộng muối...
Anh bạn đi cùng đã
thả xuống biển những chứng tích cuối cùng,
của chuyến đi...
NQT
7
THE SENTENCE
Then fell the word of stone on
My still existing, still heaving breast.
Never mind, I was not unprepared, and
Shall manage to adjust to it somehow.
Thank God, I've many things todo today
- I
Need to kill and kill again
My memory, turn my heart to stone, as
Well as practise skills gone rusty, such
As to live, for instance ... Then there's
always
Summer, calling out my Black Sea dress!
Yes, long ago I knew this day:
This radiant day, and this empty house.
11 juin [1960]. De l'hôpital
Botkine, Anna Akhmatova écrit à la mémoire
de Pasternak:
Oedipe aveuglé guidé
par sa fille,
La muse l'a conduit jusqu'à
sa mort.
Un tilleul fou, auprès
de ma fenêtre
A fleuri seul en ce mai de douleur,
Juste à l'endroit où
il m’avait confié
Qu'il voyait serpenter devant
ses yeux
Un sentier d'or aux ailes déployées
Où le gardait la volonté
des cieux
Traduction Michel Aucouturier,
Revue des Belles-Lettres,
mars 1996.
Source: Pasternak,
éd Quarto Gallimard [NQT]
TO THE MEMORY OF A POET
Like a bird, echo will answer
me.
B.P. (Boris Pasternak)
1.
That singular voice has stopped:
silence is complete,
And the one who spoke with forests
has left us behind.
He turned himself into a life-giving
stalk of wheat
Or the fine rain his songs can
call to mind.
And all the flowers that hold
this world in debt
Have come into bloom, come forward
to meet this
death.
But everything stood still on
the planet
Which bears the unassuming name
... the Earth.
2.
Like the daughter of Oedipus
the blind,
Toward death the Muse was leading
the seer.
And one linden tree, out of its
mind,
Was blooming that mournful May,
near
The window where he told me one
time
That before him rose a golden
hill,
With a winged road that he would
climb,
Protected by the highest will.
1960
Boris Pasternak: 1890-1960, renowned
Russian poet and novelist.
Source: Anna Akhmatova, Poems, selected and
translated by Lyn Coffin [NQT]
Oedipe mù, được cô
con gái dẫn dắt
Nữ thần thi ca đưa anh tới cái
chết của mình
Một bông hoa đoan, khùng,
độc nhất,
Nở, vào đúng Tháng
Năm đau buồn đó
Ở gần cửa sổ
Nơi ông đã có
lần tâm sự cùng tôi
Ông nhìn thấy dựng
lên một cảnh đồi vàng
Cùng con đường dốc có
cánh
Và ông trèo
lên
Được bảo vệ bởi Thánh
Ý.
Life is for others, not for you,
Cold in the snow you lie,
Bayonets made twenty-eight wounds,
Bullets-another five.
A garment of new grief I made,
I sewed it for my love.
Oh Russian earth, it loves the
taste,
It loves the taste of blood.
Akhmatova
Đời dành cho kẻ khác,
đâu phải cho anh Tuyết lạnh anh nằm Lưỡi lê anh lãnh:
hai mươi tám mũi Cộng thêm năm vết
đạn Tấm áo, nỗi đau
mới, Tôi may nó
cho tình tôi. Ôi đất Nga ơi, mi
yêu mùi vị, Của máu
It was not, however, as a research
editor or a memoirist but as a poet that Akhmatova gave
her most immediate, personal response to the deaths of Gumilyov
and Blok and the destruction of the world of her youth. After
the virtual silence of 1920, Akhmatova wrote some thirty-four
poems in 1921, eleven of which are specifically dated August
1921. These poems are filled with images of bitter and irreversible
separation, violence, and death. They reflect not only Akhmatova's
personal agony, but the agony of her country. Thus in one lyric
of eight simple and devastating lines she uses traditional folk diction
and imagery to evoke the lament of a Russian peasant Everywoman.
The Word That Causes Death’s Defeat: Poems of
Memory
Nancy K. Anderson dịch, giới
thiệu, chú giải…
Chẳng phải biên
tập viên nghiên cứu, hay tưởng niệm, hồi
ức gia, nhưng, như nhà thơ, Akhmatova đã đưa
ra một ứng đáp nóng hổi nhất, riêng tư nhất,
trước những cái chết của Gumilyov và Blok và sự huỷ diệt thế
giới tuổi trẻ của bà. Sau sự im lặng giả đò,
ảo, của năm 1920, liền năm sau, 1921, bà cho ra lò
34 bài thơ, 11 bài trong đó cho biết rõ
thời điểm sáng tác: Tháng Tám
1921; chất chứa trong chúng là những hình
ảnh cay đắng, chia ly bất phản hồi, hung bạo, và cái
chết. Chúng phản ảnh không chỉ cơn hấp hối của cá
nhân nhà thơ, mà còn của xứ sở của bà.
Đọc Bi Khúc của Liu Xiaobo, GCC nhớ
tới Akhamatova, nhớ tới “Cái Từ Đuổi Thần Chết
Chạy Có Cờ”.
Anna Akhmatova qua nét
vẽ David Levine, NYRB
Được chụp hình, được họa
nhiều nhất, trong các thi sĩ.
Nhìn nghiêng, chỉ
cần nhìn cái mũi, là nhận ngay ra Bà.
Ở vào một vài
giai đoạn của lịch sử, chỉ có thơ mới có thể chơi ngang ngửa
với thực tại, bằng cách nhét chặt nó vào một
cái gì mà nhân loại có thể nâng niu,
hoặc giấu diếm, ở trong lòng bàn tay, một khi cái đầu
chịu thua không thể nắm bắt được."
"Theo nghĩa đó, cả thế
giới nâng niu bút hiệu Anna Akhmatova."
Joseph Brodsky
"Tôi
mang cái chết đến cho những người thân của
tôi
Hết người này tới người
kia gục xuống.
Ôi đau đớn làm sao!
Những nấm mồ
Đã được tôi báo
trước bằng lời."
"I brought on death to my dear
ones
And they died one after another.
O my grief! Those graves
Were foretold by my word." (1)
Pasternak's poems are like the
flash of a strobe light-for an instant they reveal a
corner of the universe not visible to the naked eye. I fell
in love with these poems as a child. They were magical, fragments
of the natural world captured in words that I did not always
understand. Pasternak was my father's favorite poet. In the evenings
he often recited his poems aloud, as did Marina Tsvetayeva, a friend
of the family who often came to our house in those years before the
war.
Long afterwards, George Plimpton
and Harold Humes brought the live Pasternak into my
life. A year or so after the resounding success of
Doctor Zhivago, when the
dust had begun to settle on the scandal of his being forced
to give up the Nobel Prize, they sent me on a mission to Moscow
to interview the poet for The Paris
Review.
I'll never forget that sunny
day at Peredelkino in the winter of 1959-1960, a few months
before Pasternak died. The sparkling snow, the fir trees, the
half torn note pinned to the door on the veranda at the side of
the house: "I am working now. I cannot receive anybody. Please
go away." On an impulse, thinking of the small gifts I was bringing
the poet from admirers in the West, I did knock. The door opened.
Pasternak stood there, wearing
an astrakhan hat. When I introduced myself he welcomed
me cordially as my father's daughter- they had met in Berlin
in the twenties. Pasternak's intonations were those of his poems.
In an instant the warm, slightly nasal singsong voice assured
me that my parents' country still existed and that it had a future
as real as that sunny day. Today, no matter how harsh life in Russia
is, that flash of feeling is proven true. Russia has survived,
and the natural world around us which Pasternak celebrated is as wondrous
as ever.
- Olga CarlisleThơ của Pasternak thì
như “strobe light” – nhoáng 1 phát,
nó vén lên một góc vũ trụ, mắt
thường, mắt trần không nhìn thấy. Tôi tương
tư những bài thơ, ngay từ khi còn là
1 đứa trẻ. Chúng mới thần kỳ, ma mị làm sao, những
mảnh vụn của thế giới tự nhiên, bình thường được
tóm bắt vào những từ mà tôi luôn
không hiểu.
Pasternak là nhà
thơ “favorite” của ông già tôi. Vào
những buổi chiều tối, ông thường lớn giọng đọc cho
tôi nghe những bài thơ của Pasternak, hay của Marina
Tsvetayeva, một nguời bạn trong gia đình, thường tới nhà
tôi những năm trước chiến tranh.
Mãi, mãi, sau đó,
George Plimpton and Harold Humes mang một Pạt sống vào
trong cuộc đời của tôi. Một năm, hay cỡ đó, sau
cái không khí sang sảng kêu như chuông,
của Dr. Zhivago, khi bụi đã
bốc lên xóa mờ xì căng đan - bị bắt buộc không
được nhận giải - họ, hai đấng trên, trao cho tôi mission,
tới Moscow, gặp nhà thơ, làm 1 cú phỏng vấn
cho tờ The Paris Review. Tôi không
bao giờ quên được ngày nắng đó, ở Peredelkino,
vào mùa đông 1959-1960, chỉ vài
tháng trước khi Pasternak mất. Tuyết long lanh, những
cây linh sam, một nửa mẩu giấy găm trên cánh
cửa hành lang bên phiá căn nhà: “Lúc
này tôi đang bận việc. Tôi không tiếp
ai. Làm ơn khi khác.” Nghĩ đến những gói quà
nhỏ tôi mang tới cho nhà thơ từ những người mến mộ
ông, từ Tây Phương, bất giác tôi giơ tay
gõ cửa. Cửa mở.
Pasternak đứng đó, đội
1 cái mũ astrakhan. Khi tôi tự giới thiệu, ông
niềm nở đón tiếp, như là cô con gái
của ba tôi - cả hai đã từng gặp nhau ở Berlin,
vào thập niên 1920. Giọng nói của ông
như giọng thơ của ông. Trong một thoáng, cái
giọng nói ấm áp, có tí giọng mũi, nghe
như hát, bảo đảm cho tôi một điều, là xứ sở
của cha mẹ tôi vẫn hiện hữu, và nó đã
có 1 tương lai, thực, như ngày nắng này. Bây
giờ, dù cuộc sống ở Nga cực nhọc cỡ nào, cái
thoáng chốc của cảm giác đó, được chứng thực.
Nga xô đã sống sót, và cái thế giới
thiên nhiên chung quanh chúng tôi mà
Pasternak ăn mừng, thì thần kỳ, tuyệt cú mèo,
như vẫn là, như mãi mãi vưỡn là.
Có hay không một quán cà phê
có mặt bàn sơn màu đo đỏ
Nằm kề bên tiệm sách
anh quen ?
Trời chưa qua mùa
đông nên đường chưa trắng tuyết mềm
Anh sẽ ngồi xuống, hớp một
ngụm cà phê
Và đọc vài
trang trong chồng sách mới
Trong Chứng tích thơ, chương Bài học Sinh học, Milosz viết:
Người ta đã viết nhiều
về thi sĩ, như là 1 con người ‘ngơ
ngác tựa gà trống, e đến trăm
năm vưỡn trẻ thơ’, một con người khác những người
khác: tuổi thơ của nó không chấm dứt,
nó gìn giữ được một điều gì đó
ở trong nó, của 1 đứa bé, suốt cuộc đời của nó.
Ðiều này đúng trên diện rộng, ít
nhất theo nghĩa này: cảm nhận ấu thơ của thi sĩ có
một độ dài thật dài, và những bài
thơ đầu của thi sĩ, "một nửa là đứa bé", đã
có những dấu ấn chỉ ra những bài thơ tiếp
theo.
Ý niệm nhị phân,
1 bên là linh hồn, một bên
là xác thân ở với chúng
ta thật lâu, qua ẩn dụ con tằm hóa kiếp
thành con bướm: một cái xác, con
tằm bị bỏ lại, cho linh hồn tự nó giải thoát,
qua hình ảnh 1 con bướm bay lên. Bài thơ
“hải sâm” của Szymborska không thuộc trường nhị
phân trên. Một lỗ nẻ nẻ ra trong xác
thịt của hải sâm, một sự phân chia thành hai
cái ngã, a division into two coporal “selves”, xẩy
ra. Bắt đầu với thời phục hưng, một thứ nhị phân khác
được thêm vào với nhị phân linh hồn/xác
thân, như Steiner chỉ ra, đó là danh vọng/lãng
quên, fame/oblivion, qua cụm từ ars longa, vita brevis, tên
của 1 con người thì còn mãi với hậu
thế, không phải mọi thứ đều chết, non omnis moriar.
Tôi chọn cái tít The Witness
of Poetry [The Charles Eliot Norton Lectures 1981-82],
không phải chúng ta chứng nó, mà
nó chứng chúng ta, not because we witness it,
but because it witness us. Milosz viết. Theo ông, Tây
Phương có quá nhiều sách về thơ,
thay vì thơ, và đây không phải 1
dấu hiệu tốt. Cả đời ông, ông bị quỉ ám,
và cái việc tại làm sao thơ chọn ông,
ông không hiểu được– all my life I have been in
the power of a daimonion, and how the poems dictated by him
came into being I do not quite understand – Mít kêu
là được thần thơ nhập, chắc cũng rứa!
Ông cũng cho biết,
rất sớm sủa ông đã cảm nhận ra sự đe
dọa từ phiá Đông – I certainly felt a sense
of menace from the East very early, nhưng không phải
là từ Ky tô giáo phía Đông,
lẽ tất nhiên, nhưng từ cái nổi lên
như là hệ quả của sự thất bại của nó, and not
from Eastern Christianity, of course, but from what has arisen
as a result of its defeat.
Chương Điêu
Tàn và Thơ, Ruins and Poetry, rất tuyệt,
và rất có ích cho Mít chúng
ta, nếu đọc nó theo kiểu THNM, thì có
thể giải thích Cái Ác Bắc Kít,
và nó gây họa vào thời điểm nào
ở xứ Mít.
Sở dĩ Milosz nhấn mạnh
ý nghĩa của cái tít cuả cuốn
sách viết về thơ của ông, "nó chứng tao,
không phải tao chứng nó", có thể, trong
"tiềm thức" của ông, đã ngửi ra mùi thúi
của cuốn 40 năm thơ Mít lưu vong rồi!
Chứng cớ? Edward Hirsch,
trong bài viết về thơ Ba Lan, giải thích:
Polish poetry has often
been called a poetry of witnessing, but that notion
needs some refining and expanding. Polish poets themselves
have often shown an ambivalence about being so-called "witnesses"
to history. Milosz called his Charles Eliot
Norton Lectures at Harvard The Witness of Poetry, but he also
wrote a letter to the New York Review of Books objecting to a praiseworthy
review by A. Alvarez that called him a "witness." In Milosz's view,
the label narrowed the meanings of his poetry and implied that
his poems were a kind of journalistic response to events. Milosz's
ambivalence points out that Polish poets are in some sense metaphysical
poets forced to become historical ones. While they could not help
being aware of the history inflicted upon them, they nevertheless .have
remained most keenly interested in exploring the nature of reality
at even deeper levels, meditating on life's essences.
Poetry
and History: Polish
Poetry after the End of the
World
In 1973, when I was twenty-three
years old, I decided to stop
in Warsaw during a year I was traveling
in Europe. From that trip I remember one chilly
gray dusk in particular when I walked through
the neighborhood that had once been the
Warsaw Ghetto. People were bustling home
from work, but their activity only seemed to
accentuate the eerie and even ghostly absence of
all those missing persons, an annihilated people.
One didn't need to travel to Auschwitz to feel guilty
absence and palpable vacancy. That night I reread Czeslaw
Milosz's poems "A Poor Christian Looks at the Ghetto,"
"A Song on the End of the World," and "Dedication."
This last poem was addressed to "You whom I could not
save," and dated Warsaw, 1945. Its key stanza has thereafter
set a standard of moral seriousness in poetry:
What is poetry which does not
save
Nations or people?
A connivance with official
lies,
A song of drunkards whose
throats will be cut in a moment,
Readings for sophomore girls.
That I wanted good poetry without
knowing it,
That I discovered, late, its
salutary aim,
In this and only this I find
salvation.
Milosz's early poems are all
haunted by survivor's guilt, the
poignancy of living after what was, for
so many, the world's end. Poetry here becomes
an offering to the dead, a form of expiation,
a hope for redemption.
Reading
the work of Zbigniew Herbert, Tadeusz
Rózewicz, and Wislawa
Szymborska-the half-generation after Milosz-I
soon discovered that all of postwar
Polish poetry was similarly haunted by
guilt, initiated in the apocalyptic fires
of history. These writers shared an important
collective experience, and the formative
nature of that experience helped shape the
spirit of their work. Born in the early 1920s, they
grew up during one of the few periods of independence
in Polish history, but they came of age during
the terrible years of World War II. Poland lost six
million people during the war, nearly one-fifth of
its population, and the young writers felt the almost
crushing burden of speaking for those who did not
survive the German occupation. "I am twenty-four / led
to slaughter / I survived," Rozewicz wrote in "The Survivor."
It was no boast. No wonder, then, that at the conclusion
of "Dedication"
Milosz asks for the dead to
free him:
They used to pour millet on
graves or poppy seeds
To feed the dead who would
come disguised as birds.
I put this book here for you,
who once lived
So that you should visit us
no more.
Edward Hirsch:
How to Read a Poem
and Fall in Love with Poetry
Năm 1973, 23 tuổi, tôi
quyết định ngừng ở Warsaw 1 năm, trong
chuyến đi Âu Châu.
Kỷ niệm xám xịt, nhất là
khi loanh quanh ở cái khu Ghetto.
Phố phường bận rộn, nhưng hình
như càng làm nặng thêm
sự vắng mặt u uẩn của những người đã mất.
Bạn chẳng cần phải tới Lò Thiêu làm
khỉ gì, chỉ ở đây thôi
mà đã cảm thấy cái sự trống
vắng tội lỗi, mân mê, sờ xoạng được!
Tối hôm đó, tôi
đi 1 đường đọc thơ Milosz. Ui
chao, những bài thơ đầu đời
thơ của ông, ám ảnh làm
sao, là cái mặc cảm sống
sót, cái nỗi thống khổ, “sống,
sau những cái đó”, cái
tận cùng thế giới đó.
Thơ như thế, là 1 dâng
tặng cho người chết, một hình
thức cứu chuộc.
Đọc Zbigniew Herbert,
Tadeusz Rózewicz, and Wislawa
Szymborska- nửa thế hệ sau Milosz – tôi
liền khám phá ra là,
tất cả thơ ca hậu chiến Ba Lan thì đúng
là bị ám ảnh bởi tội lỗi,
bật ra từ những ngọn lửa tận thế của lịch sử....
40 năm thơ lưu vong
Mít, đâu có thứ thơ như trên?
Không
tản mạn bên ly cà phê, thì
lặn lội về Kinh Bắc châm đóm cho nhà
thơ mê gái HC hút thuốc lào,
hoặc chầu chực vấn an đao phủ Mậu Thân....
Cái
mặc cảm sống sót, tại sao tên khốn
đó, lại chừa tôi ra, cái nỗi thống khổ,
“sống, sau những cái đó”, cái
tận cùng thế giới đó, cái thứ thơ như
là hình thức cứu chuộc, thơ Mít, trong
cũng như ngoài, đâu có?
Bài viết, đa phần dựa
vào cuốn của Ha Jin, "Nhà văn như
tên di dân", và đúng như
cái tít của nó, ông nhà
văn Tầu này thực sự cũng không tin vô, thứ
nhà văn lưu vong.
Ông ta cũng nói
về giống nhà văn Tẫu của mình y chang,
khi cho rằng, nhà văn Tẫu mà đếch có bạn,
đếch có ly cà phê kế bên, là
không sống được chứ đừng nói, là nhà
văn nhà thơ.
Nhận xét của ông
này áp dụng cho nhà văn Mít
quá đúng. Chính đám Mít
cũng không hề tin, trong số họ, có 1 tên
là nhà văn lưu vong. Ông nào
cũng bò về hết cả rồi, làm gì có
đơn, mà đòi kép!
Vô tình
Ha Jin, qua cái tít của mình,
nói lên điều mà tay thư ký Nobel
đã từng nói, khi đám Mẽo đòi Nobel,
làm gì có lưu vong, mà đòi
Nobel.
Với Mẽo, chỉ có
văn chương di dân mà thôi.
Cao Hành Kiện, với ông
này, quả có thứ văn chương lưu vong,
vì theo ông, đây là cốt tử
của văn chương:
Nếu gọi là văn
chương, thì phải là lưu vong.
Người ngửi ra số phận lưu vong
của chỉ 1 nhà văn nhà thơ Mít,
là ông anh nhà thơ của GCC, khi,
không hiểu bằng cách nào, ông
tưởng tượng 1 tên như vậy, và tên này,
đành bỏ lưu vong, trở về lại xứ Mít - mà
anh ta phịa ra là, vì người yêu và
đứa con trong bụng của mình kêu réo, anh
ơi, bố ơi, về đi, vợ con cần anh - nên anh bò về
- để chết lãng nhách như 1 tên VC!
Có 1 cái gì
đó, trong cái chết này, làm
nhớ đến cái bào thai chết của đứa trẻ
Mít, trong nhà văn Linda Lê.
Và bà
này, cũng tin rằng, nhà văn phải lưu
vong, và lưu vong, thì giống như cái
bào thai chết trong bụng ta!
Về lưu vong
Lưu vong là cứu rỗi.
Lưu vong là cứu rỗi của nhà văn. Mục đích không
phải là lưu vong. Mục đích là viết. Có rất nhiều
nhà văn bị ép buộc phải bỏ chạy để viết. Đôi khi sự đàn
áp không đến nỗi tới chỉ khiến họ phải bỏ đi, nhưng vẫn phải
bỏ đi. Thí dụ James Joyce. Nhưng Joyce và Beckett, cả hai chẳng
hề quay trở lại. Có một sự đàn áp về tâm lý
ở Ái nhĩ lan: Nhà thờ Ky tô khiến họ tự lưu vong. Không,
một nhà văn không thể đánh bại một xã hội. Nhưng
anh ta có thể tự cứu mình, đây là một trường hợp
từ cổ xưa cho mãi tới ngày này.
Sau khi Mao chết [1976], sau
Cách Mạng Văn Hóa, xã hội
TQ có một thời kỳ tương đối cởi mở, và
tôi có thể đi du lịch, nhìn tới nhìn
lui những sự vật, con người. Lingshan [Linh Sơn] là
về sự tìm kiếm một khởi điểm cho tâm thức,
kiếm điểm nhập tầng tâm linh. Nó hầu hết được
viết ở TQ và xuất bản ở Pháp, nhưng tôi
phải đợi sau khi Mao chết, vậy mà khi đó vẫn
không nghĩ có thể in nó ra. Tôi bắt đầu
viết nó vào năm 1982.
Under a starry sky I was taking a walk,
On a ridge overlooking
neon cities,
With my companion,
the spirit of desolation,
Who was running around
and sermonizing,
Saying that I was
not necessary, for if not I, then someone else
Would be walking
here, trying to understand his age.
Had I died long ago
nothing would have changed.
The same stars, cities,
and countries
Would have been seen
with other eyes.
The world and its
labors would go on as they do.
For Christ's sake, get away from me.
You've tormented
me enough, I said.
It's not up to me
to judge the calling of men.
And my merits, if
any, I won't know anyway.
Berkeley, 1975
Cám dỗ
Dưới bầu trời sao
ta làm 1 cú tản bộ
Tới một điểm cao nhìn
xuống ánh đèn thành phố
Với bạn đường, là
cái đầu tiều tụy chán chường của ta
Thằng chả chạy lòng
vòng, và lẩm bà lẩm bẩm, như
giảng đạo, hay thuyết giáo, hay lên lớp cái
con mẹ gì, thì cũng được!
Hắn phán, cứ
giả như mi, cần thiết, không có không
được
Nhưng, biết đâu
đấy, không có mi, thì có
thằng khác,
Cũng đang tản bộ,
ở đây, cố gắng hiểu thời của nó
Cứ kể như ta chết
từ cú Mỹ Cảnh, ở Trại Tù Đỗ Hoà,
thì cũng chẳng có gì thay đổi
Vẫn những ngôi
sao, thành phố, xứ sở
Được nhìn ngắm
bởi những con mắt khác
Thế giới vũ như cẩn,
con người cần lao vưỡn như trâu
Ôi Chúa
ơi, mi đi chỗ khác chơi, chừa ta ra!
Mi hành ta
quá đủ rồi!
Đâu phải ta
muốn ôm lấy khổ nạn, một mình ôm
gánh nặng Cái Ác Bắc Kít
Giả như, không
mi, thì ai, thì ta cũng đếch làm
sao hiểu được!
I am no more than a secretary
of the invisible thing
That is dictated
to me and a few others.
Secretaries, mutually
unknown, we walk the earth
Without much comprehension.
Beginning a phrase in the middle
Or ending it with
a comma. And how it all looks when completed
Is not up to us
to inquire, we won't read it anyway.
Berkeley, 1975
NHỮNG TÊN
THƯ KÝ
Tớ thì chỉ là
1 tên thư ký của điều vô hình
Nó đọc cho
tớ và vài người khác
Những tên
thư ký, chẳng quen biết nhau, chúng
tớ dạo bộ trên mặt đất
Cũng chẳng ưa gì
nhau mấy. Bắt đầu một câu, ở giữa,
Hay chấm dứt nó,
bằng 1 cái dấu phẩy.
Nó ra sao
nhỉ, nhìn toàn thể, khi hoàn
tất?
Chắc giống 1 trang,
hay 1 bài viết trên TV, hà hà!
Nhưng Gấu Cái
đâu cần biết làm khỉ gì
Cũng chẳng cần kiểm
tra
Bả đâu có
đọc!
ANUS MUNDI
The cloaca of the world. A certain
German wrote down that definition of Poland in
1942. I spent the war years there and afterward, for
years, I attempted to understand what it means to bear
such an experience inside oneself. As is well known, the philosopher
Adorno said that it would be an abomination to write lyric poetry
after Auschwitz, and the philosopher Emmanuel Levinas gave
the year 1941 as the date when God "abandoned" us. Whereas I wrote
idyllic verses, "The World" and a number of others, in the very
center of what was taking place in the anus mundi, and not by
any means out of ignorance. Do I deserve to be condemned for this?
Possibly, it would be just as good to write either a bill of accusation
or a defense. Horror is the law of the world of living creatures,
and civilization is concerned with masking that truth. Literature
and art refine and beautify, and if they were to depict reality naked,
just as everyone suspects it is (although we defend ourselves against
that knowledge), no one would be able to stand it. Western Europe
can be accused of the deceit of civilization. During the industrial
revolution it sacrificed human beings to the Baal of progress; then
it engaged in trench warfare. A long time ago, I read a manuscript by
one Mr. Ulrich, who fought at Verdun as a German infantry soldier. Those
people were captured like the prisoners in Auschwitz, but the waters
of oblivion have closed over their torment and death. The habits of civilization
have a certain enduring quality and the Germans in occupied Western Europe
were obviously embarrassed and concealed their aims, while in Poland
they acted completely openly.
It is entirely human
and understandable to be stunned by blatant criminality
and to cry out, "That's impossible!" and yet, it was possible.
But those who proclaim that God "abandoned us in 1941"
are acting like conservators of an anodyne civilization. And
what about the history of humankind, with its millennia of
mutual murder? To say nothing of natural catastrophes, or of
the plague, which depopulated Europe in the fourteenth century.
Nor of those aspects
of human life which do not need a grand public arena
to display their subservience to the laws of earth.
Life does not like
death. The body, as long as it is able to, sets in opposition
to death the heart's contractions and the warmth of circulating
blood. Gentle verses written in the midst of horror declare
themselves for life; they are the body's rebellion against
its destruction. They are carmina, or incantations
deployed in order that the horror should disappear for a
moment and harmony emerge-the harmony of civilization or, what
amounts to the same thing, of childish peace. They comfort us,
giving us to understand that what takes place in anus mundi is
transitory, and that harmony is enduring-which is not at all a certainty.
Anus Mundi:
Hậu môn của thế giới
Milosz cho biết chính
là ở hậu môn thế giới mà
ông làm thơ, và đừng có
nghĩ là ông không biết câu
phán của Adorno: As is well known, the philosopher
Adorno said that it would be an abomination to write lyric
poetry after Auschwitz, and the philosopher Emmanuel Levinas
gave the year 1941 as the date when God "abandoned" us. Whereas
I wrote idyllic verses, "The World" and a number of others,
in the very center of what was taking place in the anus mundi,
and not by any means out of ignorance.
*
Milosz biết, nhưng nhà
nghệ sĩ Võ Đình của Mít,
không.
Ông bỏ nước
ra đi nên chẳng hề biết chiến tranh Mít,
nhưng lạ là cũng chẳng biết Lò Thiêu,
hay Adorno là thằng chó nào.
Khi Gấu lỡ nhắc
đến thằng chó Adorno, trên tờ
Văn Học, khi còn
giữ mục Tạp Ghi, và câu phán ghê
gớm của ông, nhà nghệ sĩ bèn mắng,
thằng cha này đúng là "vung tay quá
trán".
Sau Lò Thiêu
vẫn có thơ, chứng cớ là "Đêm
Tận Thất Thanh" của Phan Nhật Nam đây nè!
Mà, đâu chỉ...
"Đêm Tận Thất Thanh"!
Có thể nói, tất
cả văn chương Mít, sau 30 Tháng
Tư 1975, VC hay không VC, tù VC hay không
tù VC, thì đều được viết ra, như thể
Lò Cải Tạo đếch xẩy ra.
Trong những bài tham luận về
40 năm thơ Mít lưu vong, những bài nhảm nhí, như
của Thầy Phúc, hay của nhà thơ kiêm nghề y sĩ và…
châm đóm, bài của Hoàng
Hưng, như được tóm gọn - “Vì vậy Thơ Việt
Hải ngoại hội đủ yếu tố là một “nền thơ tự nó
“ và không hề mang tính ngoại biên
so với một dòng thơ được coi là “chính
thống“, tồn tại song song với thơ Việt trong nước và cả
hai hợp thành một nền thơ Việt toàn cầu – theo GCC
cực nhảm, nếu bạn đọc Steiner, khi ông kết án tiếng
Đức của Nazi:
For let us keep one fact clearly in
mind: the German language was not innocent of the horrors of Nazism.
(Hãy minh bạch một điều:
ngôn ngữ Đức không thơ ngây vô
tội trước những điều ghê gớm, tởm lợm của chủ nghĩa
Nazi.)
George Steiner, Phép
Lạ Hổng (The Hollow Miracle)
Bài của HH có tính
chiêu hồi, nằm trong policy "khúc ruột
ngàn dặm", của "nhà nước ta".
Đây là cái
nhìn rất hạn hẹp, về ngôn ngữ, và
thơ.
Phải nói ngược lại thì
mới đúng, có 1 sự tha hóa trầm
trọng ở trong nước, về tiếng Mít, cùng với
sự thống trị của Vẹm.
GCC đã báo động điều này
- sự tha hóa của tiếng Mít - khi hải
ngoại mừng rỡ đọc Chuyện Kể Năm 2000, của Bùi Ngọc
Tấn.
Đại tác phẩm.
Nếu đúng như thế, thì
xứ Mít theo Vẹm thì cũng đúng như
thế!
Để làm sáng tỏ
điều này, phải mượn Milosz, khi ông viết
về Brodsky, nhân đó, chúng ta có
dịp nhìn rõ hơn, cái gọi là thơ
Mít lưu vong hải ngoại.
Nhiều
người ngạc nhiên, tại sao trong nước cho xuất
bản CKN 2000, cho dù sau đó ra lệnh đàn
áp huỷ diệt. Có người coi đây là
dấu hiệu đáng mừng, chế độ đã có thay
đổi, ít ra như ở nhà xuất bản Thanh Niên, thuộc
Thành Đoàn.
Theo tôi, chính
hành động cấm đoán sau đó mới
đáng ngạc nhiên.
So với tác
phẩm của một số nhà văn đã từng tin tưởng
vào chế độ, và bây giờ không thể ca
ngợi nó, dù hết sức muốn ca ngợi; và đành
"kể tỉnh bơ" những sự kiện xẩy ra trong xã hội, thí
dụ như một Nguyễn Khải, với nhân vật tên Hiền, chỉ
cần biết một Hà Nội nhầy nhụa, đen đúa; hay những "tác
phẩm" thuộc loại "vụ án" đầy rẫy trên những tờ báo
công an thành phố hay tỉnh huyện… CKN 2000 viết
về một nhà văn tuy đi tù nhưng vẫn đầy ắp niềm
tin vào Đảng, vào lý tưởng Cộng sản. Tác
giả viết tác phẩm dòng dã trong nhiều năm,
như ở trang cuối cho thấy: bắt đầu viết tháng Sáu-1990,
xong tối thứ bảy 30-11-1991, xem lại lần cuối 8-1998. Từ "xong" tới
"xem lại lần cuối" là 7 năm. Ông bị bắt đi tù
năm 1967, ở tù 5 năm. Chúng ta tự hỏi, có bao
nhiêu bản nháp, sau khi được tác giả viết đi
viết lại, sau khi bị công an tịch thu nhiều lần. Nó xuất
hiện sau những tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài,
Dương Thu Hương. Với một ngôn ngữ khác hẳn. Nếu tác
phẩm CKN 2000 xuất hiện ngay sau thời gian
ra tù một ít lâu, liệu nó có thứ
ngôn ngữ "tươi sáng" đó không? Những nhân
vật "chính diện" của Bùi Ngọc Tấn đều quá đẹp,
quá lý tưởng, khiến chúng ta không thể hiểu
nổi: tại sao lại có những con người đẹp dến như thế, trong một
xã hội hư ruỗng đến mức như vậy? Phải chăng đây là
"thủ pháp" của Bùi Ngọc Tấn, để cho tác phẩm được
xuất bản? Hay "nói theo" Ash: không giản dị như vậy khi cho
rằng, mặc dù chế độ toàn trị, (văn chương) xứ sở này
vẫn đẹp? Nghịch lý về bảo thủ cách mạng?
Milosz,
trong Bắt Đầu Nơi Tôi Là,
To Begin Where I Am, có hai cái "notes",
1, về lưu vong, và 1, về Brodsky.
Tin Văn đã giới thiệu “lắt
nhắt”, và, “lai rai”, viết về nó.
Nhân dịp trọng đại ăn mừng
Cách Mạng Tháng Tám năm nay, nối
gót 40 năm thơ Mít lưu vong,
GCC bèn lôi ra viết tiếp.
Quan điểm của Brodsky, ngôn
ngữ là số 1, thì cũng được Tin Văn nhắc tới
rồi, khi dịch bài trên trang e Nobel, nhưng
Milosz, xoáy sâu hơn, và đọc ông, viết
về Brodsky, chúng ta hiểu rõ thêm về... TTT.
(1)
Cái gì làm
TTT, bảnh như thế?
Milosz, trả lời, khi đọc Brodsky.
Bao thơ tôi, ít nhiều
chi, là về cùng một điều - về Thời Gian. Về thời gian làm
gì con người.
"All my poems are more or less
about the same thing – about Time. About what time does
to Man."
Joseph Brodsky.
Chủ biên là
nhà thơ Nguyễn Đức Tùng giải thích
về tiến trình hình thành tuyển tập, nói
rằng ông xin lỗi vì thiếu một số thơ của nhiều
người quá khứ, như Mai Thảo, Nguyên Sa, Minh Đức
Hoài Trinh, Cao Đồng Khánh... vì vấn đề tác
quyền không xin phép được. Nguyễn Đức Tùng
cũng gửi lời cảm ơn tới tất cả những ngươì tham dự và
những người đã giúp hoàn thành tuyển
tập...
Theo GCC, có thể không
hẳn như thế, vì chẳng ai hẹp lượng đến như thế,
nếu nói về ý nghĩa của 1 tác phẩm “như
thế”.
Tuy nhiên, trong số những tác
giả được nhắc, không có TTT. Và GCC
tin rằng, NDT không đọc được thơ TTT, và cũng
không thể nhận ra, chỉ độc nhất TTT là nhà
thơ lưu vong, trong khi những tên khác, đều mò
về xứ Mít cả rồi, lưu vong cái con khỉ gì
nữa!
Anh ta
không tìm thấy hạnh phúc, bởi vì làm gì
có hạnh phúc ở xứ sở của anh ta.
He did not find happiness,
for there was no happiness in his country.
Adam Mickiewicz.
Lưu vong: Cách sử dụng
Hãy coi lưu vong là
số kiếp, theo nghĩa một thứ bịnh không sao chữa
lành, chỉ có cách đó mới giúp
chúng ta vứt bỏ vào thùng rác những
hoang tưởng về mình.
Lưu Vong: Khuôn Mẫu
Anh ta biết nhiệm vụ của mình,
và nhân dân đang chờ đợi những lời
nói của anh, nhưng anh bị cấm nói.
Bây giờ, ở nơi anh đang
ở, anh tha hồ mà nói, nhưng chẳng ai thèm
nghe, vả chăng, anh quên mẹ những gì anh phải
nói.
Lưu vong: Thích nghi
Sau nhiều năm lưu vong, chúng
mình bèn tưởng tượng đời mình như
thế nào, nếu chẳng lưu vong.
Lưu Vong: Chán Chường
Cú đánh đầu tiên
vào đầu một nhà văn lưu vong, đúng
như Võ Phiến đã từng cảm nhận: Nhà văn
lưu vong không đem theo được cùng với ông
ta, độc giả thân thương của mình!
Như thế có nghĩa, cùng
với sự mất tích độc giả, nhìn vào
những trang viết cũ cứ như nhìn vào hư vô..
là chán chưòng, tuyệt vọng, là
sợ đếch ai còn biết đến tên ta [loss of name], sợ
thất bại, và những dằn vặt về đạo đức [moral torment].
Nhà văn lưu vong đau
khổ bởi vì anh ta lúc nào cũng phải bám vào
ý thức, thói quen tập thể. Có lẽ,
anh ta, nhà văn như thế đó, chưa hề bao giờ
học đứng bằng đôi chân của chính mình.
Anh ta có thể thắng,
nhưng chỉ khi nào, trước đó, anh ta bằng lòng thua.
[He may win, but not before
he agrees to lose]
Lưu vong là lâm
vào tình cảnh thật đáng ngờ, nếu
nói về mặt đạo đức, bởi vì nó bẻ gãy
kết nối của một con người vớiđám
đông, nói rõ hơn, nó tách
một cá nhân ra khỏi một nhóm, và cá
nhân này ngưng không còn chia sẻ kinh
nghiệm của mình với những đồng nghiệp bị bỏ lại. Những dằn
vặt về đạo đức phản ảnh sự vấn vương của anh ta với một hình ảnh
hào hùng về chính mình, và anh
ta phải, từng bước từng bước, đi tới một kết luận thật thê lương
thật đau đớn, là:thật
khó mà làm được một việc có giá
trị về mặt đạo đức, và càng thật khó, giữ cho
được một hình ảnh không hề hoen ố về chính mình.
Note: Bài viết
này, nay, nhân kỷ niệm Cách Mạng Tháng
Tám, và 40 năm thơ Mít lưu vong, GCC
bèn post & dịch trọn, cũng là 1 cách
để đám Mít lưu vong nhìn lại chúng,
coi có thằng nào xứng đáng!
Anh không kiếm thấy hạnh phúc,
vì làm đéo gì có hạnh
phúc ở xứ Mít của anh ta!
Ui chao, chỉ 1 câu đó,
là lũ Mít viết lách ở hải ngoại, có
tên trong cuốn sách của NDT, thấy nhục rồi!
Hãy coi lưu vong là số kiếp,
1 thứ bịnh vô phương chữa trị, chỉ có cách
đó giúp chúng ta nhìn suốt cõi
ảo tưởng về mình.
Bài viết này rất ư là
tuyệt với, nhưng với riêng Gấu, bài về Brodsky
mới cực tuyệt.
Nó gíúp GCC nhìn
rõ thêm về ông anh của mình,
tại làm sao mà ông ở cõi Mít
mà quá rành cõi Tây Phương,
chưa từng ra ngoài nước 1 lần, mà tạo ra nổi 1 tên
như Kiệt. Một khi tạo ra được 1 nhân vật như thế, là
ông đã nhìn ra cả 1 lũ Mít nhơ bửn,
như những tên có mặt trong tác phẩm của tên
tà lọt rồi, và ông tha thứ cho chúng,
với nhân vật Kiệt của ông! (1)
(1)
"Bad Gấu" sorry, to some of his friends,
in the book...
V/v “Bad Gấu”.
Milosz viết, trong "Thư nửa riêng tư
về thơ, a semi-private letter about poetry" ( in “To Begin Where I Am”): Đôi
khi thế giới mất mẹ nó bộ mặt của nó. Phải có 1 tên
cực kỳ khốn nạn, như “bad Gấu”….(Sometimes the world loses its face. It becomes
too base. The task of the poet is to restore its face, because otherwise,
man is lost in doubt and despair. It is an indication that the world need
not always like this, it can be different. (2)
UI chao, nếu đúng như thế, thì
1 tên "bad Gấu", cần hơn 1 tên "Gấu nhân
hậu và cảm động", rất nhiều!
Hà, hà!
(2)
Đôi khi xứ Mít mất mẹ nó
bộ mặt của nó, và nhiệm vụ của thằng cha Gấu,
"poet GCC" - như 1 vị bằng hữu FB gọi - là tái
dựng lại bộ mặt của nó, nếu không, Mít mất,
trong hồ nghi và chán chường.
Đây là 1 dấu chỉ, Mít
không cần luôn luôn như cũ, nó
có thể khác đí.
When they bury an epoch,
No psalms are read while the coffin settles,
The grave will be adorned with a rock,
With bristly thistles and nettles.
Only the gravediggers dig and fill,
Working with zest. Business to do!
And it's so still, my God, so still,
You can hear time passing by you.
And later, like a corpse, it will rise
Ride the river in spring like a leaf,-
But the son doesn't recognize
His mother, the grandson turns away in grief,
Bowed heads do not embarrass,
Like a pendulum goes the moon.
Well, this is the sort of silent tune
That plays in fallen Paris.
Khi họ chôn một thời kỳ
Không tụng ca được đọc khi hạ huyệt
Ngôi mộ sẽ được điểm trang bằng 1 cục đá.
Với cây kế tua tủa và tầm ma
Chỉ mấy đấng thợ, đào, và sau đó
lấp, mồ.
Họ háo hức, hăm hở. Công việc mà!
Và thật câm lặng, Chúa ơi,
thật câm lặng!
Bạn có thể nghe thời gian qua đi.
Và sau đó, như 1 cái thây
ma, nó trỗi dậy
Bay trên mặt sông vào mùa
xuân như 1 chiếc lá –
Nhưng ông con trai không nhận mẹ
Đứa cháu trai bỏ đi trong đau khổ
Những cái đầu cúi xuống đâu
làm phiền ai
Như con lắc, mảnh trăng đong đưa
Đúng rồi, đúng điệu nhạc âm
thầm đó
Dân Sài Gòn chơi, ngày
mất Sài Gòn.
[Bản của GCC]
Trần Hồng Tiệm FB
khi người ta chôn thời đại
trước huyệt không hát thánh
ca
cúc gai cùng với tầm ma
sẽ phải tô điểm cho mộ
chỉ có phu huyệt hối hả
chôn cất. đợi chờ được sao
lặng im, chúa ơi, im quá
nghe thấy mỗi thời gian đi
sau khi thời đại nổi lên
giống thây trên dòng sông
xuân
nhưng con không nhận ra mẹ
còn cháu quay lưng trong buồn
đầu người cúi xuống thấp nữa
như con lắc ở mặt trăng
và thế - trên paris đã chết
lặng im hiện đang bao trùm
ngày 5 tháng 8 năm 1940
tại nhà sheremetevsky
anna akhmatova
* đề từ lấy từ bài thơ khu latin của nhà
thơ vyacheslav ivanov
* tháng 6 năm 1940 paris đầu hàng
phát xít đức. bài thơ này
được làm trong bối cảnh đó.
Август 1940
То град твой, Юлиан!
Вяч. Иванов
Когда погребают эпоху,
Надгробный псалом не звучит,
Крапиве, чертополоху
Украсить ее предстоит.
И только могильщики лихо
Работают. Дело не ждет!
И тихо, так, Господи, тихо,
Что слышно, как время идет.
А после она выплывает,
Как труп на весенней реке,-
Но матери сын не узнает,
И внук отвернется в тоске.
И клонятся головы ниже,
Как маятник, ходит луна.
Так вот - над погибшим Парижем
Такая теперь тишина.
5 августа 1940
Шереметевский Дом
Анна Ахматова
#thodichdonga #thongadonga
When you bury an epoch
You do not sing psalms at the
tomb.
Soon, nettles and thistles
Will be in bloom.
And only - bodies won't wait!-
The gravediggers toil;
And it's quiet, Lord, so quiet,
Time has become audible.
And one day the age will rise,
Like a corpse in a spring river
-
But no mother's son will recognize
The body of his mother.
Grandsons will bow their heads.
The moon like a pendulum swinging.
And now - over stricken Paris
Silence is winging.
Note: Số báo nrf, lấy
từ blog thi sĩ Chân Phương. Ông có
số báo đúng thời kỳ 30 Tháng Tư 1975, và
có đi 1 bài về nó.
Cũng là 1 cách
góp vui với 40 năm thơ Mít lưu vong!
Merde!
NQT
This is one of the most evocative poems
that I'm aware of that treats of the human preoccupation with
memories and time passing and a Golden Age.
Other poets have and have done it well, but this one
seems special and that last line . . .
Possession of
Yesterday
I know the things
I've lost are so many that I could not begin to count
them
and that those
losses
now, are all
I have.
I know that
I've lost the yellow and the black and I think
Of those unreachable
colors
as those that
are not blind can not.
My father is
dead, and always stands beside me.
When I try to
scan Swinburne's verses, I am told, I speak with
my father's
voice.
Only those who
have died are ours, only what we have lost is ours.
Ilium vanished,
yet Ilium lives in Homer's verses.
Israel was Israel
when it became an ancient nostalgia.
Every poem,
in time, becomes an elegy.
The women who
have left us are ours, free as we now are from misgivings.
from anguish,
from the disquiet and dread of hope.
There are no
paradises other than lost paradises.
-- Jorge Luis
Borges --
(1899-1986)
Hôm Qua, Có
Tớ biết những
gì tớ mất thì nhiều lắm đến nỗi tớ
không thể bắt đầu đếm chúng
Và tất
cả những gì đã mất, bây giờ,
là tất cả những gì tớ có
Tớ biết tớ mất
màu vàng, và màu đen và
tớ nghĩ
Tới những màu
sắc không thể nào với tới được
Như là
những màu, mà, không mù,
là thua luôn.
Ông cụ
tớ mất, và luôn luôn đứng kế bên
tớ
Khi tớ tính
scan những vần thơ của Swinburne, tớ được biểu là,
tớ nói bằng giọng của ông cụ tớ
Chỉ những người
đã chết là của chúng ta
Chỉ những gì
đã mất thì là của chúng
ta
Ilium biến mất,
tuy nhiên Ilium sống ở trong những vần thơ
Homer
Israel là
Israel khi nó trở thành một hoài
hương xưa cũ
Mọi bài
thơ, tới lúc, trở thành một bi khúc
Những nàng
bỏ chúng ta thì là...
của chúng ta
Vô tư
như là chúng ta,
Từ ngần ngại,
âu lo
Từ xao xuyến,
thống khổ,
Từ bất an và
khiếp sợ hy vọng
Không
có thiên đàng nào khác
Ngoài
những thiên đàng đã mất
A poetry festival in Krakow,
some ten years ago, the final evening in the Old Theater.
Perhaps six or seven poets on the stage. An enthusiastic
public fills the hall. At the end all the poets rise and bow-not
as gracefully as actors, they've had no practice, they don't
know how. The audience likewise rises to its feet: a standing ovation.
The happy poets bow and bow again. The applause continues, it goes
on endlessly ... The poets are blissful, such happiness rarely befalls
them, perhaps never. Later, I found out that the stage manager had
complained about those inexperienced poets: they stood in the wrong spot,
too far forward, where the curtain was supposed to drop, so the curtain
had to stay up for the longest time ...
Adam Zagajewski: Slight
Exaggeration
AZ kể lại buổi ra mắt 40
năm thơ Mít lưu vong, ở Tiểu Sài Gòn.
Chừng 6, hoặc 7 nhà
thơ được mời, lèm bèm về vết cắt, vết
xước… của thơ Mít sau cuộc chiến Mít,
và vấn nạn, liệu thơ Mít lưu vong có còn
mùi Mít hay không.
Buổi lễ bế mạc, mấy nhà
thơ bèn đứng dậy, và cúi đầu,
và khán thính giả bèn vỗ tay,
và cứ thế, cứ thế, không làm sao ngưng....
!
Hóa ra là mấy
nhà thơ đứng lộn chỗ, hoặc, buổi ra mắt đúng
ra phải xẩy ra ở Bắc Bộ Phủ: Họ đứng quá xa về phía
trước, và bức màn hạ màn, chấm dứt trò
hề, không làm sao làm được cái
phận sự chấm dứt trò hề của nó!
Để "tạ lỗi", bèn post
khúc sau đây, trong Borges Tám Bó:
BARNSTONE: After hell, by
the same reasoning, could you tell us about heaven?
BORGES: I read a book written
by an English clergyman saying that there is much sorrow
in heaven. I believe so. And I hope so. For, after all, joy
is unbearable. We can be happy during a moment or so, but an eternity
of happiness is unthinkable. But personally I disbelieve in
an afterlife. I hope I shall cease. When I feel sorry, when I am
worried-and I am being worried all the time-I say to myself:
Why worry when at any moment salvation may come in the shape of annihilation,
of death?
Since I am about to die, since
I may die at any moment, why worry about things? What
I am looking for is not utter blackness, for blackness is something
after all. No, what I want is to be forgotten-and of course
I'll be forgotten. Everything will be forgotten in due time.
Sau địa ngục, cùng
1 lý luận, xin ông nói về thiên
đàng.
Borges: Tớ có đọc 1
cuốn sách của 1 tên Hồng Mao, ông
ta phán, thiên đàng buồn lắm. Tớ chẳng
những tin, mà còn mong như thế.
Nói cho cùng,
vui là điều đếch thế nào chịu nổi. Vui
tí tí thì OK, chứ vui mãi mãi
như hồi còn Ngụy, thì phải mất nước mà
thôi!
Tôi nhớ
trước ngày 30 tháng 4 năm 75, ngồi bên
radio nghe Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đọc diễn văn, tôi
đánh bạo nói với cha tôi rằng (thì
là) theo nhận xét của một học sinh như tôi
thì diễn văn của tổng thống có vẻ không đúng
với văn phạm tiếng Việt mà tôi được học chút
nào. Cha tôi nhìn tôi im lặng một
lát rồi buồn rầu bảo, đại ý, các chính
thể đến giờ phút lụi tàn bao giờ cũng có những
biểu hiện như thế.
Một tên bợ đít VC
đến như thế, làm chủ biên 1 tập thơ, được
"tên số 2" đã từng cầm nhầm thơ của người khác,
hợp tác với 1 tên già tay đầy máu
Ngụy, cùng lo xb....
Bốn mươi năm đã qua, chúng
ta cần 1 tác phẩm đạo đức. Thiếu phần đạo đức, là
kể như bỏ. Làm gì có chuyện đố kỵ, thù
hằn, phe đảng ở đây. Cả 1 lũ bẩn như thế, làm
sao đẻ ra được 1 tác phẩm văn học?
NQT
V/v Một tác phẩm đạo đức, một
người nào đó, tay cầm cái chổi, làm
công việc dọn dẹp... như trong bài thơ sau
đây mô tả.
Lũ khốn này, không dọn
dẹp, mà còn ỵ bậy thêm ra.
The End and the Beginning
After every war
someone has to tidy up.
Things won't pick
themselves up, after all.
Someone has to shove
the rubble to the roadsides
so the carts loaded with corpses
can get by.
Someone has to trudge
through sludge and ashes,
through the sofa springs,
the shards of glass,
the bloody rags.
Someone has to lug the post
to prop the wall,
someone has to glaze the window,
set the door in its frame.
No sound bites, no photo opportunities,
and it takes years.
All the cameras have gone
to other wars.
The bridges need to be rebuilt,
the railroad stations, too.
Shirtsleeves will be rolled
to shreds.
Someone, broom in hand,
still remembers how it was.
Someone else listens, nodding
his un shattered head.
But others are bound to be bustling
nearby
who'll find all that
a little boring.
From time to time someone still must
dig up a rusted argument
from underneath a bush
and haul it off to the dump.
Those who knew
what this was all about
must make way for those
who know little.
And less than that.
And at last nothing less than nothing.
Someone has to lie there
in the grass that covers up
the causes and effects
with a cornstalk in his teeth,
gawking at clouds.
Szymborska
Tận cùng và Bắt đầu
Sau mọi cuộc chiến
Một người nào đó phải
lo dọn
Rác rến làm sao tự dọn?
Một người nào đó
Phải đùn chúng vô
ven lộ
Cho xe bò chở xác đi qua
Một kẻ nào đó phải lết
qua bùn, tro
lò so sô pha
mảnh ly
rẻ máu
Một người kéo tấm biển
Chống bức tường
Lắp kính cửa sổ
Khung cửa ra vô
Không âm thanh, không
hình ảnh
Phải mất nhiều năm.
Tất cả cameras thì đều đã
rời bỏ nơi này,
Tới những cuộc chiến khác
Một người nào đó, tay
cầm cây chổi,
Vẫn còn nhớ, chuyện xẩy ra như
thế nào
Một người khác, lắng nghe
Gật gật cái đầu còn nguyên
vẹn
Những người khác thì tụm
năm túm ba gần gần đâu đó
Họ thấy chán chán, nản
nản.
Thỉnh thoảng có một tay
Vẫn phải đào một cú nhấm
nhẳn, cãi cọ, văng tục gỉ sét
Ở bên dưới 1 bụi cây
Và thẩy lên đống rác.
Những kẻ biết chuyện xẩy ra như thế
nào
Phải dọn đường cho những kẻ
Biết tí ti
Hoặc chẳng biết tí ti, mà
còn ít hơn thế nữa
Nhưng, có còn hơn không!
Phải có 1 tên GCC,
Nằm dài ra trên cỏ
Che phủ những nguyên nhân,
những hậu quả
Với cây tăm ở trong miệng
Ngây ngô nhìn mây.
Đất nghĩ gì mà lòng hừng
hực lửa
Biển nghĩ
gì mà sóng vỗ không ngưng
Gió
nghĩ gì mà đứng lại ngập ngừng
Người nhớ
ai mà mông lung nhìn lặng
Mây
nghĩ gì mà dăng đầy tơ trắng
Trời nghĩ
gì mà tuôn nắng xuống trần
Cát
nghĩ gì mà bỏng rát đôi
chân
Người buồn
ai mà lưng trần ửng đỏ
Đá
nghĩ gì mà đá chìm đá
nổi
Núi
nghĩ gì mà tiếp nối ra khơi
Rong nghĩ
gì khi nằm bập bềnh trôi
Người phụ
người …
Chim trời vừa xa khuất
Đặng Lệ Khánh
Anh Trụ ơi, trong một bài
thơ dịch của anh, sea cucumber, theo K, dịch là
con hải sâm (trừ phi anh không muốn dùng
từ hán việt nên dùng chữ dưa biển ).
In China, Sea Cucumber is called
Hai Shen,
which translates roughly into Sea Ginseng, and it is
unclear whether this refers to its aphrodisiacal qualities
or healthful properties as a tonic for the kidneys and blood.
It has been used in China
for thousands of years as a treatment for Arthritis,
fatigue, Impotence,
constipation, frequent urination
and joint pain, and the herb was listed as a medicinal
agent in the Bencao Congxin of 1757. ( http://www.herbalist.com/wiki.details/86/category/11/start/0/)
Phúc đáp:
Tks
Bài thơ của Szymborka,
Tự Trị, GNV đọc
trong Chứng từ Thơ, chương “Thơ và Sinh Học” của Czeslaw Milosz.
Szymborka, nữ thi sĩ Ba Lan,
Nobel văn chương, điểm tử huyệt của mấy anh thi sĩ tiền
chiến theo Ðảng, suốt đời ăn bánh vẽ, về già,
sắp đi tầu suốt, mới dám thú thực.
Phải đọc hai bài thơ,
1 của Chế Lan Viên, và 1 của Szymborska,
thì mới thú vị.
Sau này
anh đọc thơ tôi nên nhớ
Có phải tôi viết
đâu? Một nửa
Cái cần đưa vào
thơ, tôi đã giết rồi
Giết một tiếng đau, giết một
tiếng cười
Giết một kỷ niệm, giết một
ước mơ
Tôi giết cái
cánh sắp bay… trước khi tôi viết
Tôi giết bão
táp ngoài khơi cho được yên ổn trên
bờ
Và giết luôn
Mặt trời lên trên biển
Giết mưa và giết cả
cỏ mọc trong mưa luôn thể
Cho nên câu thơ
tôi gầy còm như thế
Tôi viết bằng xương
thôi, không có thịt của mình
Và thơ này rơi
đến tay anh
Anh bảo đấy là tôi
Không phải!
Nhưng cũng chính là
tôi – người có lỗi
Đã giết đi bao nhiêu
cái
Có khi không
có tội như mình.
Chế Lan Viên
Tự Trị
Gặp nguy hiểm
hải sâm tự phân đôi,
Thí một nửa cho thế
giới xâu xé,
Nửa kia, chuồn,
Thật hung bạo, nó xé
đôi nó ra, một nửa là tận thế, một
nửa là cứu chuộc
một nửa là trừng phạt,
một nửa là ban thưởng
một nửa là hôm
qua, một nửa là ngày mai
Ở giữa hải sâm, một
lỗ nẻ nẻ ra
Và hai rìa lập
tức trở thành xa lạ với nhau.
Một rìa, cái
chết, một rìa, đời sống.
Ðây, chán
chường; kia, hy vọng
Nếu có 1 sự thăng bằng,
thì OK.
Nếu có công lý,
thì là như vậy đó.
Chết như là có
thể, trong hạn vi, không vượt quá lằn ranh.
Sống trở lại, từ chút
cứu chuộc còn lại.
Chúng ta, cũng biết
cách phân thân
Nhưng chỉ để trở thành,
một bên là thịt, một bên là
lời thì thầm bị bẻ gãy.
Một bên là thịt,
và một bên là thơ ca.
Một bên là cổ
họng, một bên là tiếng cười,
yếu ớt, tắt ngấm liền tức
thì.
Ðây, trái
tim nặng nề, kia, non omnis moriar,
chỉ ba từ nho nhỏ, như ba
cái lông chim bay lên.
Lỗ nẻ không chia chúng
ta
Một lỗ nẻ bao quanh chúng
ta.
Szymborska. Tưởng nhớ [To the memory of] Halina Poswiatowska
Autotomy
In danger, the holothurian cuts itself in two.
It abandons one self to a hungry
world
and with the other self it
flees.
It violently divides into doom
and salvation,
retribution and reward, what
has been and what will be.
An abyss appears in the middle
of its body
between what instantly become
two foreign shores.
Life on one shore, death on
the other.
Here hope and there despair.
If there are scales, the pans
don't move.
If there is justice, this is
it.
To die just as required, without
excess.
To grow back just what's needed
from what's left.
We, too, can divide ourselves,
it's true.
But only into flesh and a broken
whisper.
Into flesh and poetry.
The throat on one side, laughter
on the other,
quiet, quickly dying out.
Here the heavy heart, there
non omnis moriar
just three little words, like
a flight's three feathers.
The abyss doesn't divide us.
The abyss surrounds us. - In memoriam
Halina Poswiatowska
Trong Chứng tích thơ, chương Bài học Sinh học, Milosz viết:
Người ta đã viết nhiều
về thi sĩ, như là 1 con người ‘ngơ ngác
tựa gà trống, e đến trăm năm vưỡn trẻ thơ’, một
con người khác những người khác: tuổi thơ của
nó không chấm dứt, nó gìn giữ được
một điều gì đó ở trong nó, của 1 đứa bé,
suốt cuộc đời của nó. Ðiều này đúng trên
diện rộng, ít nhất theo nghĩa này: cảm nhận ấu thơ
của thi sĩ có một độ dài thật dài, và
những bài thơ đầu của thi sĩ, "một nửa là đứa bé",
đã có những dấu ấn chỉ ra những bài thơ
tiếp theo.
Ý niệm nhị phân,
1 bên là linh hồn, một bên là
xác thân ở với chúng ta thật lâu,
qua ẩn dụ con tằm hóa kiếp thành con bướm: một
cái xác, con tằm bị bỏ lại, cho linh hồn tự nó
giải thoát, qua hình ảnh 1 con bướm bay lên.
Bài thơ “hải sâm” của Szymborska không
thuộc trường nhị phân trên. Một lỗ nẻ nẻ ra trong
xác thịt của hải sâm, một sự phân chia thành
hai cái ngã, a division into two coporal “selves”,
xẩy ra. Bắt đầu với thời phục hưng, một thứ nhị phân khác
được thêm vào với nhị phân linh hồn/xác
thân, như Steiner chỉ ra, đó là danh vọng/lãng
quên, fame/oblivion, qua cụm từ ars longa, vita brevis, tên
của 1 con người thì còn mãi với hậu thế,
không phải mọi thứ đều chết, non omnis moriar.
Two of them there beside the river, as if
The river were the conversation between them.
It was as if the vocables of the river
Could beautifully articulate some meaning
That the river knew about. They knew so little
About what it was that the river knew about,
The meaning they had each of them always wanted
To impart to the other with the authority
Of knowing who it was each of them was.
The river went on saying what it was saying.
—David Ferry
Hôn
Nhân
Hai đứa chúng
nó, ở đó, ở bên bờ sông,
như thể
Con sông là
cuộc trò chuyện giữa hai đứa chúng
nó
Như thể tiếng sông
Có thể phán,
đẹp, một ý nghĩa nào đó
Con sông biết
Hai đứa thì
chỉ biết tí ti
Về điều con sông
biết
Cái ý
nghĩa, mỗi đứa, trong hai đưá, luôn luôn
muốn,
Truyền đạt cho đứa
kia
Bằng quyền uy
Đây là
câu chuyện, mi hay ta, đứa nào là
đứa nào.
Con sông cứ thế
trôi cùng với tiếng sông
Lời nào ta đang
nói....
Every poem in time
becomes an elegy (1)
Borges
Vào đầu thiên
niên kỷ, nhân chuyến về Đất Bắc, Gấu
bèn đi 1 đường về thơ trẻ ở trong nước.
Lấy 1 câu
làm mồi, của Borges, “muợn” tiếng nói
của 1 nữ thi sĩ trẻ ở trong nước [và nếu thơ của
lớp đàn anh chúng tôi đã làm
xong phần đóng góp cho sự nghiệp chung
của dân tộc, thơ của thế hệ trẻ chúng tôi
có lẽ sẽ làm nốt phần còn lại: thơ sẽ nói
lên nghệ thuật của sự tưởng niệm, và mỗi bài
thơ, được viết đúng lúc như thế đó, sẽ
trở thành một khúc kinh cầu. Đó là
tham vọng của thơ trẻ], GCC đã nhìn ra, cõi
thơ Mít thiếu tiếng khóc!
Nói rõ
hơn, cả 1 cuộc chiến như thế, thơ Vẹm chỉ xúi
giục Mít chết, và sau khi chết, chúng
cũng vờ luôn cái chuyện tưởng niệm!
Thơ của tôi
không
dành cho bạn Thơ Trẻ Thơ Trẻ I
Twenty-seven bones,
thirty-five
muscles,
around
two thousand nerve cells
in
every tip of all five fingers.
It's
more than enough
to
write Mein Kampf
or Pooh Corner.
-Wistawa Szymborka
Tay
Hai
mươi bảy cái xương Ba
mươi lăm cái bắp thịt Cỡ
chừng hai ngàn tế bào thần
kinh Ở
đầu, của mọi đầu, của cả năm ngón tay Vậy
là quá, quá đủ Để
ngồi hang Hắc
Búa
Hay
Hác Bó
cái con mẹ gì
đó Dịch
Sử Đảng!
IN THE JUNK STORE
A small, straw basket
Full of medals
From good old
wars
No one recalls.
I flipped one over
To feel the
pin
That once pierced
The hero's swelling
chest.
Charles Simic: The
Little Something
Tại Viện Bảo Tàng Chiến Tranh Thành
Hồ
Một cái giỏ rơm nhỏ
Đầy những huy
chương
Của hai cuộc
chiến thần thánh
Chống hai tên
thực dân đầu sỏ, cũ và mới
Chẳng tên
Mít, thứ thiệt nào, còn nhớ!
Gấu lật lật 1 cái huy
chương Thành Đồng Tổ Quốc
Cảm nhận mũi
đinh ghim
Đã 1
thời cắm vô bộ ngực căng phồng
Của Anh hùng
Núp
Của nhà
văn truyền kỳ Đất Nước
Đứng Lên
Rồi Đất Nước Nằm Xuống
Rồi Đất Nước Đi Luôn!
Hà, hà!
Junk Store: Tiệm bán ba đồ tạp
nhạp, phế thải, đồng nát, sắt vụn….
ANCIENT COMBATANT
Veteran of
foreign wars,
Stiff in
arm and leg,
His baggy
pants billowing in the wind
Salutes a
crow in a tree,
And resumes
his stroll
Past a small
graveyard,
Swerving
and waving his arms
As if besieged
by ghosts
Lurking among
headstones,
Waiting to
accost him
And make
a clean breast
Before he
slips out of sight.
The tiger
lilies bemused.
The curving
dirt road in his wake
Deep in silence
And prey
to lengthening shadows.
Charles Simic
Cựu chiến hữu
Cựu chiến
hữu của những cuộc chiến ngoại bang giật dây
Chân
tay cứng đơ
Ống quần
rộng thùng thình như hai cánh
buồm lộng gió
"Chàng"
cúi chào một con quạ ở trên
cây
Và
bèn tiếp tục cuộc dạo
Qua một nghĩa
địa nhỏ
Chàng
loạng quạng, ve vảy tay
Như bị bủa
vây bởi những hồn ma
Lấp ló,
rình mò giữa đám bia mộ
Đợi bắt chuyện
Và
làm 1 cú thú tội, sám hối,
tự vấn... hay cái con mẹ gì đó
Một điều
mà tên già NN và đồng bọn,
Không
thể làm được,
Trước khi
biến khỏi tầm nhìn.
Những bông
hoa kèn bèn sững người.
Con đường
đất bụi cong queo bèn tỉnh giấc
Chúi
sâu mãi vào im lặng
Và
bèn sửa soạn săn mồi
Là
những cái bóng dài loằng ngoằng.
Note:
Ôi
chao, lâu lắm mới có được 1 "bi khúc"
- thuổng NL - dành cho lũ Bắc Kít xẻ
dọc Trường Sơn đi kíu nước!
NQT
Lower than a lupanar
the butcher shop signs the street insultingly.
On the lintel
a blind cow's head
rules the coven
of final marble and gaudy flesh
with an idol's remote majesty.
[Mulrooney, Christopher]
J.L. Borges
AT THE BUTCHER'S
Meaner than a house of prostitution
the meat market flaunts itself in the
street like an
insult.
Above the door
the head of a steer in a blind-eyed
stare
watches over the witches' Sabbath
of flayed flesh and marble slabs
with the aloof majesty of an idol.
[Norman Thomas di Giovanmi]
"Lộn(g) dịch":
Ở nhà HPNT
Bần tiện hơn cả nhà thổ
Phiên chợ thịt người
Ánh lên lời nguyền rủa
của những nạn nhân Tết năm đó
Ở bên trên cửa
Cái đầu bò mù
Đưa mắt nhìn xuống Ngày
Hội Máu của VC
Bằng 1 cái nhìn cao sang,
quyền quí
Của những vì vua chúa
thời nhà Nguyễn.
Note: 40 năm thơ lưu
vong Mít, thiếu những bài như vầy!
Poetry
and History: Polish
Poetry after the End of the World
In 1973, when I was twenty-three years
old, I decided to stop in Warsaw
during a year I was traveling in Europe. From
that trip I remember one chilly gray dusk in
particular when I walked through the neighborhood
that had once been the Warsaw Ghetto.
People were bustling home from work, but their activity
only seemed to accentuate the eerie and even
ghostly absence of all those missing persons, an annihilated
people. One didn't need to travel to Auschwitz to
feel guilty absence and palpable vacancy. That night I reread
Czeslaw Milosz's poems "A Poor Christian Looks at the Ghetto,"
"A Song on the End of the World," and "Dedication."
This last poem was addressed to "You whom I could not save,"
and dated Warsaw, 1945. Its key stanza has thereafter set
a standard of moral seriousness in poetry:
What is poetry which does not save
Nations or people?
A connivance with official lies,
A song of drunkards whose throats will
be cut in a moment,
Readings for sophomore girls.
That I wanted good poetry without knowing
it,
That I discovered, late, its salutary
aim,
In this and only this I find salvation.
Milosz's early poems are all haunted
by survivor's guilt, the poignancy
of living after what was, for so many, the
world's end. Poetry here becomes an offering
to the dead, a form of expiation, a hope for
redemption.
Reading the work
of Zbigniew Herbert, Tadeusz Rózewicz,
and Wislawa Szymborska-the half-generation
after Milosz-I soon discovered
that all of postwar Polish poetry was similarly
haunted by guilt, initiated in the apocalyptic
fires of history. These writers shared an
important collective experience, and the
formative nature of that experience helped
shape the spirit of their work. Born in the early
1920s, they grew up during one of the few periods
of independence in Polish history, but they came
of age during the terrible years of World War II.
Poland lost six million people during the war, nearly one-fifth
of its population, and the young writers felt the
almost crushing burden of speaking for those who
did not survive the German occupation. "I am twenty-four
/ led to slaughter / I survived," Rozewicz wrote in "The
Survivor." It was no boast. No wonder, then, that at the
conclusion of "Dedication"
Milosz asks for the dead to free him:
They used to pour millet on graves or
poppy seeds
To feed the dead who would come disguised
as birds.
I put this book here for you, who once
lived
So that you should visit us no more.
Edward Hirsch: How
to Read a Poem and Fall in Love with
Poetry
Năm 1973, 23 tuổi, tôi
quyết định ngừng ở Warsaw 1 năm, trong chuyến
đi Âu Châu.
Kỷ niệm xám xịt, nhất là khi
loanh quanh ở cái khu Ghetto. Phố
phường bận rộn, nhưng hình như càng
làm nặng thêm sự vắng mặt u
uẩn của những người đã mất. Bạn chẳng cần
phải tới Lò Thiêu làm khỉ gì,
chỉ ở đây thôi mà đã
cảm thấy cái sự trống vắng tội lỗi, mân
mê, sờ xoạng được!
Tối hôm đó, tôi
đi 1 đường đọc thơ Milosz. Ui chao, những
bài thơ đầu đời thơ của ông,
ám ảnh làm sao, là
cái mặc cảm sống sót, cái
nỗi thống khổ, “sống, sau những cái
đó”, cái tận cùng
thế giới đó.
Thơ như thế, là 1 dâng
tặng cho người chết, một hình
thức cứu chuộc.
Đọc
Zbigniew Herbert, Tadeusz Rózewicz,
and Wislawa Szymborska- nửa thế hệ
sau Milosz – tôi liền khám phá
ra là, tất cả thơ ca hậu chiến Ba Lan thì
đúng là bị ám ảnh bởi
tội lỗi, bật ra từ những ngọn lửa tận thế của lịch sử....
40
năm thơ lưu vong Mít, đâu có
thứ thơ như trên?
Không tản mạn
bên ly cà phê, thì lặn lội
về Kinh Bắc châm đóm cho nhà thơ mê
gái HC hút thuốc lào, hoặc chầu
chực vấn an đao phủ Mậu Thân....
Cái mặc cảm sống
sót, tại sao tên khốn đó, lại
chừa tôi ra, cái nỗi thống khổ, “sống, sau những
cái đó”, cái tận cùng thế giới
đó, cái thứ thơ như là hình thức
cứu chuộc, thơ Mít, trong cũng như ngoài, đâu
có?
Dedication
You whom I could not save
Listen to me.
Try to understand this
simple speech as I would be ashamed of another.
I swear, there is in me
no wizardry of words.
I speak to you with silence
like a cloud or a tree.
What strengthened me,
for you was lethal.
You mixed up farewell
to an epoch with the beginning of a new one,
Inspiration of hatred
with lyrical beauty,
Blind force with accomplished
shape.
Here is a valley of shallow
Polish rivers. And an immense bridge
Going into white fog.
Here is a broken city,
And the wind throws the
screams of gulls on your grave
When I am talking with
you.
What is poetry which does
not save
Nations or people?
A connivance with official
lies,
A song of drunkards whose
throats will be cut in a moment
Readings for sophomore
girls.
That I wanted good poetry
without knowing it,
That I discovered, late,
its salutary aim,
In this and only this
I find salvation.
They used to pour millet
on graves or poppy seeds
To feed the dead who would
come disguised as birds.
I put this book here for
you, who once lived
So that you should visit
us no more.
Warsaw,
1945
Dâng Tặng
Mi, người mà ta không
thể kíu
Hãy lắng nghe ta
Hãy cố mà hiểu
bài nói đơn giản này như ta hổ thẹn
vì một bài khác.
Ta thề, ta không hề có
cái trò sử dụng từ ngữ một cách
ma quỉ
Ta nói với mi với sự
câm lặng của một đám mây, hay một
cái cây
Cái làm mạnh ta,
với mi, thì là chết người
Mi trộn trạo lời giã
từ, vĩnh biệt một thời đại, với sự khởi đầu một thời đại
mới
Hứng khởi hận thù với
cái đẹp trữ tình
Sức mạnh mù loà
với hình vóc đã được hoàn
tất
Đây là thung lũng
những con sông Ba Lan đổ nước vô đó.
Một cây cầu đi vô
1 vùng sương mù trắng
Đây là một thành
phố đổ vỡ
Và gió thổi những
tiếng chim hải âu lên mộ mi
Khi ta nói chuyện với
mi
Thơ là cái đéo
gì khi nó không thể cứu
Những quốc gia hay những nhân
dân?
Chỉ là những lời dối
trá được toa rập
Một bài hát của
mấy tên say rượu, bị cắt cổ liền sau đó
Được mấy ả đĩ thõa, đọc
Rằng ta muốn thứ thơ tốt mà
không biết nó
Rằng ta khám phá
ra nó, chậm, hình như đúng vào
thời kỳ tám bó, nhớ đại khái
Khám phá ra cái
mục đích hoan hỷ của nó
Chỉ trong nó, trong Thơ
Mỗi Ngày ở trên trang Tin Văn
Ta kiếm thấy sự cứu rỗi
Họ thường đổ sữa lên mồ
mả, hay những mầm hạt anh túc
Để nuôi những người chết,
khi họ giả dạng làm chim chóc
Gấu để một cuốn sách,
ở đây, cho mi
Kẻ đã từng có
thời sống, như là 1 tên Ngụy
Như thế, mi chẳng cần phải trở
về thăm viếng Gấu làm khỉ gì nữa!
grief
like orphanly scattered-white
clothing
(as if
of a hidden event
the fresh
departure)
to begin
and widen
through a silent land
just - everywhere - breathing
desolation
the field (oh grief) with some
blank spaces
(as if all is finished)
of souls
Translated
from the Russian by Peter France
Sau Nửa Đêm - Tuyết Bên
Ngoài Cửa Sổ
Khổ đau
Như vải liệm, khăn tang mồ côi,
lả tả
(Như thể, 1 sự kiện ẩn giấu vừa
mới bỏ đi)
Để bắt đầu loang, rộng, mãi
ra
Qua miền đất âm thầm, câm
nín,
Đúng lúc – nơi
nơi - thở hoang tàn, đổ nát
Ôi cánh đồng (ôi
nỗi đau thương)
Với một vài khoảng không
trống rỗng
(Như thế tất cả kể như xong)
Của những linh hồn
This is one of the most evocative poems
that I'm aware of that treats of the human preoccupation with memories
and time passing and a Golden Age. Other poets have and have done it
well, but this one seems special and that last line . . .
Possession of Yesterday
I know the things I've lost are
so many that I could not begin to count them
and that those losses
now, are all I have.
I know that I've lost the yellow
and the black and I think
Of those unreachable colors
as those that are not blind can
not.
My father is dead, and always stands
beside me.
When I try to scan Swinburne's
verses, I am told, I speak with my father's
voice.
Only those who have died are ours,
only what we have lost is ours.
Ilium vanished, yet Ilium lives
in Homer's verses.
Israel was Israel when it became
an ancient nostalgia.
Every poem, in time, becomes an
elegy.
The women who have left us are
ours, free as we now are from misgivings.
from anguish, from the disquiet
and dread of hope.
There are no paradises other than
lost paradises.
-- Jorge Luis Borges --
(1899-1986)
Hôm Qua, Có
Tớ biết những gì tớ mất
thì nhiều lắm đến nỗi tớ không thể bắt đầu
đếm chúng
Và tất cả những gì
đã mất, bây giờ, là tất cả những
gì tớ có
Tớ biết tớ mất màu vàng,
và màu đen và tớ nghĩ
Tới những màu sắc không
thể nào với tới được
Như là những màu,
mà, không mù, là thua luôn.
Ông cụ tớ mất, và
luôn luôn đứng kế bên tớ
Khi tớ tính scan những vần
thơ của Swinburne, tớ được biểu là, tớ nói
bằng giọng của ông cụ tớ
Chỉ những người đã chết
là của chúng ta
Chỉ những gì đã mất
thì là của chúng ta
Ilium biến mất, tuy nhiên
Ilium sống ở trong những vần thơ Homer
Israel là Israel khi nó
trở thành một hoài hương xưa cũ
Mọi bài thơ, tới lúc,
trở thành một bi khúc
Những nàng bỏ chúng
ta thì là... của chúng ta
Vô tư như là chúng
ta,
Từ ngần ngại, âu lo
Từ xao xuyến, thống khổ,
Từ bất an và khiếp sợ hy
vọng
Không có thiên
đàng nào khác
Ngoài những thiên
đàng đã mất
The 31st of August 1914
I left Deauville just before midnight
In Rouveyre's little car
Counting his chauffeur we were three
We said farewell to an epoch
Furious giants were rising all over
Europe
Eagles left their eyries before
the sun rose
Voracious fish surfaced from the
abyss
The people of the earth rushed to
find out who they were
The dead shivered with fear in their
dark dwellings
The dogs were barking toward wherever
the frontiers were
I carried within me all the battling
armies
I felt them rising up in me and
felt the countries they were moving through
With the forests and happy villages
of Belgium
Francorchamps with the Eau Rouge
and the mineral springs
The route invasions always take
Railway lines where those who were
going to die
Saluted one last time this colorful
life
Deep oceans where monsters were
waking
Inside old shipwrecks on the bottom
Heights unimaginable where men fight
Higher than where the eagle flies
Man fights against man up there
Only to fall suddenly like a shooting
star
I felt within myself new beings
and new capacities
Building and arranging a new universe
A businessman of an unspeakable
opulence and a prodigious size
Laid out an extraordinary display
of goods
Gigantic shepherds led
Enormous silent flocks pasturing
on words
And all the dogs were barking at
their heels
I'll never forget that night when
none of us said a word
O dark departure with our dying
headlights
O tender night before the war
O villages with the rushing blacksmiths
called up
Between midnight and one in the
morning
Toward Lisieux the very blue
Or else Versailles the golden
And three times we stopped to change
a tire that had blown out
And when after having passed the
afternoon
Through Fontainebleau
We arrived in Paris
At just the moment the mobilization
posters were going up
My pal and I realized
That the little car had taken us
to a
New epoch
And though we were fully grown men
We had just been born
Chiếc xế nhỏ
Apollinaire
FOR LORIN STEIN
Ngày 31 Tháng Tám
1914
Tớ rời Deauville đúng trước
nửa đêm
Trên chiếc xế nhỏ của Rouveyre
Tính cả tài xế thì
là ba tên
Chúng tớ bye bye một thời
đại
Những tên khổng lồ Tác
Dzăng nổi giận nổi dậy khắp Âu Châu
Những con chim ưng rời tổ trước
khi mặt trời mọc
Cá háu ăn nổi lên
mặt nước từ vực thẳm
Người sống chạy láo nháo,
họ là ai
Người chết rùng mình
vì sợ trong mồ tối
Chó sủa inh ỏi về phía
rào giậu nào biết ở đâu
Tớ mang trong tớ đủ thứ binh lính,
bộ đội, quân đội
Tớ cảm thấy họ nhỏm dậy, và
cảm nhận ra được, làng xóm nào, cố
quận nào họ đang hướng tới
Với những khu rừng, và những
làng mạc hạnh phúc ở Bỉ
Francorchamps với Eau Rouge và
nước suối, hay, giếng nước
Con đường tụi xâm lăng vẫn
thường dùng
Tuyến hoả xa nơi những con người
sẽ chết
Chào lần chót cuộc
đời màu sắc này
Biển sâu nơi quái vật
thức dậy
Bên trong những con tầu đắm
ở dưới đáy
Những đỉnh cao thời đại, những bước
ngoặt vĩ đại
Nơi con người quần thảo
Cao hơn nơi lũ chim ưng bay lượn
Ngụy và Vẹm uýnh lộn
ở trên đó
Chỉ để rớt xuống
Như 1 vì sao rụng
Tớ cảm thấy ở trong tớ
Những sinh vật mới, những khả thể
mới
Xây dựng, sắp xếp một vũ trụ
mới
Một thương gia giầu có không
thể nói được và một tầm vóc phi thường
Bày hàng ra, không
biết bao nhiêu là hàng
Những người chăn cừu khổng lồ
Dẫn theo những đàn cừu câm
nín, nhiều ơi là nhiều
Chúng gặm từ, thay vì
cỏ
Và tất cả những con chó,
sủa dưới dân bầy thú
Tôi chẳng hề quên đêm
đó, khi chẳng ai thốt nên lời
Ôi đường ra trận mới âm
u làm sao với những chiếc đèn pha đang chết
Ôi đêm dịu dàng
trước cuộc chiến
Ôi làng mạc với những
người thợ rèn hối hả hú gọi ơi ới
Vào lúc nửa đêm,
và một vào lúc buổi sáng
Về phía Lisieux xanh thật
xanh
Hay, nếu không là Versailles,
"cái gì gì" ngoại ô đèn
vàng
Và ba lần chúng tôi
phải ngừng xe để thay bánh bể
Và sau khi qua Fontainnebleau
buổi chiều
Chúng tôi tới Paris
Và đúng vào
lúc những tấm biển động viên dựng lên
Anh bạn của tớ, và tớ
Bèn nhận ra rằng thì
là
Cái xế nhỏ đã đưa
chúng tớ qua
Một thời đại mới
Và mặc dù chúng
tớ đã là những con người trưởng thành
Đã kinh qua cuộc chiến chó
đẻ:
Chúng tớ vừa mới ra đời!
He was rewarded with an eternal
childhood,
His penetrating eye and generosity beamed,
And all the earth was his inheritance
And he shared with all men
Akhmatova
abt Pasternak (a)
Hắn ta được Ông Giời
tưởng thưởng 1 tuổi thơ vĩnh hằng
Mắt
lé của hắn thì… lé, và
sáng ngời khi… chiêm ngưỡng kiều
nữ Playboy!
Và
tất nhiên thằng khốn chẳng chia cho ai!
Aug
16 at 4:26 PM
:))
Nhớ tiếp tục đọc và viết ít
nhất gần 10 năm nữa nghe .
Bông hồng và
bông hồng .
Biết đâu chừng cái bông hồng mà
Coleridge ngắt được từ trong mộng trong bài
What-if-you-slept đã được ông
ấy tình tứ đặt lên bộ ngực thanh tân
của Sara trong bài thơ này :
THE ROSE
by: Samuel Taylor Coleridge (1772-1834)
As late each flower that sweetest blows
I plucked, the Garden's pride!
Within the petals of a Rose
A sleeping Love I spied.
Around his brows a beamy wreath
Of many a lucent hue;
All purple glowed his cheek, beneath,
Inebriate with dew.
I softly seized the unguarded Power,
Nor scared his balmy rest:
And placed him, caged within the flower,
On spotless Sara's breast.
But when unweeting of the guile
Awoke the prisoner sweet,
He struggled to escape awhile
And stamped his faery feet.
Ah! soon the soul-entrancing sight
Subdued the impatient boy!
He gazed! he thrilled with deep delight!
Then clapped his wings for joy.
"And O!" he cried--"of magic kind
What charms this Throne endear!
Some other Love let Venus find--
I'll fix my empire here."
THE ROSE
by: Samuel Taylor Coleridge
(1772-1834)
ĐÓA HỒNG
Trong những cành
hoa tỏa hương thơm nhất
Đóa tôi
ngắt đây là niềm hãnh diện của
Khu Vườn
Rất yên lành
giữa những cánh hoa hồng
Tôi bắt gặp Thần
Tình Yêu đang say sưa nằm ngủ
Một vương niệm hoa
quấn quanh đầu rạng rỡ
Sáng long lanh
đủ màu sắc cầu vồng
Mầu tím ửng
lên chiếu trên má vị thần
Như những giọt sương
say sưa vị rượu
Tôi nắm thật
nhẹ để Tình Yêu không chống cự
Không làm
chàng thức giấc giữa cơn mơ
Tôi khóa
Tình Yêu vào lồng cùng
với đóa hoa
Đặt lên ngực
thanh tân của Sara yêu dấu
Khi thức giấc, Tình
Yêu hiền lành chợt thấy
Mình bị lừa,
bị làm một tù nhân
Tình yêu
vội vàng tìm cách thoát
thân
Vùng vằng giậm
đôi chân tiên đẹp đẽ
Nhưng kìa, cảnh
trước mắt sao mà say hồn thế
Chàng ta đang
nóng nẩy chợt lặng người
Đứng ngắm say sưa,
lòng nở một niềm vui
Đôi cánh
vỗ liên hồi vì hạnh phúc
Tình Yêu
ngỡ như là trò ảo thuật
Chiếc Ngôi này
diễm tuyệt quá đi thôi
Vệ Nữ ơi, hãy
tìm thần khác cho người
Ta xin chọn nơi này
làm vương quốc ...
K phóng dịch
:))
(a)
BORIS PASTERNAK
He who compared himself to the eye
of a horse,
Peers, looks, sees, recognizes,
And instantly puddles shine, ice
Pines away, like a mel ting of diamonds.
Backyards drowse in lilac haze. Branch-
Line platforms, logs, clouds, leaves
...
The engine's whistle, watermelon's
crunch,
A timid hand in a fragrant kid glove.
He's
Ringing, thundering, grinding, up to
his breast
In breakers ... and suddenly is quiet
... This means
He is tiptoeing over pine needles,
fearful lest
He should startle space awake from
its light sleep.
It means he counts the grains in the
empty ears,
And it means he has come back
From another funeral, back to Darya's
Gorge, the tombstone, cursed and black.
And burns again, the Moscow tedium,
In the distance death's sleigh-bell
rings ...
Who has got lost two steps from home,
Where the snow is waist-deep, an end
to everything?
Because he compared smoke with Laocoon,
Made songs out of graveyard thistles,
Because he filled the world with a
sound no-one
Has heard before, in a new space of
mirrored
Verses, he has been rewarded with a
form
Of eternal childhood, with the stars'
vigilant love,
The whole earth has been passed down
to him,
And he has shared it with everyone.
19 January 1936
[Everyman’s Library]
BORIS PASTERNAK
He who compared himself to the eye
of a horse,
Glances, looks, sees, recognizes,
And puddles shine like molten diamonds,
of course,
And any ice is lost in surmises.
In the purple mist, unvisited streets
unwind,
A station, logs, leaves, doves.
Train whistles, the crunch of watermelon
rind,
Shy hands in perfumed suede gloves.
Rumbles, clangs, screeches, reach high
tide
And die. This means he's coming: he
carefully places
Each foot on pine needles, tries as
he's always tried
Not to frighten the light sleep of
empty spaces.
This means he's counting grains, keeping
a tab
On empty ears of wheat, that he came
back,
Again, from someone's funeral to the
slab
In the Daryal wilds, which is also
accursed and black.
Languor again burns the Moscovian loam,
In the distance, deadly bells jingle.
Do you know
Who's gotten lost not even a stone's
throw from home,
Where everything ends and you're up
to your waist in
snow?
Because he compared smoke to the Laocoon,
And celebrated thistles in graveyard
places,
Because he filled worlds with new ringing
and so on
In reflected stanzas original spaces-
He's been rewarded with a kind of eternal
childhood,
His keen sight and generosity shine
like the sun,
The earth was his inheritance, plain
and wildwood,
And he shared it with everyone.
1936
[Translated by Lyn Coffin]
TO THE MEMORY
OF A POET
Like a bird, echo
will answer me.
B.P. (Boris Pasternak)
1.
That singular voice has stopped: silence
is complete,
And the one who spoke with forests
has left us behind.
He turned himself into a life-giving
stalk of wheat
Or the fine rain his songs can call
to mind.
And all the flowers that hold this
world in debt
Have come into bloom, come forward
to meet this
death.
But everything stood still on the planet
Which bears the unassuming name ...
the Earth.
2.
Like the daughter of Oedipus the blind,
Toward death the Muse was leading the
seer
And one linden tree, out of its mind,
Was blooming that mournful May, near
The window where he told me one tim
That before him rose a golden hill,
With a winged road that he would climb,
Protected by the highest will.
1960
Boris Pasternak: 1890-1960, renowned
Russian poet and novelist.
Translated by Lyn Coffin
[Chưa kiếm ra bản tiếng Mít]
Mặt Trời Lặn ở Fossoli
Tôi biết, nghĩa là
gì, không trở về. Qua những
hàng rào kẽm gai tôi
nhìn thấy mặt trời xuống và chết Và
da thịt tôi như bị xé ra Bởi những
dòng thơ của một thi sĩ già: “Mặt trời
thì có thể lặn và mọc Nhưng chúng
tôi, ngược hẳn lại Ngủ, sau
1 tí ánh sáng ngắn ngủi, Một đêm
dài ơi là dài”
Tháng Hai, 7, 1946
Primo Levi
I believe Tm in Hell, therefore I am.
-ARTHUR RIMBAUD, Nuit de l'enfer
Tớ tin ở Địa Ngục, do đó,
tớ hiện hữu.
There are places on this earth from
which those who return, return to die.
On 13 December
1943, the twenty-four-year-old Primo Levi was arrested
by the Fascist Militia and detained at a camp in Fossoli, near
Modena. Nine weeks later, having admitted to being an "Italian
citizen of Jewish race," he was sent to Auschwitz along with all
the other Jewish prisoners. All, he says, "even the children, even
the old, even the ill.'"
In Auschwitz,
one of the tasks assigned to Levi and five others in his
Kommando was to scrape out the inside of an underground petrol
tank. The work was exhausting, brutal, and dangerous. The youngest
of the group was an Alsatian student called Jean, a twenty-four-year-old
who was given the job of Pikolo, or messenger-clerk,
in the mad bureaucracy of the camp. During one of the assignments,
Jean and Levi were obliged to spend an hour together, and Jean
asked Levi to teach him Italian. Levi agreed. As he remembers the
scene years later in his memoir Se questo e un uomo
(If This Is a Man, retitled for the U.S. edition
Survival in Auschwitz), suddenly the Ulysses
canto of the Commedia comes to his mind, how or why he does
not know. As the two men walk towards the kitchens, Levi tries
to explain to the Alsatian, in his bad French, who Dante was and what
the Commedia consists of, and why Ulysses
and his friend Diomedes burn eternally in a double flame for having
deceived the Trojans. Levi intones for Jean the admirable verses:
The greater horn of the ancient flame
Began to shake itself, murmuring,
Just like a flame that struggles
with the wind;
Then carrying to and fro the top
As if it were the tongue that spoke
Threw forth a voice, and said: "When
... "
[Trích đoạn]
Alberto Manguel: Curiosity [Tò
mò]
Có những
nơi chốn con người trở lại, để chết.Vào ngày
31 Tháng Chạp 1943, Primo Levi, 24 tuổi, bị Phát
Xít Ý bắt và giam ở 1 trại tù ở
Fossoli, gần Modena. Chín tuần sau, sau khi thú
nhận là một công dân Ý gốc Do Thái,
ông bị đưa tới Auschwitz, cùng với những tù
nhân Do Thái khác. Tất cả, ông nói,
“cả trẻ con, cả người già, cả người bịnh”
Ở Auschwitz, công việc của ông
là cạo thùng phuy đựng xăng, dầu. Công
việc nặng nề, làm kiệt sức, tàn bạo, và
nguy hiểm. Trẻ nhất trong bọn là một sinh viên Pháp,
vùng Alsatian, Jean, 24 tuổi, được giao công việc
Pikolo, trong hệ thống thư lại khùng điên của trại tù.
Trong 1 lần được giao phó 1 công việc, Jean và
Levi bị bó buộc phải trải qua một giờ cùng nhau, và
Jean đề nghị Levi dậy anh ta tiếng Ý. Levi OK. Và sau
đó, trong cuốn Sống Sót Ở Lò Thiêu, ông
kể lại thời gian này, tự dưng Kịch Trời tới với ông, cái
khúc Ulysses và Diomdes cháy hoài hoài
trong ngọn lửa đúp vì tội lừa dân thành
Troy.
Levi bèn đọc đoạn thơ thần
sầu sau đây cho đệ tử:
Cái sừng lửa lớn hơn của ngọn
lửa xưa cũ
Bèn lắc la lắc lư, và
bèn lẩm bẩm, lầm bầm
Như chống cự lại gió
Rồi, như cái lưỡi liếm qua
liếm lại
Phán ra lời,
“Khi nào”
Sau đó, chẳng gì hết.
Hồi ức, vào cái lúc đẹp nhất bèn
phản bội con người, và vào cái lúc
tệ nhất, nó phục vụ khá hơn. Từng mẩu, lâu
lâu són ra 1 tí, nhưng không đủ, và
chậm rãi, Levi nhớ ra 1 dòng nữa:
Tôi mình về phía
trước, vào đáy sâu, biển mở rộng
*****
Trong Sống Sót ở Lò
Thiêu, Cuộc Trò Chuyện giữa
Philip Roth và Levi, có 1 đoạn, thú
vị, nó giải thích tại làm sao mà
TTT làm lại được thơ khi đi tù VC, hay tại làm
sao mà Kertesz cảm thấy lâu lâu lại có
tí hạnh phúc, thời gian ở Lò Thiêu!
Roth: Your sequel
to If This Is a Man (The Reawakening;
also unfortunately retitled by one of your early American publishers)
was called in Italian La tregua, "the truce."
It's about your journey from Auschwitz back to Italy. There
is a legendary dimension to that tortuous journey, especially
to the story of your long gestation period in the Soviet Union,
waiting to be repatriated. What's surprising about The
Truce, which might understandably have been marked by a
mood of mourning and inconsolable despair, is its exuberance.
Your reconciliation with life takes place in a world that sometimes
seemed to you like the primeval Chaos. Yet you are so tremendously
engaged by everyone, so highly entertained as well as instructed,
that I wondered if, despite the hunger and the cold and the fears,
even despite the memories, you've ever really had a better time than
during those months you call "a parenthesis of unlimited availability,
a providential but unrepeatable gift of fate."
You appear to be
someone who requires, above all, rootedness-in his profession,
his ancestry, his region, his language-and yet when you found
yourself as alone and uprooted as a man can be, you considered
that condition a gift.
Levi: A friend
of mine, an excellent doctor, told me many years ago: "Your
remembrances of before and after are in black and white;
those of Auschwitz and of your travel home are in 'technicolor."
He was right. Family, home, factory are good things in themselves,
but they deprived me of something that I still miss: adventure.
Destiny decided that I should find adventure in the awful mess of
a Europe swept by war.
You are in the
business, so you know how these things happen. The Truce
was written fourteen years after If This Is
a Man: it is a more "self-conscious" book, more methodical,
more literary, the language much more profoundly elaborated.
It tells the truth, but a filtered truth. It was preceded by
countless verbal versions: I mean, I had recounted each adventure
many times, to people at widely different cultural levels (to
friends mainly and to high school boys and girls), and I had retouched
it en route so as to arouse their most favorable reactions. When
If This Is a Man began to achieve some success,
and I began to see a future for my writing, I set out to put these
adventures on paper. I aimed at having fun in writing and at amusing
my prospective readers. Consequently, I gave emphasis to strange, exotic,
cheerful episodes-mainly to the Russians seen close up-and I relegated
to the first and last pages the mood, as you put it, "of mourning and
inconsolable despair."
I must remind you
that the book was written around 1961; these were the years
of Khrushchev, of Kennedy, of Pope John, of the first thaw and
of great hopes. In Italy, for the first time, you could speak of
the USSR in objective terms without being called a philo-Communist
by the right wing and a disruptive reactionary by the powerful Italian
Communist Party.
As for "rootedness,"
it is true that I have deep roots and that I had the luck
of not losing them. My family was almost completely spared by
the Nazi slaughter. The desk here where I write occupies, according
to family legend, exactly the spot where I first saw light. When I
found myself "as uprooted as a man can be," certainly I suffered, but
this was far more than compensated for afterward by the fascination of
adventure, by human encounters, by the sweetness of "convalescence"
from the plague of Auschwitz. In its historical reality, my Russian
"truce" turned to a "gift" only many years later, when I purified it
by rethinking it and by writing about it.
I don't understand summer smiles
at all,
And winter holds no charm for me,
Yet as for autumn, almost without
fail
I've noticed every year has three.
And the first one is holiday
disorder
Spiteful of yesterday's summer fling.
The leaves fly like shreds of notebooks
and the odor
Of haze is incense-sweet. Everything
Is moist, many-colored, shining.
The birches are the first to
join the dance since they're
Draped in see-through lace and since
They've already shaken off every
transient tear
Onto the neighbor over the fence.
Here's what happens when you
use a story to
break the silence:
A second goes by, a minute, and then
Comes the second autumn as dispassionate
as conscience,
As somber as an air raid siren.
Everyone immediately appears
pale and old.
Summer closeness doesn't exist.
And far away trumpets are parading
their gold
-Music floats through the fragrant
mist.
And in the waves of frankincense,
cold and gray,
Is locked the high unflooded land.
But the wind stormed, things opened
up,
and right away
Everyone understood: that's the end
of the play.
And this isn't an autumn but death
showing its hand.
Akhmatova
1943
Ba thu
Tôi đếch làm sao
hiểu mùa xuân cười
Và mùa đông chẳng
có tí “đẹp zai” gì đối với tôi
Nhưng, chẳng khi nào lầm lẫn,
Tôi ngửi ra liền, và
ngộ ra rằng, có tới ba mùa thu
Mùa đầu tiên thì
là một cú loạng quạng của ngày nghỉ
lễ.
Hằn học với cái ăn chơi lu
bù mùa hè, của ngày hôm
qua.
Lá cây bay như những
trang, những mẩu, từ những cuốn sổ tay
Và mùi sương mù
mới ngọt ngào làm sao.
Mọi vật thì ẩm ướt, sặc sỡ,
long lanh sáng.
Những cây bu lô gia
nhập cuộc khiêu vũ sớm nhất
Bởi là vì chúng
được phủ bằng một bức màn xuyên thấu,
và kể như rũ bỏ liền tù
tì mọi giọt lệ thoảng,
qua hàng rào nhà
hàng xóm.
Và bây giờ, là
điều xẩy ra,
Khi bạn dùng một câu
chuyện để phá vỡ sự im lặng:
Một câu chuyện thứ nhì,
bèn tiếp theo liền, và rồi thì
Mùa thu thứ nhì tới,
ngán như là lương tâm,
Âm u như là tiếng còi
báo động máy bay Mẽo tới vùng trời Bắc
Kít
Và mọi tên Bắc
Kít, liền lập tức, xanh rờn, và già cằn
Sự gần gụi mùa hè kể
như không còn, đếch hiện hữu
Và xa thật xa, tiếng kèn
dòn dã, đường ra trận mùa này
đẹp lắm,
Vàng của chúng ta là
chiến lợi phẩm Miền Nam.
Âm nhạc lững thững trong không
gian, qua thềm sương mù thơm ngát.
Và trong những đợt hương
trầm, lạnh và xám
Miền đất cao, không ngập lụt,
được khóa cứng
Nhưng gió tới, như bão,
mọi vật mở toang
Và ngay lập tức
Mọi tên Bắc Kít đều
hiểu: Cuộc chiến chấm dứt.
Xề gòn bị làm thịt
rồi
Và đó, đếch phải mùa
thu - một mùa thu năm qua, cách mạng tiến
ra –
Mà là Thần Chết
Chìa bàn tay của nó
ra cho lũ Mít cùng nhìn thấy.
[Note: Dịch hơi bị THNM, nhưng
cực tới, hà, hà!
To SLN - sáng nay (ở Hội An),
Sep 14, 2012, đọc những bài thơ anh vừa lộng dịch,
cảm động vô cùng - with Tks. NQT]
THREE AUTUMNS
The smiles of summer are simply indistinct
And winter is too clear,
But I can unerringly pick out
Three autumns in each year.
The first is a holiday chaos
Spiting the summer of yesterday.
Leaves fly like a schoolboy's notes,
Like incense, the smell of smoke,
Everything moist, motley, gay.
First into the dance are the birches,
They put on their transparent attire
Hastily shaking off their fleeting
tears
On to the neighbour next door.
But as it happens, the story's just
begun.
A moment, a minute - and here
Comes the second, passionless as conscience,
Sombre as an air raid.
Everything suddenly seems paler, older,
Summer's comfort is plundered,
Through the scented fog float
Far-offmarches played on golden trumpets
...
A flagstone covers the sky vault.
Cold waves
Of incense. But the wind's started
to blow
Everything clean open, and straightway
It's clear that this is the end of
the play,
This is not the third autumn but death.
"serious",
theo GCC, không thể dịch là “trang trọng”,
solemn, mà là, nghiêm túc,
nghiêm trọng…
Hai người
yêu nhau, chàng tính chuyện lâu
dài, bèn đề nghị xin bàn tay,
xỏ cái cà rá, nàng sửng
sốt, nè, thiệt không đấy, đại khái như
thế.
Trang
trọng, nếu có là lúc khác,
khi cả hai đứng trước bàn thờ, trước hai họ.
Thí dụ vậy.
Thế gian
“biết” được gì.
Từ "biết"
này, cũng hỏng. Get, là được. Thiên
hạ “được” cái chó gì khi hai
kẻ yêu nhau, chứ “biết” làm khỉ gì!
Cái
từ serious này, GCC có 1 kỷ niệm thật
là tuyệt vời về nó, khi ở Trại Tị Nạn Thái
Lan. Thời gian đó, thanh lọc xong rồi, đậu rồi,
bèn được chuyển từ Trại Cấm Skiew lên Trại
Chuyển Tiếp, Transit, Panat Nikhom, gặp phái đoàn
Canada, nhận rồi, bèn được ra ngoài đời, là
Khu Y Tế Của Cao Uỷ, khám sức khoẻ, để lấy chuyến
bay. Cái tay bác sĩ trưởng, người Ý,
tên là Panza, hình như vậy, đã
từng gây lộn với an ninh Thái, về thái
độ của họ, đối với người tị nạn, Gấu Cái có
mấy cái truyện ngắn về ông này, chưa sửa
sang lại, để đem in.
Gấu nhắc
tới chuyện đó với ông ta, theo kiểu làm
quà, và, khi biết Gấu là nhà
văn Mít, ông mừng quá, nói,
tôi đương cần 1 tên như ông, hà,
hà!
Gấu trợn
mắt lé, ngạc nhiên. Ông giải thích,
Y Tế Cao Uỷ, tức ông ta, đang cần 1 người dịch
qua tiếng Mít, 1 bản văn bằng tiếng Anh, để sử dụng
cho 1 cái video phòng ngừa AIDS.
Thế là
ông trao cho Gấu bản tiếng Anh. Trong có
1 câu, đại khái, AIDS là 1
vấn đề rất serious.
Gấu bèn
nói, serious, không được, mà
phải là, dangerous.
Như Danger
De Mort, trong trường hợp điện cao thế.
Ông
đọc đi đọc lại bản văn, nghĩ 1 hồi, bèn gật
gù, đúng như thế.
Phải là
nguy hiểm chết người.
Bà
nữ thi sĩ Balan, nếu còn sống, và, nếu
đọc được những dòng này, chắc cũng sửa
lại câu thơ:
Lấy nhau
ư, nguy hiểm chết người đấy!
Hoặc, lắc
đầu bỏ đi, mi làm phiền ta quá, kiếp trước
mi đúng là con đỉa.
Hoặc, bây
giờ ta hết lãng mạn rồi.
Hoặc...
Bản tiếng Việt, theo GCC, cẩu
thả quá. Những từ “serious, get…” biết tí
tiếng Anh, là biết nghĩa, nhưng phải thật giỏi tiếng
Mít, và thật mê thơ, nói chung,
và mê thơ Szymborska, mới kiếm ra từ đắc địa/đắc
ý
Note: Trường hợp của vị thuộc
băng Hậu Vệ, cũng y chang. Tiếng Việt quá dở, sử
dụng quá dư thừa. Thơ, như Brodsky phán, là
nghệ thuật của sự tiết kiệm. Prospero khen nhà thơ Nobel
Transtromer, là "nhà thơ kinh tế". Văn của Coetzee cũng
Nobel, được “khen” là hà tiện đến chảy máu mắt.
Một nhà văn, nói
về GCC, được ông ta chê, thâu hoạch được
nhiều hơn, so với khen!
[Tks. Take Care. Happy Birthday.
TT/NQT]
Gấu đọc, rồi bỏ qua, chỉ đến
khi thấy mấy vị bằng hữu FB cũng xúm lại khen lấy
khen để, đành vì họ mà lên tiếng,
khen như thế, không chỉ làm hư 1 cây viết,
mà còn đánh lừa người đọc! (1)
Trên net, tờ Người Kinh Tế có bài viết
về Nobel văn chương năm nay của Prospero.
GCC mê
tay này lắm. Phê bình gia, điểm
sách gia số 1!
Cái chi tiết thần
kỳ mà Prospero khui ra từ thơ của Tomas Transtromer, [the Swedish
Academy has praised an oeuvre that is “characterised by economy”],
làm GCC nhớ tới Brodsky, qua đoạn viết sau đây:
Bài
thơ đâu khác chi một giấc mơ
khắc khoải, trong đó bạn có được
một cái chi cực kỳ quí giá: chỉ
để mất tức thì. Trong giấc hoàng lương ngắn
ngủi, hoặc có lẽ chính vì ngắn ngủi,
cho nên những giấc mơ như thế có tính
thuyết phục đến từng chi tiết. Một bài thơ, như định
nghĩa, cũng giới hạn như vậy. Cả hai đều là dồn nén,
chỉ khác, bài thơ, vốn là một hành
vi ý thức, không phải sự phô diễn rông
dài hoặc ẩn dụ về thực tại, nhưng nó chính
là thực tại. Cho dù tất cả sự phổ
quát gần đây của tiềm thức, sự tuỳ thuộc của
chúng ta vào ý thức vẫn lớn hơn.
Nếu trách nhiệm bắt đầu (ngay từ) trong giấc mơ,
như thi sĩ Delmore Schwartz đã có lần diễn tả,
rốt ráo ra, những giấc mơ được thể hiện và
hoàn tất ở trong những bài thơ. Bởi thật là
ngốc nghếch nếu gợi ý rằng có một đẳng cấp giữa
những thực tại phức biệt, người ta có thể lập luận rằng
toàn thực tại hướng vọng tới điều kiện của một bài
thơ: nếu chỉ vì lý do tiết kiệm. Sự tiết kiệm này là
"lý do hiện hữu" tối hậu của nghệ thuật,
và toàn thể lịch sử nghệ
thuật là lịch sử của những phương tiện dồn nén
và súc tích. Trong thơ, đó
là ngôn ngữ, tự thân nó, là
một bản sao của thực tại được cô đọng cao độ. Nói
tóm lại, bài thơ sản sinh hơn là phản
ánh. Vậy nếu một bài thơ đề cập tới một chủ đề
huyền thoại, điều này có nghĩa là một thực
tại quan sát chính lịch sử của nó - hoặc nếu
bạn muốn - điều này có nghĩa là, một
hậu quả đặt tấm gương khuếch đại cạnh nguyên nhân
và bị chói loà bởi nó. Bài thơ "Orpheus.
Eurydice. Hermes" đúng là như thế,
bởi nó chính là chân dung
tự hoạ của tác giả với cái kính khuếch
đại cầm trên tay, và người ta, qua bài
thơ này, biết được nhiều về tác giả hơn là
bất kỳ cuốn tiểu sử nào về ông có thể cung
ứng. Cái tác giả ngắm nhìn chính
là cái tạo nên ông, nhưng kẻ ngắm nhìn
thì rõ ràng hơn, bởi vì bạn chỉ có
thể ngắm nhìn một cái gì từ bên ngoài.
Đó là sự khác biệt giữa một giấc mơ và
một bài thơ đối với bạn. Có thể nói, thực
tại là của ngôn ngữ, tiết kiệm là của nhà
thơ.
AMID the flurry of last-minute
bets for Bob Dylan (once rated by bookies
at 100/1), a relatively unknown Swedish poet,
Tomas Tranströmer, has won the Nobel prize for literature.
“He is a poet but has never really been a full-time writer,”
explained Peter Englund, the permanent secretary of the
Swedish Academy, which decides the award. Though Mr Tranströmer
has not written much lately, since suffering from a stroke
in 1990 that left him partly paralysed, he is beloved in
Sweden, where his name has been mentioned for the Nobel for
years. One newspaper photographer has been standing outside
his door on the day of the announcement for the last decade,
anticipating this moment.
Born
in 1931, Mr Tranströmer began publishing poems
when he was in his early 20s. He has been translated into
60 different languages since then. But his output is
notably sparse—you “could fit it into a not too-large pocket-book,
all of it,” Mr Englund says. Mr Tranströmer wrote poetry
while working full-time, first as a psychologist and then
at the Labour Market Institute in Västerås. Any fame
he has enjoyed has been of the quiet, understated sort. In
announcing Mr Tranströmer’s victory, the Swedish Academy
has praised an oeuvre that is “characterised by economy”
and that grants “fresh access to reality”. He is the first
poet to win the award since Wislawa Szymborska in 1996.
Mr Englund
has had to defend giving the literature award once
more to a European (seven of the last ten have gone to
the continent), and also to a Swede. In doing so, Mr Englund
has perhaps had to deflect attention from the more pressing
question of why Mr Tranströmer won in the first place.
Perhaps that is a question that only Mr Tranströmer can answer,
in work that will finally be more widely read.
Tranströmer's
surreal explorations
of the inner world and its relation to the
jagged
landscape of his native country have
been translated into over 50 languages.
GCC dịch:
Những thám
hiểm siêu thực [TQ bỏ từ này]
thế giới nội tại, và sự tương quan của nó
[số ít, không phải những tương quan] với
những phong cảnh lởm chởm [TQ bỏ từ này luôn]
của quê hương của ông được dịch ra trên
50 thứ tiếng.
Mấy từ quan trọng,
TQ đều bỏ, chán thế.
Chỉ nội 1 từ “lởm chởm” bỏ đi,
là mất mẹ 1 nửa cõi thơ của
ông này rồi.
Chứng cớ:
The landscape of Tranströmer's
poetry has remained constant during his 50-year
career: the jagged coastland of his native Sweden,
with its dark spruce and pine forests, sudden light
and sudden storm, restless seas and endless winters, is
mirrored by his direct, plain-speaking style and arresting,
unforgettable images. Sometimes referred to as a "buzzard
poet", Tranströmer seems to hang over this landscape
with a gimlet eye that sees the world with an almost mystical
precision. A view that first appeared open and featureless
now holds an anxiety of detail; the voice that first sounded spare
and simple now seems subtle, shrewd and thrillingly intimate.
[Phong cảnh thơ TT thì
thường hằng trong 50 năm hành nghề thơ:
miền đất ven biển lởm chởm của quê hương Thụy
Ðiển với những rừng cây thông, vân
sam u tối, chớp bão bất thần, biển không ngừng
cựa quậy và những mùa đông dài
lê thê, chẳng chịu chấm dứt, phong cảnh
đó được phản chiếu vào thơ của ông, bằng
1 thứ văn phong thẳng tuột và những hình ảnh
lôi cuốn, không thể nào quên được. Thường
được nhắc tới qua cái nick “nhà thơ buzzard, chim
ó”, Transtromer như treo lơ lửng bên trên phong
cảnh đó với con mắt gimlet [dây câu bện thép],
nhìn thế giới với 1 sự chính xác hầu như
huyền bí, thần kỳ. Một cái nhìn thoạt đầu
có vẻ phơi mở, không nét đặc biệt, và
rồi thì nắm giữ một cách âu lo sao xuyến
chi tiết sự kiện, tiếng thơ lúc đầu có vẻ thanh
đạm, sơ sài, và rồi thì thật chi li, tế
nhị, sắc sảo, và rất ư là riêng tư, thân
mật đến ngỡ ngàng, đến sững sờ, đến nghẹt thở.]
Chỉ đến khi ngộ ra cõi
thơ, thì Gấu mới hiểu ra là,
1 Nobel văn chương về tay 1 nhà thơ là
1 cơ hội tuyệt vời nhất trong đời một người…
mê thơ.
Người
ta thường nói, thời của anh mà
không đọc Dos, đọc Kafka… thí dụ, là
vứt đi, nhưng không được nhìn thấy 1 nhà
thơ được vinh danh Nobel thì quả là 1 đại bất
hạnh!
Hà,
hà!
Tập thơ
Transtromer mà Gấu mới tậu - tậu, vì mới
ra lò, bản bìa cứng - người dịch
giới thiệu ông, như là nhà thơ của
cõi ngưỡng cửa, tạm dịch cái từ “liminality”,
như cái tít bài giới thiệu cho thấy,
Chào Buổi Tối, Sâu Đẹp Làm
Sao, "Good Evening, Beautiful Deep". Những bài thơ
trong tuyển tập, đa số có người dịch rồi, và
được dịch lại.
Không phải là Gấu
cường điệu khi phán, dịch thơ thì cũng
giống như khám phá ra Lò Thiêu!
Ấy là bởi vì,
đúng như cái bà Nobel Jelinek phán, sau Lò
Thiêu mà còn làm thơ, thì phải có
Lò Thiêu ở trong thơ: Trong thơ của thế giới qua 1 số tác
giả trên TV giới thiệu, như Charles Simic, Czeslaw Milosz, Adam Zagajewski, Wislawa Szymborka, có nỗi
đau Lò Thiêu, Lò Cải Tạo, Lò Lưu Vong, Lò
Gulag… đủ thứ Lò của thế kỷ ở trong đó.
Trong khi Mít, ngay cả
1 nhà văn lưu vong, sợ rằng cũng chưa từng có,
nói gì nhà thơ!
Có lẽ phải nói,
đúng hơn, Mít có những nhà
văn đã từng tự xưng là lưu vong, khi bỏ chạy
VC, bị hải tặc hãm hại, và sau đó, khi
đã cơm no ấm cật tại xứ người, thì lại mò
về, và coi mình bây giờ là nhà
văn di dân, chứ không còn lưu vong nữa!
Ngay cả những nhà thơ
ở, không về, trong thơ họ có tí mùi
Lò nào đâu.
Nếu có, thì là
mùi Lờ!
Đọc thơ của họ, chỉ thấy rặt 1 trò
chơi chữ, gọt chữ, chơi 36 kiểu, nào tân hình
thức, nào vác cầy qua núi… chỉ thấy
nhục cho chữ Mít, dân Mít, đó là
sự thực.
Gấu này đâu có
thù hằn, khi viết, khi đụng tới họ? DTL, ngoài
đời, là 1 bạn thân, nhưng khi Gấu viết về
anh, rất nặng nề, thí dụ, có dịp gặp nhau thì
lại mừng mừng rỡ rỡ. Cứ áo thụng vái nhau, thì
biết bao giờ thơ Mít mới có mùi thơ thế
giới?
Camden, 1882
The smell of coffee and the newspapers.
Sunday and its lassitudes. The morning,
and on the adjoining page, that vanity-
the publication of allegorical verses
by a fortunate fellow poet. The old
man
lies on a white bed in his sober
room,
a poor man's habitation. Languidly
he gazes at his face in the worn mirror.
He thinks, beyond astonishment now:
that man
is me, and absentmindedly his
hand
touches the unkempt beard and the
worn-out mouth.
The end is close. He mutters to himself:
I am almost dead, but still my poems
retain
life and its wonders. I was once
Walt Whitman.
-A.R.
Bài thơ này,
tình cờ Gấu lại thấy nó, trong
Borges Tám Bó. Post
sau đây.
Borges tưởng mình đang chết, khi tưởng mình
là Whitman, rồi Gấu chôm luôn,
tưởng Whitman là TTT, rồi tưởng tượng tiếp,
không phải TTT, mà là thằng em
của ông, GCC, đang chết!
BARNSTONE: Would you be willing to comment on the
poem you wrote about Whitman?
BORGES: Well, I don't recall the poem. Go ahead,
I am very curious. Why don't you read it in the English
translation where it will be greatly bettered? I
know you will be very disappointed. That poem is no good.
BARNSTONE:
CAMDEN 1892
The
smell of coffee and of newspapers.
Sunday and its boredom. It is morning.
Some allegorical verses are adorning
The skimmed over page: the vain pentameters
Of a happy colleague. The old man lies
Stretched out and white in his respectable
Poor man's room. Lazily he fills
The weary mirror with his gaze. His eyes
See a face. He thinks, now unsurprised: that face
Is me. With fumbling and he reaches out
To touch the tangled beard and ravaged mouth.
The end is not far off. His voice delares:
I am almost gone, and yet my verses scan
Life and its splendor. I was Walt Whitman
[Trans. Willis Barnstone]
BORGES:
It's quite good, eh? Not too good but quite good,
as far as it goes. That's the human Whitman only, not
the myth.
BARNSTONE: Whitman thought of himself as a prophetic
figure, writing a kind of Bible.
BORGES: Well, he did!
BARNSTONE: Frequently in your stories and poems,
you don't write a Bible, but you aspire to secrets,
to enigmas, to a single word.
BORGES: I am constantly being baffled by things.
BARNSTONE : You go different routes. Your work gets
simpler and simpler, fewer and fewer words.
BORGES: Yes, I agree.
BARNSTONE: If Whitman could throw in an adjective,
he did so.
BORGES: He did only too often, I should say.
BARNSTONE: His work might have been called
Broad Leaves of Grass, because
he usually added words to intensify, often not with
the best results. What do you think of the fact that this
poet, who is marvelous and uneven, manages-
BORGES: But he is marvelous
and uneven. Silvina Ocampo said to me that a poet
stood in need of bad verses. If not, the others would
not stand out. We were commenting on Shakespeare. I said
he has many bad verses. And she said: "That's all to the
good. A poet should have bad verses." Only secondary poets
write only good verses. Out of politeness you should have bad
verses.
BARNSTONE: Eliot said there should be weaker words
among the stronger ones so that the lines do not
become crabbed. But among the hack works which you
claim you have done was to translate a book of Walt
Whitman's poetry. You say that Walt Whitman was your poet and
meant so very much to you. What did he teach you?
BORGES: He taught me to be straightforward. That
was the one lesson I learned from him. But teaching,
after all, is not important. The fact is that I
was overwhelmed by emotion, that I knew pages and pages
of his work by heart that I kept on saying them to myself
in the day und in the night. I think that what’s
important is the way a man is moved when he reads poetry.
If a man doesn't feel poetry physically, then he doesn't
feel poetry at all. He had better become a professor or a critic.
I think of poetry as being a very personal and a very important
experience. Either you feel it or you don't. If you feel
it, you don't have to explain it.
Nếu
có thể, xin ông đi 1 cái còm,
về bài thơ của ông, về Whitman
Quán Chùa, trước 1975
Mùi cà phê và
tờ nhựt trình
Chủ nhật mệt
Buổi sáng
Và trên trang báo
kế bên
Là cột thơ vô thường,
hư danh
Của 1 nhà thơ may mắn, một đồng
nghiệp
Anh già nằm
Trên cái giuờng trắng,
Trong căn phòng khiêm
tốn
Nơi ăn chốn ở của 1 người đàn
ông nghèo.
Uể oải, ông nhìn mặt mình
trong tấm gương, cũng bệ rạc, mệt nhoài
như ông
Ông già nghĩ, không
ngạc nhiên cái con mẹ gì
hết: Tên
đàn ông này, là
tớ
Và lơ đãng, ông
lấy tay của mình sờ bộ râu của mình
Và cái miệng, cũng của
mình
Một cái miệng tan hoang, bị
thời gian ăn mòn đến nhão nhẹt,
mếu máo.
Tới giờ lên tầu rồi, cha nội!
Ông lầm bầm với chính
mình:
Tớ hầu như ngỏm củ tỏi.
Nhưng thơ của tớ, còn
Nào bia mộ, nào bi khúc,
nào,
Ôm em bữa nay
Mà sẽ nhớ hoài, những
bữa khác
Trong thơ của tớ
Đời và những kinh ngạc, bỡ ngỡ
của nó, sẽ còn hoài.
Tớ, đã từng có 1 thời,
Là nhà thơ Thanh Tâm
Tuyền!
Borges:
Cũng không đến nỗi nào, phải không
bạn. Đây là 1 Whitman con người, không
phải 1 huyền thoại
Ông
ta nghĩ về ông ta như là 1 hình
tượng tiên tri, viết 1 thứ Thánh Kinh
Borges:
Quả có thế!
Thường
ra thì trong truyện ngắn và thơ, ông
- Borges - không viết 1 cuốn Thánh
Kinh, nhưng thèm tới được bí mật, bí
ẩn, tới được một từ.
Borges:
Tôi thì cứ bị luẩn quẩn, với những sự
đời.
Ông
đi những con đường khác. Tác phẩm
của ông giản dị, ngày càng giản
dị, ngày càng ít từ ngữ.
Borges:
Tôi đồng ý với bạn.
Nếu
Whitman thích ném ra 1 tính từ,
là ông ta ném liền.
Borges:
Ông ta thường làm như vậy.
Tác
phẩm của ông ta có lẽ nên được
đặt tên là Bướm Rộng, thay vì,
Bướm, (1) bởi là vì ông ta thường
cho thêm nhiều từ, để nhấn mạnh, để làm
cho nó hoành tráng, và kết
quả thì không được như ý của ông
ta.
Ông
có nghĩ rằng, nhà thơ, quả là
thần sầu, quả là không giống ai này,
có thể thay đổi, sửa đổi, gia giảm…
Borges:
Nhưng ông ta “thì” tuyệt vời, thì
“số 1”. Silvina Ocampo có lần nói
với tôi, một nhà thơ bảnh tỏng, là
vì những câu thơ dở của người đó.
Ông ta cần chúng. Nếu không có
những câu thơ dở, là đám kia té
bổ nhào liền. Lấy trường hợp Bùi Giáng,
hay Shakespeare, hai ông này thì
đầm đìa những câu thơ dở như hạch. [GCC nhớ
Thầy Thục chê Bùi Giáng không
biết làm thơ, và nếu biết làm thơ,
thì làm toàn thơ dở!] Tôi [Borges]
nói, ông ta có rất nhiều câu
thơ dở, và bà ta bèn nói, phải
như thế mới được, không thì bỏ mẹ. Một nhà thơ
nên có những câu thơ dở. Chỉ
những nhà thơ hạng nhì
mới làm toàn những câu thơ bảnh!
Nhớ
nhé, ông GNV, lâu lâu, vì
lịch sự, out of politeness, ông nhớ làm
thơ dở cho độc giả TV thưởng thức nhe!
Xin
lĩnh ý!
NQT
(1)
Rừng
Lá Thấp, "như lính giữa rừng yêu
lá thấp".... Liệu "Yêu Lá Thấp",
"Lá Cỏ", "Leaves of Grass", có chung 1
ẩn dụ?
Frosty
day. A winter sun. White breath.
But
on this Friday we didn't know
what
to celebrate and what to mourn -
it
was Holocaust Memorial Day
and
Mozart's birthday.
Our
memory was perplexed.
Our
imagination lost its way.
The
candle on the windowsill wept
(we'd
been asked to light candles),
but
the gentle music of young Mozart
reached
us from the speakers, rococo,
the
age of silver wigs and not the gray hair
we
knew from Auschwitz,
the
age of costumes, not of nakedness,
hope
and not despair.
Our
memory was perplexed,
our
imagination grew lost in thought.
Adam
Zagajewski: Unseen Hand
27 TẾT
Ngày
lạnh giá. Mặt trời mùa đông.
Hơi thở trắng
Nhưng
vào Thứ Sáu này chúng
ta không biết
Ăn
mừng cái gì, và than khóc
cái gì –
Đó
là ngày Tưởng Niệm Lò Thiêu
Và
sinh nhật Mozart.
Trí
nhớ của chúng ta lúng túng.
Trí
tưởng tượng trật đường rầy.
Ngọn
nến nơi cửa sổ khóc
(chúng
ta được yêu cầu thắp nến)
Nhưng
nhạc êm dịu của Mozart khi còn trẻ
tới
lỗ tai chúng ta từ mấy cái loa, cổ lỗ
sĩ,
thời
tóc giả màu bạc, không phải tóc
xám
mà
chúng ta biết từ Lò Thiêu,
thời
quần áo, không phải khoả thân
Hy
vọng, không phải thất vọng.
Trí
nhớ của chúng ta lộn tùng phèo,
Trí
tưởng tượng của chúng ta lạc lối về.
Jan 27
Note: Trong Slight Exaggeration,
AZ viết về Jan 27. Cả 1 đoạn dài, sau đây, là
để giải thích bài thơ trên
đây.
January 27. Very cold,
snow. Winter now reveals all its vulgar, predictable
tricks; the city's life grows slower, pedestrians flounder
in superfluous snowdrifts. Intellectual life also decelerates.
Winter is a provincial prestidigitator who's only really mastered
one trick: transforming water into ice and snow, and then turning
it back into dirty water again. For some time now-ever since recognized
the potent symbols the date contains-this day has fascinated me,
combining as it does two dimensions of our historical moment. January
27 marks the anniversary of what is called the "liberation" of
Auschwitz, and thus it is Holocaust Remembrance Day. It's also Mozart's
birthday. There's no mistake here. And no coincidence. Wolfgang Amadeus
Mozart was born on January 27, 1756, in Salzburg, and the Russians
entered Auschwitz on January 27, 1945. The soldiers of the Sixtieth
Army of the First Ukrainian Front, as the press release wrote, "opened
the gates of KL Auschwitz," where only seven thousand prisoners remained.
I prefer the phrase "opened the gates": liberation suggests energy, the
meeting of two forces, but there, within the barbed wire, only sick, utterly
depleted, dying inmates could be found. As we know, the SS forces had
driven more than fifteen thousand prisoners out of the camp, condemning
most of them to death from exhaustion. Which is why it's called the death
march. Among the prisoners who trudged across Silesia's snow-covered
roads (it's difficult to speak of a march, it was a death crawl),
one was missing: a timid Italian chemist, Primo Levi, who fell
ill and stayed behind in the camp infirmary. This miraculously saved
his life; as we know, he survived and later wrote his superb books.
It's hard to imagine a day more deeply divided, more complex, more ambivalent,
a day that reveals the nature of our reality more completely.
Every
year on January 27, a gathering converges on the
grounds of the former camp: warmly dressed politicians, news
crews wrapped in thick sheepskin coats, and an ever-dwindling
number of old people who survived the Holocaust. When the
anniversary falls in a new decade, the cameras and political
leaders of various nations proliferate. In more modest years,
the list of renowned political leaders contracts, journalists
find other stories, famous newscasters head elsewhere. The same
holds true, conversely, of Mozart. In the years when the anniversary
isn't round, the number of articles on the great composer drops
sharply, while television forgets him completely or gives him
only a quick mention. When a more noteworthy anniversary approaches,
is upon us, Mozart once again becomes the genius we adore. But I
shouldn't joke, January 27 is exceptionally serious, it poses a crucial
question every year. How is it possible to remember Auschwitz's horror
each year, not just to remember it, but to integrate it into our worldview,
our perception of reality, so deeply that- as the philosophers and theologians
say-we're prepared to admit that human history falls into two periods,
before and after Auschwitz, and still, on that same day, find the
time and peace of mind to celebrate Mozart's splendid music?
This
music combines rococo elements, sometimes almost frivolous,
comic, cheerful, full of fireworks and fantasy, with deeply
tragic moments, as in, to give just a couple of examples,
the somber, tragic finale of Don Giovanni
or the uncannily beautiful Requiem.
I can't compile a list-even a purely subjective one-of Mozart's
works, this isn't the place for it, I don't have room, and that's
not the point in any case. I only recently discovered the "Andantino"
from the relatively early Piano Concerto no. 10, K. 271, with
Murray Perahia. I've long loved the Eighth Piano Sonata, K. 310,
written in Paris in the spring of 1778, while his mother lay sick and
dying, melancholy in the "Andante cantabile con espressione," but
opening with such swagger and glee that it might be some March of the
Visionaries (if we could imagine such a thing; in fact, it's a psychological
impossibility, since visionaries don't march, they most likely run,
in any case they don't march in military formation, but if we were to
imagine it, it would be the "Allegro maestoso" from the Eighth Sonata).
I listen to Dinu Lipatti's rendition, to the famous recording from
the Romanian pianist's last concert-he was already ill, near death-in
Besancon, Whereas in the Requiem, especially in
the movement called "Lacrimoso," the music's beauty and sorrow are
almost beyond bearing. The whole world seems to weep in the "Lacrimoso"
(in our more sentimental moments, we think it weeps for us, but we
are of course grossly mistaken). The whole world sobs in the "Lacrimosa,"
and its grief isn't maudlin. Mozart is a tragic composer, great, one
of the few artists about whom we don't fear to use the now spurned
word beauty.
Whereas
when we speak, or even think, of Auschwitz, we forget
music completely, we suddenly find ourselves in a different
register, in a black-and-white film. Numerous specialists
on the Holocaust are among us, historians, writers, survivors,
non-survivors, filmmakers, journalists, activists, and archivists.
I may be mistaken, but I suspect that Mozart
is an empty word for them, just like the word beauty.I may be wrong. But in principle this should
be true: Auschwitz and beauty
are terms that shouldn't turn up in the same company. We also
have scholars among us who specialize in Mozart, professors who
know all there is to know about eighteenth-century music, who
understand the language of forms created in eighteenth-century art.
And some of them certainly don't want to think about Auschwitz;
their subject-as they would no doubt say-is far more interesting.
They resurrect people in powdered wigs, courtiers in splendidly
embroidered silk attire, and they resurrect Mozart's extraordinary
story, his final years, for example, when his music fell
from favor with the Viennese public, while he grew ill and composed
the Requiem, which, as we know, he never
finished (you can't complete your own Requiem, after all).
So how can this be-since Auschwitz closed something in human history,
shut a certain chapter, cut us off from certain levels of sensitivity,
we shouldn't be celebrating the birth of any composer on that
day.
Especially Mozart's birthday,
with his rococo, his indescribable grace. But these
elements, these layers, refuse to admit defeat, they have
no intention of vanishing, they have no desire to curl up like a
piece of paper tossed into the fire. Mozart was born on January
27. On January 27, Russian soldiers entered KL Auschwitz. And
we're living now, in January, but also in May and June, in
September and November; we're living, endowed with memory, we
remember both Mozart and Auschwitz.
We're
alive, we listen to music, and sometimes, not always,
we're able to concentrate, to open ourselves, we experience
it deeply and painfully, we feel its beauty, which links
despair and joy, and this presentiment, so rare, and yet so
real, this presentiment of something that far exceeds us, belongs
to a higher order that we might call divine, if such words
didn't embarrass us. And we don't forget about Auschwitz, this
experience doesn't distance us from this horror, sometimes we even
manage to experience rapture and recollect horror simultaneously,
but afterward, when we've come down to earth, we try to incorporate
this experience into the entirety of our worldview, and we conclude
that those who insist that Auschwitz has ended something forever,
has shut the gates to certain regions, are mistaken, they don't
know what they're talking about, or perhaps they've fallen into
rhetorical exaggeration, guided by noble impulses, wishing,
quite rightly, to underscore the enormity of this crime, its incomprehensible
extremity. The world after Auschwitz will always
be different, after Auschwitz and all the crimes that accompanied
it. The world has been shattered and mended like a Chinese porcelain
vase. But Mozart was born in Salzburg on January 27 just the same,
and his music lives, sings in the great pianists, conductors,
cellists, and violinists, who enter it as one enters a river in
July or August, who submerge themselves completely, up to the neck.
It also lives in us, the dilettantes, who can't produce a single
note, but also-now and then-we permit it to dwell in us, we offer
it shelter, we sustain it for a bit, we take it in-after which we
quickly discover that it has in fact received us instead, the situation's
suddenly reversed, music is our host and we are its guests. To cut
off these levels of being, these branches, these regions, to decree
that they've ceased to exist, that there can be no beauty-
this means declaring, not directly, but by way of an almost Aristotelian
syllogism, that they carried the day, those relentless organizers
of the death camps, the KL, Hitler, and the Nazis were victorious, they
succeeded in reducing our humanity, in making us consider only them,
we've exaggerated the obligations of memory. This is why January 27,
a day containing two dates, demands so much thought, it holds the elements
of which we're made, both the lowest and the highest, and hence our
winter calendar is not nearly so accidental, so aleatory as it might
appear to visitors from another planet-or another continent. The winter
calendar is severe, demanding, but it knows what it's about, it orders
us to consider what we are and why we must live in doubleness, in difficult,
impossible doubleness .
******
Since everything is divided
into brief moments of certainty and the endless, systematic
plateaus of persistence, into poems and prose, preludes
and symphonies, laughter and tears, we've long searched
for the theoretician who could, with an ideal prestidigitator's
smile, tell us how to live between these two forces, how and
where to hide-or just the opposite, where and how to break ranks
and boldly raise our voices.
The
instant, brimming with happiness, the instant of the
great promise, the moment of illumination, of poetry, of
faith, and the slow river of narration that winds between them,
the sequence of days and nights, days, industrious or lazy, dark
or radiant with expectation-when will the world pronounce its
next word?-and nights, when strange, impassioned dreams blossom,
dreams that we can't understand. And so we live, torn between brief
explosions of meaning and patient wandering through the plains of ordinary
days. Will these two parts of life ever fuse? I liked thinking about
this. I liked thinking about people reading books in the Paris metro,
since they are underground, in the earth's dark shadow, in the artificial
light of electric bulbs, with the mute, graffiti-covered walls of corridors
and tunnels rushing by their windows. I also liked traveling on the Paris
metro during the hours when the intense rush of morning crowds had
subsided and the equally intense thrust homeward had not yet begun,
the ebb and flow of this statistical ocean, whose times and dimensions
could be predicted as precisely as the sea's notions.
Above
us, in the airplanes, someone is also reading a book-
most often one with shiny covers, devoid of mystery, constructed
on simple premises and the sincere desire for abundant
royalties, but it may also be that someone up in those expanses
is studying a Sufi epic or Dante and will experience illumination.
And if this reader looks out the little window, he or she
will see not black walls, as in the metro's labyrinths, but
the white gleam of
Bài thơ này của Borges, tôi
dịch đầu năm 2011 từ tiếng Anh. Khi ấy tôi vẫn còn
chưa học tiếng Tây Ban Nha, và vẫn chưa bị
"đóng đinh" quá nhiều để cần phải "biện chính
cho những gì làm tôi thương tổn". Nhân
ngày sinh của Borges (24/08/1899), xin post lại bài
thơ, mà những câu trong đó thường xuyên
trở về với tôi, nhất là mỗi khi bị ném đá
(hoặc bị ném... giày).
---
JORGE LUIS BORGES (1899-1986) Kẻ
tòng phạm Người ta đóng đinh tôi. Tôi phải
là đinh, là thập tự giá. Người ta đưa tôi một
cái chén. Tôi phải là thuốc độc. Người ta lừa
tôi. Tôi phải là lời n…
phanquynhtram.com
Note: Chắc là nhắc
tới GCC, vì đã có lần dám
sửa thơ dịch của vị này, đúng bài
thơ trên.
Nhưng quả là dịch
dở thật, do dùng chữ bừa bãi, dư thừa,
và do không rành tiếng Việt.
Đây là nhược
điểm của hầu hết những người viết trẻ ở hải ngoại.
Tiếng Anh thì cũng chỉ đủ để sử dụng ngôn ngữ
giao tiếp thường ngày, Tiếng Việt thì quá
tệ. Vị này đã từng dịch từ adultery, ngoại tình,
là tà dâm – cái gì gì,
làm thơ là tà dâm trong 1 thoáng,
khi dịch 1 bài viết của 1 tác giả nước ngoài,
và, nhầm, chỉ 1 từ như vậy, làm hư hết 1 bài
viết, nguyên tác, và còn hiểu
sai cả 1 dòng văn học hiện sinh, với chủ đề “lưu đày
vs quê nhà”, qua truyện ngắn "Người đàn
bà ngoại tình" của Camus.
Gấu đọc vị này từ
lâu rồi, khi lướt net, nhưng chẳng để ý,
vì cùng băng Gấu đã có thời
gian cộng tác.
Nhưng lạ, là, trong
số những người khen vị này, dịch hay quá,
có mấy vị Gấu quen, thế là đành mất
chút thì giờ, để đọc, để đưa ra những nhận xét
đúng mức, về thơ dịch không của chỉ vị này,
mà của rất nhiều vị khác.
Có hai vấn đề, trong
dịch thuật, và quá nữa, trong việc viết
bằng tiếng nước ngoài.
Bạn phải thật giỏi tiếng
Việt, hoặc thật giỏi tiếng nước người, hơn cả đám
mũi lõ.
Đây là ý
của Rushdie, khi ông ta cho rằng, chỉ có
cách, viết văn bằng tiếng nước người thì mới
hết vong thân, nhớ đại khái. (1)
Lạ, là fan của vị
này đông lắm!
Chẳng ai dám chê
cả, cũng càng lạ!
NQT
Sở dĩ những nhà văn
di dân được giải này giải nọ, là
vì họ viết, hoặc 1 thứ tiếng Anh khác thứ tiếng
Anh trước đó, trước thời kỳ có cú bùng
nổ di dân, hoặc đem đến cho tiếng Anh, 1 cái gì
đó, trước đó không có, hoặc có,
nhưng lũ mũi lõ, hoặc không để ý tới, hoặc
không nhận ra, hoặc hoặc....
Mít chưa có
tên nào viết nổi thứ tiếng Anh đó
hết.
Tiếng Tẩy thì có
Linda Lê. Bảnh hơn cả Tẩy chính gốc!
Cái gì làm
Mít tệ như thế?
Có thể là do
đạo hạnh, theo nghĩa của Brodsky, khi ông coi
mỹ là mẹ của đạo hạnh.
Trường hợp rõ nhất,
là của Sebald. Ông viết 1 thứ tiếng Đức
lệch ra khỏi dòng văn học viết bằng tiếng Đức, dòng
chính, như thường gọi.
Có thể là do
đạo hạnh: Viết, dịch dở như hạch mà mong được
đóng đinh như Chúa!
NQT
(1)
Salman Rushdie, một trong những
đứa con của giờ Tý thì cho rằng, muốn giải
phóng ra khỏi giấc mơ (muội) vong thân trong
ngôn ngữ là phải viết văn bằng tiếng Anh. Trong
bài viết "Quê hương tưởng tượng", ông viết:
Chinh phục tiếng Anh có lẽ là hoàn tất tiến
trình giải phóng của chúng ta.
Vả chăng, vẫn theo ông,
những nhà văn Anh gốc Ấn khó mà
từ bỏ tiếng Anh. Con cái của họ lại càng khó
hơn nữa, vì đây là ngôn ngữ thứ
nhất của chúng. Phải chấp nhận, đối với tất cả và
chống với tất cả. Theo từ nguyên học, "dịch", traduire,
là từ tiếng La tinh "traducere", "mener au de-là",
dẫn (đi) đằng đó. Bị đá văng ra khỏi nơi chôn
rau cắt rốn, chúng ta đều là những con người "bị dịch"
(nous sommes des hommes "traduits"). Cho dù ‘dịch là
chết ở trong hồn một tí’, ông vẫn khăng khăng với ý
nghĩ, rằng có một chút chiến lợi phẩm, mỗi khi đi
ăn hàng!
Mấy cái lỗi về dịch thuật,
nếu gặp 1 người khác, họ sẽ nhận ra, và
cám ơn.
Như vị chủ nhân trang Da
Màu, thí dụ.
Thu Cam On
Thuy Dinh
To
quocoai_sontay@yahoo.com
Today at 1:05 PM
Kính chào
nhà văn Nguyễn Quốc Trụ,
Chân thành
cám ơn ông đã đề nghị sửa tựa bản
dịch "Viết lịch sử nhỏ về một không tưởng lớn" bằng cách
bỏ mạo từ xác định "la" cho câu văn dịch sang
tiếng Việt được mạnh hơn. Ông chỉ rất đúng.
Cũng cám ơn ông
đã góp ý trên Tin Văn cho
bản dịch Lưu Hiểu Ba cách đây bốn năm. Tôi
có nhớ mình đã sửa lại một vài
chỗ vì cách dịch của ông đã làm
câu văn gọn, và mạnh hơn.
Mong ông nhận lời
cám ơn (có thể bị ông coi là
hơi trễ). Là một người viết tị nạn - chứ không
phải là một sinh viên du học trước 1975 - tôi
hoàn toàn không có sự lựa chọn
về nơi mà tôi đã lớn lên và
hấp thụ một sinh ngữ, văn hoá khác. Tôi chỉ
là một nữ sinh 13 tuổi khi Saigon mất. Học hỏi, duy trì
tiếng Việt và văn chương Việt ở một xứ sở hoàn toàn
xa lạ, như ông biết, là một đam mê vô vị
lợi. Có lẽ sự đam mê này cũng xuất phát
từ tâm trạng bất an ("không chính thức",
illegitimate) của một người bị giằng co giữa hai, hay nhiều ảnh
hưởng văn hóa. Dù sao thì cũng rất mong có
được sự ủng hộ và khuyến khích từ những người đi
trước, như ông.
Tôi rất thích
đọc những tài liệu của báo Văn, và
những bài phê bình đăng trước 75 của
ông, như bài viết về Nguyễn Xuân Hoàng
và Thanh Tâm Tuyền. Những tài liệu
đặc sắc này đã giúp tôi kiếm đọc
lại những tác phẩm của các nhà văn này.
(Hiện tôi đang đọc Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền
và hy vọng sẽ có dịp chia sẻ với ông ở vị
trí một người đọc tác phẩm khoảng 60 năm sau lần
xuất bản đầu tiên).
Một lần nữa, cám
ơn ông. Kính chúc ông mạnh khoẻ.
Trân trọng,
Đinh Từ Bích Thuý
Lecons de ténèbres
But are they lessons, all these things I learn
Through
being so far gone in my decline?
The wages
of experience I earn
Would service
well a younger life than mine.
I should
have been more kind. It is my fate
To find
this out, but find it out too late.
The mirror holds the ruins of my face
Roughly
together, thus reminding me
I should
have played it straight in every case,
Not just
when forced to. Far too casually
I broke
faith when it suited me, and here
I am alone,
and now the end is near.
All of my life I put my labour first.
I made my
mark, but left no time between
The things
achieved, so, at my heedless worst,
With no
life, there was nothing I could mean.
But now
I have slowed down. I breathe the air
As if there
were not much more of it there
And write these poems, which are funeral songs
That have
been taught to me by vanished time:
Not only
to enumerate my wrongs
But to pay
homage to the late sublime
That comes
with seeing how the years have brought
A fitting
end, if not the one I sought.
Những bài học của Bóng
Tối
Chúng là những bài học
Tôi
trải qua khi xuống chó
Tiền xương
máu mà tôi có được đó
Sẽ giúp
rất nhiều cho 1 tên đàn em của tôi,
giả như có.
Tôi
sẽ trở nên dịu dàng, khả ái hơn
Đúng
là số mệnh của tôi, biết điều này,
Nhưng quá
trễ
Cái gương giữ những điêu tàn của
bộ mặt của tôi
Nhìn
chung thì là như thế này:
Nó
nhắc nhở tôi
Trong mỗi
trường hợp, đúng ra
Tôi
phải xử sự thật là bảnh
Chứ không
phải, chỉ khi nào bó buộc lắm, thì
mới bảnh 1 tí, 1 lát, rồi thôi!
Tôi
vờ niềm tin, làm nó bể nát, khi
nó cần tôi
Và
bây giờ tôi trơ cu lơ một mình,
ở đây
Và
cạn láng đời
[suite]
Winter Plums
Two winter plum trees grow beside my door.
Throughout
the cold months they had little pink
Flowers
all over them as if they wore
Nightdresses,
and their branches, black as ink
By sunset,
looked as if a Japanese
Painter,
while painting air, had painted these
Two winter plum trees. Summer now at last
Has warmed
their leaves and all the blooms are gone.
A year that
I might not have had has passed.
Bare branches
are my signal to go on,
But soon
the brave flowers of the winter plums
Will flare
again, and I must take what comes:
Two winter plum trees that will outlive me.
Thriving
with colour even in the snow,
They'll
snatch a triumph from adversity.
All right
for them, but can the same be so
For someone
who, seeing their buds remade
From nothing,
will be less pleased than afraid?
Surely the young king must have been blind to pity
As he spoke the
order: 'Destroy Thebes utterly.'
The old general
gazed, and knew this place to be ...
ALEXANDER AT THEBES
Surely the young king must have been blind to pity
As he spoke the
order: 'Destroy Thebes utterly.'
The old general
gazed, and knew this place to be
No better than he
remembered it, a haughty city.
Put it all to the
fire! There were wonders - gate
And tower and temple
- everywhere the king searched,
But suddenly his
face brightened with a thought:
'Be sure that the
house of the Poet is not touched.'
Leningrad, October 1961
NATIVE SOIL
There's
Nobody simpler than
us, or with
More pride, or fewer
tears.
( 1922)
Our hearts don't
wear it as an amulet,
It doesn't sob beneath
the poet's hand,
Nor irritate the
wounds we can't forget
In our bitter sleep.
It's not the Promised Land.
Our sbuls don't
calculate its worth
As a commodity to
be sold and bought;
Sick, and poor,
and silent on this earth,
Often we don't give
it a thought.
Yes, for us it's
the dirt on our galoshes,
Yes, for us it's
the grit between our teeth.
Dust, and we grind
and crumble and crush it,
The gentle and unimplicated
earth.
But we'll lie in
it, become its weeds and flowers,
So unembarrassedly
we call it - ours.
1961, Leningrad
Note: Ấn bản phổ thông everyman's library. Đa
số đã post trên Tin Văn, nhưng bản dịch tiếng Anh khác
nhau. Đi hai bài, mới tinh.
ON THE ROAD
This land isn't native to me and still
It's given me memories time can't erase,
In its sea, water is tenderly chill,
Of salt it bears not a single trace.
The air intoxicates like wine,
Under the sea is sand, chalk-white.
And the rosy body of every pine
Is denuded as sunset beckons night.
And the sunset itself in waves of ether
Is such that I can't say with certainty
Whether day is ending, or the world, or whether
The secret of secrets is again in me.
1964-1965
Anna Akhmatova
Trên lộ
Đất này
không phải là quê hương của
tôi
Nhưng nó
vẫn cho tôi những hồi ức thời gian không
thể xóa nhòa
Trong biển
của nó, nước lành lạnh
Không
1 tì vết của muối
Khí
trời làm say, như rượu vang
Biển, cát,
trắng như phấn
Và
mỗi cây thông
Thì
hồng hồng
Như một em
cởi truồng, và nắng bèn ngoạm em một
vài phát
Khi buổi
chiều gật
gù, nhường chỗ cho màn đêm.
Và
hoàng hôn, chính nó, thì
như những đợt ê te
Chính
vì thế mà tớ không sao phán chính xác
Về ngày
đang hết,
Hay thế giới,
Hay,
Niềm bí
ẩn của những bí ẩn
Lại ngoạm
luôn cả tớ
The
loss of true feelings and words renders us
Actors gone
deaf or painters gone blind,
It's the same
loss when women find
Time has made
them no longer gorgeous.
But do not
try to keep or protect
That which
was given to you from heaven:
We know we're
supposed to be like leaven-
We're condemned
to squander, not to collect.
So walk alone,
and heal the blind,
That in the
difficult hour of doubt
You may see
your disciples mock and gloat,
And note the
indifference of the crowd.
1915
Mất tình
cảm thực và lời thực
Khiến chúng
ta,
Kịch sĩ trở
thành điếc và họa sĩ, mù.
Cũng 1 thứ
mất mát như thế
Khi đờn bà
nhận ra
Thời gian
khiến họ
không còn lộng lẫy như xưa
Nhưng đừng
cố gắng gìn giữ, hay bảo vệ
Cái
mà Thượng Đế ban cho từ Thiên Đàng:
Chúng
ta biết, chúng ta phải giống như là
men cay/say
Chúng
ta bị kết án phải ban phát, và
rất cần hoang phí
[Đờn bà
rộng miệng thời… sang, như lũ Mít thường
nói]
Đừng thu gom,
lượm lặt
Vậy thì,
hãy bước một mình, và hãy
chữa lành người mù
Rằng, vào
cái giờ khó khăn của hồ nghi
Bạn có
thể nhìn thấy lũ đệ tử chế nhạo và
hể hả
Và
nhận ra sự dửng dung của thế nhân.
Prayer
Give me illness
for years on end,
Shortness
of breath, insomnia, fever.
Take away
my child and friend,
The gift of
song, my last believer.
I pray according
to Your rite,
After many
wearisome days,-
That the storm
cloud over Russia might
Turn white
and bask in a glory of rays.
1915
Anna
Akhmatova
Cầu nguyện
Hãy
cho ta bịnh tật dài dài cho tới chết
Hơi thở đứt
đoạn, cụt lủn, mất ngủ, nóng sốt
Lấy đi con
của ta, bạn của ta
Tài
ca hát, tín đồ cuối cùng của ta.
Ta cầu nguyện,
theo như luật của Ngài
Sau nhiều
ngày ngán ngẩm, mệt mỏi
Một trận mây
bão phủ lên nền trời Nga Xô
Trở thành
trắng và sưởi ấm
Trong cái
huy hoàng của những sợi nắng
Instead
of an afterword
When they invented dreams
and made them flower,
They didn’t have enough
to go around,
We saw the same one,
but it had power
In it, as spring first
hits the ground
1965
Anna Akhmatova
Thay vì
lời bạt
Khi họ phịa ra những
giấc mộng, và biến chúng thành
hoa, thành bông
Họ phịa không
đủ
Có thể vì
thế mà GCC nhìn thấy, chỉ có
một
Đúng như thế
Nhưng bông hồng
đen có đủ quyền uy ở trong nó
Như cú đánh
đầu tiên của Mùa Xuân
Giáng xuống mặt
đất
Adam
Zagajewski: January 27 (Tết 27)
JANUARY 27
Frosty day. A winter
sun. White breath.
But on this
Friday we didn't know
what to celebrate
and what to mourn -
it was Holocaust Memorial
Day
and Mozart's birthday.
Our memory was perplexed.
Our imagination lost
its way.
The candle on the
windowsill wept
(we'd been asked to
light candles),
but the gentle music
of young Mozart
reached us from the
speakers, rococo,
the age of silver
wigs and not the gray hair
we knew from Auschwitz,
the age of costumes,
not of nakedness,
hope and not despair.
Our memory was perplexed,
our imagination grew
lost in thought.
Adam Zagajewski: Unseen
Hand
27 TẾT
Ngày lạnh giá.
Mặt trời mùa đông. Hơi thở trắng
Nhưng vào Thứ
Sáu này chúng ta không
biết
Ăn mừng cái
gì, và than khóc cái gì
–
Đó là
ngày Tưởng Niệm Lò Thiêu
Và sinh nhật
Mozart.
Trí nhớ của
chúng ta lúng túng.
Trí tưởng tượng
trật đường rầy.
Ngọn nến nơi cửa sổ
khóc
(chúng ta được
yêu cầu thắp nến)
Nhưng nhạc êm
dịu của Mozart khi còn trẻ
tới lỗ tai chúng
ta từ mấy cái loa, cổ lỗ sĩ,
thời tóc giả
màu bạc, không phải tóc xám
mà chúng
ta biết từ Lò Thiêu,
thời quần áo,
không phải khoả thân
Hy vọng, không
phải thất vọng.
Trí nhớ của
chúng ta lộn tùng phèo,
Trí tưởng tượng
của chúng ta lạc lối về.
Note: Trong Slight Exaggeration,
AZ viết về Jan 27
January 27. Very cold,
snow. Winter now reveals all its vulgar, predictable
tricks; the city's life grows slower, pedestrians flounder
in superfluous snowdrifts. Intellectual life also decelerates.
Winter is a provincial prestidigitator who's only really mastered
one trick: transforming water into ice and snow, and then turning
it back into dirty water again. For some time now-ever since
recognized the potent symbols the date contains-this day has fascinated
me, combining as it does two dimensions of our historical moment.
January 27 marks the anniversary of what is called the "liberation"
of Auschwitz, and thus it is Holocaust Remembrance Day. It's also
Mozart's birthday. There's no mistake here. And no coincidence.
Wolfgang Amadeus Mozart was born on January 27,1756, in Salzburg, and
the Russians entered Auschwitz on January 27, 1945. The soldiers of
the Sixtieth Army of the First Ukrainian Front, as the press release
wrote, "opened the gates of KL Auschwitz," where only seven thousand
prisoners remained. I prefer the phrase "opened the gates":
liberation suggests energy, the meeting of two forces,
but there, within the barbed wire, only sick, utterly depleted, dying
inmates could
[suite]
I follow
Soviet poetry. Among contemporary poets I value
and esteem B. Pasternak. I recently wrote a poem that
is dedicated to him. This is the final stanza of that
poem:"
He was rewarded with an eternal childhood,
His penetrating eye and generosity beamed,
And all the earth was his inheritance
And he shared with all men
Akhmatova
abt Pasternak
Hắn ta được Ông Giời tưởng
thưởng 1 tuổi thơ vĩnh hằng
Mắt lé
của hắn thì… lé, và sáng
ngời khi… chiêm ngưỡng kiều nữ Playboy!
Và
tất nhiên thằng khốn chẳng chia cho ai!
Aug 16
at 4:26 PM
:))
Nhớ tiếp tục đọc và viết ít
nhất gần 10 năm nữa nghe .
Bông hồng và bông
hồng .
Biết
đâu chừng cái bông hồng mà
Coleridge ngắt được từ trong mộng trong bài
What-if-you-slept đã được ông
ấy tình tứ đặt lên bộ ngực thanh tân
của Sara trong bài thơ này :
THE ROSE
by:
Samuel Taylor Coleridge (1772-1834)
As
late each flower that sweetest blows
I plucked,
the Garden's pride!
Within
the petals of a Rose
A sleeping
Love I spied.
Around
his brows a beamy wreath
Of
many a lucent hue;
All
purple glowed his cheek, beneath,
Inebriate
with dew.
I softly
seized the unguarded Power,
Nor
scared his balmy rest:
And
placed him, caged within the flower,
On
spotless Sara's breast.
But
when unweeting of the guile
Awoke
the prisoner sweet,
He
struggled to escape awhile
And
stamped his faery feet.
Ah!
soon the soul-entrancing sight
Subdued
the impatient boy!
He
gazed! he thrilled with deep delight!
Then
clapped his wings for joy.
"And
O!" he cried--"of magic kind
What
charms this Throne endear!
Some
other Love let Venus find--
I'll
fix my empire here."
THE ROSE
by: Samuel Taylor Coleridge
(1772-1834)
ĐÓA HỒNG
Trong những cành
hoa tỏa hương thơm nhất
Đóa tôi ngắt
đây là niềm hãnh diện của Khu
Vườn
Rất yên lành
giữa những cánh hoa hồng
Tôi bắt gặp Thần
Tình Yêu đang say sưa nằm ngủ
Một vương niệm hoa quấn
quanh đầu rạng rỡ
Sáng long lanh
đủ màu sắc cầu vồng
Mầu tím ửng lên
chiếu trên má vị thần
Như những giọt sương say
sưa vị rượu
Tôi nắm thật nhẹ
để Tình Yêu không chống cự
Không làm
chàng thức giấc giữa cơn mơ
Tôi khóa
Tình Yêu vào lồng cùng
với đóa hoa
Đặt lên ngực thanh
tân của Sara yêu dấu
Khi thức giấc, Tình
Yêu hiền lành chợt thấy
Mình bị lừa, bị
làm một tù nhân
Tình yêu
vội vàng tìm cách thoát
thân
Vùng vằng giậm
đôi chân tiên đẹp đẽ
Nhưng kìa, cảnh
trước mắt sao mà say hồn thế
Chàng ta đang nóng
nẩy chợt lặng người
Đứng ngắm say sưa, lòng
nở một niềm vui
Đôi cánh
vỗ liên hồi vì hạnh phúc
Tình Yêu
ngỡ như là trò ảo thuật
Chiếc Ngôi này
diễm tuyệt quá đi thôi
Vệ Nữ ơi, hãy tìm
thần khác cho người
Ta xin chọn nơi này
làm vương quốc ...
K phóng dịch :))
What
if you slept ...
What
if you slept
And
what if
In
your sleep
You
dreamed
And
what if
In
your dream
You
went to heaven
And
there plucked a strange and beautiful flower
And
what if
When
you awoke
You
had that flower in you hand
Ah,
what then?
This
is widely believed to be the work of Coleridge but
no publication dates or details are yet known
"Professor Borges: A Course on English Literature is
a compilation of the twenty-five lectures Borges gave in 1966
at the University of Buenos Aires, where he taught English literature.
Starting with the Vikings' kennings and Beowulf
and ending with Stevenson and Oscar Wilde, the book
traverses a landscape of 'precursors,' cross-cultural
borrowings, and genres of expression, all connected by
Borges into a vast interpretive web. This is the most surprising
and useful of Borges...
Gồm 25
bài. Hai bài về Coleridge, cuộc đời,
văn và thơ.
Borges
phán, một trong những tác phẩm quan
trọng nhất của 1 nhà văn - có lẽ quan
trọng nhất trong tất cả - là hình ảnh người đó
để lại về chính người đó trong hồi ức của mọi
người, trên và quá những trang sách
mà người đó viết. Nếu như thế, thì
Wordsworth bảnh hơn Samuel Taylor Coleridge. Nhưng nói
tới Wordsworth, chúng ta bèn nghĩ tới 1 đấng
Hồng Mao phong nhã của thời Victoria, như nhiều người khác.
Còn với Coleridge thì chỉ là tang thương,
đổ nát, thất bại, xì ke ma túy, đủ thứ hầm
bà làng!
CLASS
13
THE LIFE
OF SAMUEL TAYLOR COLERIDGE.
A STORY
BY HENRY JAMES. COLERIDGE AND
MACEDONIO
FERNANDEZ, COMPARED.
COLERIDGE
AND SHAKESPEARE.
IN COLD
BLOOD, BY TRUMAN CAPOTE.
WEDNESDAY,
NOVEMBER 16, 1966
One of
a writer's most important works-perhaps the most
important of all-is the image he leaves of himself
in the memory of men, above and beyond the pages he has
written. Now, Wordsworth was himself a better poet than
Samuel Taylor Coleridge, whom we will speak about today.
But when one thinks of Wordsworth, one thinks of an English
gentleman of the Victorian era, similar to so many others.
When one thinks of Coleridge, on the other hand, one thinks
of a character from a novel. All of this is interesting for
a critical analysis and for the imagination, and so Henry James,
the great American novelist, believed. Coleridge's life was a collection
of failures, frustrations, unfulfilled promises, vacillations.
There is a story by Henry James called "The Coxon Fund," which
was inspired by his reading of one of the first biographies
of Coleridge.' The protagonist of the story is a man of genius,
a genius conversationalist, that is, someone who spends his life
at the homes of his friends. They expect him to write a great work.
They know that for him to carry out this work he needs time and rest.
And the heroine is a young lady whose responsibility it is to choose
the fellow for this foundation, the Coxon Foundation, established
by one of her aunts, Lady Coxon. The young lady sacrifices her
chance to be married, sacrifices her own life, so that the person
who receives the award will be a man of genius. The protagonist accepts
the annuity, which is considerable, and then the author leaves us
to understand-or he states it directly, I don't remember-that the
great man writes nothing, barely a few rough drafts. And we can
say the same thing about Samuel Taylor Coleridge.
He was
at the center of a brilliant circle, called the "Lake
School," because they lived in the Lake District.
He was Wordsworth's friend and De Quincey's teacher.
He was friends with the poet Robert Southey, who left
among his many works a poem called "A Tale of Paraguay,"
basedvon the texts of the Jesuit Dobrizhoffer, a missionary
in Paraguay.' The members of this group considered Coleridge
their master, they considered themselves inferior to
him. Nevertheless, Coleridge's work, which fills many volumes,
actually consists of only a few poems-unforgettable poems-and
a few pages of prose. Some of the pages are in the Biagraphia
Literaria; others are of lectures he gave about Shakespeare.'
Let's first look at Coleridge's
life, and then we will examine his work, not infrequently
unintelligible, tedious, and plagiarized.
Coleridge
was born in 1772, two years after Wordsworth, who
was, as you know, born in the year 1770, which is easy to
remember. (I'm saying this now because you are about
to have an exam.) Coleridge dies in the year 1834. His father
is a Protestant vicar in the south of England.
Reverend
Coleridge was a vicar in a country town, and he
impressed his listeners because he would always weave
into his sermons what he called "the immediate tongue to
the Holy Ghost." In other words, long passages in Hebrew that
his rustic parishioners did not understand, but which made
them venerate him. When Coleridge's father died, his parishioners
scorned his successor because he did not interweave
unintelligible passages in the immediate language of the Holy
Ghost.
Let's first look at Coleridge's
life, and then we will examine his work, not infrequently
unintelligible, tedious, and plagiarized.
GCC có
đọc 1 bài viết trên tờ TLS, hình
như vậy, cho biết, Coleridge chôm đủ thứ, và
ông không thèm để ý đến
chuyện này, và cho biết, vào thời
của ông, chuyện này không quan trọng.
Quả đúng
như thế.
Cái
gọi là bản quyền, tác giả, tên
tác giả, như Foucault viết, chỉ bắt đầu, khi
xã hội cần 1 con người, 1 cái tên, để
lôi ra, để mà làm thịt!
Câu hỏi, tại sao phải
là Nguyễn Huệ chỉ có thể giải đáp, cùng một lúc,
với câu hỏi, tại sao lại là
Nguyễn Huy Thiệp? Trong bài viết, "Tác
giả là cái gì?" (bản dịch tiếng
Anh: What Is an Author?), M. Foucault, cho thấy, ý
niệm tác giả xuất hiện vào một thời điểm đặc
biệt của quá trình "cá nhân
hóa" (individualization), trong lịch sử tư tưởng,
tri thức, văn chương, triết học, và khoa học. Những bản
văn, những cuốn sách, những bài viết/nói
bắt đầu có tác giả... khi họ trở thành
những mục tiêu để trừng phạt. Tác giả được nêu
tên, khi cần một ai đó, để buộc tội! Ông
viết thêm, trong văn hóa của chúng ta, (và
chắc là trong nhiều văn hoá), thoạt kỳ thủy, bài
viết/nói (le discours), không phải là một
sản phẩm, một món hàng, mà thiết yếu là
một hành động, được đặt trong "trường nhị cực" (bipolar
field), một đầu là sự thiêng liêng, đầu kia là
sự báng bổ. Theo tính cách lịch sử, đây
là một động tác đầy rủi ro. Nhìn theo quan
điểm đó, chúng ta mới thực sự thông cảm,
hành động "đầy rủi ro", của Nguyễn Huy Thiệp. Trong thế
giới toàn trị, văn chương bắt đầu, khi có kẻ dám
nói "tôi", thay vì "chúng ta", khi
có kẻ dám nghi ngờ, điều thiêng liêng
chưa chắc đã thiêng liêng, và tin rằng,
điều báng bổ có khi thật cần thiết... Nguồn
Có hay không một quán
cà phê có mặt bàn
sơn màu đo đỏ
Nằm kề bên tiệm sách anh quen ?
Trời chưa qua mùa đông nên đường
chưa trắng tuyết mềm
Anh sẽ ngồi xuống, hớp một ngụm cà phê
Và đọc vài trang trong chồng sách
mới
K
For the Sleepwalkers
Tonight
I want to say something wonderful
for the
sleepwalkers who have so much faith
in their
legs, so much faith in the invisible
arrow carved
into the carpet, the worn path
that leads
to the stairs instead of the window,
the gaping
doorway instead of the seamless mirror.
I love the
way that sleepwalkers are willing
to step
out of their bodies into the night,
to raise
their arms and welcome the darkness,
palming
the blank spaces, touching everything.
Always they
return home safely, like blind men
who know
it is morning by feeling shadows.
And always
they wake up as themselves again.
That's why
I want to say something astonishing
like: Our
hearts are leaving our bodies.
Our hearts are thirsty black handkerchiifs
flying through
the trees at night, soaking up
the darkest
beams if moonlight, the music
of owls,
the motion if wind-torn branches.
And now
our hearts are thick black fists
flying back
to the glove if our chests.
We have
to learn to trust our hearts like that.
We have
to learn the desperate faith of sleep-
walkers
who rise out of their calm beds
and walk
through the skin of another life.
We have
to drink the stupefying cup of darkness
and wake
up to ourselves, nourished and surprised.
Edward Hirsch:
The Living Fire
Cho tên mộng du
Bữa nay
Gấu muốn nói 1 điều thần sầu
Cho mấy
tên mộng du có quá nhiều niềm
tin
Vào
cẳng của chúng
Và
vào cái mũi tên vô hình
Cắm vào
cái thảm
Con đường
mòn đưa tới cầu thang thay vì cửa sổ
Lối đi hở,
trống thay vì gương liền
Gấu mê
cách mấy tên mộng du ước ao
Bước ra
khỏi cơ thể của chúng, vào đêm
tối
Giơ tay
chào mừng bóng đen
Sờ khoảng
không, soạng mọi thứ,
Luôn
luôn an toàn trở về nhà,
Như những
tên mù
Biết rạng
đông, vì ngửi ra những cái bóng
Và
luôn luôn chúng tự chúng
nhỏm dậy, tỉnh giấc, ra khỏi cơn thụy
Chính
vì thế mà Gấu muốn phán 1 điều
rất ư là kinh ngạc: Trái tim của chúng
ta bèn rời cơ thể của chúng ta
Trái tim của chúng
ta thèm khát những chiếc khăn tay đen
Bay qua
những tàng cây trong đêm
Khua loạn
cào cào Những chùm tối cực tối của
ánh trăng,
Âm
nhạc của những con cú
Chuyển động
của những cành tan tác vì gió
Và
bây giờ trái tim của chúng ta
là những cú đấm dày đen
Bay trở
về cái bao tay là lồng ngực của chúng
ta
Chúng
ta phải học tin tưởng trái tim của mình
như thế
Chúng
ta phải học cái niềm tin ngao ngán,
rã rời của mấy tên mộng du
Chúng
bước ra khỏi những cái giường êm ấm của
chúng
Vào
bước vào trong bộ da của một đời khác
Chúng
ta uống cái chén ngỡ ngàng của
bóng tối
Và
tự chúng ta bật dậy
Được nuôi
dưỡng, và bèn ngạc nhiên
To Both
Of U
And Tks
NQT
Bài
thơ sau đây của Borges, đúng là
về năm cùng, tháng tận, đời tàn
- K phán, nhớ là sống thêm ít
lắm là 10 năm nữa, để đọc và viết cho
K và mọi người cùng đọc -
Borges: Year’s End
Neither the
symbolic detail
of a three instead of a two,
nor that rough metaphor
that hails one term dying and
another emerging
nor the fulfillment of an astronomical
process
muddle and undermine
the high plateau of this night
making us wait
for the twelve irreparable strokes
of the bell.
The real cause
is our murky pervasive suspicion
of the enigma of Time,
it is our awe at the miracle
that, though the chances are
infinite
and though we are
drops in Heraclitus’ river,
allows something in us to endure,
never moving.
– Jorge Luis Borges (translated by W.S. Merwin)
Năm tận
Không
phải chi tiết biểu tượng
Rằng ba, thay
vì hai
Chẳng phải
ẩn dụ thô thiển
Rằng một cái
gì đó mất đi
Thì
bèn có 1 cái gì đó
bò ra đời
Cũng chẳng
có sự hoàn thiện tiến trình thiên
văn cái con mẹ gì hết
Khuấy đảo,
soi mòn cao nguyên đêm nay
Khiến chúng
ta chờ đợi
12 tiếng chuông
đồng hồ vô phương sửa chữa
Lý
do thực sự là sự hồ nghi u ám của chúng
ta
về sự bí
ẩn của Thời Gian
Chính
là sự kinh hoàng của chúng ta
trước phép lạ,
Mặc dù
những cơ may thì là vô cùng
Mặc dù
chúng ta là những giọt nước của dòng
sông Heraclitus
Nó
cho phép một điều gì đó ở trong
chúng ta liên luỷ, hoài hoài
Chẳng hề chuyển
động.
THERE IS no poet,
and particularly no American poet, who has not been
touched by Emily Dickinson. Like the flamboyant Dylan
Thomas, though she is a far greater poet than Thomas, Dickinson
is immensely seductive to young poets; one can admire her
passionately, one can have virtually memorized any number
of her poems, yet to be "influenced" by her is simply not possible.
She is sui generis. To be influenced by Dickinson, as by Dylan
Thomas, is a fatal error. (Unless, of course, one is a poet of genius
oneself, like William Carlos Williams. Or, in her own mordant way,
Sylvia Plath.)
I began reading
Emily Dickinson as an adolescent, and have continued
through my life; her work retains, for me, the drama
and "white-hot" intensity of adolescence, like the work
of Henry David Thoreau. Certain of Dickinson's poems are very
likely more deeply imprinted in my soul than they were ever
imprinted in the poet's, and inevitably they reside more deeply,
and more mysteriously, than much of my own work. For the writer
is, as Dickinson's poet-persona suggests, a creature forever
in motion, calculating and breathless at once; casting out
demons, joy, gems, "profundity" in skeins of language, then moving
restlessly on. Her work, if it endures at all, can only endure, in
Auden's striking phrase, "in the guts of the living."
The Essential
Dickinson is, I suppose, a personal selection-yet
not a private one. It includes the poems generally considered
great - and they are many. It contains the much-anthologized;
but it also contains the virtually never anthologized. Dickinson
is one of very few poets whose work repays countless readings,
through a lifetime. I am continually discovering poems
I'd believed I knew, seeing them in a different light, from
a different perspective. We return to Dickinson for that magical
experience so famously described by Dickinson herself,
in a letter to her would-be mentor T. W. Higginson:
If I read a book
[and] it makes my whole body so cold no fire can ever
warm me I know that is poetry. If I feel physically as if
the top of my head were taken off, I know that
is poetry. These are the only way [sic] I know it. Is there any
other way.
-JOYCE CAROL
OATES
INTRODUCTION
If I read a book
[and] it makes my whole body so cold no fire can ever
warm me I know that is poetry. If I feel physically as if
the top of my head were taken off, I know that is poetry. These
are the only way [sic] I know it. Is there any other way.
Nếu tôi
đọc một cuốn sách [và] nó làm
toàn thân tôi lạnh đến nỗi không
lửa nào làm ấm lại, thì tôi
biết, đó là thơ.
Nếu tôi
cảm thấy, cái chỗ đội nón của tôi
bị VC chặt mẹ mất, thì tôi biết đó
là thơ.
Đếch có
cách nào khác, như tôi
biết.
Nếu tôi
cảm thấy, cái chỗ đội nón của tôi
bị VC chặt mẹ mất: Ui chao, đọc, thì không
làm sao không nhớ tới câu phán khủng
khiếp của Kafka, khi trả lời…. Thầy Phúc, có
nên đọc cuốn 40 năm thơ Mít lưu vong của lũ Mít
hải ngoại mang về trình Vẹm chào mừng ngày
19 Tháng Tám năm nay.
"I think we ought
to read only books that bite and sting us. If the
book we reading doesn't shake us awake like a blow on the skull,
why bother reading it in the first place? So that it can make
us happy, as you put it? Good God, we'd be just as happy if
we had no books at all; books that make us happy we could, in
a pinch, also write ourselves. What we need are books that hit
us like a most painful misfortune, like the death of someone we
loved more than we love ourselves, that make us feel as thought we
had been banished to the woods, far from any human presence, like
a suicide. A book must be the axe for the frozen sea within us.
That is what I believe."
"Tôi nghĩ
chúng ta chỉ nên đọc những cuốn sách
ngoạm, hoặc đâm chúng ta. Nếu cuốn sách
mà chúng ta đọc không lay động chúng
ta tỉnh hẳn người, giống như bị ai đó giáng
một cú vào sọ, thì ích chi
đâu mà đọc nó? Sách làm
cho chúng ta hạnh phúc? Cám ơn Trời,
chúng ta hạnh phúc biết bao nếu chẳng sách
gì hết. Những cuốn sách làm chúng
ta hạnh phúc, chúng ta có thể tự viết
lấy. Sách mà chúng
ta cần, chúng đập chúng ta giống như gặp một
chuyện bất hạnh đau đớn nhất, như cái chết của một
người thật thân thiết mà chúng ta yêu
hơn cả yêu chúng ta, nó làm chúng
ta cảm thấy như bị tống xuất tới một nơi rừng rậm, hẻo lánh,
xa hẳn con người, giống như tự tử. Cuốn sách phải giống
như cái rìu phá cái biển đóng
băng ở bên trong chúng ta. Tôi tin như vậy."
(Alberto Manguel
trích dẫn, trong cuốn A History of Reading,
nhà xb Alfred A. Knopf Canada, 1996)
Đám này,
theo GCC, chưa từng đọc Kafka. Ngay cả Thầy Phúc.
Thầy vớ được câu của Kafka trong1 bài
nhảm nhí của 1 em mũi lõ, thế là vồ
ngay lấy, đưa vô bài viết. Rõ ràng
là như thế, bởi là vì Thầy không
biết trọn vẹn câu của Kafka - không nói
về mặt băng, không nói về lưu vong cái
con mẹ gì hết - mà là về "đọc sách
gì”.
Ra được hải ngoại,
thì cũng đi học, trường người lớp người, cố
lấy 1 cái bằng cấp gì đó, để nhờ nó
có 1 công việc nào đó, để
nuôi thân, nuôi gia đình,
nhưng lấy cái bằng nhảm nhí đó, để tự
vỗ ngực xưng tên là phê bình này
nọ, thấy thảm quá. GCC thực sự hết còn tin tưởng
ở đám viết lách ở hải ngoại.
Với Kafka, cuốn
sách phải như cái rìu phá
băng, bổ vào sọ người đọc, làm vỡ cái
biển băng là cái thân thể đóng
băng của người này.
Với Dickinson, nó - thơ - phải làm
cho bà lạnh đến nỗi không lửa nào
làm ấm lại, làm cho bà mất luôn
cái đỉnh đầu, như bị ai chặt mất.
Thứ nào
cũng đếch tên Mít nào có
được, hiểu được cả!
Vàng
thu vàng suốt con đường
Ta trong thu bỗng thấy thương
đất trời
Đặng
Lệ Khánh
LIU TSUNG-YUAN
773-819
A fisherman
in the landscape was a beloved subject of poets
and painters. This poem, however, seems to me quite
complicated, in spite of its apparent simplicity. For
here there is action, and the fisherman himself appears only
toward the end, as somebody who rows somewhere far.
Czeslaw
Milosz
OLD FISHERMAN
Old fisherman
spends his night beneath the western cliffs.
At dawn,
he boils Hsiang's waters, burns bamboo of Ch'u.
When
the mist's burned off, and the sun's come out, he's,
gone.
The slap
of the oars: the mountain waters green.
Turn
and look, at heaven's edge, he's moving with the flow.
Above
the cliffs the aimless clouds go too.
Translated from the Chinese by
J. P Seaton
Bài thơ trên, nhớ
là đã dịch rồi, kiếm không ra. Post
lại, và post thêm 1 bài nữa, cũng
của Liu (cái này thì phải
nhờ bạn The Gardener) (1)
In a thousand mountains
not
one bird flying
on ten
thousand trails
not
one footprint.
In a
solitary boat
an old
man alone
in bulky
straw raincoat
fishes the
snow-cold river.
--Translated
by Stanton Hager
in Huangshan
Poems from the T'ang Dynasty
(21st
Editions: Cape Cod, 2010)
LIU TSUNG-YVAN
773-819
A fisherman in the landscape
was a beloved subject of poets and painters. This poem,
however, seems to me quite complicated, in spite
of its apparent simplicity. For here there is action, and
the fisherman himself appears only toward the end, as somebody
who rows somewhere far.
Czeslaw
Milosz: A Book of Luminous Things
Ngư phủ trong cảnh vật, cả thi
sĩ lẫn họa sĩ đều mê. Nhưng bài
thơ sau đây xem ra rắc rối dù bề
ngoài đơn giản. Bởi vì ở đây,
có hành động, và tay ngư phủ già,
chính anh già, chỉ xuất hiện ở cuối bài
thơ , như 1 kẻ nào đó rắp ranh làm 1
chuyến đi xa, thật xa.
OLD FISHERMAN (1)
Old fisherman spends his night
beneath the western cliffs.
At
dawn, he boils Hsiang's waters, burns bamboo of Ch'u.
When
the mist's burned off, and the sun's come out, he's,
gone.
The
slap of the oars: the mountain waters green.
Turn
and look, at heaven's edge, he's moving with the flow.
Above
the cliffs the aimless clouds go too. Translated from
the Chinese by J. P. Seaton
Người câu
cá già
Người câu cá già
qua đêm ở mỏm Ải Tây
[từ
Ải Tây này, thuổng Tô thi sĩ, trong
bài tặng TTT]
Vào
lúc sáng sớm, anh già ngồi
đun nước mưa, hứng ở mái sau nhà, ở
Canada, đốt củi tre nhập lậu từ xứ Mít.
Khi
sương mù tan, mặt trời bò ra, anh già
bèn xuống thuyền, lên đường, làm
chuyến viễn du chót.
Tiếng
mái chèo đập trên làn nước
xanh
Quay
nhìn, ở đường ven Thiên Đàng,
thấy thấp thoáng bóng anh già
cùng di chuyển với dòng nước
Ở trên
đỉnh Ải Tây, mây, đếch biết làm
gì, bèn cũng đi theo anh già!
I wonder how we can survive, this romance But in the end
if I'm with you, I'll take the chance
Bryan Adams - I Will Be Right Here Waiting For You
Note: Năm cùng tháng
tận, đời tàn, tặng Gấu Già
bài thơ trên thì đúng
là tuyệt cú mèo!
Làm sao Gấu qua khỏi
con trăng này?
Nhưng
sau cùng, nếu Gấu gặp Sad Seagull, thì
Gấu sẽ chấp tất cả thế gian này!
Tks. Take Care, Plse
NQT
Milosz
đọc bài
thơ trên, thấy rắc rối, kỳ kỳ, "this poem, however, seems to
me quite complicated, in spite of its apparent
simplicity", trong khi GCC, qua bài
thơ, mơ về chuyến đi xa của mình
Bài
thơ sau đây của Borges, đúng là
về năm cùng, tháng tận, đời tàn
- K phán, nhớ là sống thêm
ít lắm là 10 năm nữa, để đọc và viết
cho K và mọi người cùng đọc -
Borges:
Year’s End
Neither the symbolic detail
of a three instead of a two,
nor that rough metaphor
that hails one term dying and another emerging
nor the fulfillment of an astronomical process
muddle and undermine
the high plateau of this night
making us wait
for the twelve irreparable strokes of the bell.
The real cause
is our murky pervasive suspicion
of the enigma of Time,
it is our awe at the miracle
that, though the chances are infinite
and though we are
drops in Heraclitus’ river,
allows something in us to endure,
never moving.
– Jorge
Luis Borges (translated by W.S. Merwin)
Tuyết sông
Ngàn núi chim bay hết
Vạn lối người
đi biệt
Ghe lẻ già
đơn lạnh
Buông
câu trên sông tuyết
Liễu Tông Nguyên
D. V dịch
Tks.
NQT
Note: Bài
thơ này, Trẩn Trọng San cũng dịch, trong cuốn
Thơ Đường. Post sau đây, nhưng GCC coi lại, sợ không
đúng bài Milosz giới thiệu.
Giang Tuyết
Thiên Sơn điểu
phi tuyệt,
Vạn kính nhân
tung diệt
Cô chu thoa
lạp ông
Độc điếu hàn
giang tuyết
TTS dịch:
Ngàn ngọn
núi, chim bay hết
Muôn con đường
nhạt hết chân người
Ông già
nón lá áo tơi
Đậu thuyền sông
tuyết, riêng người ngồi câu.
Hàn Giáng
Tuyết là tên 1 người đẹp học Trường
Sơn, bạn Chất, em trai TTT, đã từng mê 1 thời.
Cô này, sau quen biết Đinh Ngọc Mô, 1
trong những nhân vật chủ trương chương trình
Đố Vui Để Học, của VCNH, người được Đặng Tiến nhắc tới trong bài
viết về TTT. Nghe nói, DNM sau tự tử, ở Canada.
Lần ông anh
mất, Gấu qua Mẽo, lên thăm bạn Chất ở San Jose,
nghe bạn kể, khi mới qua Mẽo, bà cụ của HGT có
phôn hỏi thăm, anh không biết ai cho số phôn,
và vẫn tiếc, còn chị Nga, phu nhân
của bạn C. thì nói, may quá, cô
ta nhường cho tui, vì nghe nói cô đẹp
lắm.
Aug 16 at 4:26 PM
:))
Nhớ tiếp tục
đọc và viết ít nhất gần 10 năm nữa nghe
. Sau đó không chừng lại có bài
thơ : Chờ em lên 90!!! và Rule #1 trở thành
vô nghĩa .
K
Cầu 5 năm nữa
cũng quá OK
Rule n # 1 thì
cũng giống như bông hồng của Coleridge.
Hoặc K của Buzzati
Tks
Take Care
Both of U
Note: Giả như lên...
11 thì thật tuyệt và bông hồng
Coleridge biến thành hiện thực!
Like the Coleridge hero who
wakes to find himself holding the rose of his dreams,
I knew these objects were not of the second world, which had
brought me so much contentment as a child, but of a real
world that matched my memories
Orhan Pamuk
Như nhân vật của
Coleridge thức giấc thấy mình cầm khư khư trong
tay bông hồng đen của giấc mộng, tôi biết, tất
cả những gì ở trong Tứ Khúc thì không
phải là từ thế giới tưởng tượng bước ra,
chúng thuộc cuộc đời này. Và chúng
là một, với hồi ức của tôi, những ngày
ở Sài Gòn.
Đằng sau ý nghĩ
của Coleridge là một ý nghĩ tổng quát
và lâu đời, của hàng hàng thế
hệ những kẻ yêu nhau, cầu xin một bông hồng làm
chứng tích.
V/v có bao giờ?
ông phải lặng người trong một buổi chiều
thật đẹp đang tàn phai, khi tiệc tàn.
và mọi người đã về. chỉ mình
ông. còn ngồi lại. trong khu vườn sau nhà
ông ở toronto. cái đìu hiu. cái
đơn vắng.
DS
Sự thực, ai ai,
bất cứ ai ai đều có lúc… như thế.
Nhưng đáp
ứng ra sao, theo Gấu, mới quan trọng. Thơ Borges, đa
phần là về khoảnh khắc này.
Khi đọc bài
thơ sau đây của ông, thì Gấu sống
lại khoảnh khắc mình tính làm thịt mình
ở khu PLT, Little Saigon
Borges viết về cái khoảnh
khắc xém lên chuyến tàu suốt
của GCC ở bên ngoài khu Phước Lộc Thọ:
The Suicide
Not a single star will be left
in the night.
The night will
not be left.
I will die and,
with me,
the weight of the
intolerable universe.
I shall erase the
pyramids, the medallions,
the continents
and faces.
I shall erase the
accumulated past.
I shall make dust
of history, dust of dust.
Now I am looking
on the final sunset.
I am hearing the
last bird.
I bequeath nothingness
to no one.
-A.R.
Đi Xa
Đêm nay Gấu sẽ không
cho phép ngôi sao nào được
bỏ lại ở trên bầu trời
Đêm cũng
đếch được bỏ lại
Gấu sẽ đi xa, và,
cùng với Gấu
Là cái
sức nặng đếch làm sao chịu đựng nổi của vũ
trụ
Gấu sẽ xoá
sạch những kim tự tháp
Những cái
mề đay, nhất là cái của cái tên
Nobel Toán người xứ Bắc Kít
Những đại lục,
và những khuôn mặt.
Gấu sẽ xóa
sạch quá khứ được tích tụ từ bốn ngàn
năm của xứ Mít –
như vậy đủ rồi,
với Gấu Cà Chớn –
Gấu sẽ làm
cho lịch sử Mít biến thành bụi, bụi của
bụi.
Và bi giờ,
Gấu đối diện với buổi mặt trời lặn lần cuối cùng
Ở bên ngoài
khu Phước Lộc Thọ, ở thủ đô lưu vong của
giống Mít.
Gấu nghe tiếng
chim cuối cùng
Gấu đếch thèm
để lại chúc thư văn chương cho bất cứ thằng
chó nào!
Hà, hà!
Nhưng phải là
những tay cực kỳ khủng, khi đụng vô khoảnh
khắc này, thì họ phát giác
ra 1 điều gì cực khủng, về cõi người, về sự
hiện hữu của cái gọi là giống người.
Mặt Trời Lặn ở Fossoli
Tôi biết, nghĩa là
gì, không trở về. Qua những hàng rào
kẽm gai tôi nhìn thấy
mặt trời xuống và chết Và da thịt tôi
như bị xé ra Bởi những dòng thơ
của một thi sĩ già: “Mặt trời thì có
thể lặn và mọc Nhưng chúng tôi,
ngược hẳn lại Ngủ, sau 1 tí ánh
sáng ngắn ngủi, Một đêm dài
ơi là dài”
Tháng Hai, 7, 1946
Primo Levi
Cái khoảnh khắc
trên, có khi, nhờ may mắn, bạn được
đọc, và ngộ ra được, "đọc là sống 'thực',
đời của mình", có thể nói như thế.
David Grossman,
tay mới được Booker, viết về 1 Kafka, mà chỉ
ông nhận ra:
Grossman: Kafka, tuy nhiên,
thật khó mà kiếm thấy một nhà văn
không bị ảnh hưởng bởi Kafka, ngay cả khi người
này không viết cùng một cái
văn phong như của Kafka. Kafka là một giai đoạn văn học
mà bạn bắt buộc phải vượt qua [Kafka is a literary
stage you have to go through]. Tôi luôn luôn
tưởng tượng ra cái xen, Kafka đứng, hai tay trên
bờ cửa sổ, nhìn bên trong vào cuộc đời [looking
inside into life]. Như thể ông nhìn ra phía
bên ngoài từ cái chết, ngay cả khi ông
đang còn sống. Tôi chưa tìm ra điều này,
ở bất cứ nhà văn nào khác.
Bạn phải là 1 tay như thế, khi
ngồi ở vườn sau nhà bạn, khi tất cả bỏ
bạn, kể luôn cả Thần Chết cũng đếch thèm
để ý đến bạn!
Gấu gặp khoảnh khắc
này, trong đêm, tưởng là chết,
nhưng đếch chết, lần ăn mìn VC: Sự sống sót
của bạn là 1 lăng nhục tình yêu, "cái
con mẹ", gì đó!
Sáng sớm hôm
sau, khi chàng nhận thấy đã chống
cự nổi, và thắng cả thần chết, đã lừa
dối được định mệnh, đồng thời chàng cũng nhận ra
một sự thật thảm thương, là sự sống sót của chàng
như có một điều chi bất thường, giống như một nốt nhạc
sai, dư, thừa, bất toàn, một giọng hát lạc giữa
một bài ca, sự sống sót của chàng là
một điều xúc phạm tới tình yêu thiêng
liêng: Chàng vẫn sống và nàng đã
chẳng tới được nhà thương đêm đó.
Bao nhiêu
năm rồi - bao nhiêu nước chảy qua cầu rồi,
BHD thì cũng đi qua mấy kiếp rồi, who knows
- mà vẫn còn nhớ, 1 vị bạn quí,
khi ngồi Quán Chùa, đọc đoạn trên, nhìn
Gấu Cà Chớn, như nhìn 1 con quái vật!
Đúng là
như thế!
Kafka là một giai đoạn văn
học mà bạn bắt buộc phải vượt qua [Kafka
is a literary stage you have to go through].
Đọc, là
sống thực, cuộc đời của mình, là
theo nghĩa trên.
Nhớ thời
mới lớn, lứa tuổi của Gấu, thằng chó nào
thì cũng hăm he "vượt Mác". Sartre phán,
chủ nghĩa Mác không thể vượt qua được,
là đúng vào thời gian đó.
Gấu đọc Lukacs, Henri Lefebvre, Trần Văn Toàn, Trần Đức
Thảo… đúng vào lúc này. Nằm Grall,
sau khi ăn hai trái mìn của VC, cũng đem theo
Heni Lefebvre!
Borges viết
về Kafka những dòng thật là thấm thiá, và Gấu
nghĩ, ngoài Borges ra, không ai hiểu
Kafka tới mức như vậy. Trong Trò Chuyện với Osvaldo
Ferrari, hai ông dành hẳn 1 chương cho Kafka:
Kafka có thể có phần hồi ức con người (Kafka
Could Be Part of Human Memory). Trên Tin Văn đã
từng giới thiệu lai rai.
Bữa nay, tám bó
rồi, nhân SN GCC, bèn tưởng niệm ông
anh nhà thơ TTT, và bèn lai rai về
cái phần của TTT ở trong cái hồi ức của Mít
không thôi, chưa nói đến nhân loại
làm khỉ gì vội.
Ý của Gấu là,
liệu không có TTT, liệu có cái
hồi ức Mít, theo nghĩa mà Borges nói,
về Kafka?
Hay, như Grossman, phán:
Kafka là một giai
đoạn văn học mà bạn bắt buộc phải vượt
qua [Kafka is a literary stage you have to go through]
"Phần hồi ức con người"
của Kafka, thì cũng giống như 1954 của TTT,
với hồi ức Mít: Chúng ta không thể nào
hiểu được 1954 nếu thiếu "Bếp Lửa", thí dụ vậy,
Ferrari hỏi Borges, nghe
người ta nói là, chúng ta không
thể hiểu được lịch sử của thời chúng ta, nếu thiếu
sự giúp đỡ của Kafka, Borges bèn trả lời, thì
đúng như thế, nhưng quá thế nữa, Kafka quan trọng
hơn lịch sử của chúng ta!
Ui chao em của GCC, HA,
trách Gấu, mi viết hoài về TTT, ở trên
net, rồi mi chết, thì mất liêu luôn, sao
không chịu in ra giấy, vì TTT còn quan trọng
hơn cả hồi ức Mít!
Hà, hà!
FERRARI. But we are told that
we cannot make a faithful interpretation of our
times without Kafka's help.
BORGES. Yes, but Kafka
is more important than our times....
A
fisherman in the landscape was a beloved subject
of poets and painters. This poem, however, seems to me quite
complicated, in spite of its apparent simplicity. For
here there is action, and the fisherman himself appears only
toward the end, as somebody who rows somewhere far.
Czeslaw Milosz: A Book of Luminous Things
Ngư phủ trong cảnh vật, cả thi
sĩ lẫn họa sĩ đều mê. Nhưng bài thơ
sau đây xem ra rắc rối dù bề ngoài
đơn giản. Bởi vì ở đây, có hành
động, và tay ngư phủ già, chính anh
già, chỉ xuất hiện ở cuối bài thơ , như 1 kẻ nào
đó rắp ranh làm 1 chuyến đi xa, thật xa.
OLD FISHERMAN (1)
Old fisherman spends his night
beneath the western cliffs.
At dawn, he boils
Hsiang's waters, burns bamboo of Ch'u.
When the mist's burned
off, and the sun's come out, he's, gone.
The slap of the oars:
the mountain waters green.
Turn and look, at
heaven's edge, he's moving with the flow.
Above the cliffs the
aimless clouds go too. Translated from the Chinese by J.
P. Seaton
Người câu
cá già
Người câu cá già
qua đêm ở mỏm Ải Tây
[từ Ải Tây này,
thuổng Tô thi sĩ, trong bài tặng TTT]
Vào lúc
sáng sớm, anh già ngồi đun nước mưa,
hứng ở mái sau nhà, ở Canada, đốt củi tre
nhập lậu từ xứ Mít.
Khi sương mù
tan, mặt trời bò ra, anh già bèn
xuống thuyền, lên đường, làm chuyến viễn du
chót.
Tiếng mái chèo
đập trên làn nước xanh
Quay nhìn,
ở đường ven Thiên Đàng, thấy thấp thoáng
bóng anh già cùng di chuyển với dòng
nước
Ở trên đỉnh
Ải Tây, mây, đếch biết làm gì,
bèn cũng đi theo anh già!
I wonder how we can survive, this romance But in the end if I'm with you, I'll
take the chance
Bryan Adams - I Will Be Right Here Waiting For You
Note: Năm cùng tháng
tận, đời tàn, tặng Gấu Già bài
thơ trên thì đúng là tuyệt
cú mèo!
Làm sao Gấu qua khỏi
con trăng này?
Nhưng sau cùng,
nếu Gấu gặp Sad Seagull, thì Gấu sẽ chấp tất
cả thế gian này!
Tks. Take Care, Plse
NQT
Milosz đọc bài
thơ trên, thấy rắc rối, kỳ kỳ, "this poem, however, seems to
me quite complicated, in spite of its apparent
simplicity", trong khi GCC, qua bài
thơ, mơ về chuyến đi xa của mình
Bài thơ sau
đây của Borges, đúng là về năm
cùng, tháng tận, đời tàn - K phán,
nhớ là sống thêm ít lắm là
10 năm nữa, để đọc và viết cho K và mọi người
cùng đọc -
Borges: Year’s End
Neither the symbolic detail
of a three instead of a two,
nor that rough metaphor
that hails one term dying and another emerging
nor the fulfillment of an astronomical process
muddle and undermine
the high plateau of this night
making us wait
for the twelve irreparable strokes of the bell.
The real cause
is our murky pervasive suspicion
of the enigma of Time,
it is our awe at the miracle
that, though the chances are infinite
and though we are
drops in Heraclitus’ river,
allows something in us to endure,
never moving.
– Jorge Luis Borges
(translated by W.S. Merwin)
(1)
Tuyết sông
Ngàn núi chim bay hết
Vạn lối người đi biệt
Ghe lẻ già đơn lạnh
Buông câu trên
sông tuyết
With the wind gusting so wildly,
So unpredictably,
I'm willing to bet one or two ants
May have tumbled on their backs
As we sit here on the porch.
Their feet are pedaling
Imaginary bicycles.
It's a battle of wits against
Various physical laws,
Plus Fate, plus-
So- what -else- is-new?
Wondering if anyone's coming to their aid
Bringing cake crumbs,
Miniature editions of the Bible,
A lost thread or two
Cleverly tied end to end.
Empty Rocking Chair
Talking to yourself on the front porch
As the night blew in
Cold and starless.
Everybody's in harm's way,
I heard you say,
While a caterpillar squirmed
And oozed a pool of black liquid
At your feet.
You turned that notion
Over and over
Until your false teeth
Clamped shut.
Ambiguity's Wedding
for E. D.
Bride of Awe, all that's left for us
Are vestiges of a feast table,
Levitating champagne glasses
In the hands of the erased millions.
Mr. So-and-So, the bridegroom
Of absent looks, lost looks,
The pale reporter from the awful doors
Before our identity was leased.
At night's delicious close,
A few avatars of mystery still about,
The spider at his trade,
The print of his vermilion foot on my hand.
A faded woman in sallow dress
Gravely smudged, her shadow on the wall
Becoming visible, a wintry shadow
Quieter than sleep.
Soul, take thy risk.
There where your words and thoughts
Come to a stop,
Encipher me thus, in marriage.
Note: Mấy bài này, trong Charles Simic:
New & Selected Poems, 1962-2012, post lần
đầu, sẽ dịch liền, nhân SN/GCC/Tám Bó
Mai
Sau Dù Có Bao Giờ
Có một câu thơ rất
hay “Con tằm dẫu thác hãy còn vương
tơ” mà người viết đã nhập tâm không
biết tự thuở nào. Nghe như một câu ca dao và
không chừng cũng đã là ca dao. Câu
thơ ấy vốn xuất xứ từ một vần thơ trong một bài “Vô
đề” của Lý Thương Ẩn.
VT
Câu thơ trên, là
từ Kiều, và Nguyễn Du, có thể nói,
"chôm" từ Lý Thương Ẩn!
“Kiều” có hai mức đọc
là vậy. Đọc kiểu bình dân, cũng
được, và quả thế, những câu thơ trở thành
ca dao, và quá nữa, trở thành điềm
triệu. Bói Kiều, mà gặp câu “Ma đưa lối
quỷ dẫn đường, cứ tìm những chốn đoạn trường mà
đi”, là chém chết cũng lâm vào tình
trạng cô Kiều.
Đọc kiểu bác học, là
lần ra những nguồn gốc, điển cố.
Cái từ "diễm tình",
mà dùng để chỉ thơ Lý Thương Ẩn,
theo Gấu, nhẹ quá, hời hợt quá, và rất
dễ bị hiểu lầm, do bị sử dụng quá tải. Phải kiếm được
1 cái từ nào thật tới cho thơ của ông.
Ngoài mấy bản dịch tiếng
Việt của Vương Thanh, giá có thêm
của Trần Trọng San, hay 1 ai khác nữa, thì thật
tuyệt.
Bài Vô đề 2, Vương
Thanh:
Khó được gặp nhau, cũng
khó xa
Gió Đông chi để
úa ngàn hoa
Tằm xuân đến chết, còn
tơ luyến
Sáp nến thành tro,
cạn lệ ngà
Sáng ngắm, gương buồn
vầng tóc bạc
Đêm ngâm, thơ lạnh
bóng trăng tà
Bồng Lai đường đến không
nhiều lối
Nhờ cánh chim xanh thăm
hỏi qua
Trần Trọng San:
Xa nhau khó tựa gặp nhau
Gió Đông yếu ớt,
hoa rầu xác xơ
Thác rồi tằm mới hết tơ
Tàn rồi ngọn nến mới khô
lệ sầu
Soi gương buồn tóc thay
màu
Ngâm đêm, hẳn thấy
trăng thâu lạnh lùng
Có xa xôi mấy non
Bồng
Dò đường hỏi lối, cậy
cùng chi xanh
Note:
Câu thơ của Ngân Giang,
“Đêm khuya lệ nến rơi thành chữ”, là
từ Lý Thương Ẩn, theo TTS. Trong những ấn bản đầu
của cuốn thơ Đường của ông, có ghi chuyện này,
nhưng sau bỏ đi.
Theo Gấu, câu thơ của NG,
đúng là từ Lý Thương Ẩn, nhưng đã
được chuyển hai kiếp rồi, so với nguyên tác,
giống như câu của Gấu.
Chuyển qua tiếng Việt, rồi đẩy
lệch đi 1 chút, cho nó 1 viễn ảnh mới.
gặp đã khó khăn
, xa khó hơn
gió đông yếu ớt ,
trăm hoa tàn
con tằm đến thác tơ ngừng
nhả
nước mắt vừa khô nến cháy
than
soi kính sáng buồn
tóc bạc trắng
ngâm thơ đêm biết
lạnh trăng vàng
bồng lai đi đến không nhiều
lối
nhờ cậy chim xanh chỉ giúp
đàng ...
Kịu Thần
Họ trao
cho nhau những lời thứ lỗi thông thường:
Đừng
quên, em /anh iêu, chúng ta thấy
nó tới.
Rằng
cái sự hợp tình hợp lý mới mẻ
được gợi hứng từ môn hình học
Sau cùng
đã tác động lên chúng
ta
Bất tử
là chuyện chẳng đáng
So với
cái giá mà chúng ta phải
trả bằng sự ngớ ngẩn, cù lần của mình
Gấu cảm
thấy mình đang đeo cái lục lạc của 1
con bò
Quanh
cổ
Chừng…
hai nghìn năm
Một nàng
ngồi bàn kế bên
Với mớ
tóc giả màu vàng hoe dài
tới vai
Đưa ly
sâm banh lên môi
Ra dấu
nàng nhận ra Gấu Cà Chớn là
thằng chó nào rồi!
Trong
lúc ở khuỷu tay nàng, kế cái khăn
lau tay
Đỏ như
máu – môi son của nàng
Gấu nhìn
thấy 1 chú ruồi
Bò
ra khỏi cái gạt thuốc đầy ứ tàn
Như 1
tên lính Ngụy
Hay 1
tên Bộ Đội Cụ Hồ
Cả hai
thì đều đáng thương như nhau
Trong
cuộc chiến Thành Troy từ đời thuở nào
Như thể
cả hai thì đều quá đủ, với những cuộc
chiến
Cũng
như với những nhà thơ của họ.
Note:
Quá đủ với những nhà thơ của họ!
Thần sầu!
Dù
là đã có đòn "phục bút",
khăn lau tay đầy máu, trước đó.
Làm
GCC nhớ đến hỉnh ảnh trong Chinh Phụ Ngâm,
người vợ khoe cả núi khăn lệ, khi người chinh
phu may mắn trở về.
Ui chao,
lại nhớ đến đòn "thơ lưu vong" của lũ Mít
hải ngoại, trình trước Vẹm!
Thơ Simic,
quá khủng khiếp, đúng như thế!
Ancient Divinities
They
dish out the usual excuses to one another:
Don't
forget, darling, we saw it coming.
The new
rationality inspired by geometry
Was going
to do us in eventually. Being immortal
Was not
worth the price we paid in ridicule.
I feel
like I've been wearing a cowbell
Around
my neck for two thousand years,
Says
one with a shoulder-length blond wig
Raising
a champagne glass to her lips
And acknowledging
me at the next table,
While
at her elbow, next to a napkin
Bloodied
by her lipstick, I saw a fly crawling
Out of
her overflowing ashtray
Like
some poor Trojan or Greek soldier
Who's
had enough of wars and their poets.
Charles
Simic: New and Selected Poems 1962-2012
Obscurely Occupied
You are
the Lord of the maimed,
The one
bled and crucified
In a
cellar of some prison
Over
which the day is breaking.
You inspect
the latest refinements
Of cruelty.
You may even kneel
Down
in wonder. They know
Their
business, these grim fellows
Whose
wives and mothers rise
For the
early Mass. You, yourself,
Must
hurry back through the snow
Before
they find your rightful
Place
on the cross vacated,
The few
candles burning higher
In your
terrifying absence
Under
the darkly magnified dome.
Charles
Simic: New and Selected Poems 1962-2012
U tối bận rộn
Người
là Chúa Tể của những kẻ bị thương tật
Người
chảy máu, bị đóng đinh trên cây
thập tự
Ở nơi
tầng hầm một nhà tù nào đó
Bên
trên ngày ló dạng
Người
kiểm tra những trau truốt sau cùng
Của sự
độc ác.
Người
có thể quỳ xuống, ngạc nhiên lẩm lẩm
Chúng
quả là quá rành nghề của chúng,
Những
tên nhẫn tâm, ác nghiệt này
Vợ của
chúng, mẹ của chúng
Dậy sớm,
cho Lễ Sớm
Người,
chính Người
Phải
vội vã trở lại, băng qua tuyết
Trước
khi họ tìm sự công bằng chính trực
của Người
Hãy để trước cây
thập tự bỏ trống
Vài
cây đèn cầy, cháy thật cao
Cao hơn
cả sự vắng mặt khủng khiếp của Người
Dưới
vòm trời phóng lớn tối thui.
Note:
Bài thơ này cực kỳ… u tối. Chỉ
bằng mấy dòng thơ Simic bèn dẫn ra 1 Ông
Trời “bỏ chạy, vắng mặt, ẩn giấu" [Dieu caché],
khi xẩy ra Lò Thiêu.
Đọc Simic,
GCC cứ sờ sợ, là vậy!
To TL: Bản dịch, tiếng Mít,
phân đoạn, không đúng như nguyên tác.
Đã sửa.
Tks
Nhân tiện, đi thêm mấy
bài của Simic.
HEAD OF A
DOLL
Whose demon
are you,
Whose god? I asked
Of the painted
mouth
Half buried in
the sand.
A brooding gull
Made a brief
assessment,
And tiptoed away
Nodding to himself
At dusk a firefly or two
Dowsed its eye
pits.
And later, toward
midnight,
I even heard
mice.
Charles
Simic
Ðầu búp bế
Mi thuộc về quỷ nào ?
Mi thuộc về chúa
nào ?
Tôi hỏi
cái miệng tô sơn
Đang vùi
một nửa trên cát
Một con hải âu đang tìm
chỗ ấp trứng
Đến nhìn
thẩm định chút xíu
Rồi bỏ đi, vừa
đi vừa gật gù cái đầu
Buổi chiều tối, một hai
con đom đóm
Lập lòe
hai hố mắt
Và đêm
khuya, tôi còn nghe thấy
Tiếng chuột kêu
[Note: Bài
này, hình như là K dịch?]
Kể từ khi Charles Simic tới Mẽo
từ Belgrade vào năm 1954, ở cái tuổi 16, ông đã
ồ ạt chuyển những hình ảnh của mảnh đất
không người thương đau của tuổi thơ
của ông vào trong những cuốn sách
thơ và tản văn
Ever since Charles Simic came
to America from Belgrade in 1954, at the age
of sixteen, he has been transmitting, in a rush of
books of poetry and prose, images deriving from the traumatic
no man’s land of his youth:
The Germans bombed
Belgrade in April of 1941, when I was three years
old. The building across the street was hit and destroyed.
I don’t remember anything about that bomb, although I was
told later that I was thrown out of my bed and across the room
when it hit. The next day we left the city on foot….
How many of us
were there? I remember my mother but not my father.
There were people I didn’t know, too. I see their hunched
backs, see them running with their bundles, but no faces….
My film keeps breaking.
Though by the
usual systems of counting, Simic is now sixty-one,
in his poems he is without chronological age. He has written
that in its essence, “a lyric poem is about time stopped.
Language moves in time, but the lyric impulse is vertical.”
The poems are like self-developing Polaroids, in which
a scene, gradually assembling itself out of unexplained
images, suddenly clicks into a recognizable whole. Here, for
instance, is a poem from Simic’s newest book, Jackstraws:
Head of a Doll
Whose demon are you,
Whose god? I
asked
Of the painted
mouth
Half buried in
the sand.
A brooding gull
Made a brief
assessment,
And tiptoed away
Nodding to himself.
At dusk a firefly or two
Dowsed its eye
pits.
And later, toward
midnight,
I even heard
mice.
One could call this a miniaturist’s
rewriting of Shelley’s “Ozymandias,” with its
colossal head half-buried in the sand:
I met a traveler from an antique
land,
Who said—”Two
vast and trunk-less legs of stone
Stand in the
desert…. Near them, on the sand,
Half sunk a shattered
visage lies….
Nothing beside
remains. Round the decay
Of that colossal
Wreck, boundless and bare
The lone and
level sands stretch far away.
Ozymandias’ severed head remains
unmolested, and is merely observed by the traveler;
but Simic’s severed doll’s head, “assessed” by the
daytime gull flying over the sand, has its vacant eye
sockets investigated by the firefly at dusk; and surely, at
midnight, the mice approach to use their teeth. A painted
simulacrum—a “doll”—is what any statue, human or divine, appears
to be to an observer who is not a member of the cult that has
erected it. The toppled Ozymandias and Simic’s half-buried doll
have lost their personal and cultural significance; the blinded
doll, half-buried already, is about to be consumed by the nibbling
creatures. While Shelley’s speaker invests himself in the ruins of the
sublime, Simic questions a broken “demon” or “god” of the most ordinary
sort—a child’s doll—bringing his poem into the surreal of the everyday,
Simic’s defining atmosphere.
GCC nhớ ra rồi, đúng
là K dịch, sau đó, đọc Vendler,
lòi ra "tiền thân" cái đầu búp
bế của Simic:
One could call this a miniaturist’s
rewriting of Shelley’s “Ozymandias,” with its
colossal head half-buried in the sand
Tks
NQT
Aug 5, 2015 at 5:56 PM
Dịch thơ
Em bỏ túi được
vài trăm con chữ
Túm một đầu
bằng một sợi mây giăng
Anh đưa em cuộn chỉ
thơ nhờ dịch
Chỉ muôn màu
đẹp hơn một vầng trăng
Em lôi chữ đặt
lên bàn tay ngữa
Con thì khô
như hoa nở lâu ngày
Con thì ướt
như giọt sương trên lá
Con thì mềm
như nhang khói tháng hai
Thơ người ta như mây
chìm đáy nước
Em làm sao bắt
được tiếng chim trời
Em làm sao vẽ
được xe thần chết
Em làm sao đo
được cửa chia đôi
Em vừa trông
con, vừa nấu cơm, vừa đọc
Những dòng thơ
như những tiếng thở dài
Trong một cõi
buồn mênh mang vô tận
So với đời mình,
em thấy một thành hai
Ừ thì dịch,
bằng những lời không chữ
Bằng tiếng thơ không
có nhạc đi theo
Bằng những ý
chỉ anh và em hiểu
Gởi cho anh trên
tờ lịch trong veo
It pains me to see an old woman
fret over
A few
small coins outside a grocery store-
How
swiftly I forget her as my own grief
Finds
me again-a friend at deaths door
And
the memory of the night we spent together.
I had so much love in my heart
afterward,
I could
have run into the street naked,
Confident
anyone I met would understand
My madness
and my need to tell them
About
life being both cruel and beautiful,
But I did not-despite the overwhelming
evidence:
A crow
bent over a dead squirrel in the road,
The
lilac bushes flowering in some yard,
And
the sight of a dog free from his chain Searching through a neighbor's
trash can.
Một buổi sáng sớm tinh sương
Tôi cảm thấy đau khi nhìn
một bà cụ già
Loay
hoay với mấy đồng bạc ở bên ngoài tiệm
chạp phô - Mau lẹ làm sao tôi
quên nàng như nỗi đau buồn riêng
của tôi
lại
tìm thấy tôi - một người bạn ở cửa cái
chết
Và
hồi ức đêm chúng tôi qua bên
nhau.
Trong tim tôi tràn
đầy tình yêu sau đó.
Tôi
có thể trần truồng chạy ngoài phố
Yên
trí mọi người sẽ hiểu
Sự khùng
điên của tôi, và sự cần thiết,
cũng của tôi
Để nói
cho họ về đời sống
Vừa
độc ác vừa đẹp ơi là đẹp.
Nhưng tôi đã không
- mặc dù chứng cớ thì hiển
nhiên, quá hiển nhiên: Một
con quạ cúi xuống một con sóc chết trên mặt đường, Hoa
lilac nở rộ trong một khu vuờn gần đó Và
cái nhìn, một con chó
thoát khỏi sợi dây xích Xục
xạo một cái lon trong sọt rác nhà hàng
xóm
ABOUT MYSELF
I'm the uncrowned king of the
insomniacs
Who
still fights his ghosts with a sword,
A student
of ceilings and closed doors
Making
bets two plus two is not always four
A merry old soul playing the
accordion
On the
graveyard shift in the morgue.
A fly
escaped from a head of a madman,
Taking
a rest on the wall next to his head.
Descendent of village priests
and blacksmiths:
A grudging
stage assistant of two
Renowned
and invisible master illusionists,
One
called God, the other Devil, assuming, of course,
I'm
the person I represent myself to be.
Về chính tôi
Tôi là ông
vua không vương miện của những tên
mất ngủ
Vẫn
chiến đấu với những bóng ma của mình
bằng 1 cây gươm,
Một
sinh viên của cái trần nhà và
những cái cửa đóng
Đánh
cược hai với hai không luôn luôn
là bốn
Một linh hồn già vui vui chơi
phong cầm
Trong
một ca gác nghĩa địa ở nhà xác.
Một
con ruồi trốn khỏi đầu một tên khùng
Hậu
duệ của tu sĩ và thợ rèn làng:
Phụ
tá sàn diễn bất đắc dĩ của hai sư phụ
nổi tiếng, vô hình, của môn
ảo thuật.
Một
được gọi là Thượng Đế, một Quỉ,
làm
ra vẻ, lẽ dĩ nhiên,
tôi
là người tự coi mình là như
vậy
Bad luck, my very own, sit down
and listen to me:
You
make yourself scarce for months at the time
Making
preparations for some new calamity,
Then
come to shake me awake some dark night,
Wiping the sweat off your face,
asking
For
a glass of water, while mumbling something
About
how a mixed bag of misery and laughter
Is all
that I can expect from a life like mine,
While
I listen, none the wiser like a blind man
Holding a fortune cookie in
a Chinese restaurant
And
waiting for a waiter to come along
And
read it to him, but there isn't one coming,
'Cause
it's late and the Bamboo Garden is closed.
Vườn Tre
Vận rủi "rất" rất riêng
của ta, hãy ngồi xuống, và
lắng nghe ta nói:
Mi làm
mặt lạnh, làm mặt khó mấy tháng
nay,
Như
thể mi đang sửa soạn 1 cú tai ương mới nào
đó
Rồi
thì một đêm âm u, mi tới đánh
thức ta dậy
Lau mồ hôi trên mặt
Hỏi
xin ta ly nước lạnh
Trong
lúc lẩm bẩm cái con mẹ gì đó,
Hình
như là về
Làm
thế nào trộn cái khốn cùng của
dân Mít
và
tiếng cười sảng khoái của đám đại
gia Đỏ
Và
có phải đó là tất cả những
gì mà một tên
Gấu
Cà Chớn mong ước, trong cõi đời của
mi?
Trong lúc Gấu ngồi lắng
nghe, chẳng khôn ngoan gì
hơn 1 anh mù
Tay
cầm cái kẹo trong có câu thần
chú may rủi ở 1 tiệm ăn Tầu
Đợi
người bồi đi ngang để đọc cho nghe.
Nhưng
chẳng có ma nào
Bởi
là vì đã quá khuya, và
Vườn Tre đã đóng cửa.
THUS
The long day has ended in which
so much
And
so little had happened.
Great
hopes were dashed,
Then
halfheartedly restored once again.
Mirrors became animated and
emptied,
Obeying
the whims of chance.
The
hands of the church clock moved,
At times
gently, at times violently.
Night fell. The brain and its
mysteries
Deepened.
The red neon sign
FIREWORKS
FOR SALE came on on a roof
Of a
grim old building across the street.
A nearly leafless potted plant,
No one
ever waters or pays attention to,
Cast
its shadow on the bedroom wall
With
what looked to me like joy.
Thế Đó
Ngày dài chấm dứt
Quá
nhiều, quá ít xẩy ra
Những
hi vọng lớn tiêu tan,
Rồi
lại được uể oải phục hồi.
Những tấm gương trỏ nên
linh hoạt và trống rỗng,
Chiều
theo luật đỏng đảnh, nay thế này, mai thế
khác.
Kim
đồng hồ nhà Chúa chuyển động
Lúc
dịu dàng, lúc dữ dằn, như bị ma đuổi
Đêm xuống. Cái đầu
và những bí ẩn của nó
Chìm
sâu mãi xuống
Những
ngọn đèn nê ông đỏ, chiếu những
dòng chữ
Pháo
Bông Khuyến Mãi, Đại Hạ Giá
Trên
nóc tòa bulding cổ, dữ dằn
Bên
kia con phố
Một cái
cây trồng trong 1 cái chậu, chắng
có 1 cái lá
Chằc
là chẳng ai lo tưới, hoặc để mắt tới
Chiếu
cái bóng của nó lên tường
phòng ngủ
On the Meadow
With the wind gusting
so wildly,
So unpredictably,
I'm willing to
bet one or two ants
May have tumbled
on their backs
As we sit here
on the porch.
Their feet are
pedaling
Imaginary bicycles.
It's a battle of
wits against
Various physical
laws,
Plus Fate, plus-
So- what -else-
is-new?
Wondering if anyone's
coming to their aid
Bringing cake crumbs,
Miniature editions
of the Bible,
A lost thread or
two
Cleverly tied end
to end.
Empty Rocking Chair
Talking to yourself
on the front porch
As the night blew
in
Cold and starless.
Everybody's in
harm's way,
I heard you say,
While a caterpillar
squirmed
And oozed a pool
of black liquid
At your feet.
You turned that
notion
Over and over
Until your false
teeth
Clamped shut.
Ambiguity's Wedding
for E. D.
Bride of Awe, all
that's left for us
Are vestiges of
a feast table,
Levitating champagne
glasses
In the hands of
the erased millions.
Mr. So-and-So,
the bridegroom
Of absent looks,
lost looks,
The pale reporter
from the awful doors
Before our identity
was leased.
At night's delicious
close,
A few avatars of
mystery still about,
The spider at his
trade,
The print of his
vermilion foot on my hand.
A faded woman in
sallow dress
Gravely smudged,
her shadow on the wall
Becoming visible,
a wintry shadow
Quieter than sleep.
Soul, take thy
risk.
There where your
words and thoughts
Come to a stop,
Encipher me thus,
in marriage.
Note: Mấy bài
này, trong Charles Simic: New & Selected
Poems, 1962-2012, post lần đầu, sẽ dịch liền, nhân
SN/GCC/Tám Bó
Lại nói
chuyện dịch, dịch thơ.
Thời gian ở Trại
Tị Nạn, GCC hăm hở học tiếng Anh, quyết tâm,
nếu ra được hải ngoại, thì, không thèm
viết tiếng Mít nữa. Nhưng đúng vào
lúc vô 1 thư viện ở Toronto, cầm lên cuốn
Ngôn ngữ và Câm Lặng, của Steiner, đọc 1 phát,
thì ngộ ra liền, phải làm 1 tên biệt
kích văn hóa - chữ của Vẹm, chỉ đám Ngụy
sau 1975, vẫn lăm le viết, như trong mấy vụ bỏ tù những đấng
như Hiếu Chân, Hoàng Hải Thuỷ... - Phải
cướp cho bằng được thứ văn hóa như là “thuốc chủng
độc”, trước là cái độc Nazi, sau tới cái
ác, cái độc Bắc Kít...
Đại khái
thế.
Rồi ngộ độc thơ,
dịch thơ, quái thế, sướng thế!
Và do dịch,
GCC khám phá ra… vài
chân lý:
Một bài
thơ, được viết ra, là để chờ được dịch.
Dịch, là
sáng tạo bài thơ, trong 1 ngôn
ngữ khác, là ban cho nó 1 đời mới.
Dịch thơ không
phải chỉ để rành rẽ thêm, 1 ngôn
ngữ khác, mà là để rành rẽ
thêm, tiếng mẹ đẻ của người dịch.
Cú phát
giác này mới đúng là
thần sầu. Phát giác này, là
do đọc 1 số nhà văn di dân, viết bằng tiếng
Anh, nhưng bảnh hơn thứ chính hiệu, của lũ mũi lõ.
Nói rõ
hơn, thứ văn học viết bằng tiếng Anh, do đám
di dân viết, khác thứ văn
học bằng tiếng Anh trước đó, trước thời có
hiện tượng di dân như trong thế kỷ vừa qua.
Chính là
do không rành tiếng Mít của
đám Mít hải ngọai, đời thứ nhì thứ
ba cái con khỉ gì đó, trong khi tiếng
Anh, thì cũng chỉ đủ để đọc, viết, nói, thứ
ngôn ngữ thông dụng thường ngày, nên
chúng chẳng viết bằng bất cứ ngôn ngữ nào,
và dịch thì như hạch!
Đó là
sự thực về văn học hải ngoại Mít.
Một thất bại khổng
lồ!
Ngoài ra,
đúng hơn, phải nói, trên
hết, còn vấn đề đạo hạnh.
Đạo hạnh, theo
nghĩa của Brodsky: Mỹ mới là Mẹ của Đạo Hạnh
Và, vẫn
ông, sống sót thường là do điếm
thúi, nhập nhằng, ít khi, do đạo hạnh.
Trong bài "Nhân
Văn" ("Humane Literacy", trong "Ngôn ngữ và
Câm lặng"), George Steiner viết:
"Đọc tới nơi tới chốn,
là chấp nhận hiểm nguy. Điều gọi là
căn cước, sự tự chủ của chúng ta có thể bị
thương tổn. Trong những biểu hiện khởi đầu của chứng động kinh,
có một giấc mơ thật đặc trưng; Dostoevsky nói về
nó. Con người như bị nhấc bổng ra khỏi thân thể
của mình; người đó nhìn ngoái lại
và cảm thấy một nỗi sợ bất thần, khùng điên; một
hiện hữu khác đang đi vô chính cái thân
thể của mình đó, và chẳng còn
đường nào để mà trở lại. Nỗi sợ khủng khiếp
làm cho cái đầu cố bật dậy, tỉnh giấc. Cũng vậy,
khi chúng ta cầm trong tay một tác phẩm lớn lao, văn
chương hay triết học, tưởng tượng hay đề thuyết. Nó có
thể hoàn toàn chiếm hữu chúng ta, khiến chúng
ta [phải] bỏ đi lang thang, sợ hãi ngay chính mình,
không còn nhận ra mình. Người nào đọc
"Metamorphosis"("Hóa Thân") của Kafka, và
nhìn vào gương không rùng mình,
người đó có thể đọc bản in, theo nghĩa kỹ thuật
của từ "đọc", nhưng thực sự là mù chữ, theo đúng
nghĩa của việc đọc."
Đọc đã vậy,
nhưng chưa nguy hiểm bằng dịch. Không chỉ chết
ở trong hồn một tí, mà có khi còn
mất tiêu luôn linh hồn. Theo nghĩa đó,
ở một chỗ khác, George Steiner khẳng định, "Không
thể có dịch thuật, ngoại trừ dưới điều kiện khủng
hoảng tri thức luận." Một hiện hữu khác, một linh hồn
khác đang dọn vô "căn nhà hữu thể" (ngôn
ngữ), của mình.
Nhìn từ quan
điểm đó, chúng ta có thể hiểu
được tại sao người đọc thường mong ước có một bản dịch
dễ đọc (không nguy hiểm). Họ có thể chịu đựng
được sự xâm nhập của những từ, trước đây, như bóc
ba ga, phanh, gác đờ bu, hay bây giờ, Vifon, Fahaxa...
vậy mà vẫn "không chịu" những từ, thí
dụ như Talawas.
Bởi vì, một
cách nào đó, Talawas, là
đụng tới khủng hoảng tri thức luận. Người đọc vẫn mong ước,
sự ô nhiễm ngôn ngữ, nếu có, chỉ ở
trên bình diện "thực dụng", do chuyện hàng
ngày, do nhu cầu ăn ở sinh hoạt phải cần tới chúng.
Mô phỏng một
câu của Hemingway, "Con người có thể
bị hủy diệt, nhưng không thể bị khuất phục" (A man can
be destroyed but not defeated): ngôn ngữ có thể
bị hủy diệt nhưng không thể bị ô nhiễm. Và
nếu nó bị ô nhiễm, thì cũng chỉ ở bên
ngoài, chưa đụng tới phần cốt tủy của nó.
Một diễn đàn
như Talawas, là đụng tới cốt tủy của ngôn
ngữ Việt.
Trong
bài viết ngắn của ông về bạn mình,
Cioran viết về từ Lessness,
của Beckett, dịch từ “Sans”, tên 1 tác phẩm
tiếng Tẩy của Beckett. Cioran bị hớp hồn, ”envouté”,
bởi từ này, và một bữa, un soir, ông
biểu bạn, tôi không làm sao tìm
ra 1 từ tiếng Tẩy nào tương đương với nó [tất
nhiên, không phải từ “sans” mà nó
được dịch từ đó ra].
“Tôi không
thể nào ngủ được nếu không kiếm ra
1 từ ra hồn, honorable. Thế là cả hai bù đầu
kiếm, bằng cách kết hợp những từ chung quanh hai từ
sans, và moindre. Và khi từ giã,
cả hai đều thất vọng.
Trở về nhà,
Cioran vẫn khổ với nó, cho đến lúc
ông bật ra ý nghĩ, hay là mò
từ nguồn la tinh, và ngày hôm sau, ông
viết cho Beckett, cái từ sinéité,
và tuyệt vời làm
sao, cũng đúng lúc đó, Beckett kiếm
ra từ này.
Đúng là
1 giai thoại thần sầu. TV post sau đây, để chứng
minh, là không phịa ra.
Le texte francais Sans s'appelle en anglais Lessness, vocable
forgé par Beckett, comme il a forgé
l'équivalent allemand
Losigkeit. Ce mot de Lessness (aussi insondable que l'Ungrund
de Boehme) m'ayant envouté , je dis
un soir à Beckett que je ne me coucherais pas avant
d'en avoir trouvé en francais un équivalent
honorable ... Nous avions envisagé ensemble toutes
les formes possibles suggerées par sans et moindre. Aucune
ne nous avait paru approcher de l'inépuisable
Lessness, mélange de privation
et d'infini, vacuité synonyme d'apothéose. Nous
nous séparames plutôt décus. Rentré
à la maison, je continuai à tourner et retourner
dans mon esprit ce pauvre sans. Au moment ou j'allais capituler, l'idée me
vint qu'il fallait chercher du côté du latin
sine. J'écrivis le lendemain à
Beckett que sineité me semblait
le mot rêvé. II me repondit qu'il y avait pensé
lui aussi, peut-être au même instant. Notre trouvaille
cependant, il faut bien le reconnaitre, n'en était pas une
. Nous tombâmes d'accord qu'on devait abandonner l'enquête,
qu'il n'y avait pas de substantif francais capable d'exprimer
l'absence en soi, l'absence à l'état pur, et qu'il
fallait se résigner à la misère métaphysique
d'une préposition.
E.M. Cioran: Quelques rencontres.
Cái
từ Everness, mà Borges chôm, để thay
thế cho từ Eternity, đã bị sử dụng đến nát bấy,
chẳng phải, dịch là sáng tạo ư?
Khủng nhất, là
có thằng cha Gấu Cà chớn nào
đó, lại sáng tạo thêm 1 lần nữa, bằng
cách chôm Nguyễn Du, và nó biến
thành “Mai sau dù có bao giờ”.
Cái kiểu
lộng dịch của Gấu, 1 cách nào đó,
cũng là sáng tạo bản văn, cho nó hợp
với thời Cái Ác Bắc Kít đưa nước Mít
tới bờ huỷ diệt!
Some people say sex is like
riding a rainbow.
Maybe theirs is.
I say I fall on a grenade
each time.
My rainbow-on-a-runway took
off practically
Straight up from the infirmary
To reach the thermosphere,
And blew up above Brussels,
Paris, etc.—
And here’s the nurse. Nurse!
I had a stroke.
I had another stroke.
I can’t lift my prepuce head
from the bed.
Someone said my poison poems
Are flowers someone brought
into the room,
Flowers that leave behind
a sonic boom.
Note: Bài thơ này, "Baudelaire..."
Gấu nhớ là dịch rồi, nhưng kiếm hoài không
ra.
Post lên đây,
tính sau, kèm thêm 1 bài
nữa, trong 7 bài, của Seidel, trong cùng số
báo.
AUTUMN
A man walks briskly away
from his body
And from feeling slightly
sick on a blazingly fall day.
The sky is fresh perfection,
without a cloud of illness.
The air is clean and cool
as a fountain.
The heat of the last few
weeks deflates.
The man walks as fast as
he can up a mountain
In the middle of his head,
In the middle of a city.
Notwithstanding your attempts
to indict me,
I will not fall ill, I
refuse, he says.
He says, Some things are
more delicious than other things,
Minister of doodle-y-doo,
Prince of sky after sky
of blue .
Even in almost a drought,
Things can be succulent
and full
And capable of merci beaucoup.
Sky after sky of blue,
to match his eyes,
Is also the color he looks
best in,
And also what these fall
days have been so far, a fresh perfection.
A man should be wearing
the sky.
A fellow should wear what
he is walking under,
And when the day clouds
over, especially so.
He's ready to travel via
his smartphone to her gloriousness
Faster than the cars go
in a Formula One race.
Behold his angel far away,
Who might as well be cocooned
in outer space,
But in fact she's in a
country where the sky is always gray,
And where the sky wants
to stay that way.
If you make up your mind
to,
You can be together in
her weather.
Or if you'd rather,
And can't live without
her, you can die.
Round head, round brain,
jagged heart,
Your heart barnacled by
too much ...
A space traveler incapable
of space travel,
Back from a failed mission,
Lands out at sea on the
deck of a nuclear submarine
With armed warheads that
has surfaced for this purpose.
It is a spectacular fall
day, and the gorgeous air is dressed in blue,
And the worshipper turns
to her neighbor and gives the kiss of peace.
The leaves will be falling
soon to make things fresh and clean and new.
People walking their dogs
bend down
To pick up after their
dogs the dog doo,
People obeying a city ordinance
they've finally got used to.
No one expected where they
were heading.
They join hands at a worldwide
wedding.
The police commissioner
is there, the mayor.
On the steps, kilts are
wailing bagpipes.
CORS DE CHASSE
(Apollinaire)
Our story is noble and tragic
As the face
of a tyrant not fun not for everyone
No drama or
magic
No detail of
what we've done
Can make our
love pathetic
And Thomas de Quincey drinking
Opium poison
sweet and chaste
Went dreaming
to his poor Anne and listened to his own eyelids blinking
Let it pass
let it pass because everything will pass and be effaced
I will be back
not yet erased
Memories
Are hunting
horns whose sound dies in the breeze
Tù và săn
Chuyện chúng mình
thì phong nhã và bi thương
Như cái
mặt nạ của tên bạo chúa
Chẳng bi kịch,
phiêu lưu hay thần kỳ
Chẳng chi tiết,
dửng dưng
Có thể
làm cho cuộc tình của chúng ta
thống thiết
Gấu chơi xì
ke,
Dịu dàng
và trong trắng
Mơ màng
nhớ BHD
Thôi bỏ đi, bỏ đi Tám
Mọi chuyện đều
qua đi
Gấu sẽ thường
quay trở lại
Kỷ niệm
thì giống
như tiếng tù và săn
Lặng dần trong
gió
ANNIE
(Apollinaire)
On the coast of Texas
Between Mobile
and Galveston there's
A big garden
full of roses
There's a house
in the garden
And the house
is itself a big rose
A woman walks in the garden
Alone quite
often and when I pass
By on the highway
lined with lime trees
We look at each
other
Because this woman is a Mennonite
Her rosebushes
and her clothes don't have buttons
Actually my
jacket is missing two buttons
This lady and
I observe almost the same rite
Đây là Annie
của Apollinaire. Bài thơ Annie, nhớ là
cũng đã dịch rồi, từ bản tiếng Tẩy!
ANNIE
Ở bờ biển Texas
Giữa Mobile và Galveston
Có 1 khu vườn bự thiệt
bự
Đầy hoa hồng
Có 1 căn nhà
ở trong vườn
Và cái nhà,
chính nó, là 1 bông hồng
bự
Một thiếu phụ tha thẩn trong
vườn
Thường là một mình
Và khi tớ đi qua
Trên con lộ lớn hai
bên đường là những hàng cây
đoan
Thế là hai đứa chúng
tớ bèn nhìn nhau
Bởi là vì em
là 1 Mennonite
Những đóa hồng của
nàng, bộ đồ nàng mặc thì không
có nút
Cái áo khoác
của tớ thì mất hai cái nút
Phu nhân này,
và tớ, hầu như quan sát cùng
1 nghi lễ
Louise
Glück is considered by many to be one of America’s
most talented contemporary poets. The poet Robert Hass
has called her “one of the purest and most accomplished lyric
poets now writing,” and her poetry is noted for its technical
precision, sensitivity, and insight into loneliness, family
relationships, divorce, and death. Frequently described as
“spare,” James K. Robinson in Contemporary Women Poets also
noted that “Glück’s poetry is intimate, familial, and what
Edwin Muir has called the fable, the archetypal.” Rosanna Warren
has described Glück’s “classicizing gestures”—her frequent
reworking of Greek and Roman myths such as Persephone and Demeter,
for example—as necessary to her lyric project. According to Warren,
Glück’s “power [is] to distance the lyric ‘I’ as subject and
object of attention” and to “impose a discipline of detachment upon
urgently subjective material.” Glück’s early books feature
personae grappling with the aftermaths of failed love affairs,
disastrous family encounters, and existential despair, and her later
work continues to explore the agony of the self. In the New York
Times, critic William Logan described her work as “the logical outcome
of a certain strain of confessional verse—starved of adjectives,
thinned to a nervous set of verbs, intense almost past bearing, her
poems have been dark, damaged and difficult to avert your gaze from.” (b)
AUGUST 15
Louise Gluck
For the lucky, born into a geography
not visited by war or political terror, the events
in life that leave the soul scoured and disoriented are
death and divorce. Divorce is a kind of death. Even for people
glad to get out of relationships, the props of a life have
to be remade, families, habits, houses, even towns. And it can
leave a life stripped bare.
Not
surprising that it is a subject for poetry, but it is
surprising how little serious and sustained examination of
the subject there has been in our poetry, given how common
and how devastating the experience can be.
For
the last ten years Gluck, one of the purest and most
accomplished lyric poets now writing, has turned from the form
of her early books, traditional collection of poems written
over a period of time, to a series of book-length sequences.
They are written in her characteristically spare and elegant
style. They are books of individual poems, but they make a narrative
sequence, and so they are able to explore a subject in many moods
and from many points of view in a way that is reminiscent of
the old sonnet sequences that explored all the phases of a love
affair. The first one, Ararat, dealt with
a family of three women in the aftermath of the death of a husband
and father. The second one, the Pulitzer Prize-winning
The Wild Iris, was a meditation on the turning
of the year in a northern New England garden. The third,
Meadowlands, based on the story of Ulysses and Penelope
and Telemachus, was about a marriage coming apart. The newest
one, published this year, is Vita Nova (Ecco
Press). Its subject is that life after divorce. It begins from
something like the place Emily Dickinson described so accurately:
After great pain, a formal feeling
comes-
The Nerves sit ceremonious,
like Tombs-
Here are a couple of the poems:
The Garment
My soul dried up.
Like a soul cast into
a fire, but not completely,
not to annihilation. Parched,
it continued. Brittle,
not from solitude but
from mistrust,
the aftermath of violence.
Spirit, invited to leave the
body,
to stand exposed a moment,
trembling, as before
your presentation to the
divine-
spirit lured out of solitude
by the promise of grace,
how will you ever again
believe
the love of another being?
My soul withered and shrank.
The body became for it
too large a garment.
And when hope was returned
to me
it was another hope entirely.
Earthly Love
Conventions of the time
held them together.
It was a period
(very long) in which
the heart once given freely
was required, a formal
gesture,
to forfeit liberty: a
consecration
at once moving and hopelessly
doomed.
As to ourselves:
fortunately we diverged
from these requirements,
as I reminded myself
when my life shattered.
So that what we had for
so long
was, more or less,
voluntary, alive.
And only long afterward
did I begin to think otherwise.
We are all human-
we protect ourselves
as well as we can
even to the point of denying
clarity, the point
of self-deception. As
in
the consecration to which
I alluded.
And yet, within this deception
True happiness occurred.
So that I believe I would
repeat these errors exactly.
N or does it seem to me
crucial to know
whether or not such happiness
is built on illusion:
it has its own reality.
And in either case, it
will end.
Robert Hass: 1999/ Now
& Then
After great pain, a formal feeling
comes-
The Nerves sit ceremonious,
like Tombs- Emily Dickinson
(Tạm dịch:
Sau cú đau lớn,
một cảm giác chiếu lệ bèn tới
Những sợi não ngồi
trang nghiêm, như những nấm mồ)
LIU TSUNG-YUAN
773-819
A fisherman in the landscape
was a beloved subject of poets and painters. This
poem, however, seems to me quite complicated, in spite of
its apparent simplicity. For here there is action, and the
fisherman himself appears only toward the end, as somebody who
rows somewhere far.
Czeslaw Milosz
OLD FISHERMAN
Old fisherman spends
his night beneath the western cliffs.
At dawn, he boils Hsiang's
waters, burns bamboo of Ch'u.
When the mist's burned
off, and the sun's come out, he's, gone.
The slap of the oars:
the mountain waters green.
Turn and look, at heaven's
edge, he's moving with the flow.
Above the cliffs the
aimless clouds go too.
Translated
from the Chinese by J. P Seaton
Bài thơ trên, nhớ là đã
dịch rồi, kiếm không ra. Post lại, và post
thêm 1 bài nữa, cũng của Liu (cái này
thì phải nhờ bạn The Gardener) (1)
In a thousand mountains
not one bird flying
on ten thousand trails
not one footprint.
In a solitary boat
an old man alone
in bulky straw raincoat
fishes the snow-cold
river.
--Translated by Stanton
Hager
in Huangshan
Poems from the T'ang Dynasty
(21st Editions: Cape
Cod, 2010)
Bài sau đây, của Vương Duy, cũng quá
đỗi thần sầu.
Thơ của vị này
là tranh, là họa, đúng như
Milosz phán.
Wang Wei
701-761
And now a short, economic (in movements of word and brush)
poem by Wang Wei.
MAGNOLIA BASIN
On branch tips the hibiscus bloom.
The mountains show off
red calices.
Nobody. A silent cottage
in the valley.
One by one flowers open,
then fall.
Translated from the Chinese by Tony and Willis Barnstone
and Xu Haixin
(1)
LIU TSUNG-YVAN
773-819
A
fisherman in the landscape was a beloved subject of
poets and painters. This poem, however, seems to me quite
complicated, in spite of its apparent simplicity. For
here there is action, and the fisherman himself appears only
toward the end, as somebody who rows somewhere far.
Czeslaw Milosz: A Book of Luminous Things
Ngư phủ trong cảnh vật, cả thi
sĩ lẫn họa sĩ đều mê. Nhưng bài thơ
sau đây xem ra rắc rối dù bề ngoài
đơn giản. Bởi vì ở đây, có hành
động, và tay ngư phủ già, chính anh
già, chỉ xuất hiện ở cuối bài thơ , như 1 kẻ nào
đó rắp ranh làm 1 chuyến đi xa, thật xa.
OLD FISHERMAN
Old fisherman spends his night
beneath the western cliffs.
At dawn, he boils Hsiang's
waters, burns bamboo of Ch'u.
When the mist's burned
off, and the sun's come out, he's, gone.
The slap of the oars:
the mountain waters green.
Turn and look, at heaven's
edge, he's moving with the flow.
Above the cliffs the
aimless clouds go too. Translated from the Chinese by J.
P. Seaton
Người câu
cá già
Người câu cá già
qua đêm ở mỏm Ải Tây
[từ Ải Tây này,
thuổng Tô thi sĩ, trong bài tặng TTT]
Vào lúc
sáng sớm, anh già ngồi đun nước mưa,
hứng ở mái sau nhà, ở Canada, đốt củi tre
nhập lậu từ xứ Mít.
Khi sương mù
tan, mặt trời bò ra, anh già bèn
xuống thuyền, lên đường, làm chuyến viễn du
chót.
Tiếng mái chèo
đập trên làn nước xanh
Quay nhìn, ở
đường ven Thiên Đàng, thấy thấp thoáng
bóng anh già cùng di chuyển với dòng
nước
Ở trên đỉnh Ải
Tây, mây, đếch biết làm gì,
bèn cũng đi theo anh già!
I wonder how we can survive, this romance But in the end if I'm with you, I'll
take the chance
Bryan Adams - I Will Be Right Here Waiting For You
Note: Năm cùng tháng
tận, đời tàn, tặng Gấu Già bài
thơ trên thì đúng là tuyệt
cú mèo!
Làm sao Gấu qua khỏi
con trăng này?
Nhưng sau cùng,
nếu Gấu gặp Sad Seagull, thì Gấu sẽ chấp tất
cả thế gian này!
Một
điều, mình nó không thôi,
thì không hiện hữu - Sự Lãng Quên
Ông Trời, Người
kíu kim loại, kíu kít kim loại
– còn gọi là gỉ sét -
Và trữ, chứa
trong hồi ức tiên tri của Xừ Luỷ,
Những con trăng sẽ
tới
Những con trăng những
đêm nào đã qua đi
Mọi thứ thì,
rằng thì là, cứ thế bày
ra đó
Ngàn ngàn
những phản chiếu
Giữa rạng đông
và hoàng hôn
Trong rất nhiều tấm
gương
Là khuôn
mặt Em để lại
[Cái gì
gì, đập cổ kính ra tìm lại bóng]
Hay, sẽ để lại, trước
khi soi bóng
Và mọi điều
thì là phần của cái hồi nhớ tản
mạn, long lanh, vũ trụ;
Làm gì
có tận cùng cho những hành
lang khẩn cấp của nó
Những cánh cửa
đóng lại sau khi Em đi
Chỉ ở mãi phía
xa kia, trong rực rỡ dương quang
Sẽ chỉ cho Em thấy,
sau cùng, những Nguyên Mẫu và
những Huy Hoàng
Everness
One thing
does not exist: Oblivion. God saves the metal and he saves the
dross, And his prophetic memory guards from
loss The moons to come, and those of evenings
gone. Everything is: the shadows
in the glass Which, in between the day’s two twilights,
you Have scattered by the thousands, or
shall strew Henceforward in the mirrors that you
pass. And everything is part of that diverse Crystalline memory, the universe; Whoever through its endless mazes wanders Hears door on door click shut behind his
stride, And only from the sunset’s farther side Shall view at last the Archetypes and
the Splendors.
Khi chôm
Nguyễn Du, để dịch từ Everness,
thì GCC chưa đọc những dòng sau đây, về cái
từ thần sầu này.
Hóa ra là
Borges cũng chôm của 1 người khác.
Đọc, thì GCC phát
giác ra, cái từ Mít để dịch từ
Everness, có rồi, và đó
là từ “Sài-Gòn”:
Ever-r-ness is far better than the German
Ewigkeit, the same word. But he also created
a beautiful word, a word that's a poem in itself, full of hopelessness,
sadness, and despair: the word neverness.
A beautiful word, no?
NQT
Everness: Sài Gòn.
Mai sau dù có bao giờ.
Neverness: TP HCM
OK?
Brodsky cũng phán
như thế về St. Petersburg: Thà nó có
tên của 1 vì thánh, còn hơn của
1 con quỉ (Stalingrad)
INTERVIEWER
Some readers have found
that your stories are cold, impersonal, rather like
some of the newer French writers. Is that your intention?
BORGES
No. (Sadly) If that has
happened, it is out of mere clumsiness. Because I have
felt them very deeply. I have felt them so deeply that I have
told them, well, using strange symbols so that people might not
find out that they were all more or less autobiographical. The
stories were about myself, my personal experiences. I suppose
it's the English diffidence, no?
INTERVIEWER
Then a book like the little
volume called Everness would be a
good book for someone to read about your work?
BORGES
I think it is. Besides,
the lady who wrote it is a close friend of mine. I found
that word in Roget's Thesaurus. Then I thought that
word was invented by Bishop Wilkins, who invented an artificial
language.
INTERVIEWER
You've written about that.
BORGES
Yes, I wrote about Wilkins.
But he also invented a wonderful word that strangely
enough has never been used by English poets—an awful word, really,
a terrible word. Everness of course, is better than eternity because
eternity is rather worn now.
Ever-r-ness is far better than the German
Ewigkeit, the same word. But he also created
a beautiful word, a word that's a poem in itself, full of
hopelessness, sadness, and despair: the word neverness. A beautiful
word, no? He invented it, and I don't know why the poets left
it lying about and never used it.
INTERVIEWER
Have you used it?
BORGES
No, no, never. I used everness,
but neverness is very
beautiful. There is something hopeless about it, no? And there
is no word with the same meaning in any other language, or in
English. You might say impossibility, but that's very tame for
neverness: the Saxon ending
in -ness. Neverness. Keats uses nothingness:
“Till love and fame to nothingness do sink”; but nothingness,
I think, is weaker than neverness. You have in Spanish
nadería —many similar words—but nothing like
neverness. So if you're a poet, you should use that word. It's a
pity for that word to be lost in the pages of a dictionary. I don't
think it's ever been used. It may have been used by some theologian;
it might. I suppose Jonathan Edwards would have enjoyed that kind
of word or Sir Thomas Browne, perhaps, and Shakespeare, of course,
because he was very fond of words.
INTERVIEWER
You respond to English
so well, you love it so much, how is it you have written
so little in English?
BORGES
Why? Why, I'm afraid. Fear.
But next year, those lectures of mine that I shall deliver,
I'll write them in English. I already wrote to Harvard.
Tin Văn giới thiệu chùm thơ của
Frederick Seidel, gợi hứng & dịch Apolllinaire, nguyên
tác đều đã được dịch qua tiếng Mít.
LE PONT MIRABEAU
(Apollinaire)
Under Eads Bridge over the Mississippi at St. Louis
Flows the Seine
And our past loves.
Do I really have to
remember all that again
And remember
Joy came only after
so much pain?
Hand in hand, face to face,
Let the belfry softly
bong the late hour.
Nights go by. Days
go by.
I'm alive. I'm here.
I'm in flower.
The days go by. But
I'm still here. In full flower.
Let night come. Let
the hour chime on the mantel.
Love goes away the way this river flows away.
How violently flowers
fade. How awfully slow life is.
How violently a flower
fades. How violent our hopes are.
The days pass and the
weeks pass.
The past does not return,
nor do past loves.
Under the Pont Mirabeau
flows the Seine.
Hand in hand, standing face to face,
Under the arch of the
bridge our outstretched arms make
Flows our appetite
for life away from us downstream,
And our dream
Of getting back our
love of life again.
Under the Pont Mirabeau
flows the Seine.
Our story is noble and tragic
As the face of a tyrant
not fun not for everyone
No drama or magic
No detail of what we've
done
Can make our love pathetic
And Thomas de Quincey drinking
Opium poison sweet
and chaste
Went dreaming to his
poor Anne and listened to his own eyelids blinking
Let it pass let it
pass because everything will pass and be effaced
I will be back not
yet erased
Memories
Are hunting horns whose
sound dies in the breeze
Tù và săn
Chuyện chúng mình
thì phong nhã và bi thương
Như cái mặt nạ
của tên bạo chúa
Chẳng bi kịch, phiêu
lưu hay thần kỳ
Chẳng chi tiết, dửng
dưng
Có thể làm
cho cuộc tình của chúng ta thống thiết
Gấu chơi xì ke,
Dịu dàng và
trong trắng
Mơ màng nhớ BHD
Thôi bỏ đi, bỏ đi Tám
Mọi chuyện đều qua đi
Gấu sẽ thường quay trở
lại
Kỷ niệm
thì giống như
tiếng tù và săn
Lặng dần trong gió
ANNIE
(Apollinaire)
On the coast of Texas
Between Mobile and
Galveston there's
A big garden full of
roses
There's a house in
the garden
And the house is itself
a big rose
A woman walks in the garden
Alone quite often and
when I pass
By on the highway lined
with lime trees
We look at each other
Because this woman is a Mennonite
Her rosebushes and
her clothes don't have buttons
Actually my jacket
is missing two buttons
This lady and I observe
almost the same rite
Cole: You said you
don’t often do negative reviews. What do you do with
a book you don’t like? How do you handle it?
Vendler: I forget
it-you mean if I have to write about it?
Cole: Yes.
Vendler: I tell the
truth as I see it. I was reading a biography of Mary
McCarthy, and it turns out she was hurt by a review that
I did of her Birds of America. But she also believed it
to be true, which hurt her more.
Cole: As a writer
and a professor, I guess I understand both sides of
the equation. This has been interesting. Thank you for
taking time out from your academic schedule.
Vendler: Thank you.
[Bà nói,
bà không viết nhiều, cái thứ
điểm sách tiêu cực - tức chê bai, mạ lị,
miệt thị… như GCC thường viết – Bà làm gì
với cuốn bà không thích? Làm
thế nào bà “handle” nó?
Bạn tính nói,
nếu tôi phải viết về nó?
Yes
Thì cứ nói
thẳng ra ở đây. Tôi đọc tiểu sử của Mary
McCarthy, hóa ra là bà bị tui, chính
tui, phạng cho 1 cú đau điếng, khi điểm cuốn "Chim
Mẽo" của bà. Nhưng bà cũng nói thêm,
tui phạng đúng, và cái đó
làm bà còn đau hơn nhiều!]
Ui chao, GCC đã từng gặp đúng
như thế, khi phạng nhà thơ NS. Ông
đau tới chết, như 1 bạn văn nhận xét,
“anh đâm trúng tim của ông ta, nhà
văn nhà thơ dễ dãi và sung sướng và
hạnh phúc”!
Cú đánh
NTH mà chẳng thú sao!
“Văn chương khủng
khiếp”!
Hà, hà!
Đúng là 1 tên “sa đích
văn nghệ”, như NS gọi GCC!
V/v Damau bỏ tên
Gấu ra trong tuyển tập cái con mẹ gì
đó, đúng là một “thiện ý”,
của BBT. Đọc danh sách những tác giả có
mặt, Gấu tin chắc, có 1 số thèm được như thế.
Lưu vong gì cái
tên về châm đóm cho tên
thi sĩ mê gái HC. Hay tên về vấn an đao
phủ Mậu Thân? Lần đọc bài giới thiệu tập thơ của
Thầy Phúc, là đã thấy nhảm rồi. Rõ
ràng là Thầy chưa từng đọc Kafka, nhất là
câu của Kafka, được Thầy chôm làm nhan đề
viết. Đọc ba chớp ba nhoáng, câu phán của
Kafka, qua 1 bài viết của 1 tên mũi lõ, thế
là chôm liền!
Làm gì có
"mặt băng", mà là biển băng, của cả 1
lũ đóng góp bài viết cho tuyển tập?
NQT
Như Chiếc Rìu Đập Vỡ
Mặt Băng ( Tựa cho tuyển tập Bốn Mươi Năm Thơ
Việt Hải Ngoại )
Bùi Vĩnh Phúc
Để mượn một ẩn dụ bạo liệt hơn của Franz Kafka về
văn học nói chung, thơ là ‘chiếc rìu
đập vỡ cái đại dương đóng băng bên
trong chúng ta.’
(To borrow Franz Kafka’s more violent metaphor about
literature in general, poetry is ‘the axe to break the
frozen sea within us.’ – Dana Gioia, trong tiểu luận
“Poetry as Enchantment”)
Note: Câu của Kafka, phải trích đủ nội
dung của nó, thì mới hiểu được, tại sao
ông lại nói như thế, và nếu
đúng như thế, thì không thể áp
dụng cho cuốn thơ của NDT được.
"I think we ought to read only books that bite and
sting us. If the book we reading doesn't shake us awake
like a blow on the skull, why bother reading it in the
first place? So that it can make us happy, as you put it?
Good God, we'd be just as happy if we had no books at all; books
that make us happy we could, in a pinch, also write ourselves.
What we need are books that hit us like a most painful misfortune,
like the death of someone we loved more than we love ourselves,
that make us feel as thought we had been banished to the woods,
far from any human presence, like a suicide. A book must be
the axe for the frozen sea within us. That is what I believe."
"Tôi nghĩ chúng ta chỉ nên đọc
những cuốn sách ngoạm, hoặc đâm chúng
ta. Nếu cuốn sách mà chúng ta
đọc không lay động chúng ta tỉnh hẳn người,
giống như bị ai đó giáng một cú vào
sọ, thì ích chi đâu mà đọc
nó? Sách làm cho chúng ta
hạnh phúc? Cám ơn Trời, chúng ta
hạnh phúc biết bao nếu chẳng sách gì
hết. Những cuốn sách làm chúng ta hạnh
phúc, chúng ta có thể tự viết lấy.
Sách mà chúng ta cần, chúng
đập chúng ta giống như gặp một chuyện bất hạnh đau đớn
nhất, như cái chết của một người thật thân thiết
mà chúng ta yêu hơn cả yêu chúng
ta, nó làm chúng ta cảm thấy như bị tống
xuất tới một nơi rừng rậm, hẻo lánh, xa hẳn con người,
giống như tự tử. Cuốn sách phải giống như cái rìu
phá cái biển đóng băng ở bên trong
chúng ta. Tôi tin như vậy."
(Alberto Manguel trích dẫn, trong cuốn A History
of Reading, nhà xb Alfred A. Knopf Canada, 1996)
Bạn thử đọc bài viết của Thầy Phúc,
rồi đọc ba bài thơ nhảm nhí được thi sĩ
NDT vinh danh, của lũ Mít hải ngoại, coi có
làm được cái việc, làm 1 cái
rìu phá băng, đập bể cái biển băng "cái
con mẹ gì đó" không?
Câu nói của Kafka, không liên
quan tới "văn học nói chung", chẳng mắc mớ
gì đến "mặt băng", mà chỉ về "đọc sách
gì".
Chỉ có vậy.
Bài
viết được dùng làm bài giới
thiệu cuốn sách của NDT, về 40 năm thơ lưu vong
của Mít hải ngoại. Chôm ý của nhà
văn nhà tù lương tâm Vũ Thư Hiên,
“có cái gọi là văn học Mít
hải ngoại ư?”, Gấu cũng hỏi, liệu có thơ Mít
lưu vong?
Làm
đếch gì có. Tên nào
tên đó bò về bợ đít VC,
xin chúng kiểm duyệt sách báo.
Tên NDT này, thì còn về châm
đóm cho nhà thơ lớn Hoàng Cầm hút
thuốc lào, nâng bi nhà thơ Vẹm hạng
bét Thanh Thảo, lưu vong gì thứ đó.
Thầy
Phúc sợ cũng không thua.
Cái
đọc của Thầy cực nhảm. Khi quá 70, Gấu
có tí thì giờ, bèn đọc
tập phê bình của Thầy, mới hỡi ơi,
Thầy ra hải ngoại, cố học trường của lũ mũi lõ để
có cái bằng để có cơ hội kiếm sống, cho
khỏi chết đói nơi xứ người, như mọi tên
Mít bị mất quê hương, nhưng có cái
bằng đâu có thành phê bình
gia? Thầy, như GCC đã từng chỉ ra, mỗi lần viết về
1 nhà văn nhà thơ Mít, là bắt
1 tên mũi lõ đứng kế. Vũ Khắc Khoan ư, có
ngay Beckett, dù hai ông này chẳng mắc
mớ, lẹo tẹo gì với nhau, 1 ông thì khệnh
khạng đóng vai làm cách mạng, từ tầng
lớp tiểu tư sản, để đối lại với vô sản Vẹm, còn 1 ông
thì “thua, thua nữa, thua cho bảnh”, vinh danh “cái
anh hùng của cái hư vô”.
Cũng
thế, ở đây, Kafka thì mắc mớ gì
đến Mít lưu vong?
Ngay
cả Stefan Zweig, lưu vong - như BVP trích
dẫn [Chỉ có sự bất hạnh của lưu vong mới có
thể cung cấp một sự hiểu biết cặn kẽ và một
cái nhìn tổng quát vào những
thực tại của thế giới.” - với ông này, là
bất khả, là vì ông ta nghĩ, ông
ta là nhà văn Âu Châu cuối cùng,
sống sót Nazi. Ông ta tự tử là vì
thế.
Khúc sau đây,
của Simic, trong The World doesn't end, nhớ là
đã giới thiệu/dịch trên Tin Văn, kiếm không
thấy, đành dịch lại, để góp phần trong
sự nghiệp 40 năm lưu vong của Thơ Mít.
Nhân tiện, thông
báo, GCC mới nhận được 1 cái mail, không
hiểu sao được coi là rác, cho biết BBT damau
gạt tên GCC ra khỏi danh sách những nhà
thơ lưu vong, dù đủ điều kiện cái con mẹ gì
đó!
Ôi chao, làm
sao mà có GCC ở trong cái danh
sách nhơ bửn đó cho được! (1)
NQT
(1)
Xin mời nhà thơ
NQT vào link: http://damau.org/archives/47078,
đọc và cho ý kiến bởi vì ông đã
là nhà thơ miền Nam trước 75 và hải
ngoại sau 75, nhưng ban tuyển chọn đã loại ông
ra ngoài tuyển tập. Cảm ơn nhà thơ trước
Cái mail, GCC delete
tên người gửi, được ghi là spam.
Tếu thế!
The time of minor
poets is coming. Goodbye Whitman, Dickinson, Frost.
Welcome you whose fame will never reach beyond your closest
family, and perhaps one or two good friends gathered after
dinner over a jug of fierce red wine ... while the children
are falling asleep and complaining about the noise you're
making as you rummage through the closets for your old poems, afraid
your wife might've thrown them out with last spring's cleaning.
It's snowing, says
someone who has peeked into the dark night, and then
he, too, turns toward you as you prepare yourself to read,
in a manner somewhat theatrical and with a face turning
red, the long rambling love poem whose final stanza (unknown
to you) is hopelessly missing.
- after Aleksandar
Ristovic
Thời của những nhà
thơ con cóc đang tới. Bye bye Whitman, Dickinson,
Frost. Chào mừng mấy bạn mà danh thơ không
vượt quá váy bà xã, hay 1, 2
đấng bạn quí tụ tập quanh cái bàn ở góc
bếp sau bữa cơm tối, bên ly bia...
V/v Ristovic
ALEKSANDAR RISTOVIC
[1933-1994]
Born in Cacak, Ristovic studied
Serbian language and literature and taught school
for many years at the elementary and high-school level
in his hometown. His first book of poems was published in
1959. Since then there have been over twenty, as well as a novel,
a dream book, and numerous essays. In 1989 Charioteer Press brought
out a book of his poems, Some Other Wine
and Light, and in 1999 a large selection of his poetry,
Devil's Lunch, was published by
Faber in England.
Charles Simic
Out in the Open
While crossing a field,
someone who in that
instant
is preoccupied with
thoughts of suicide,
is forced by nature's
call
to delay the act,
and so, finds himself
enjoying
some blades of grass
from a squatting position,
as if seeing them
for the first time
from that close,
while his cheeks redden,
and he struggles to
pull a sheet of paper
out of his pocket
with its already composed
farewell note.
Thênh thang trời rộng
Khi đi qua một cánh đồng
Một người nào
đó, vào lúc đó
Đang thèm tự
tử
Như nghe tiếng gọi
của thiên nhiên
Và bèn
ngưng 1 phát
Để vui với đời
Thưởng thức những
ngọn cỏ
Như thể lần đầu tiên
nhìn thấy chúng
Gần gụi đến như thế
Má anh ta bỗng
đỏ ửng
Và anh bèn
cố lôi tờ giấy ở trong túi ra
Trong tờ giấy
Có lời từ giã
đời
Dead Leaves
Danton is waiting to die
but the day won't
break.
His vest is full of
lice
and he has rain in
his boots.
On his face there
are already signs
of his exceptional
destiny.
He watches me from
a great distance
walk under the trees
and gather dead leaves
with a long stick
ending in a spike.
Lá chết
Danton đợi chết
Nhưng ngày
đéo chịu dứt
Áo khoác
của anh thì đầy rận
Giầy thì đầy
nước mưa
Trên mặt đã
hiện ra những dấu hiệu của số phận đặc biệt của anh
ta rồi
Từ 1 khoảng thật xa
anh theo dõi tôi
Đi dạo dưới tàng
cây
Lượm lá chết
Bằng cái gậy
dài, đầu gậy là 1 mũi đinh nhọn
GCC mua số báo
này, tháng 8/2017 vì thấy
có tên Roth &Modiano.
Về, đọc được,
thì lại là hai bài thơ. Post
dưới đây.
Cái intro,
cũng thú:
Thường, thì
tác phẩm nhớn của 1 tác giả, được ị
ra, khi ông ta hay chị ả đang làm 1 việc khác,
không mắc mớ gì đến tứ khoái - ở đây
là ị!
Và quả
thế thực, như với Faulkner, ông viết tác
phẩm lớn của mình, khi là thằng thợ máy
bưu điện!
Xin lỗi, đệ tử
của ổng, đúng hơn!
Sư phụ, còn
tệ hơn, thay vì sửa máy móc VTD
thì liếm tem, và liếm dở quá, bị
đuổi việc (1)
Với Faulkner,
khủng khiếp, là, cuốn Giáo Đường, được
viết vào cũng thời gian này, và ông
trở nên nổi tiếng, và tai tiếng với nó.
Ông viết
cuốn sách vì cần tiền, và dù
nó nổi tiếng, ông vẫn ruồng rẫy nó!
(1) http://www.tanvien.net/tgtp_02/thoi_1.html
Trong vài
năm chàng làm nghề bán tem [postmaster]
tại một bưu điện nhỏ cho tới khi, do trình diễn
tệ quá, trong việc bán tem, chàng bị
cho nghỉ việc [until he was dismissed for poor performance].
Chàng trải qua hàng giờ trong quầy bán
tem như thế đó, để đọc và viết.
TWO POEMS
By Anthony Amsterdam
Introduction by James Marcus
Many poets have
done their best work while holding down a job-and
yet it is often impossible to deduce the connection, if
any, between the two. Who would have thought that Wallace
Stevens's metaphysical pirouettes were the product of
a man who spent his days behind a desk at the Hartford Accident
and Indemnity Company? Or that T. S. Eliot, while composing
his elegiac and explosive Waste Land, was laboring on behalf
of Lloyds Bank? There is a similar disconnect when we read
the work of Anthony Amsterdam. "I have been a criminal defense
lawyer specializing in death penalty cases for more than fifty-five
years now," he notes. The poems he has written along the way
are, he says, "very, very lightless." Yet Amsterdam brings
both deftness and delicacy to the traditional forms he embraces.
The resulting verse is not morbid but quietly musical, with,
as he writes in one poem, "ripe vowels" draped like "translucent
grapes / between the dark dowels/ of their branching consonants."
CAMPFIRE
A pine knot cracks
and scatters
cannonades of embers
flaring through
the grate. Black wind, black waves,
and violet backwash
mutter
through the ash-banked chambers
underneath the
bed log, and the battered
kettle raves-
an ancient tower
sacked. Drinking coffee from a
tin tureen,
we watch the fire
kill things, things too small to
matter.
Now a field moth,
now a tiny flying flit, all
emerald-green,
smacks on the
grate and sticks, and flicks its wings,
and spatters.
So, when all the
shrunken earth beneath it lies
opaque,
the Southern Cross
rides up the clear Canberra
skies,
magnificently
uninquiring. Damp the fire. Make
it dark if you
would see more distant fires rise
beyond these stars.
They blaze in
unfamiliar flame,
consume an unknown
timber in a
woods without a name,
astonish alien
minds with unimaginable
anguishings
and captivate,
caparison, and gutter
all-too-human
wings.
THE WATER TREES
Put pain in a
plum tree,
plums in a bone
tree;
Lord, launch love
from a rusting
gantry
out, far, far
beyond reentry.
Lord, thy nuns
wear nets.
Thy nuns wear
sea-blanched nets.
They hang them
shining on the water
trees,
and in the land
men's hearts that
see are hungry. +
Cuốn Giáo
Đường, bị tác giả của nó chê,
nhưng Vargas Llosa rất mê, như bài viết, link
sau đây.
Nhưng Borges, phải
là Borges mới dành những lời ưu ái
nhất, cho nó:
William Faulkner:
The Sanctuary of Evil
Mario Vargas Llosa
Faulkner suốt
đời giữ cái nhìn tiêu cực của
ông, với Sanctuary, câu chuyện một cô
gái bị một tên liệt dương phá huỷ
trinh tiết bằng một cái bắp ngô, bởi vì,
cả nửa thế kỷ, sau những dòng tự kiểm hồi sách
mới ra lò, trong lần nói chuyện tại Đại học
Virginia, [Vintage Books, New York, 1965], ông vẫn còn
chê đứa con hư hỏng của mình, coi đây
là một câu chuyện "yếu" và được viết bởi
những tà ý [base intentions].
Nhưng đây
là một đại tác phẩm của ông.
Hai Lúa cứ liên tưởng tới Giáo Đuờng
Của Cái Ác, ở một xứ sở khác, ở đó,
có những tên già, liệt dương hay
không liệt dương, lôi con nít vào
khách sạn hãm hiếp, xong xuôi, đuổi
ra, quẳng cho cô bé hình như là
một trăm đô thì phải, thí dụ như một tay
LQD nào đó.
Bởi vì,
chỉ có thiên tài mới có
thể kể một câu chuyện như thế, với những sự kiện
như thế, với những nhân vật như thế, bằng một cách
kể mà người đọc, không chỉ chấp nhận, gật gù,
kể được, được đấy, mà còn như bị quỉ sứ hớp
hồn!
Như chính
Faulkner đã từng kể, ông viết Giáo
Đường, bản viết đầu, trong ba tuần lễ, năm 1929, liền
sau Âm thanh và Cuồng nộ. Ý tưởng về
cuốn sách, như ông giải thích, trong
lần in thứ nhì [1932], thứ tiểu thuyết ba xu, và
ông viết, chỉ vì một mục đích duy nhất,
là tiền, [trước nó, thì chỉ vì
vui, for "pleasure"]. Phương pháp của ông, là,
"bịa ra một câu chuyện ghê rợn nhất mà tôi
có thể tưởng tượng ra được", một điều gì một con
người miệt vườn, vùng Mississipi, có thể coi như
là một chủ đề. Quá sốc, khi đọc, tay biên tập
bảo ông, hắn sẽ chẳng bao giờ xuất bản một cuốn sách
như thế, bởi vì, nếu xb, là cả hai thằng đều đi
tù.
Bản viết thứ nhì
cũng chẳng kém phần ghê rợn...
Được coi như,
hiện đại hóa bi kịch Hy Lạp, viết lại tiểu thuyết
gothic, ám dụ thánh kinh, ẩn dụ chống lại công
cuộc hiện đại hoá mang tính kỹ nghệ nền văn hóa
Miền Nam nước Mẽo vân vân và vân
vân. Khi Faulkner mang đứa con hư của mình trình
làng văn Tây, André Malraux phán,
đây đúng là, "đưa tiểu thuyết trinh thám
vô trong bi kịch Hy Lạp", và khi Borges nói
dỡn chơi, rằng những tiểu thuyết gia Bắc Mỹ đã biến
"sự tàn bạo thành đức hạnh", chắc chắn, ông
ta có trong đầu lúc đó, cuốn Giáo
Đường của Faulkner.
Trong Giáo
Đường, em nhí bị thằng chả bất lực
phá trinh bằng cái bắp ngô - the barbarous
deflowering of Temple. Vargas Llosa - GCC nhớ, hình như đọc
1 tay phê bình, đọc cuốn sách,
hít hà, trang nào cũng dậy lên
mùi ngô bắp!
Sợ, không
chỉ mùi ngô bắp! Cái xen Đỗ Hải Yến,
vào vai em nhí, trong Cánh Đồng Bất Tận, mà
chẳng bước ra từ Giáo Đường
sao?
Giáo Đường làm Faulkner nổi tiếng, và, tai tiếng,
như Đại Sư Phụ của "sự thờ cúng cái độc ác, tàn
bạo". Ra lò năm 1931, Giáo
Đường, khỏi bàn cãi, là
1 trong những tác phẩm quan trọng nhất của ông.
Và cũng
là tác phẩm viết đi viết lại nhiều lần.
Chắc là Người cũng ớn, như ghi chú nxb cho
thấy:
EDITORS' NOTE
This volume reproduces the text
of Sanctuary that has been established by Noel
Polk. It is based on Faulkner's own typescripts-both
the original carbon typescript that was completed in
May 1929 and the revisions that he typed and affixed to his
galley proofs in the summer of 193o--which have been emended
to account for his revisions in proof, his indisputable typing
errors, and certain other mistakes and inconsistencies that
clearly demand correction. All of Faulkner's novels bear alterations
of varying degrees of seriousness by his editors, but Sanctuary
is without question the work that has been most heavily revised
by the author himself.
Jean Baptiste Baronian,
tác giả bài viết về Faulkner, trong số
báo đã dẫn, đặt câu hỏi, liệu có
nên xếp những tác phẩm của Faulkner vào
“tiểu thuyết đen” không, bắt đầu bằng
Giáo Đường?
The Jewish cemetery near Leningrad.
A crooked
fence of rotten plywood.
And behind
it, lying side by side,
lawyers,
merchants, musicians, revolutionaries.
They sang for themselves.
They accumulated
money for themselves.
They died
for others.
But in the first place they
paid their taxes, and
respected
the law,
and in this
hopelessly material world,
they interpreted
the Talmud, remaining idealists.
Perhaps they saw more.
Perhaps
they believed blindly.
But they
taught their children to be patient
and to stick
to things.
And they
did not plant any seeds.
They never
planted seeds.
They simply
lay themselves down
in the cold
earth, like grain.
And they
fell asleep forever.
And after,
they were covered with earth,
candles
were lit for them,
and on the
Day of Atonement
hungry old
men with piping voices,
gasping
with cold, wailed about peace.
And they got it.
As dissolution
of matter.
Remembering nothing.
Forgetting
nothing.
Behind the
crooked fence of rotting plywood,
four miles
from the tramway terminus.
Joseph Brodsky
Nghĩa địa Do Thái gần
Leningrad
Một hàng
rào gỗ cong queo, mục nát
Và
đằng sau nó, nằm, kế bên nhau
luật sư,
thương nhân, nhạc sĩ, những nhà cách
mạng
Họ hát cho họ
Họ tích
tụ tiền bạc cho họ
Họ chết
cho những người khác
Nhưng trước
hết, trên hết, họ đóng thuế
Và
tuân theo luật pháp
Và
trong cái thế giới trần tục, vật chất, vô
hy vọng
Họ giải
thích Kinh Talmud, và luôn giữ
mình,
như những
con người lý tưởng
Có thể họ nhìn
nhiều hơn
Có
thể, họ mù lòa tin tưởng
Nhưng họ
dậy con cái hãy kiên nhẫn
Và
bám sát vào sự vật
Và
họ không gieo mầm
Họ không
hề gieo mầm
Họ giản
dị nằm xuống
Trên
đất lạnh như hạt
Và
chìm vào giấc ngủ đời đời
Và
sau đó, đất phủ họ
Những cây
đèn cầy vì họ được đốt lên
Và
vào cái Ngày Chuộc Lỗi, Đền
Tội
Những ông
già đói khát, với giọng như
tiếng sáo,
Thở hổn
hển vì lạnh
Rên
rỉ về hòa bường, hòa bường
Và họ có nó
Như phân
huỷ vật chất
Nhớ,
chẳng nhớ gì
Quên,
chẳng quên gì
Đằng sau
hàng rào gỗ cong queo mục nát
Cách
trạm xe điện cuối bốn dặm.
Cuốn
sách về Brodsky này, như lời Bạt
cho thấy, có cùng tuổi [hải ngoại] của
Gấu, 1997, hay đúng hơn, kém Gấu ba tuổi.
Gấu làm
quen Brodsky thời gian này, nhân đọc
Coetzee viết về những tiểu luận của ông, trên
tờ NYRB; bài tưởng niệm khi ông mất, của Tolstaya...
Trong cuốn
này, có nhắc tới bài viết, Gấu
chôm, xen với những kỷ niệm về Joseph Huỳnh Văn,
trong bài “Ai cho phép mi là thi sĩ”
Post ở đây,
rảnh rang lèm bèm sau.
Thú
nhất câu: "Hãy nhớ Gấu, và quên
số mệnh cà chớn của Gấu"!
"Remember
me, but ah! Forget my fate!"
Being
a Jew, like being an exile, has certain advantages,
in that (anywhere other than in Israel, perhaps New
York, or wherever Jewish ghettos survive) it situates one
on the margins, rather than at the centre of society. Jews
tend to take on the colour of their surroundings. Jewish history,
as a whole - and even "bad" Jews are heirs to that history -
gives the individual Jew a claim, however tenuous, on a variety
of cultural or linguistic territories. This is a source of
strength, but also of weakness, in that he may feel that he truly
belongs to none. Of course, Joseph did live in New York, but he
was frequently on the road, in the States or abroad, and had another
home in New England. Further- more, his exceptionally wide, international
circle of friends and acquaintances far transcended the Jewish cultural
world, assuming that there is such a thing.
"Nghĩa địa" như bài thơ
được gọi, trong bài viết, thì
chẳng hay ho gì, không chỉ ở cái
giọng kể lể, mà còn cả ở cái chất
thơ xuôi của nó. Khổ đầu thì còn
có vần điệu, nhưng sau biến thành
thơ tự do. Ngoài nó ra,
không còn bài nào như thế, trong số
tác phẩm của Joseph... nhưng khi được 1 tay xb hỏi, có
cho nó vô 1 tuyển tập Những tiếng nói ở bên trong
[chiếc thuyền] Noé: Những nhà thơ Do Thái
Hiện Đại, do anh ta xb, hay là không [Anthony
Rudolf, co-editor of the international anthology
Voices Within the Ark: The Modern Jewish Poets
(1980) tells me that when asked if he would be willing to be included
in the book], Brodsky nghiêm giọng phán, ta "muốn"
có nó, trong đó!
Hay, thí
dụ, trong lần trả lời báo chí Tháng
Chạp, 1987, ở Stockholm, khi tới đó lấy cái
Nobel, “Tớ thấy tớ như 1 tên… Ngụy,
dù chưa từng biết truyền thống Ngụy nó
ra làm sao”, và nói thêm,
“Về ngôn ngữ của riêng tớ, thì đúng
là của 1 tên… Mít”!
Là
1 tên Ngụy, thì giống như 1 tên
lưu vong, có tí lợi; nó đẩy tên
đó ra bên lề, thay vì ở trung tâm
xã hội. Lũ Ngụy có thói quen choàng
cho chúng 1 màu của chung lũ chúng,
ở loanh quanh chúng. Lịch sử Ngụy ban cho từng
cá nhân Ngụy 1 thứ văn hóa, và đây
là nguồn sức mạnh của chúng, nhưng vưỡn không
làm sao giấu được nhược điểm, là ở bất cứ
đâu, bất cứ lúc nào, nó cảm thấy chẳng
ra cái chó gì cả, hắn đếch thuộc về ai,
về đâu, đại khái thế!
Số cũ, có Simic. Số mới, có
mấy bài thật là thần sầu. Câu
thơ, bìa sau, của Seamus Heanley, cũng tuyệt &
lạ: Thơ là ngôn ngữ trên quỹ đạo, Poetry
is language in orbit.
The Griffin
Poetry Prize, của Canada, được coi là 1 trong
những giải thưởng thơ bảnh nhất trên thế giới. Quả
thế thực.
Bèn
chứng tỏ, bằng 1 bài thơ của 1 em Tẫu, kèm
lời giới thiệu của 1 em mũi lõ.
WANG XIAONI
ELEANOR GOODMAN
Something Crosses My Mind
What is so
attractive about Wang Xiaoni's poems as translated
into English by Eleanor Goodman is her quiet, loving,
meditative distance to the mostly anonymous and lonely
heroes she clearly knows well. And her attitude to time,
which she keeps dragging out of its anchored localities (and
barely marked history) to extend and connect, or fuse with specific
spaces that she also enlarges in size and scope. Moments prolong
into a century or a life, imaginary beasts meld with real animals,
description becomes an act of meditation. In a few lines, a
village can take on the dimension of a vast landscape - and
yet still remain that particular village. And while Xiaoni's
characters may not speak, they seem to have a real insight into
our experience and lives. In a way nothing much happens in her
magic lyricism: the wind blows, the ocean rises, people work
or move from one place to another, or wait, or just leave some place,
and they have souls (which behave like shadows). Reading her, I found
myself repeating Auden's phrase ''About suffering they were never wrong,
/ The old Masters." Wang Xiaoni is a terrific contemporary poet gracefully
extending the great classical Chinese tradition.
Seeing the Ocean from a Night
Flight
Everything
becomes small
only the ocean
makes the night's leather clothes
open up the
further out it spreads.
Flying north
to the right
is Tianjin
to the left
is Beijing
two clusters
of moths flinging themselves at fire.
Then the East
China Sea suddenly moves
the wind brings
silver bits that can't be more shattered
and many thick
wrinkles whip up
I see the
face of the ocean
I see the
aged seashore
trembling
and hugging the world too tightly.
I have seen
death
but never
seen death come back to life like that.
Charles Simic
Selected Poems
1963-2003
Judges’ Citation
Charles Simic is
something of a magician, a conjuror. Out of nothing it seems, out of thin
air, the poems appear before our eyes. One apparently
casual observation leads to another, and suddenly, exponentially,
we are spellbound. It is a trick many have tried to imitate
but few have achieved. At the centre of Simic's art is a disarming,
deadpan precision, which should never be mistaken for simplicity.
Everything appears pared back to the solid and the essential,
and it is this economy of vocabulary and clarity of diction
which have made his poetry so portable and so influential
wherever it is published. Simic is one of the few poets of
our time to achieve both critical and popular acclaim; he is
genuinely quotable, and it is entirely possible that some of his
phrases and lines will lodge in the common memory. Without any
hint of loftiness, then, and from a position which is entirely his
own, Simic manages to speak to the many and not just the few.
Charles Simic có cái
gì đó của một nhà ảo
thuật. Dưng không, hay, từ lớp khí
trời mỏng dính, những bài thơ của ông
xuất hiện trước chúng ta. Một cú nhận
xét bâng quơ dẫn tới một cú khác,
và bất thình lình, như ngồi
trong hỏa tiễn, chúng ta nghẹt thở vì thất thần,
ngạc nhiên, sững sờ. Ðây là
1 tuyệt chiêu nhiều người bắt chước, nhưng ít
người làm được. Ở trung tâm nghệ thuật của Simic,
là sự chính xác khiến chúng
ta đờ đẫn, bái phục, cởi giáp qui hàng.
Và đừng bao giờ lầm lẫn nó với sự giản dị.
Mọi điều xuất hiện là để tỉa gọt đưa về cái vững
chãi, cái cơ bản, cái yếu tính,
và cái sự kiệm từ, kiệm chữ, cái sự sáng
sủa của câu phán, nó làm cho thơ
của ông dễ dàng mang theo cùng với chúng
ta và ảnh hưởng nhiều đến người đọc cho dù in
ấn ở đâu. Simic là 1 trong số ít những nhà
thơ của thời chúng ta được ca ngợi ở cả hai giới phê
bình và bình dân; ông được trích
dẫn một cách thật là nguyên thuỷ [không
phải theo cái kiểu tam sao thất bản], và chuyện,
một vài dòng thơ của ông dính chặt vào
trí nhớ của chúng ta, những con người bình thường,
là chuyện hoàn toàn có thể.
Chẳng 1 tí
bầy đặt, không phách lối, kênh
kiệu, và rồi thì, từ 1 vị trí hoàn
toàn của riêng mình, thi sĩ lèm
bèm với tất cả chúng ta, chứ không
phải chỉ với một dúm người.
Note: Mấy
bài thơ trong số này, đa số đã được dịch, trên
Tin Văn:
WHAT THE GYPSIES TOLD MY GRANDMOTHER WHILE SHE
WAS STILL A YOUNG GIRL
War, illness and famine will
make you their favorite grandchild.
You'll be like
a blind person watching a silent movie.
You'll chop
onions and pieces of your heart
into the same hot skillet.
Your children
will sleep in a suitcase tied with a rope.
Your husband
will kiss your breasts every night
as if they were two gravestones.
Already the crows are grooming
themselves
for you and your people.
Your oldest
son will lie with flies on his lips
without smiling or lifting his
hand.
You'll envy
every ant you meet in your life
and every roadside weed.
Your body and
soul will sit on separate stoops
chewing the same piece of gum.
Little cutie, are you for sale?
the devil will say.
The undertaker
will buy a toy for your grandson.
Your mind will
be a hornet's nest even on your
deathbed.
You will pray
to God but God will hang a sign
that He's not to be disturbed.
Question no
further, that's all I know.
Charles Simic
Fri, January 21, 2011 2:25:39 PM
From:
To:
Note: Hồi hôm ngồi buồn dịch chơi.
K
Những người gypsies*
đã nói gì với Bà
tôi khi bà còn nhỏ
Chiến tranh, bệnh tật và nghèo
khó khoái dùng mi làm
cháu ruột
Mi sẽ giống
như con mù ngồi xem một phim câm
Mi sẽ băm hành
và luôn cả tim mi
trên cùng một chảo
nóng
Con cái
mi sẽ ngủ trong cái hòm rương cột thắt
bằng dây
Chồng mi sẽ
hôn ngực mi hằng đêm
như thể đó là
hai bia mộ
Chưa chi mà mấy con quạ đã
rỉa lông rỉa cánh
chờ mi và dân mi
Con trai cả
của mi sẽ nằm với đám ruồi bu trên miệng,
không cười, không
nhấc nổi bàn tay
Mi sẽ ganh
tị với mỗi con kiến mi gặp trong đời,
và với ngay cả ngọn cỏ
dại bên đường
Thân
mi, và linh hồn mi sẽ ngồi trên hai thềm
nhà cách xa nhau
mà nhai cùng một
miếng kẹo cao su
Này bé xinh, mi có
bán thân không ? Quỷ sứ sẽ
hỏi mi.
Gã chủ
nhà hòm sẽ mua một món đồ chơi
cho thằng cháu nội ngoại của mi.
Tâm trí
mi sẽ như đang nằm trong tổ ong vò vẻ ngay
cả lúc mi
sắp chết
Mi sẽ lạy xin
Thượng Đế, nhưng Thượng Đế sẽ treo bảng
'cấm không được quấy rầy'
Đừng hỏi chi
thêm nữa . Ta chỉ biết vậy thôi .
Lovebirds smooching
in the street,
The end of the world
is coming.
Even that legless
veteran
Asking schoolgirls
for some change
Is going to hell
in a hurry,
Because he keeps
using
The name of our
Lord in vain.
The old man holding
the sign
With a grim look
on his face
Is sure he'll be
the one saved.
Chết là cái chắc
Lũ vẹt xanh hôn
nhau ở đường phố
Tận thế tới rồi
Ngay cả cái
tên lính Ngụy cụt cẳng
Hỏi xin tí
tiền còm
Từ mấy em nữ sinh
Cũng đang vội vã
lên chuyến tàu suốt
Tới địa ngục
[chứ không
lẽ thiên đường Xạo Hết Chỗ Nói?]
Bởi là vì
hắn ta cứ tiếp xài tên của Chúa
Trời của chúng ta
Một cách
vô ích
Cái tên
già,
Mặt nhăn nhó
Cầm tấm biển
Hẳn là kẻ
sẽ được cứu chuộc
Raymond Carver
Where Water Comes Together with Other
Water:
Nơi Nước Quần Tụ, và Quần Tụ với
Nước Khác
Hay là chơi luôn cái
tít của Thảo Trần, Nơi Dòng Sông Chảy Về Phía
Nam!
I love creeks and the music they make.
And rills, in glades
and meadows, before
they have a chance
to become creeks.
I may even love
them best of all
for their secrecy.
I almost forgot
to say something
about the source!
Can anything be
more wonderful than a spring?
But the big streams
have my heart too.
And the places
streams flow into rivers.
The open mouths
of rivers where they join the sea.
The places where
water comes together
with other water.
Those places stand out
in my mind like
holy places.
But these coastal
rivers!
I love them the
way some men love horses
or glamorous women.
I have a thing
for this cold swift
water.
Just looking at
it makes my blood run
and my skin tingle.
I could sit
and watch these
rivers for hours.
Not one of them
like any other.
I'm 45 years old
today.
Would anyone believe
it if I said
I was once 35?
My heart empty
and sere at 35!
Five more years
had to pass
before it began
to flow again.
I'll take all the
time I please this afternoon
before leaving
my place alongside this river.
It pleases me,
loving rivers.
Loving them all
the way back
to their source.
Loving everything
that increases me.
Raymond Carver
Nơi Nước Quần Tụ, và Quần Tụ với
Nước Khác
Tôi mê những nhánh sông và
âm nhạc nó tạo nên
Và những
con lạch, những dòng suối, ở trảng, đồng,
Trước khi chúng
có cơ may trở thành sông con,
hay nhánh sông
Tôi còn
mê hơn thế nữa, mê cực mê, cái
sự kín đáo của chúng.
Tôi hầu như
quên chẳng nói điều gì về nguồn!
Liệu có
gì tuyệt vời hơn một con suối?
Nhưng những suối
lớn cũng có trái tim của tôi
Và những
nơi, suối chảy vô sông
Những miệng sông
mở ra, nơi chúng nối với biển.
Nơi nước quần tụ
và quần tụ với nước khác.
Những thánh
địa sừng sững ở trong tôi
Ui chao, những
con sông với những bãi biển của chúng.
Tôi mê
chúng, cái kiểu mà một số đực
rựa mê ngựa
Hay đàn
bà say đắm, quyến rũ.
Tôi có
1 điều dành cho con nước lạnh và nhanh
này
Chỉ nội nhìn
nó là máu tôi chạy
Da lâm dâm
rứa.
Tôi có
thể ngồi nhìn những con sông này
hàng giờ đồng hồ.
Không con
sông nào giống con nào
Bữa nay tôi
45 tuổi
Liệu có
tin rằng,
Tôi đã
có lần 35 tuổi?
Trái tim
của tôi thì trống rỗng, và héo
khô ở cái tuổi 35!
Phải mất 5 năm,
Nó mới chảy
trở lại.
Tôi sẽ trải
qua buổi chiều này 1 cách thoải mái
Trước khi rời chỗ
mình đang ngồi bên dòng sông
Nó hài
lòng tôi, những con sông đáng
yêu này
Yêu chúng
suốt cả đường trở về nguồn của chúng
Yêu mọi điều
nhấn lên tôi
For some time I thought there was time
and that there would
always be time
for what I had a
mind to do
and what I could
imagine
going back to and
finding it
as I had found it
the first time
but by this time
I do not know
what I thought when
I thought back then
there is no time
yet it grows less
there is the sound
of rain at night
arriving unknown
in the leaves
once without before
or after
then I hear the thrush
waking
at daybreak singing
the new song
Past-Lives Therapy
They showed me a dashing officer
on horseback
Riding
past a burning farmhouse
And
a barefoot woman in a torn nightgown
Throwing
rocks at him and calling him Lucifer,
Explained to me the cause of
bloody bandages
I kept
seeing in a recurring dream,
Cured
the backache I acquired bowing to my old master,
Made
me stop putting thumbtacks round my bed.
When I was a straw-headed boy
in patched overalls,
Chickens
would freely roost in my hair.
Some
laid eggs as I played my ukulele
And
my mother and father crossed themselves.
Next, I saw myself in an abandoned
gas station
Trying
to convert a coffin into a spaceship,
Hoarding
dead watches in a house in San Francisco,
Spraying
obscenities on a highway overpass.
Some days, however, they opened
door after door,
Always
to a different room, and could not find me.
There'd
be a small squeak now and then in the dark,
As
if a miner's canary just got caught in a mousetrap.
Chữa bịnh kiếp trước, kiếp trước nữa
Kiếp trước ta có nợ nần
chi mi đâu
Mà
sao kiếp này mi đòi kiếp khác?
Ta
đã nói mi đừng gặp ta nhiều
Khi
ta đi rồi
Mi
sẽ khổ
NQT:
Chiều ngu ngơ phố
thị
Họ chỉ cho tớ 1 tên sĩ
quan phóng ngựa như bay
Qua
1 căn nhà trại đang cháy
Một
người đàn bà chân trần, mặc áo
ngủ rách tả tơi
Ném
đá vào tên sĩ quan, gọi hắn
là Quỉ Sứ
Giải thích những tấm băng
dính máu
Trong
giấc mơ trở đi trở lại hoài
Chữa
chứng đau lưng, do lạy vị thầy cũ hơi bị nhiều
Làm
cho tớ hết còn bị chơi cái trò
rải đinh bấm quanh giường.
Khi còn là 1 đứa
bé đầu tóc như mớ rơm
Lũ
gà cứ tìm đầu tớ để ngủ
Có
con còn đẻ trứng khi tớ chơi đàn bốn
dây
Trong
khi ông bô bà bô xẹo qua
xẹo lại
Kế đó, tớ thấy mình
ở 1 cái trạm xăng bỏ hoang
Cố
biến cái hòm thành cái
phi thuyền
Tích
trữ đồng hồ chết trong 1 căn nhà ở San Francisco
Xịt
ba từ tục tĩu lên cầu xa lộ
Tuy nhiên, vài
ngày đẹp trời, họ mở hết cửa này tới cửa kia
Luôn
trổ ra 1 căn phòng khác, và
đếch kiếm thấy tớ
Luôn
có tiếng cọt kẹt lúc này hoặc
lúc khác trong bóng tối
Như
thể 1 con chim hoạ mi của 1 tay thợ mỏ bị mắc cái
bẫy chuột
ROMANTIC LANDSCAPE
To grieve, always to suffer
At
the thought of time passing.
The
outside world shadowy
As
your deepest self.
Melancholy
meadows, trees so still,
They
seem afraid of themselves.
The sunset sky for one brief
moment
Radiant
with some supreme insight,
And
then it's over. Tragic theater:
Blood
and mourning at which
Even
the birds fall silent.
Spirit, you who are everywhere
and nowhere,
Watch
over the lost lamb
Now
that the mouth of the Infinite
Opens
over us
And
its dumb tongue begins to move darkly.
Charles Simic
Phong cảnh lãng mạn
Đau buồn, luôn luôn
đau buồn, đau thương
Khi
nghĩ thời gian cứ thế mà cắp đít ra đi
Thế
giới ngoài kia mới u ám làm sao
Y chang
nơi sâu thẳm của mỗi tên Gấu Cà
Chớn
Đồng
cỏ rầu rĩ, cây trầm tư
Như
sợ, chính chúng.
Bầu trời hoàng hôn,
trong một thoáng
Bỗng
long lanh với 1 cú đốn ngộ cực cao,
Và
rồi, hết. Kịch bi đát:
Máu
me, tang tóc
Ngay
cả lũ chim cũng đành chết sững.
Tinh thần, mi, ở mọi nơi và
ở không đâu,
Trông
chừng con cừu thất lạc
Bây
giờ, khi tháng Vô Cùng
Mở
ra trước chúng ta
Và
cái lưỡi đần độn của nó bắt đầu lù
tà mù chuyển động
Note: Hai bài thơ sau đây, trong
Master of Disguises, nhớ là
dịch rồi, nhưng kiếm hoài không thấy.
Bèn
dịch lại:
God never made a day as beautiful
as today,
Chúa chưa từng tạo ra 1
ngày đẹp đến như thế này: Bữa nay!
Gấu có tới
ba cái truyện ngắn đầu tay. Tếu thế. Mỗi truyện
là một thời kỳ, thời đại, theo kiểu của Picasso,
thời xanh, thời hồng, thời lập thể… Thế mới ghê!
Truyện ngắn thực
sự đầu tay, tính theo dòng thời gian,
Gấu bây giờ cũng chẳng thể nhớ tên, đăng
trên tuần báo Mã Thượng, của tay Trịnh
Vân Thanh, trang VHNT do Huỳnh Phan Anh đứng đầu
tầu, khoảng 1961. HPA khoái truyện này lắm.
Đúng giọng tiểu thuyết mới, đúng giọng Tel Quel,
theo nghĩa, chẳng có cái chó gì
hết ở trong đó.
Quả thế thật.
Đây là câu chuyện mà Gấu
còn nhớ đại khái, một bữa chủ nhật, Gấu
mò đến nhà em chơi, em mời ngồi bàn,
ở hành lang căn nhà, một tòa biệt
thự nơi đường Trần Quang Khải. Thế rồi em ngồi cũng gần đó,
nhặt rau, Gấu ngồi nhìn em nhặt rau mà cứ nghĩ
mình là những cọng rau. Rồi ngồi lâu
quá, em cũng nhặt rau xong, thế là về. Bữa đó
trời mưa. Ra đường, đứng ngay cổng nhà, nhìn
mưa, nhìn phố xá, nhìn người qua lại,
Gấu lẩn thẩn tự hỏi:
Tại sao trời
mưa?
The Toad
It'll be a while
before my friends
See me in the city,
A while before we
roam the streets
Late at night
Shouting each other's
names
To point out some
sight too wonderful
Or too terrifying
To give it a name
in a hurry.
I'm staying put in
the country,
Rising early,
Listening to the
birds
Greet the light,
And when they fall
quiet,
To the wind in the
leaves
Which are as numerous
here
As the crowds in
your city.
God never made a
day as beautiful as today,
A neighbor was saying.
I sat in the shade
after she left
Mulling that one
over,
When a toad hopped
out of the grass
And, finding me harmless,
Hopped over my foot
on his way to the pond.
Con Cóc
[là cậu Ông
Giời]
Nó sẽ là
1 lúc, trước khi bạn quí của Gấu
Nhìn thấy Gấu
trong thành phố
Một lúc, trước
khi chúng tớ lang thang phố phá
Khuya đêm
Ơi ới gọi tên
nhau [cho đỡ nhớ!]
Chỉ cho nhau thấy
một cảnh tượng thần sầu
Hay, thật đáng
sợ
Để ban cho nó
1 cái tên, trong vội vã
Gấu lúc này
đang ở bên ngoài thành phố
Dậy sớm
Nghe chim
Chào mừng ánh
sáng
Và khi chúng
im lặng
Bèn quay qua
gió
Ở trong đám
lá
Chúng mới nhiều
làm sao
Như đám đông
ở trong thành phố của bạn
Ôi, Chúa
ơi!
Người chưa từng tạo
ra một ngày đẹp như là ngày
hôm nay
Một người hàng
xóm nói
Gấu ngồi trong cái
bóng sau khi bà ta bỏ đi
Lầu bầu lầu bầu
Khi một con cóc
lóc lóc nhảy ra khỏi đám cỏ
Và, thấy Gấu
vô hại
Bèn nhảy lên
chân Gấu
Trên đường ra
cái ao gần đó!
Summer Light
It likes empty churches
At the blue hour
of dawn.
The shadows parting
Like curtains in
a sideshow,
The eyes of the crucified
Staring down from
the cross
As if seeing his
bloody feet
For the very first
time.
Ánh Sáng Mùa Hạ
Nó thít nhà thờ vắng hoe
Vào cái
giờ xanh của rạng đông
Những cái bóng
bèn lên đường
Như những bức màn
trong 1 "sideshow"
Mắt của người bị đóng
đinh thập tự
Nhìn dọc xuống
cây thánh giá
Như thể nhìn
thấy máu của mình ở dưới chân
Lần đầu,
Rất lần đầu
Charles Simic
Thần Tháp
Rùa
“Thần Tháp Rùa”
của VKK, cũng được viết ra từ kinh nghiệm 1954,
của “Bếp Lửa” của TTT, nhưng ở TTR, là
những nhật vật từ lịch sử Mít bò
ra, nào Rùa Thần, nào Kim Quy,
nào Kẻ Sĩ Bắc Kít... Với “Bếp Lửa”, là
1 lịch sử từ bên ngoài xứ Mít bò
vô. Chúng ta có 1 anh chàng
Đại, tay lúc nào cũng cầm 1 cuốn của Dos,
đầu đầy Kít Mác Xít.. sau cùng
bỏ ra Bưng, theo VC, sau khi làm thịt cô con gái
riêng của ông Chính. Có 1 anh chàng
Tâm, đi, để mà trở về, chết lãng nhách
qua nhân vật Kiệt trong “Một Chủ Nhật Khác”
Bài thơ
trên cũng không có trong
ấn bản Thơ Ở Đâu Xa của
talawas.
in
memoriam: khóc muộn tuyết ngưu vkk
Cõi tối biếc quáng
đồng trắng lõa
Rừng phong bát
ngát tuyết mưa khỏa
Bông lạnh
tả tơi rối đêm ngày
Cầm chân
Tuyết Ngưu đắp rét say
Trợn mắt dòm bão
trận sinh tử
Bủa muôn
trùng ánh thép hoa bay
Khốn kiếp cổ
đại thời băng lũ
Tuyệt bóng
dị thú hoang địa này
1986
Khúc “in memoriam” này
quả là thần sầu. Nhất là khúc
sau. Khúc trước, TTT tưởng tượng, hẳn thế,
vì 1990 ông mới ra hải ngoại, khóc
muộn bạn. Bạn phải
nhìn thấy Thầy Vũ 1 lần thì mới hiểu
được cái nick Trâu Tuyết này, và
cái hình ảnh tuyệt bóng dị thú,
và hoang địa [waste land] bày.
Bỗng nhiên
nhớ tới cái nick Trâu Nước, của GCC,
do bạn Cẩn tặng.
Và tất
nhiên, nhớ đến Koestler, cũng cùng 1
cái dáng “thú” đó.
Trong tiểu sử
của ông, chúng ta được biết, hồi nhỏ
K. rất ưa đánh lộn….
"Thơ Ở Đâu Xa", bản talawas
thiếu nhiều bài, so với bản in của Trầm
Phục Khắc. Bản Trầm Phục Khắc thì lại có
quá nhiều lỗi. Cái bài "Kinh Nghiệm
Làm Thơ Trong Tù", theo GCC có trước,
là bản thảo TTT để lại trong nước cho PKT giữ, khi ra hải
ngoại, ông sử dụng nó, để trả lời phỏng vấn Tran
Huu Khoa, và nó có tên là "Thơ
Giữa Chiến Tranh và Trại Tù."
Thủng thẳng TV sẽ check cả hai
bản, và sẽ post những bài mà
bản trên talawas thiếu, sót.
vài khúc dạo tặng tri âm
Rũ bỏ ký ức – ký
ức người
mông muội
đắm mình
không
thể khác.
Ngậm tanh tiếng sơ sinh
khốn kiếp
lạnh bất trắc.
Nuốt chọng điếm nhục
Thế giới xa
xăm vừa tận số
không
trung vô hạn song điêu linh
Mây lửa
ứa nghẹn thất thanh.
Và đi. Làm kẻ phản
phúc
bị lăng mạ
đoạn tuyệt mọi
thề thốt gắn bó
Đứt hết ràng buộc
Chốn ở nào
đâu
Chốn đến không
Có thể
nào khác.
Biệt trí nhớ khuất ngoài
tích sử
2.
Trời một bãi
đầm lầy man rợ
Đêm vẫn
đêm cố cựu bao quanh
Tịch mịch trong
ngoài
Câm nín
mai một
Nghe như rừng thẳm cây
trút lá
Mùa gió
bạo ngược lộng tràn trề
3
Si cette nuit
est une nuit de destin
Bénédiction
sur elle jusqu’à l’apparition
de l’aurore
Chantent les
chameliers tartares dans la nuit du desert.
4.
Như chim chao
liệng chưa hừng đông
trên hoang
phế cuối đêm thảm họa
buột tiếng kiêu
vô vọng thinh không
Như con nước cuồng lưu mùa
lũ
Trắng xóa
bão going mù mịt nguồn
Trôi giạt
bến bờ đất khốn đọa
1988
Chú:
Khúc
3: Đọc trong Le Temps du Mépris
của A MalrauxNhận xét của Borges, chỉ những
nhà thơ hạng nhì thì mới
làm toàn những câu thơ hay,
áp dụng vào Bùi Giáng
thật quá tuyệt. Nhưng Giàng Búi làm
phê bình gia, thì sao?
Cũng tuyệt cú
mèo.
Sau đây,
là khúc ông viết về Huy Cận, trong
Đười Ươi Chân Kinh
Huy Cận
A thân thể! một cái bình
tội lỗi
Đất sơ sinh đã
hoá lại bùn lầy.
Một ý tưởng
chẳng có chi mới lạ. Nhưng câu thơ
của Huy Cận lại tươi mát như bầu trời.
Và cổ đứng như mình cây
vững chãi
Và vai
ngang như mặt nước xuôi dài
Viết câu
thơ lai rai như thế mới đích thực là
thiên tài. (Còn như bài “Tràng
Giang” của ông chính ông cũng lấy
làm ưng ý lắm, thật ra còn vướng vướng,
không có chi huyền ảo cả.)
Và cái
câu:
Tôi đội tang đen và mũ
trắng
Ra đi không
hẹn ở trên đường
Ông viết
hai câu kỳ tuyệt như thế, thì thử hỏi:
còn chi đáng kể nữa? Ông thừa sức xô
ùa Đường Thi chạy mất hút. Toàn khối
thi ca Trung Quốc, toàn khối thi ca Tây Phương,
hầu như bị nổ bung long lốc, vì trái lựu đạn
đó của ông tung ra.
Và đôi mắt ấy biết nhìn
xa
Khi ngoảnh gần
bên biết đậm đà
Nhưng cũng biết
gieo buồn khía cạnh
Lạnh đồng tê
giá nét thu ba
Tại hạ mấy năm
nay đọc cũng nhiều thi ca ngoại quốc, mà tuyệt
nhiên chẳng thấy vần nào dám ngang nhiên
đứng vững trước mấy vần thất ngôn của Việt Nam
nọ.
Ấy là bởi
vì? Bởi vì thơ Huy Cận vốn là
sầu, nhưng đó là sầu thượng đẳng Như Lai,
nên chi trong cái nỗi sầu có pha chất
gay cấn chịu chơi. Thơ Homer, Sophocles, Shakespeare Nietzsche
cũng thường có chất đó. Trái lại, thơ
hoằng viễn như không của Nerval, Holderlin, Eluard,
lại dường như không có (Ấy là vì họ
chịu chơi theo lối từ bi khác).
Dù sao
ta cũng có thể nói rằng thơ Huy Cận
quả có như là cõi miền huyền bí
nhất của tinh thể Đông Phương.
Note: Nhận xét,
về chỉ hai câu thơ của Huy Cận, cái
gì gì tang đen, mũ trắng quá tuyệt.
Làm Gấu
nhớ đến 1 câu mà 1 vị bằng hữu nhận xét,
về cái chuyện 'về nhà" (người xa vắng biết
đâu nấm nhà buồn), khi nhắc tới giai thoại, có
người hỏi Hemingway về nhà để làm gì,
ông trả lời, để treo cái mũ.
Về nỗi sầu của
thơ Huy Cận cũng quá thần sầu. Làm nhớ
hai câu:
Đồn xa quằn quại
bóng cờ
Phất phơ buồn
tựa ngàn xưa thổi về
Câu phán
của Borges, chỉ những nhà thơ hạng nhì
thì mới làm toàn thơ hay, quá
thần sầu, và áp dụng vào trường
hợp Bùi Giáng, thì lại càng
quá thần sầu, bởi là vì như thể, ông
biết trước là lũ phê bình gia ngu ngốc
của xứ Mít, sẽ nhận xét về thơ BG, đúng
như thế.
Tuy nhiên,
theo GCC, Borges tự khen ông qua câu đó.
Ông cũng bị thiên hạ chê, làm
thơ dở, và chính ông cũng nhận xét
về ông như thế.
I do not set up
to be a poet. Only an all-round literary man: a man
who talks, not one who sings. . . . Excuse this little
apology for my muse; but I don't like to come before people
who have a note of song, and let it be supposed I do not know
the difference. The Works of Robert Louis Stevenson Vailima Edition, XXII, 42 (London,
1923)
FOREWORD
First and foremost,
I think of myself as a reader, then as a poet, then
as a prose writer. The initial part of this statement
calls for no explanation; the other two should be qualified.
They do not mean- they emphatically do not mean-that I am
fonder of my verse than of my prose, or that I judge it
as technically better. For all I know, the opposite may be true.
I suspect that poetry differs from prose not, as many have claimed,
through their dissimilar word patterns, but by the fact that
each is read in a different way. A passage read as though addressed
to the reason is prose; read as though addressed to the imagination,
it might be poetry. I cannot say whether my work is poetry or not;
I can only say that my appeal is to the imagination. I am not
a thinker. I am merely a man who has tried to explore the literary
possibilities of metaphysics and of religion.
My stories are,
in a sense, outside of me. I dream them, shape them,
and set them down; after that, once sent out into the
world, they belong to others. All that is personal to me,
all that my friends good-naturedly tolerate in me-my likes and
dislikes, my hobbies, my habits-are to be found in my verse. In
the long run, perhaps, I shall stand or fall by my poems.
Goethe, who is
not one of my heroes, thought that all poetry is occasional
poetry (Gelegenheitsdichtung). I have forgotten the context,
but I suppose his statement is open to at least two interpretations:
he may have been apologizing for the all-too-plentiful
verses he contributed to albums, or he may have implied that
true poetry springs from what a particular man feels at a particular
time. In my case, I can fairly claim that every piece in this
book had its origin in a particular mood, in a necessity of its
own, and was not meant to illustrate a theory or to fill out a volume.
I have never thought of my poems, in fact, in terms of publication.
When this book
was begun, some three years ago in Cambridge, it was
the first time I had ever taken a direct hand in the translation
of any of my own work. Di Giovanni and I have gone very
thoroughly over each piece, each line, and each word; the
fact that I am not only a collaborator but also the writer has
given us greater freedom, since we are less tied to verbal precision
than to inner meanings and intentions. I should like to thank
the outstanding British and American poets who, by their skill
and generosity, have made English poems of my Spanish originals
and so given them this new life.
JORGE LUIS BORGES
Salt Lake City,
March 31, 1971
[In J.L. Borges:
Selected Poems 1923-1967, ed by Norman Thomas
Di Giovanni]
Cao,
buổi chiều, ngạo mạn, xa cách
Nàng
lững thững trong khoảnh vườn tao nhã
Và
được khắc họa, vĩnh viễn vào thiên thu,
Cái
khoảnh khắc trong trắng và bềnh bồng.
Chính
khoảnh khắc này đem đến cho chúng
ta
Ngôi
vườn
Cùng
viễn ảnh của nó,
Lặng
câm, sâu thẳm.
Gấu nhìn
thấy nàng, ở đây, và bây
giờ
Nhưng
cùng lúc
Gấu cũng
nhìn thấy nàng
Nhức
nhối, ám ảnh
Một “Ur
of the Chaldees” cổ xưa, chập choạng ánh hoàng
hôn
Hay chậm
rãi trải những bước chân
Ở Đền
Thiêng, với cái tên cúng
cơm ngày nào của nó là
Xề Gòn
Hòn
Ngọc Viễn Đông
Nay biến
thành 1 thiên thu bụi
Hay nhể
ra - như nhể, nghêu sò ốc hến ở khu Nguyễn
Tri Phương cũng của một Xề Gòn ngày nào
-
Từ bảng
mẫu tự thần kỳ
Được
khóa chặt, đóng kín
Ở trong
những vì sao
Của những
vĩ độ khác.
Hay tắm
trong hương thơm của chính nàng, một
bông hồng,
Cái
gì gì, những bông hồng của bông
hồng
Hay,
những bông hồng chẳng hỏi vì sao
Của Xề
Gòn trước 1975
Nàng
ở đâu, âm nhạc ở đó
Và
ở trong
Màu
xanh dịu dàng của bầu trời
Những
âm tiết Hy Lạp
Những
nỗi cô đơn của chúng ta
Chúng
tìm ra nàng,
Nàng
ánh lên từ mặt nước, cái vòi
nước
Ở trước
nhà nàng
Thuở
nàng còn ở đường Phan Đình Phùng
Trong
tấm bia tưởng niệm của thời gian
Từ 1
cây gươm
Trong
không gian thanh thản của 1 cái quán
cà phê hủ tíu
Trên
con phố dẫn tới ngôi trường Gia Long ngày
nào của nàng
Nhìn
ra hoàng hôn
Nhìn
ra những khoảnh vườn
Và
ở sau những huyền thoại và những mặt nạ
Là
linh hồn nàng
Luôn
luôn cô đơn
Kiêu
vào buổi chiều, kiêu sa, và xa
vời vợi
Nàng
rảo qua khu vườn tao nhã, và bất
thình lình
Được gìn
giữ lại
Trong
cái ánh sáng của cái khoảnh
khắc
Không
thể nào phản hồi
Nó
đem đến cho chúng ta khu vườn, và
hình ảnh này,
Im lặng
và sâu thẳm.
Gấu nhìn
thấy nàng, ở đây, và bây
giờ
Và
cùng một lúc
Gấu nhìn
thấy BHD của Gấu
Ở trong
buổi hoàng hôn cổ tích
Của một
thành phố Sài Gòn trước 1975
Hay chầm
chậm bước xuống một lối đi nhỏ hẹp
Của một
ngôi đền, lùi lại mãi theo thời
gian
Và
bây giờ trở thành thiên thu cát
bụi,
Của 1
hành tinh đã có 1 thời được dựng
lên bằng đá, và bằng sự hãnh
diện, tự hào: Sài Gòn trước 1975
Hay bước
ra, và cùng lúc giải mã
nó, bảng mẫu tự thần kỳ
Của những
vì sao nằm thật sâu, thật xa,
Được khoá
kỹ,
Ở trong
những vĩ độ khác
Hay tắm
đẫm hương thơm của một bông hồng, từ ngôi
vườn thần tiên ở Sài Gòn
Đã
có 1 thời có 1 cái tên
thật là thiên đường thân thương:
Vườn Bờ Rô
Nàng
ở đâu, âm nhạc ở đó, thứ nhạc
sến mà cái tên người yêu cù
lần của nàng, mê thật là mê,
mê như mê nàng
Chính
thứ nhạc sến đó mà những ngày
đi tù VC, thằng khốn đó,
Nhìn
thấy nàng từ từ bước ra, trong nỗi cô
đơn của chúng ta: Lũ Ngụy
Nàng
sáng lên, phản chiếu từ những giọt
nước, từ cái máy nước công cộng,
ở gần nhà nàng, những ngày ở
đường Phan Đình Phùng
Trong
cái nền cẩm thạch hồi nhớ của thời gian, hay
trong cái lóng lánh của 1 lưỡi
gươm
Hay trong
cái thanh cao của khoảng không gian
mở rộng
Nhìn
xuống những khu vườn, và những buổi hoàng
hôn
Và
đằng sau những huyền thoại và những mặt nạ
Nàng,
linh hồn nàng, thì luôn luôn
cô đơn.
By Modiglani
Note:
Ôi chao, bài thơ thần sầu, vinh danh BHD
quá đỗi thần sầu, cùng lúc,
làm sống lại thành phố Sài Gòn,
của tất cả lũ Ngụy chúng ta!
Bản tiếng
Anh dưới đây, là của A.R [Alastair Reid]
trong Borges Selected Poems,
Penguin ed. Đọc câu đầu, là thèm
[dịch] rồi: Tall in the evening....
Susana Bombal
Tall in
the evening, arrogant, aloof,
she crosses
the chaste garden and is caught
in the
shutter of that pure and fleeting instant
which
gives to us this garden and this vision,
unspeaking,
deep. I see her here and now,
but simultaneously
I also see her
haunting
an ancient, twilit Dr of the Chaldees
or coming
slowly down the shallow steps,
of a temple,
which was once proud stone but now
has turned
to an infinity of dust,
or winkling
out the magic alphabet
locked
in the stars of other latitudes,
or breathing
in a rose's scent, in England.
She is
where music is, and in the gentle
blue of
the sky, in Greek hexameters,
and in
our solitudes, which seek her out.
She is
mirrored in the water of the fountain,
in time's
memorial marble, in a sword,
in the
serene air of a patio,
looking
out on sunsets and on gardens.
And behind
the myths and the masks,
her soul,
always alone.
-A.R.
-Buenos
Aires, November 3, 1970
BHD
Kiêu
vào buổi chiều, kiêu sa, và xa
vời vợi
Nàng
rảo qua khu vườn tao nhã, và bất thình
lình
Được gìn
giữ lại
Trong cái
ánh sáng của cái khoảnh khắc
Không
thể nào phản hồi
Nó
đem đến cho chúng ta khu vườn, và hình
ảnh này,
Im lặng và
sâu thẳm.
Gấu nhìn
thấy nàng, ở đây, và bây
giờ
Và
cùng một lúc
Gấu nhìn
thấy BHD của Gấu
Ở trong buổi
hoàng hôn cổ tích
Của một thành
phố Sài Gòn trước 1975
Hay chầm chậm
bước xuống một lối đi nhỏ hẹp
Của một ngôi
đền, lùi lại mãi theo thời gian
Và
bây giờ trở thành thiên thu cát
bụi,
Của 1 hành
tinh đã có 1 thời được dựng lên
bằng đá, và bằng sự hãnh diện,
tự hào: Sài Gòn trước 1975
Hay bước ra,
và cùng lúc giải mã nó,
bảng mẫu tự thần kỳ
Của những
vì sao nằm thật sâu, thật xa,
Được khoá
kỹ,
Ở trong những
vĩ độ khác
Hay tắm đẫm
hương thơm của một bông hồng, từ ngôi
vườn thần tiên ở Sài Gòn
Đã
có 1 thời có 1 cái tên
thật là thiên đường thân thương:
Vườn Bờ Rô
Nàng
ở đâu, âm nhạc ở đó, thứ nhạc sến
mà cái tên người yêu cù
lần của nàng, mê thật là mê,
mê như mê nàng
Chính
thứ nhạc sến đó mà những ngày
đi tù VC, thằng khốn đó,
Nhìn
thấy nàng từ từ bước ra, trong nỗi cô
đơn của chúng ta: Lũ Ngụy
Nàng
sáng lên, phản chiếu từ những giọt nước,
từ cái máy nước công cộng, ở gần
nhà nàng, những ngày ở đường
Phan Đình Phùng
Trong cái
nền cẩm thạch hồi nhớ của thời gian, hay trong cái
lóng lánh của 1 lưỡi gươm
Hay trong
cái thanh cao của khoảng không gian mở
rộng
Nhìn
xuống những khu vườn, và những buổi hoàng
hôn
Và
đằng sau những huyền thoại và những mặt nạ
Nàng,
linh hồn nàng, thì luôn luôn
cô đơn.
By Modiglani
Note: Ôi
chao, bài thơ thần sầu, vinh danh BHD quá
đỗi thần sầu, cùng lúc, làm sống
lại thành phố Sài Gòn, của tất cả
lũ Ngụy chúng ta!
"Entends, la douce Nuit qui marche"
[Hear, my darling, hear, the sweet Night who walks]. The silent walking of
the night should not be heard.
Baudelaire
She walks in beauty, like the
night
Byron:
Hebrew Melodies
(1815):
She walks in
beauty, like the night
Byron: Hebrew Melodies (1815):
Nàng
bước trong cái đẹp, như đêm
Borges phán:
Để chấp
nhận dòng trên, người đọc phải tưởng
tượng ra một em, cao, tối, tall, dark, bước đi như Đêm,
và Đêm, đến lượt nó, là
1 người đàn bà cao, tối, và cứ
thế, cứ thế.
Tưởng tượng đẩy tưởng tượng,
câu "hót" BHD, thần sầu, "không
phải của GNV", làm nhớ đến lời nhạc thần
sầu của TCS, trong Phôi Pha:
Từ vườn khuya bước về Bàn
chân ai rất nhẹ
Tựa hồn
những năm xưa.
BHD ở ngoài đời, cao,
đen, nhập vào với đêm, y chang
lời nhạc của TCS mô tả, những lần "bàn
chân ai rất nhẹ, tựa hồn những năm xưa!"
Bản tiếng Anh
của Lyn Coffin
Một từ về Dante
Tôi thật
hạnh phúc trong buổi lễ bữa nay, khẳng định,
trọn cuộc đời ý thức tôi đã trải
qua, là, trong cái tỏa sáng ngời ngời
của cái tên lớn lao này, và,
cùng với nhau, là một cái tên
của một thiên tài lớn lao khác của nhân
loại –Shakespeare – cái tên này thì
được gắn lên một cái biểu ngữ mà dưới
cái biểu ngữ đó, con đường của tôi bắt
đầu.
Và câu
hỏi mà tôi đã dám hỏi
Nữ Thần Thi Ca, trong có cái tên lớn
lao – Dante
THE MUSE
When at night
I await the beloved guest,
Life seems to
hang by a thread. "What is youth?" I
demand
Of the room.
"What is honor, freedom, the rest,
In the presence
of her who holds the flute in her hand?"
But now she
is here. Tossing aside her veil,
She considers
me. "Are you the one who came
To Dante, who
dictated the pages of Hell
To him?" I ask
her. She replies, "I am."
1924 [Translated by Lyn Coffin]
Nữ Thần Thi Ca
Ðêm,
ta đợi vị khách quí
Ðời như
treo sợi chỉ
"Tuổi trẻ là
cái chi chi"?",
Ta hỏi căn phòng
“Danh dự, tự
do, cái còn lại,
Thì là
cái gì, trước nàng, người cầm
cây sáo ở trong tay?
Nhưng bây
giờ, nàng ở đây. Kéo cái
mạng che mặt qua một bên,
nàng
nhìn ta ra ý dò hỏi. “Bà
có phải là người đọc từng trang Ðịa
Ngục
cho Dante chép,
phải không?” Ta hỏi nàng.
“Không
phải ta, thì là ai?”
Với bạn bè
của tôi và những người cùng
thời, vị thầy lớn lao nhất, không làm sao
với tới được, thì luôn luôn là
Alighieri nghiêm khắc. Và giữa hai ngọn
lửa Florentine, Gumilyov nhìn thấy, như thế nào
Alighieri khốn
khổ, lưu vong
Với những đi
không vội vã xuống Địa Ngục
Và Osip
Mandelstam đã dâng hiến những năm tháng
của đời mình cho việc nghiên cứu tác
phẩm của Dante, và viết trọn 1 đề án,
Một cuộc trò chuyện về Dante, và thường
nhắc tới người Florentine lớn lao trong thơ của ông:
Từ những bước
thang xù xì, nham nhúa, từ những
quảng trường
Từ những lâu
đài, cung điện góc gách
Alighieri ngợi
ca vòng tròn Florentine của mình
Rất mạnh mẽ
Với đôi
môi mỏi mệt
Michail Lozinsky
hiển hách hoàn tất chiến công
của mình, dịch xong một tezza rima bất tử trong
Kịch Trời qua tiếng Nga. Giới phê bình và
độc giả Nga rất ư là trân trọng bản dịch
này.
Tôi cũng
góp phần của tôi, cái phần suy
nghĩ của mình về nghệ thuật, trong những dòng
thơ được hưởng ân sủng từ cùng cái
tên lớn lao này, Dante:
DANTE
II mio bel San Giovanni, Inferno, Dante
He didn't go
back even after he was dead
To that ancient
Florence of his.
Leaving, he
looked straight ahead:
It's for him
I am singing this.
Night. A torch.
A final kiss.
Outside, the
sound of fate-a kind
Of howl. From
hell he sent her a curse.
In paradise,
she was still on his mind.
He didn't go
barefoot, late at night,
Penitentially
attired,
Through Florence-treacherous,
full of spite,
Whom he so faithfully
desired.
1936
Dante
Chàng
đếch thèm trở lại
Ngay cả sau
khi mất
Thành
phố Hà Lội của chàng
Rời bỏ, chàng
đi thẳng một mách
Vì chàng
mà tôi hát bài hát
này
Đêm. Một
bó đuốc. Nụ hôn sau cùng.
Bên ngoài,
âm thanh số mệnh – Như gió hú
Từ Địa Ngục,
chàng gửi cho nàng một lời trù
ẻo.
Ở Thiên
Đàng, nàng vẫn giữ chàng ở trong
đầu
Chàng
không bước chân trần, muộn trong đêm
Bị quyến rũ,
như 1 tên tội đồ
Qua Hà
Lội - phản bội, đầy hờn oán
Thành
phố chàng chân thành ao ước.
"Entends, la douce Nuit qui marche"
[Hear, my darling, hear, the sweet Night who walks]. The silent walking of
the night should not be heard.
Baudelaire
She walks in beauty, like the
night
Byron: Hebrew Melodies (1815):
She walks in beauty, like the
night
Byron: Hebrew
Melodies (1815):
Nàng bước
trong cái đẹp, như đêm
Borges phán:
Để chấp nhận
dòng trên, người đọc phải tưởng tượng
ra một em, cao, tối, tall, dark, bước đi như Đêm,
và Đêm, đến lượt nó, là
1 người đàn bà cao, tối, và cứ thế,
cứ thế.
Tưởng tượng đẩy tưởng tượng,
câu "hót" BHD, thần sầu, "không
phải của GNV", làm nhớ đến lời nhạc thần sầu
của TCS, trong Phôi Pha:
Từ vườn khuya bước về Bàn chân ai
rất nhẹ
Tựa hồn những
năm xưa.
BHD ở ngoài đời, cao,
đen, nhập vào với đêm, y chang lời
nhạc của TCS mô tả, những lần "bàn chân
ai rất nhẹ, tựa hồn những năm xưa!"
Susana Bombal
Tall in the evening,
arrogant, aloof,
she crosses the
chaste garden and is caught
in the shutter
of that pure and fleeting instant
which gives to
us this garden and this vision,
unspeaking, deep.
I see her here and now,
but simultaneously
I also see her
haunting an ancient,
twilit Dr of the Chaldees
or coming slowly
down the shallow steps,
of a temple, which
was once proud stone but now
has turned to
an infinity of dust,
or winkling out
the magic alphabet
locked in the
stars of other latitudes,
or breathing in
a rose's scent, in England.
She is where music
is, and in the gentle
blue of the sky,
in Greek hexameters,
and in our solitudes,
which seek her out.
She is mirrored
in the water of the fountain,
in time's memorial
marble, in a sword,
in the serene
air of a patio,
looking out on
sunsets and on gardens.
And behind the
myths and the masks,
her soul, always
alone.
-A.R.
-Buenos Aires,
November 3, 1970
Everything's just as it was:
fine hard snow
beats against
the dining room windows,
and I myself
have not changed:
even so,
a man came to call.
I asked him: "What do you want?"
He said,
"To be with you in hell."
I laughed:
"It seems you see
plenty of
trouble ahead for us both."
But lifting his dry hand
he lightly
touched the flowers.
"Tell me
how they kiss you,
tell me how
you kiss."
And his half-closed eyes
remained
on my ring.
Not even
the smallest muscle moved
in his serenely
angry face.
Oh, I know it fills him with
joy-
this hard
and passionate certainty
that there
is nothing he needs,
and nothing
I can keep from him.
1 January 1914
ANNA AKHMATOVA
translated by Jane Kenyan and
Vera Dunham
Người khách
Mọi thứ vũ như cẩn: Tuyết nặng
đẹp
Đập lên
cửa sổ phòng ăn
Và
tôi, chính tôi, chẳng thay đổi
Ngay cả thế,
chàng tới
Tôi hỏi: Chàng
muốn gì?
Ta muốn cùng
với em, ở địa ngục
Tôi
cười: Có vẻ như chàng nhìn ra
Đầy tai ương
trước đôi ta
Nâng bàn tay khô
Chàng
chạm nhẹ những bông hoa,
Hãy
nói cho ta biết, chúng hôn em
như thế nào
Và
như thế nào, em hôn
Và mắt chàng,
nhắm một nửa
Đọng trên
nhẫn của tôi
Không
một thớ thịt, dù nhỏ nhặt đến cỡ nào,
cử động
Trên
khuôn mặt thanh thoát giận dữ
Ôi chao tôi biết,
nó làm chàng tràn
đầy niềm vui –
Điều chân
xác đam mê, gay gắt
Rằng, chẳng
có gì, chàng cần
Và,
chẳng có gì tôi giữ được cho
riêng mình, đối với chàng.
Berlin có 1 thời là
người yêu
của Akhmatova. Trong cuốn "Akhmatova,
thi sĩ, nhà tiên tri",
có nhắc tới mối tình của họ.
Berlin là
nguyên mẫu của “Người khách
từ tương lai”, "Guest from the future",
trong “Bài thơ không nhân
vật”, “Poem without a Hero”.
Cuộc gặp
gỡ của cả hai, được báo cáo
cho Xì, và Xì phán,
như vậy là nữ tu của chúng
ta đã gặp gián điệp ngoại quốc,
“This mean our nun is now receiving visits from
foreign spies”.
Cuộc gặp
gỡ của họ đậm mùi chiến tranh lạnh.
Và thật là tuyệt vời.
Vào ngày Jan 5,
1946, trước
khi về lại Anh [Berlin khi đó là
Thư ký thứ nhất của Tòa
ĐS Anh ở Moscow], Berlin xin gặp để từ biệt.
Kết quả
là chùm thơ “Cinque”, làm
giữa Nov 26, 1945 và Jan 11,
1946. Những bài thơ tình đẹp nhất
và bi đát nhất của ngôn
ngữ Nga.
Bài
dưới đây, viết ngày 20 Tháng
Chạp, Akhmatova ví cuộc lèm
bèm giữa đôi ta như là
những cầu vồng đan vô nhau:
Sounds die away in the ether,
And darkness
overtakes the dusk.
In a world
become mute for all time,
There are
only two voices: yours and mine.
And to the
almost bell-like sound
Of the wind
from invisible Lake Ladoga,
That late-night
dialogue turned into
The delicate
shimmer of interlaced rainbows.
(II, p. 237)
Tiếng buồn nhạt nhòa
vào hư vô
Và bóng tối lướt lên
cõi chạng vạng
Trong một thế giới trở thành
câm nín đời đời
Vưỡn còn, chỉ hai giọng,
của anh và của em
Và cái âm thanh
giống như tiếng chuông
Của gió, từ con hồ Ladoga
vô hình
Cuộc lèm bèm muộn trong
đêm – hay, trong đêm muộn –
Biến thành hai cái
cầu vồng
Lù tà mù, mờ
mờ ảo ảo, lung la lung linh
Quấn quít – hay, cuống quít
- cuộn vào nhau.
The last poem of the cycle, written
on January 11, 1946, was more prophetic than Akhmatova realized:
We hadn't breathed the poppies'
somnolence,
And we ourselves
don't know our sin.
What was
in our stars
That destined
us for sorrow?
And what
kind of hellish brew
Did the
January darkness bring us?
And what
kind of invisible glow
Drove us
out of our minds before dawn?
Bài thơ chót
trong chuỗi thơ, hoá
ra còn tiên tri hơn nhiều,
so với dự đoán của Anna Akhmatova:
Chúng ta
không thở cái mơ mơ màng của 1 tên
phi xì ke
Và chúng ta, chính
chúng ta, chẳng biết tội lỗi của
mình
Điềm triệu nào, ở những vì
sao của chúng ta
Phán, đây là nỗi
u sầu phiền muộn của tụi mi?
Thứ men bia quỉ quái nào
Bóng tối tháng giêng
mang tới cho chúng ta?
Nhiệt tình vô hình
nào
Kéo chúng ta ra khỏi thần
trí, trước rạng đông?
(II, p. 239)
In 1956, something unexpected
happened:
the man who was to become "Guest from the
Future" in her great work Poem Without
a Hero-Isaiah suddenly returned to Russia.
This was the famous "meeting that never took place”.
In her poem, "A Dream" (August 14, 1956),
Akhmatova writes:
This dream was prophetic or not
prophetic . . .
Mars shone
among the heavenly stars,
Becoming
crimson, sparkling, sinister-
And that
same night I dreamed of your arrival.
It was in
everything ... in the Bach Chaconne,
And in the
roses, which bloomed in vain,
And in the
ringing of the village bells
Over the
blackness of ploughed fields.
And in the
autumn, which came close
And suddenly,
reconsidering, concealed itself.
Oh my August,
how could you give me such news
As a terrible
anniversary?
(II, p. 247)
Vào năm 1956,
một điều không đợi chờ, xẩy ra. “Người Khách từ Tương Lai” bất
thình lình trở lại. Đây là cuộc “gặp gỡ chẳng
hề xẩy ra” nổi tiếng.
Trong
bài thơ “Một giấc mơ” (Tháng Tám
14, 1956), Anna Akhmatova viết:
Giấc mơ này,
tiên tri hay không tiên
tri…
Hỏa Tinh
chiếu sáng giữa những vì sao trên
trời,
Trở thành
đỏ rực, lấp lánh, xấu xa –
Và
trong đêm đó, tôi mơ thấy bạn
tới
Nó thì
ở trong mọi thứ, mọi điều… ở Bach Chacome.
Và
ở trong những bông hồng, vô ích
nở rộ
Và
ở trong tiếng chuông làng
Trên
màu đen của những cánh đồng đã
cày
Và
trong mùa thu, tới cận kề
Và
bất thình lình, suy tính lại,
bèn tự giấu, chính nó.
Ôi
Tháng Tám của ta ơi, làm sao
mà mi lại đem đến cho ta những tin như thế đó
Như là
1 sinh nhật khủng khiếp?
Another poem, "In a Broken Mirror"
(1956),
has the poet compare Petersburg to Troy at
the moment when Berlin came before,
because the gift of companionship that he brought
her turned out to poison her subsequent fate:
The gift you gave me
Was not
brought from altar.
It seemed
to you idle diversion
On that fiery
night
And it became
slow poison
In my enigmatic
fate.
And it was
the forerunner of all my misfortunes-
Let’s not
remember it! ...
Still sobbing
around the corner is
The meeting
that never took place.
(II, p. 251)
Một bài
thơ khác, “Trong cái gương bể” (1956),
thi sĩ so sánh St. Petersburg với Troy, vào
lúc mà Berlin tới, trước đó, bởi
là vì món quà bạn bè
mà chàng mang đến cho nàng hóa
ra là thuốc độc đối với số phận của nàng sau đó.
Món
quà anh đem cho tôi
Không
phải từ bàn thờ.
Mà
có vẻ như từ cơn đãng trí uể
oải của anh
Vào
cái đêm lửa cháy đó
Và
nó trở thành thuốc độc chậm
Trong
cái phần số bí ẩn của tôi
Và
nó là điềm báo cho tất cả những
bất hạnh của tôi-
Đừng thèm
nhớ nó!...
Vẫn xụt
xùi ở nơi góc nhà, là,
Cuộc gặp
gỡ chẳng hề xẩy ra
Vargas
Llosa, trong "Wellsprings", vinh danh I. Berlin, gọi
ông là “vì anh hùng của
thời chúng ta, a hero of our time”. Bài
viết này, thật quan trọng đối với Mít
chúng ta, do cách Berlin diễn giải chủ nghĩa
Marx, cách ông ôm lấy, embrace, những
tư tưởng thật đối nghịch... TV tính đi bài này,
lâu rồi, nhưng quên hoài.
Trong "Nửa Thế Kỷ Của
Tôi", tuyển tập văn xuôi của Anna Akhmatova, có
trích mấy đoạn, trong Nhật Ký, bà viết về thành phố
của bà.
Post lên đây như
“chim mồi”, lấy hứng, viết về Sài
Gòn Của Gấu ngày nào.
Và Hà Nội ngày nào,
vì Saigon không có mùa
đông!
Grandma laughing on her deathbed.
Eternity,
the quiet one, listening in.
Like moths around an oil lamp
we were.
Like rag
dolls tucked away in the attic.
In walked a cat with a mouthful
of feathers.
(How about
that?)
A dark little country store full
of gravediggers' children
buying candy.
(That's how
we looked that night.)
The young man pumping gas spoke
of his friends: the clouds
It was such
a sad story, it made everyone laugh.
A bird called out of a tree,
but received no answer.
The beauty of that last moment
Like a red
sail on the bay at sunset,
Or like a wheel breaking off
a car
And roaming
the world on its own.
Charles Simic
Nancy Jane
Người bà cười khằng khặc trên
giường chết
Vĩnh cửu,
thứ trầm lặng, xin nhập vô, cùng lắng
nghe
Lũ chúng ta
Như bướm
đêm xúm quanh cây đèn dầu
Như búp
bế rách bị thẩy vô căn gác xép
Dạo với chú mèo mồm
đầy lông
[Thế là
thế lào?]
Tiệm nhỏ, miền quê, tối thui,
đầy đám con nít của những người
đào mồ
Mua kẹo
(Đêm
đó, chúng ta giống như lũ con nít
đó)
Chàng thanh niên cây
xăng tán gẫu với bạn: Những đám
mây
Một câu
chuyện buồn, như thế đó, và nó
làm mọi người cười
Chim ới cây
Cây
đếch trả lời
Cái đẹp của khoảnh khắc sau
cùng đó
Như cánh
buồm đỏ ra khơi vào lúc mặt trời lặn
Hay như cái bánh xe
vuột ra khỏi cái xe
Và
dong chơi thế giới, mình ên.
Strange Feast
It makes my heart glad to hear
one of these
Chirpy little
birds just back from Mexico-
Or wherever
it is they spend their winters-
Come and
sit in a tree outside my window.
I want to stay in bed all morning
Listening
to the returning ones greet the friends
They left
behind, since in their rapture
At being
together, I find my own joy.
As if a festive table was being
set in the garden
By two composed
and somber women
Clad in dresses
too light for this time of year,
Mindful every
glass and fork is in its proper place,
Leaving me uncertain whether
to close my eyes,
Or to hurry
in shorts over the old snow
And make
sure the dishes they've laid out
Are truly
there to be savored by one like me.
Tiệc lạ
Nó làm tim Gấu
vui
Khi nghe
một trong những chú chim nhỏ chip chip, khi
vừa từ Mexico -
Hay là
từ chốn viễn du nào đó,
Nơi chúng
trải qua mùa đông –
Trở về và
đậu trên 1 cái cây ở bên
ngoài cửa sổ
Sáng
nay Gấu muốn ngủ nướng, nằm ì trên giường
Nghe lũ chim
ríu rít
Những con
mới trở về hàn huyên với đám chim
ở lại
Gấu bèn
tìm thấy nguồn vui của riêng mình
Như thể bàn tiệc được
đặt để ở ngoài vườn
Bởi hai người
đàn bà, điềm tĩnh và buồn rười
rượi
Ăn mặc hơi
bị nhẹ quá, vào cái thời gian
này của năm
Săm soi từng
cái ly, muỗng, nĩa, ở vào đúng
chỗ của chúng, trên bàn tiệc
Ba thứ lẩm cẩm như thế đó
khiến Gấu
Không
biết nên
Nhắm mắt
lại
Hay là,
mặc xà lỏn chạy
băng qua tuyết cũ (1) Chắc, một điều,
Những dĩa
ăn được bầy ra đấy,
Là
thực sự dành cho
Một tên
như Gấu thưởng thức.
(1) Tuyết cũ: Neige
d'antan?
K diễn
tả khúc trên, qua thơ xuôi,
thật tuyệt, và làm bật ra cái
ý “tuyết xưa”:
Thời gian
trong bài thơ này rõ ràng
là vào đầu xuân, khi đàn
chim di trốn mùa đông, trở về ríu
rít gọi bạn, trời còn lạnh, nhưng tuyết đã
không còn mới.
Còn
làm rõ ra cái hình ảnh
"mặc nhẹ", ở khúc sau.
Tks. Many Tks
NQT
Ventriloquist Convention
For those troubled in mind
Afraid to
remain alone
With their
own thoughts,
Who quiz
every sound
The night
makes around them,
A discreet tap on the door,
A whispered
invitation
To where
they have all gathered
In a room
down the hall
Ready to
entertain you
In a voice of your parents,
The pretty
girl you knew once,
One or two
dead friends
All pressing
close to you
As if wishing
to share a secret,
The one with slick black hair
Leaning into
your face,
Eyes popping
out of his head,
His mouth
hanging down
Like a butcher's
bloody scale.
Charles Simic: New
Poems
Đại Hội Nói Bằng Bụng
Dành cho những kẻ cái
đầu loạng quạng
Sợ chẳng
có ai ở kế bên
Ngoài
mớ ý nghĩ của riêng họ
Những kẻ
chỉ nội nghe bất cứ một tiếng động trong đêm
Là
đã vãi linh hồn
Một tiếng gõ kín
đáo ở cửa
Một lời mời
thì thầm
Tới một nơi
tất cả bọn tụ tập
Một căn phòng
ở cuối hành lang
Sẵn sàng
giải trí bạn
Trong giọng ông via bà
via bạn
Một cô
gái xinh đẹp có lần bạn quen,
Một hay hai
người bạn đã ngỏm
Tất cả áp
sát bạn
Như thể muốn
san sẻ một bí mật
Một kẻ, tóc đen, bóng
mượt
Ghé
vô tận mặt anh
Hai con mắt
như muốn bật ra khỏi hai cái lỗ
Miệng trễ
xuống
Như cái
dĩa cân máu me của tên đồ tể.
Lingering Ghosts
Give me a long dark night and
no sleep,
And I'll
visit every place I have ever lived,
Starting
with the house where I was born.
I'll sit
in my parents' dimmed bedroom
Straining
to hear the tick of their clock.
I'll roam the old neighborhood
hunting for friends,
Enter junk-filled
backyards where trees
Look like
war cripples on crutches,
Stop by a
tree stump where Grandma
Made roosters
and hens walk around headless.
A black cat will slip out of
the shadows
And rub herself
against my leg
To let me
know she'll be my guide tonight
On this street
with its missing buildings,
Missing faces
and few lingering ghosts.
Charles Simic: New Poems
Những hồn ma dai dẳng.
Cho tớ 1 đêm đen dài
và đếch làm sao ngủ được
Và
tớ sẽ về thăm mọi chỗ tớ đã từng sống
Bắt đầu bằng
ngôi nhà tớ sinh ra
Tớ sẽ ngồi
trong căn phòng lù mù của ông
bà già
Cố nghe cho
được tiếng tích tắc của cái đồng hồ
ngày nào của họ
Tớ sẽ đảo qua đảo lại khu lối
xóm
Săn tìm
lũ bạn cũ
Đi vô
những sân sau tạp nhạp
Cây,
như những thương binh què quặt
Đi ngang
một gốc cây
Nơi Bà
tớ thường dẫn đàn gà,
Không
đầu đi dạo
Một con mèo đen từ trong
những bóng đêm vọt ra
Cọ cọ vào
chân tớ
Như muốn
nói, ta sẽ là kẻ dẫn đường cho mi
Về thăm lại
quê hương cũ đêm nay
Trên con phố với những
tòa nhà thèm nhớ,
Những khuôn
mặt thèm nhớ
Và
những hồn ma dai dẳng.
*
….. Nói đến thơ, có
nhiều bài anh dịch đang hay, tự nhiên
chêm thêm vài chữ hoặc một
câu THNM, làm người đọc là K đây
đang bay bon bon bỗng nhiên bị hẫng . Ví dụ
:
Lửa
Có lẽ tôi là
1 con người bình thường, trung lưu,
Tin vào
quyền cá nhân của con người,
Cái
từ “tự do” thì đơn giản đối với tôi,
Nó
không có nghĩa tự do của giai cấp đặc
biệt nào đó.
Ngây thơ về mặt chính
trị, với chút học vấn tàm tạm
(những khoảnh
khắc ngắn ngủi của một cái nhìn sáng
suốt là thức ăn chính của nó),
Tôi
nhớ lại ngọn lửa hung bạo, cháy bừng bừng trên
môi đám đông, đốt sách chất
thành đống,
Truy sát
tới tận da thành phố, tôi vốn đã
từng hát những bài ca vào thời
kỳ
này,
Và biết được, lớn lao làm sao, vĩ đại
như thế nào được chạy cùng những người
khác;
Sau đó, với vị tro than
trong miệng tôi nghe ra giọng tiếu lâm,
báng nhạo của lời nói dối,
Và
bài đồng ca cả nước than khóc, cái
gì gì nối vòng tay nhớn
Và
khi tôi sờ vô đầu của mình, tôi
cảm cái đau của cả xứ sở tôi,
Cái
mép bờ huỷ diệt của nó.
Tks
Khúc chót, quả
là THNM!
Đang dịch
ngon trớn, bỗng nhớ bữa 30 tháng Tư, nghe “Nối
Vòng Tay Lớn” trên Đài Phát
Thanh Sài Gòn....
Long Time
No Mail from both of U
Take Care
Probably I am an ordinary middle-class
believer
in individual rights, the word
"freedom"
is simple to me, it doesn't mean
the freedom
of any class in particular.
Politically
naive, with an average
education
(brief moments of clear vision
are its main
nourishment), I remember
the blazing
appeal of that fire which parches
the lips
of the thirsty crowd and burns
books and
chars the skin of cities. I used to sing
those songs
and I know how great it is
to run with
others; later, by myself,
with the
taste of ashes in my mouth, I heard
the lie's
ironic voice and the choir screaming
and when
I touched my head I could feel
the arched
skull of my country, its hard edge.
Adam Zagajewski
Translated by Renata Gorczynski
Adam Zagajewski was born in Lvov,
Poland, in 1945; as an infant he was relocated with his family to western
Poland. He lived in Berlin for a couple of
years, moved to France in 1982, and has taught at
universities in the United States, including the University
of Houston and the University of Chicago. Zagajewski
writes in Polish; many of his books of poetry and essays have
been translated into English.
Zagajewski
was considered one of the "Generation of '68" or "New
Wave" writers in Poland; his early work was protest poetry,
though he has moved away from that emphasis in his later
work. The reviewer Joachim T. Baer noted in World Literature
Today that Zagajewski's themes "are the night, dreams, history
and time, infinity and eternity, silence and death." The titles
of his collections of poetry suggest some of these concerns:
Tremor (1985), Mysticism for Beginners (1997), and World Without
End: New and Selected Poems (2002).
Writing of
Zagajewski's 1991 collection of poems, Canvas, poet
and reviewer Robert Pinsky commented that the poems are
"about the presence of the past in ordinary life: history
not as chronicle of the dead, or an anima to be illuminated
by some doctrine, but as an immense, sometimes subtle force
inhering in what people see and feel every day-and in the ways
we see and feel."
AZ sinh tại Lvov, Ba Lan, năm
1945; khi còn còn nhỏ đã
cùng gia đình dời tới vùng
Ba Lan phía Tây. Sống tại Bá Linh
vài năm, dời qua Pháp, năm 1982, và dạy
tại Đại học Mẽo. Viết bằng tiếng Ba Lan, nhiều sách
của ông được dịch qua tiếng Anh.
Được coi thuộc “Thế
hệ 68” hay “Làn Sóng Mới”, thơ
đầu tay của ông được coi là thơ phản
đối, tuy nhiên, sau đó né cái
tên có tính cường điệu này.
Tay điểm sách Joachim T. Baer, trong World Literature
Today, nhận xét, đề tài của Az là “đêm,
mơ, lịch sử, thời gian, vô cùng và
vĩnh viễn, im lặng và cái chết”. Tên 1
số tác phẩm của ông cũng gợi ra những đề tài này.
Nhà thơ Robert Pinsky
phán, những bài thơ của ông
là về “sự có mặt của quá khứ
trong ngày thường, đời thường: lịch sử không
như là ký sự của những người chết… nhưng
là 1 sức mạnh bao la, đôi khi tế vi, gắn vào
cái mà chúng nhìn và
cảm mỗi ngày – và trong những đường hướng
chúng ta nhìn và cảm.”
Lửa
Có lẽ tôi là
1 con người bình thường, trung lưu,
Tin vào
quyền cá nhân của con người,
Cái
từ “tự do” thì đơn giản đối với tôi,
Nó
không có nghĩa tự do của giai cấp đặc
biệt nào đó.
Ngây thơ về mặt chính
trị, với chút học vấn tàm tạm
(những khoảnh
khắc ngắn ngủi của một cái nhìn sáng
suốt là thức ăn chính của nó),
Tôi
nhớ lại ngọn lửa hung bạo, cháy bừng bừng trên
môiđám đông,
đốt sách chất thành đống,
Truy sát
tới tận da thành phố, tôi vốn đã
từng hát những bài ca vào thời
kỳ này,
Và
biết được, lớn lao làm sao, vĩ đại như thế nào
được chạy cùng những người khác;
Sau đó, với vị tro than
trong miệng tôi nghe ra giọng tiếu lâm,
báng nhạo của lời nói dối,
Và
bài đồng ca cả nước than khóc, cái
gì gì nối vòng tay nhớn
Và
khi tôi sờ vô đầu của mình,
tôi cảm cái đau của cả xứ sở tôi,
Cái
mép bờ huỷ diệt của nó.
PO CHU-I
772-846
And here
travel at night, before dawn, in a horse carriage,
obviously only one stretch of a longer journey-it associates
in my mind with similar travels in my childhood when automobiles
in my remote corner of Europe were few. I love Po Chu-I for
the extraordinary vividness of his images.
Czeslaw
Milosz: The Book of Luminous Things
Và đây
là du lịch đêm, trước rạng đông,
bằng xe ngựa, hẳn là 1 chuyến đi dài – trong
đầu tôi bèn hiện ra những chuyến đi tương
tự thời thơ ấu, khi xe hơi còn ít ỏi ở một
góc xa vời của Âu Châu. Tôi mê
Tô Đông Pha, vì những hình ảnh
trong thơ của ông, thật sống động, thật rõ nét.
STARTING EARLY
Washed
by the rain, dust and grime are laid;
Skirting
the river, the road's course is flat.
The moon
has risen on the last remnants of night;
The travelers’
speed profits by the early cold.
In the
great silence I whisper a faint song;
In the
black darkness are bred somber thoughts.
On the
lotus-bank hovers a dewy breeze;
Through
the rice furrows trickles a singing stream.
At the
noise of our bells a sleeping dog stirs;
At the
Sight of our torches a roosting bird wakes.
Dawn glimmers
through the shapes of misty trees.
For ten
miles, till day at last breaks.
Translated from the Chinese by
Arthur Waley
Xuất hành sớm
Mưa gội sạch
cả bụi lẫn bặm
Dọc theo sông,
đường bằng lẫn phẳng
Trăng nhô
lên và bèn xoán đoạt chút
tàn dư của đêm
Cái
lạnh của đêm bèn đem lợi lộc tới cho
tốc lực của những kẻ du lịch
Trong cái
im lặng lớn của trời đất tôi bèn thì
thầm một bài ca yếu ớt
Một làn
gió đẫm hơi sương bay là là
trên những bông sen ở nơi bờ sông
Một con suối
nhỏ róc rách qua những luống cày
Nghe tiếng
chuông ngựa, một anh cu chó bèn
cựa quậy
Ánh
lửa đuốc xe làm 1 con chim thức giấc
Rạng đông
le lói qua bóng tre tắm đẫm sương đêm
Chừng 10 dậm
nữa, là ngày bèn tới.
Po Chu-I
is also the author of a poem of another kind of travel-travel
in dreams.
A DREAM OF MOUNTAINEERING
At night,
in my dream, I stoutly climbed a mountain,
Going
out alone with my staff of holly-wood.
A thousand
crags, a hundred hundred valleys-
In my
dream-journey none were unexplored
And all
the while my feet never grew tired
And my
step was as strong as in my young days.
Can it
be that when the mind travels backward
The body
also returns to its old state?
And can
it be, as between body and soul,
That the
body may languish, while the soul is still strong?
Soul and
body-both are vanities;
Dreaming
and waking-both alike unreal.
In the
day my feet are palsied and tottering;
In the
night my steps go striding over the hills.
As day
and night are divided in equal parts-
Between
the two, I get as much as Ilose.
Translated from the Chinese by
Arthur Waley
Mơ leo núi
Một đêm,
trong mơ, Gấu thấy mình leo núi, đúng
hơn, hai ngọn đồi
Đi ra ngoài
một mình, với cây gậy leo núi,
đúng hơn, khẩu súng nhỏ
Ngàn ngàn
vách đá, ngàn ngàn
thung lũng
Trong giấc mơ,
chẳng có gì được thám hiểm, khai
phá
Và leo
trèo, khủng như thế, mà chân không
thấy mỏi
Bước vững vàng
như hồi còn trẻ măng
Liệu thế chăng,
khi cái đầu, hay linh hồn của mình,
đi ngược trở lại
Cái body
của mình, bảnh như những ngày ăn ngủ
ngay tại xóm?
Liệu chăng, khi
thể xác thì mệt nhoài, mà
tâm hồn vẫn ham hố?
Linh hồn và
thể xác, cả hai thì cũng vô thường
như nhau
Mơ mộng và
tỉnh thức, cả hai đều không thực
Ban ngày
- tám bó - chân tê liệt,
đi lảo đảo
Đêm tới
1 phát, là bèn tẩu như phi!
Bởi là
vì ngày và đêm, bên
tám lạng bên nửa cân
Và như
thế, giữa hai cái, cái tớ cóbằng cái tớ mất
Note:
Nhân hân hạnh quen 1 bạn FB rành
chữ Tàu, thơ Tàu, bèn đi thêm
hai bài của Tô Đông Pha.
Đính chính:
Po-Chu-I là Bạch Cư Dị, không phải
Tô Đông Pha.
Tks.
NQT
Tô Đông
Pha là cái tay sửa thơ Vương An Thạch,
nổi tiếng nhờ giai thoại này, nhiều hơn là
nhờ thơ.
Milosz rất mê
tay này, trong cuốn The Book của ông,
có nhiều bài của Bạch Cư Dị, từ từ Gấu giới
thiệu tiếp
Bài
thứ nhì, du lịch trong mơ, đọc loáng
thoáng, thì bèn nhớ tới 1 bài
thơ của Tomas Transtromer, sau đây.
Darkness touched the face of a man
who walked
among the others under the sun's
strong
impatient rays.
It darkened suddenly as if from a
rainstorm.
I stood in a room that contained
every moment-
a butterfly museum.
And still the sun was as intense
as before.
Its impatient paintbrushes painting
the world.
Ánh sáng mơn trớn mặt
một người đàn ông đang ngủ
Thằng chả đang mơ giấc mơ bảnh hơn
ánh sáng nhiều
Hắn đếch thèm thức giấc
Bài
thơ này, đọc lại, hoá ra là
Gấu dịch có mỗi khúc đầu.
Bèn
lôi ra dịch tiếp!
Thơ của
Tomas Transtromer cũng thần sầu, và cái
vị phê bình mũi lõ, nhận xét
về thơ ông mới càng thần sầu
Đề tài
lớn lao độc nhất của thơ của Transtromer, là
liminality, nghệ thuật thơ ở ngưỡng cửa, như lời
giới thiệu tập thơ nhận xét.
"Good
Evening, Beautiful Deep"
The great subject
of the poetry of Sweden's Tomas Transtromer sometimes
seems as though it is his only subject-is liminality.
He is a poet almost helplessly drawn to enter and inhabit
those in-between states that form the borderlines between
waking and sleeping, the conscious and the unconscious, ecstasy
and terror, the public self and the interior self. Again
and again his poems allude to border checkpoints, boundaries,
crossroads: they teeter upon thresholds of every sort-be
they the brink of sleep or the brink of death, a door about
to open or a door about to close. And these thresholds are often
ensorcelled places, where a stone can miraculously pass through
a window and leave it undamaged; where the faces of what seem
to be all of humanity suddenly appear to the speaker on a motel
wall, "pushing through oblivion's white walls / to breathe, to
ask for something" ("The Gallery"). Indeed, in one of his finest
individual collections, called Sanningsbarriaren in its
original Swedish and The Truth Barrier
in most English translations, he concocts a neologism which perfectly
encapsulates his lifelong fixation with the liminal.
I LIKE TO DREAM OF THOSE
DEAD KINGDOMS -SU TUNG-P'O
I like to dream of those kingdoms
where brass glitters and sings,
and fires flame upward on the hilltops,
and someone's love dwells in them.
Later afternoon, in November,
I travel by commuter train
after a long walk;
around me are tired office workers
and a mournful old lady
clutching a dachshund.
The conductor, alas,
makes an awkward shaman.
Life strides over us like Gulliver,
loudly laughing and crying.
Về những vương quốc
Tôi thích mơ những vương quốc chết
đó
Su Tung-P’o
Trong vương quốc của những người đã chết
Tôi vẫn thường tha thẩn đi về
NQT
Tớ thích mơ những vương quốc đó
Nơi đồng thau sáng lên và
hát
Và lửa cháy ở trên những
ngọn đồi
Và tình yêu của ai đó
cư ngụ ở trong chúng.
Rồi thì một buổi chiều vào tháng
Chạp
Tớ đi xe lửa
Sau chuyến đi bộ dài
Chung quanh tớ là những công nhân
viên văn phòng mệt mỏi
Và một bà già sầu não
Ôm chặt một con chồn
Người lái xe lửa, than ôi
Làm 1 “shaman” vụng về (1)
Đời bước dài trên chúng ta
như Gulliver
Cười rôm rả và khóc
(1) shaman: không biết
nghĩa là gì, ở đây
Note:
1.shaman[薩滿;巫] vu sư, đạo sỹ, thầy khấn, thầy cúng,
ông đồng bà cốt, có thể hiểu
têu tếu là người môi giới giữa cõi
người và cõi linh thiêng, kẻ thông
dịch giữa người và thần linh... tạm thời với bác
G như rứa...
2. SU
TUNG-P'O : Tô Đông Pha, thi sỹ hách-xì-xằng&
nhách-nhì-nhằng thời Tống, China
Tóc trắng ba nghìn trượng
Theo mối sầu lê thê
Chẳng hay trong gương sáng
Còn chỗ nào để lọt sương thu?
Bài thơ làm nhớ Cao Bá Quát,
và câu thơ ông mượn Lý
Bạch:
Quân bất kiến cao đường minh kính bi
bạch phát...
Bạch
phát. Sầu miên.
Ở đây có hai chiều, một cao, một dài.
Tóc phát cứ dựng đứng lên mãi,
sầu cứ thế miên man kéo dài.
Gấu thu hai chiều, vào một:
Hàng cây trong công viên
bên đường nhớ rừng Cùng
thi nhau vươn cao như muốn trút hết nỗi buồn lên
trời.
Trong bài Dạ Vũ Ký Bắc, một ông bạn thơ
chẳng đã tấm tắc hai câu trên, và phán, hai
câu đủ rồi, đếch cần làm thơ nữa vưỡn OK như thường!
Sầu miên man kéo dài, tạo nên
trục hoành, trục x.
Tóc dựng đứng lên mãi, tạo trục
tung, trục y.
Hợp nhất hai trục thành một, còn là
hành động, thu gọn không gian, đời người...
vào trong một cái gương, và
buồn quá, hất hàm hỏi, 'quân bất kiến,
cao đuờng minh kính, triêu như thanh ti,
mộ thành tuyết.... '
Gương
sáng, thì, chỉ cần một tí
bi lụy - tí bi lụy là cả một
đời người: mới tơ xanh khi đón em nơi trường Gia
Long, mà giờ này bạc trắng, em thì
cũng đã đi trước, đang chờ, đang đợi... - là
đủ làm nhoè.
Thu
sương còn có nghĩa 'nước mắt mùa thu, khóc
cho cuộc tình'!
Tình
cờ đọc bài của Trần Văn Tích,
trên một số Văn Học cũ. Post lại, qua
dạng scan, phần viết về Thu Phố Ca, của Lý
Bạch.
Kỳ tới, Tin Văn sẽ đưa ra cách đọc của Gấu,
ly kỳ hơn, và thuyết phục hơn!
*
Mần chi cho dài dòng , vầy được chăng?
Soi gương, sương điểm bao giờ Nối dài
nghìn trượng, tóc chưa bằng sầu
It's just a voice.
It's just a voice, and we don't know
if it still belongs to a body,
or to the air alone.
The voice of a girl journeying
to Carlisle in
a used Morris.
Just think, how many different voices
sounded in her life's brief span.
Goebbels's hysterical cry.
The moaning of the wounded, prisoners' whispers.
Declamations in school auditoriums
(epics praising the tyrant).
So many lies in our throats.
She died of cancer,
not from hunger like Simone Weil,
not in a camp like Mandelstam.
She never studied in a conservatory
and yet the purest music
speaks through her.
She liked the songs of Schubert and Mahler,
Bruno Walter counseled her.
A girl's voice,
innocent, sings Handel's arias.
Listening, you think
here was a chance
for a better human race,
but the record ends
and you return to your usual mistrust-
as if the song promised too much,
more than silence or exhaustion.
Adam Zagajewski
[From Eternal Enemies]
*
KATHLEEN FERRIER
Chỉ là một giọng,
Chỉ là một giọng, và chúng ta
không biết
nó còn thuộc một cơ thể,
hay thuộc về không khí, mà thôi.
Giọng một cô gái,
trên đường đi tới Carlisle
trên chiếc xe Morris cũ.
Hãy thử nghĩ coi, bao nhiêu giọng khác
nhau
vọng lên từ quãng đời ngắn ngủi của cô
gái.
Tiếng la hét khùng điên của
Goebbels Tiếng rên
rỉ của những người bị thương, tiếng thì
thào của những tù nhân.
Tiếng hoan hô ở đại giảng đường
(những trường ca, những sử thi vinh danh tên
độc tài, thí dụ như Bác H.
chẳng hạn!]
Ui chao, biết bao nhiêu là những lời
dối trá ở trong cổ họng của chúng
ta.
[Như có Bác H trong ngày vui
đại thắng!]
Cô gái chết vì ung thư,
không phải vì đói như Simone
Weil,
cũng không phải ở trong trại tù Gulag
như Mandelstam.
Cô gái chẳng hề học ở một viện âm
nhạc
tuy nhiên thứ âm nhạc trong trắng nhất
đã nói lên qua cô.
Cô thích những bài ca của Schubert
và Mahler, Bruno Walter
đã
cố vấn cô.
Giọng của một cô gái
ngây thơ, trong trắng, hát những bài
arias của Handel.
Lắng nghe, bạn nghĩ,
đây là một cơ may để có một thứ
nhân loại Mít khấm khá hơn cái
thứ hiện có bây giờ,
nhưng, dĩa nhạc ngưng
và bạn trở về với nỗi hồ nghi thường ngày
ở xứ Mít – chẳng tin được cái chó
gì về đám Mít Đỏ!
như thể bài ca hứa hẹn quá nhiều,
quá cả sự im lặng, hay mệt nhoài, hết
mẹ cả hơi!
Ui chao, đọc
bài thơ, là bèn nhớ lần nghe bản nhạc Ngày mai đi nhận xác chồng,
ở trại tù Đỗ Hòa.
Để sửa soạn cho Gấu có đủ những cay đắng ngọt
bùi, để mà thưởng thức bản nhạc, Ông
Trời đã phải chi ly đến tận từng chi tiết, [bởi
thế mới có câu, chi tiết là Thượng Đế,
hẳn vậy] và khi về già, nhận ra, thấu hiểu ra,
Gấu này đôi lúc cứ lẩm bẩm một mình,
thank U, Gấu Cái tưởng là thằng chồng sắp khùng!
Một trong những
chi tiết như thế, liên quan đến món thịt chuột!
Hà, hà!
I LIKE TO DREAM OF THOSE
DEAD KINGDOMS -SU TUNG-P'O
I like to dream of those kingdoms
where brass glitters and sings,
and fires flame upward on the hilltops,
and someone's love dwells in them.
Later afternoon, in November,
I travel by commuter train
after a long walk;
around me are tired office workers
and a mournful old lady
clutching a dachshund.
The conductor, alas,
makes an awkward shaman.
Life strides over us like Gulliver,
loudly laughing and crying.
Về những vương quốc
Tôi thích mơ những vương quốc chết đó
Su Tung-P’o
Trong
vương quốc của những người đã chết
Tôi
vẫn thường tha thẩn đi về
NQT
Tớ
thích mơ những vương quốc đó
Nơi
đồng thau sáng lên và hát
Và
lửa cháy ở trên những ngọn đồi
Và
tình yêu của ai đó cư ngụ ở
trong chúng.
Rồi
thì một buổi chiều vào tháng
Chạp
Tớ
đi xe lửa
Sau
chuyến đi bộ dài
Chung
quanh tớ là những công nhân viên
văn phòng mệt mỏi
Và
một bà già sầu não
Ôm
chặt một con chồn
Người
lái xe lửa, than ôi
Làm
1 “shaman” vụng về (1)
Đời
bước dài trên chúng ta như Gulliver
Cười
rôm rả và khóc
(1)
shaman: không biết nghĩa là gì,
ở đây
Note: 1.shaman[薩滿;巫]
vu sư, đạo sỹ, thầy khấn, thầy cúng, ông
đồng bà cốt, có thể hiểu têu tếu là
người môi giới giữa cõi người và
cõi linh thiêng, kẻ thông dịch giữa
người và thần linh... tạm thời với bác G như
rứa...
2. SU TUNG-P'O
: Tô Đông Pha, thi sỹ hách-xì-xằng&
nhách-nhì-nhằng thời Tống, China
So
I did. I climbed one afternoon
Up
that steep, rocky hill,
Stopping
to rest and admire a wildflower
And
the view of the lake
In
the valley down below.
I would
have liked a goat for company.
A black-and-white
one with a bell
To
go ahead, graze awhile and break
The
quiet as he resumes his ascent
To
where a tree stands dark and silent
Waiting
all these years for someone
To
sit in its shade at ease with himself.
Even
the wind that's always thinking up
Little
games for its leaves to play,
In
no hurry now to disturb the peace.
Charles
Simic: Mater of Disguises
Cây chẳng ai ghé
Vậy thì Gấu vậy. Một buổi
chiều Gấu bèn trèo
Ngọn
đồi dốc, lởm chởm đá
Ngưng
để nghỉ, và thưởng thức hoa dại
Và
nhìn xuống con hồ
Nơi
thung lũng bên dưới
Ừ nhỉ,
giá mà có bạn đường, một con
bê
Một
con bê trắng và đen, với cái chuông
Lanh
chanh đi trước, sướt qua một thoáng,
và phá vỡ
Sự
yên tĩnh, khi con vật tiếp tục trèo
lên đồi
Tới
một chỗ có cái cây, đứng, âm
u và câm lặng.
Đợi
dài cổ bao năm tháng, một người nào
đó
Ngồi
dưới cái bóng của nó, thoải
mái với chính anh ta, là GCC
Ngay cả ngọn gió thì
cũng bày đặt vài trò chơi
Cho
đám lá đỡ buồn
Vội
vã làm chi, khuấy rộn nỗi bình
an, làm gì
Hở,
Anh Cu Gió?
Dead Season
This landscape with its somber
skies
Must
have fallen in love With a story by Edgar Allan
Poe. One of its birch trees could
be his Eleonora, And the other, further on,
Ligeia.
Life is a dream within a dream,
Whisper
the fallen leaves under our feet.
The
old house, softly lit from within
By
its copper pots and mirrors,
Seems
even more abandoned this evening.
What if I were to knock on its
door?
Keeping
in mind, as I push it open
And
enter cautiously, that for Poe
Beauty
could be the cause of sudden death.
Mùa Chết
Khung cảnh này với bầu
trời xám xịt của nó,
hẳn
là đang khật khừ vì tương tư,
một
câu chuyện của Edgar Allan Poe.
Một
trong những cây bu lô hẳn là Eleonora
của ông ta
Và
cái cây kia, có thể là
Ligeia.
Đời là mơ trong mơ,
Những
lá khô dưới chân chúng ta
thì thào.
Căn
nhà cổ, sáng nhè nhẹ từ bên
trong nó,
Qua
mấy cây đèn đồng, và những tấm
gương,
Có
vẻ hoang phế hơn nhiều,
Vào
một buổi chiều tối như thế này.
Chuyện gì xẩy ra nếu tôi
gõ cửa?
Và
luôn nhớ rõ điều này,
Khi
rón rén bước vô căn nhà,
Với
Poe, Cái Đẹp
có thể là nguyên nhân
của cái chết bất thần.
When she still knew how to make
shadows speak
By
sitting with them a long time,
They
talked about her handsome father,
His
long absence, and how the quiet
Would
fill the house on snowy evenings.
"Tell us, child, are you afraid?"
they'd ask,
While
the girl listened for steps in the hallway,
The
long, dim one with a full-length mirror
That's
been going blind like her grandmother
Who
could no longer find or thread a needle
As
she sat in the parlor remembering some actors
Her
son brought to dinner one night,
The
one young woman who wandered off by herself
And
was found later, after a long search,
Floating
naked in the black water of the pond.
Trong căn nhà lớn đó
Khi
cô gái vưỡn biết cách làm
cho những cái bóng lèm bèm
Bằng
cách ngồi với chúng một lúc
thật là lâu
Chúng
nói về ông cụ của cô gái,
rất bô trai
Sự
vắng mặt dài của ông, và, như
thế nào
Sự
yên tịnh thấm vô, và làm
đầy căn nhà
Vào
những buổi chiều tuyết
Hãy
nói cho chúng ta, cô bé,
cô sợ ư?
Khi
cô gái lắng nghe tiếng chân người
ở hành lang
Dài,
lù tà mù, với chiếc gương
lớn
Cũng
trở nên mù như người bà của
cô
Hết
còn tìm thấy, cây kim hay sợi
chỉ
Trong
khi cô gái ngồi nơi phòng khách,
nhớ tới vài nghệ sĩ
Đứa
con trai của cô mang về nhà ăn, một buổi
tối
Người
đàn bà trẻ bỏ ra ngoài đi lang
thang
Và
được kiếm thấy, sau khi tìm đã đời
Trôi
lều bều trong vùng nước đen nơi cái
hồ.
Keep This to Yourself
There are country roads now that
are empty.
They'll
hold on to the light of the day A bit longer, mindful some boy May be heading home after a game.
Whoever he is, he'll have to
hurry.
This
lovely moment won't last long.
The
road before him lies white
Here
and there under the dark trees,
As if some mad girl in the neighborhood
Had
emptied her linen closet
And
had been spreading her things
Over
the soft late summer dust.
Nhím cho
riêng mi
Có những con đường nhà
quê bi giờ trống trơn
Chúng
sẽ níu kéo ánh sáng
của ngày
Lâu
hơn một tị, chắc là có tí quan
hoài tới 1 đứa bé nào đó
Có
thể trên đường về nhà, sau một trò
chơi
Đứa nào
thì đứa nào, thằng bé
phải vội vã
Chút
khoảnh khắc rất đỗi đáng yêu này
chẳng thể kéo dài
Con
đường trải dài trước thằng bé một màu
trắng
Đây,
đó, dưới những cái cây sẫm
đen
Như thể
một cô gái lối xóm
Soạn
cái tủ đựng quần áo của cô
Và
bèn trải ra những cái xú chiêng,
những cái xịp
Trên
lớp bụi mờ của một mùa hè, nhẹ, muộn.
Thơ NBS, những bài thơ
đời thường của ông, thật là tuyệt, đâu
có như Thầy Kuốc phán nhảm. Cuộc chiến,
ông đâu màng. Ngụy, làm sao ông
ca, khi bố ông theo… Cách Mạng. Ông
trốn nó - trốn lính, như ông cho
biết, chỉ đến khi bị Ngụy bắt vì trốn quân
dịch, thì mới đành làm 1 tên lính
thường, 1 gã địa phương quân thì
phải. Thành ra cái giấc mơ chết vì say
rượu quả là tuyệt vời với ông, thay vì
chết vì đạn của ông bố hay của 1 tên Cách
Mạng nào khác.
Hai
cõi trốn lính, trốn cuộc chiến của ông
là rượu và đời thường của ông,
với những tình cảm bình thường,
chân thật của đời thường, trong có tình
yêu.
TTT
cũng làm sao ca nổi những dòng thơ phản
chiến của NBS, khi chính ông, là
1 tên sĩ quan Ngụy, dù cũng bất đắc dĩ, chưa
từng bắn phát súng.
Và
như thế, giấc mơ chết vì say rượu cũng là
của ông luôn. Thành ra ông
mê thơ Oscar Milosz, và thơ NBS, ở khoản
lỡ chết vì say rượu. Nhưng ông cảm nhận ra,
cũng cái điều, “chưa tên nào chết bằng
ta chết, ngay cả những người đã chết”, của Oscar
Milosz.
Trời thì đẹp. Trong
bếp lửa,
Nhè
nhẹ kéo dài,
Tiếng
thở dài dài,
Buồn
xiết bao,
Những
ngày ở Sài Gòn.
-Ui
chao! những người chết, kể cả những người đã
chết ở Sài Gòn,
Những
người chết, những người chết, nói cho cùng,
Thì
không chết bằng Gấu chết.
Viết kể với em, lúc
này anh nhớ đến một câu thơ của
Milozs : Je suis plus mort que les morts de Lofoten.
Nhảm. Mai Thảo nó bảo: ca, c'est de la littérature,
sống không như vậy. Điều đó chính
anh vẫn nói. Anh cũng chẳng hiểu tại sao lại mang kể
cho em? Có lẽ cũng chỉ cốt để nói hình
như anh cũng đang bám víu vào em. Một
kẻ chết đuối bám vào một kẻ chết đuối. Nguy hiểm.
Em hiểu tại sao nhiều lúc anh muốn thôi viết
cho em - có thể sau thư này - anh bất định quá.
Thư gửi Đảo Xa
Note:
Milosz, không phải Milozs.
Và cũng không phải Czeslaw
mà là Oscar Milosz, cũng họ hàng
với nhau. Czeslaw Milosz tin rằng, phải có
tí bẩn mới là thi sĩ của thế kỷ 20 được, nhưng
ông lại thèm được như Brodsky, như ông
viết trong entry “hatred”, trong Milosz’s ABC’s: Đời
tôi thì là một trong trong những cuộc
đời kinh ngạc nhất mà tôi đã trải qua,
one of the most astonishing I have ever across. Đúng
là nó thiếu sự trong sáng của một câu
chuyện đạo hạnh như là của Brodsky. Ông ta đang
đào “kít” [“như toàn thể dân Nga”, chữ
của Brodsky] ở một nông trường cải tạo, và vài
năm sau “đợp” [collect] mọi vinh quang, kể cả Nobel văn chương.
TTT, một cách nào
đó, thì cũng giống Brodsky,
ông bị lịch sử lọc ra, và đành
đóng vai ‘kẻ sĩ Ngụy’, dù chẳng muốn, như
trong thư gửi đảo xa cho thấy:
Thường anh chẳng hề chú trọng coi xem
người ta nghĩ gì về mình,
phê bình gì về mình,
bởi mỗi lần ngó thấy anh đều thấy như mình
bị đóng đinh. Anh đã là như thế
nhưng anh còn có thể khác chứ. Sao
cứ bắt anh như vậy hoài. Cho nên anh chẳng
bao giờ xúc động lâu về những điều đàm tiếu,
thị phi hết.
Những con chim én ở Auschwitz
Trong sự trầm lặng
của những doanh trại trong sự im lặng
của một buổi Chủ Nhật mùa hè tiếng chim én
chát chúa
Có thực
sự đó là tất cả những gì
còn lại
của tiếng người
?
Adam Zagajewski: Eternal Enemies
*
TRAVELING BY TRAIN ALONG THE HUDSON
TO BOGDANA CARPENTER
River gleaming in the sun-
river, how can you endure the sight:
low
crumpled train cars
made
of steel, and in their small windows
dull
faces, lifeless eyes.
Shining river, rise up.
How can you bear the orange peels,
the
Coca-Cola cans, patches
of
dirty snow that
once
was pure.
Rise up, river.
And I too drowse in semidarkness
above
a library book
with
someone's pencil marks,
only
half living.
Rise up, lovely river.
Đi xe lửa dọc
sông Hudson
Dòng sông lấp lánh trong ánh
mặt trời –
sông ơi, làm sao mi chịu nổi cảnh
tượng:
những
chiếc xe xe lửa lùn, nhầu nát,
làm
bằng thép, và ở những khung cửa sổ
nhỏ của chúng
là
những khuôn mặt đần độn, những cặp mắt vô
hồn.
Sông sáng kia ơi, hãy nhô
lên, nhô lên.
Làm sao sông chịu nổi những vỏ cam,
vỏ
Coca-Cola, những mảng tuyết dơ
có
một thời trắng ngần.
Nhô lên, sông ơi.
Và tớ thì ngủ gật, trong tranh tối
tranh sáng,
bên
trên một cuốn sách thư viện
mà
ai đó đánh dấu bằng viết chì,
nửa
đời nửa đoạn.
Nhô lên, con sông đáng
yêu kia ơi.
Adam Zagajewski: Eternal Enemies
*
SYRACUSE
City with the loveliest
name, Syracuse;
don't
let me forget the dim
antiquity
of your side streets, the pouting balconies
that
once caged Spanish ladies,
the
way the sea breaks on Ortygia's walls.
Plato
met defeat here, escaped with his life,
what
can be said about us, unreal tourists.
Your
cathedral rose atop a Greek temple
and
still grows, but very slowly,
like
the heavy pleas of beggars and widows.
At
midnight fishing boats radiate
sharp
light, demanding prayers
for
the perished, the lonely, for you,
city
abandoned on a continent’s rim,
and
for us, imprisoned in our travels.
Adam
Zagajewski: Eternal
Enemies
Note: Hai bài thơ này, GCC quên
chưa dịch.
SYRACUSE
Thành
phố với cái tên đáng yêu
nhất, Syracuse
Đừng để
ta quên
Vẻ cũ kỹ,
cổ xưa, lù tà mù
Của những
con phố nhỏ
Những bao
lơn hờn dỗi
Đã
có 1 thời giam giữ những phu nhân Tây
Bán Nhà
Cách
biển đập vào những bức tường Ortygia
Plato bị
đánh gục tại đây
Bỏ chạy
với bà xã của ông ta,
Điều không
thể nói về chúng tớ, những du khách
không thực
Bông
Hồng Đen ở Nhà Thờ Đức Bà Sài
Gòn
Tươi rói
ở trên đỉnh ngôi đền Hy Lạp
Vẫn tươi
rói
Nhưng rất
ư là từ từ, từ từ
Như những
lời cầu xin nặng nề
Của những
vị hành khất và những góa phụ
Nửa đêm
thuyền chài bèn lên đường, ra
khơi
Lửa chài
bèn sáng lên
Ánh
sáng sắc bén
Yêu
cầu
Cầu nguyện
Cho những
linh hồn tàn lụi, những kẻ cô đơn, luôn
cả cho mi,
Thành
phố bỏ hoang ở nơi mép bờ đại lục
Và
cho chúng ta, bị cầm tù trong những
chuyến viễn du.
A BIRD SINGS IN THE EVENING
TO
LILLIE ROBERTSON
Above
the vast city, plunged in darkness,
breathing
slowly, as if its earth were scorched,
you,
who sang once for Homer
and
for Cromwell, maybe even
over
Joan of Arc's gray ashes,
you
raise your sweet lament again,
your
bright keening; no one hears you,
only
in the lilac's black leaves, where
unseen
artists hide,
a nightingale
stirred, a little envious.
No
one hears you, the city is in mourning
for
its splendid days, days of greatness,
when
it too could grieve
in
an almost human voice.
Adam
Zagajewski:Eternal Enemies
Chim hót vào buổi chiều
Bên
trên thành phố rộng, ngập vào
bóng tối
Thở chầm
chậm như thể trái đất của nó bị cháy
sém
Mi, mi đã
từng hát cho Homer
Và
cho Cromwell, có thể cho cả tro than xám
của Joan of Arc
Mi lại dâng
lên giọng than thở ngọt ngào của
mi,
Bài
hát tang sáng ngời của mi,
Chẳng ai
nghe mi đâu
Chỉ những
chiếc lá lilac đen
Nơi những
nghệ sĩ chẳng ai nhìn thấy, ẩn trốn
Một con
sơn ca xớn xác, có tí thèm
muốn
Chẳng ai
nghe mi đâu, thành phố đang khóc
than, tưởng niệm
Cho những
ngày tuyệt vời của nó
Những ngày
lớn lao
Khi mà,
nó, cũng có thể đau buồn
Trong một
giọng hầu như là của con người. Tiện thể đi thêm bài
này
OF KINGOOMS
I LIKE TO
DREAM OF THOSE
DEAD KINGDOMS
-SU TUNG-P'O
I like to
dream of those kingdoms
where brass
glitters and sings,
and fires
flame upward on the hilltops,
and someone's
love dwells in them.
Later afternoon,
in November,
I travel
by commuter train
after a
long walk;
around me
are tired office workers
and a mournful
old lady
clutching
a dachshund.
The conductor,
alas,
makes an
awkward shaman.
Life strides
over us like Gulliver,
loudly laughing
and crying.
Those were the long afternoons when poetry left
me.
The
river flowed patiently, nudging lazy boats to sea
Long
afternoons, the coast of ivory
Shadows
lounged in the streets, haugty manikins in shopfronts
stared
at me with bold and hostile eyes.
Professors
left their school with vacant faces
as
if the Illiad had finally done them in.
Evening
papers brought disturbing news,
but
nothing happened, no one hurried.
There
was no one in the windows, you weren't there;
even
nuns seemed ashamed of their lives.
Those
were the long afternoons when poetry vanished
and
I was left with the city's opaque demon,
like
a poor traveller stranded outside the Gare du Nord
with
his bulging suitcase wrapped in twine
and
September's black rain falling.
Oh,
tell me how to cure myself of irony, the gaze
that
sees but doesn't penetrate; tell me how to cure myself
of
silence.
- Adam Zagajewski
Translated from the Polish by Clare
Cavanagh, Partisan Review, Spring 1998.
Những buổi chiều dài
Những
buổi chiều dài thơ bỏ tôi
Sông
trôi uể oải đủn đủn những con thuyền lười
biếng ra biển
Những
buổi chiều dài, bờ biển ngà.
Những
cái bóng lang thang trên phố,
những cô nàng ma-nơ-canh kiêu kỳ
sau cửa hàng,
nhìn
tôi với cặp mắt táo bạo, và
thù nghịch.
Mấy
ông thầy rời lớp học, với những bộ mặt xa vắng,
như
thể Iliad sau cùng đã quất cho họ một
cú, hoặc làm cho họ mệt đừ.
Báo
buổi chiều mang đến toàn những tin bực mình,
nhưng chẳng có gì xẩy ra, chẳng ai
vội vã.
Chẳng
có ai ở cửa sổ, bạn đâu có ở
đó;
ngay
cả mấy vị nữ tu cũng xấu hổ vì cuộc đời của
họ
Những
buổi chiều dài khi thơ biến mất
và
tôi bị bỏ lại với con quỉ lù mù
của thành phố,
như
một du khách khốn khổ bị mắc cạn ở bên
ngoài Ga Phiá Bắc,
cùng
chiếc vali phồng lên với những sợi dây
cột,
dưới
trận mưa đen Tháng Chín.
Ôi
làm ơn biểu cho tôi biết làm
cách nào chữa trị cho tôi, thoát
ra khỏi cái tiếu lâm, cái nhìn
nhìn
mà chẳng thấm, làm ơn chỉ cho tôi
cách chữa trị cho mình,
thoát
ra khỏi sự im ắng.
DEFENDING POETRY. ETC.
Yes,
defending poetry, high style, etc.,
but
also summer evenings in a small town, where gardens
waft and cats sit quietly
on doorsteps,
like Chinese philosophers.
Adam
Zagajewski
[Eternal Enemies 2008]
Bảo vệ thơ, và
vân vân.
Đúng
rồi, bảo vệ thơ, văn phong cao, v...v…
Nhưng
cũng bảo vệ những buổi chiều mùa hạ
trong
một thành phố nhỏ,
với
những khu vườn đong đưa,
và
những con mèo ngồi trầm tư nơi bậu cửa,
như
những nhà hiền triết Trung Hoa
*
Kính gửi đến ông vài lời, sau
khi làm độc giả thường nhật của tanvien.net
hơn một năm nay. Bởi quá thích,
mục Thơ mỗi ngày, nên hôm nay
mới đánh bạo viết mấy dòng gửi ông,
để cám ơn những gì mà một mình
ông làm, kiến tạo và duy trì
hào hứng trang web này trongsuốt thời gian qua. Kính
chúc ông viết hăng mỗi ngày, và
qua việc viết, sẽ đem đến cho đời ông, và độc
giảnhững chất liệu
và phương thức sống, đọc & viết tươi mới mãi.
Trân
trọng.
Phúc đáp: Đa tạ
The Wail
As if there were nothing to live for ...
As if there were ... nothing.
In the fading light, our mother
Sat sewing with her head bowed.
Did her hand tremble? By the first faint
Hint of night coming, how all lay
Still, except for the memory of that voice:
Him whom the wild life hurried away ...
Long stretches of silence in between.
Clock talking to a clock.
Dogs lying on their paws with ears cocked.
You and me afraid to breathe.
Finally, she went to peek. Someone covered
With a newspaper on the sidewalk.
Otherwise, no one about. The street empty.
The sky full of homeless clouds.
Note: GCC loay hoay hoài, không làm
sao dịch nổi bài thơ trên, may sao
vớ được bài viết của bà Trùm
Phê Bình Mẽo, Helen Vendler (Totemic Sifting:
Charles Simic's The Book of Gods
and Devils, Hotel Insomnia, and Dime-Stone Alchemy),
trong cuốn Charles Simic, Essays on
Poetry.
Bài thơ tả cảnh cả nhà ngồi đợi ông
bố Simic, bị Gestapo bắt. May quá được
thả.
Post sau đây, rồi tính sau.
One night the Gestapo came to arrest my father.
This time I was asleep and awoke suddenly to the
bright lights. They were rummaging everywhere and making
a lot of noise. My father was already dressed. He was
saying something, probably cracking a joke. That was his style.
No matter how bleak the situation, he'd find something funny
to say .... I guess I went to sleep after they took him away.
In any case, nothing much happened this time. He was released.
(Wonderfol Words, Silent Truth)
Here is "The Wail," complete, in which the atmosphere
of that night is recreated. The child Simic,
his brother, and their mother wait to see if the father
will return:
As if there were nothing to live for ...
...
The sky full of gypsy clouds.
Simic here shows us nothing followed by nothing;
fading light, coming night; stillness, silence,
suspended breath; fear, no one about in an empty street.
This is the classic Simic; a landscape or a room full
of vague menace, a sinister light hovering above a
clustered huddle of victims. The wail as title and caption
is the unheard melody of the scene.
Một đêm, Gestapo tới bắt cha
tôi. Lúc đó tôi đang ngủ,
và ánh đèn làm tôi
thức giấc. Chúng lục lạo tứ tung và làm
thực là ồn. Cha tôi đã ăn vận đàng
hoàng. Ông nói dỡn 1 câu gì
đó, tính ông vốn như thế, cho dù
bất cứ hoàn cảnh, dù đen tối cỡ nào,
ông vẫn tìm được điều gì tức cười để nói…
Chắc là
sau đó, tôi lại ngủ tiếp. Lần đó,
ông được thả.
Và
đây là The Wail, đầy đủ, không
khí bữa đó được tái tạo. Cậu
bé Simic, ông anh, và bà
mẹ, đợi coi cha có được thả về…
Như thể
chẳng có gì để mà sống vì…
Như thể…
chẳng có gì.
Trong ánh
sáng nhạt dần
Bà
mẹ của chúng tôi
Ngồi khâu
Đầu chúi
xuống
Liệu tay
bà run rẩy?
Do mệt mỏi
chờ đợi,
Do đêm
tới
Như tất
cả bầy ra đó
Trừ hồi
nhớ một giọng nói:
Ông
mà cuộc đời hoang dại vội vã bỏ đi
Những quãng
dài im lặng chen vô
Tiếng đồng
hồ nói với đồng hồ
Chó
nằm lên chân, lên móng,
lên vuốt, tai ngỏng lên
Ông
anh và tôi sợ không dám
thở
Sau cùng
bà đi ra hé nhìn ra ngoài
Một người
nào đó
Nằm phủ
bằng 1 tờ báo ở hè đường
Ngoài
ra, chẳng có ai.
Phố vắng
ngắt
Bầy trời
đầy mây
Môt
thứ mây lang thang
Mây
bụi
Simic ở
đây chỉ cho chúng ta thấy, chẳng có
gì tiếp theo chẳng có gì, ánh
đèn nhạt dần, đêm tới, trì trệ,
trơ ra, im lặng, hơi thở bị ngưng, treo lửng, sợ hãi,
không ai (lào xào) trong con phố
vắng ngắt. Đúng 1 Simic cổ điển: một phong cảnh hay
1 căn phòng đầy đe dọa mơ hồ, một ánh sáng
hung hãn, nham hiểm lờ ngờ ở phía bên
trên một nhúm nạn nhân co cụm lại thành
1 đống. "The wail", than van, như là cái tít,
mà cũng là như lời chú thích, là
cái giai điệu không nghe được của khung cảnh.
The Scarecrow
God's refuted but the devil's not.
This year's tomatoes are something to
see.
Bite into them, Martha,
As you would into a ripe apple.
After each bite add a little salt.
If the juices run down your chin
Onto your bare breasts,
Bend over the kitchen sink.
From there you can see your husband
Come to a dead stop in the empty field
Before one of his bleakest thoughts
Spreading its arms like a scarecrow.
Charles Simic: New and Selected
Poems (1962-2012)
Thằng bù nhìn
Chúa,
đi chỗ khác chơi, quỉ, ở lại (1)
Năm nay cà
tô mát có cái để nhìn
Đợp nó
1 phát, Martha
Như em đợp
trái táo chin
Mỗi cú
đợp rắc tí muối
Nếu nước
cà chảy xuống cằm
Tới cặp dzú
trần
Hảy cúi
xuống cái sink rửa chén ở nhà
bếp
Từ đó,
em có thể nhìn thấy ông chồng
của em
Bất thình
lình, chết sững 1 phát, nơi cánh
đồng trống
Trước khi
một trong những ý nghĩ ảm đạm nhất của anh ta
Xoải cánh
tay của nó, như 1 tên bù nhìn.
(1) To refute:
Phản bác
HEIGHTS OF FOLLY
O crows circling over my head and cawing!
I admit to being, at times,
Suddenly, and without the slightest warning,
Exceedingly happy.
On a morning otherwise sunless,
Strolling arm in arm
Past some gallows-shaped trees
With my dear Helen,
Who is also a strange bird.
A feeling of being summoned
Urgently, but by a most gracious invitation
To breakfast on slices of watermelon
In the company of naked gods and goddesses
On a patch oflast night's snow.
Charles Simic: The Book of Gods and
Devils
[in Essays on Poetry]
Trời buồn gió cao
Ô bầy
quạ bay vòng vòng trên đầu tớ
và cứ thế quạ, quạ!
Tớ phải thú
nhận
Có những
lúc,
Chẳng có
dấu hiệu gì báo trước,
Bất thình
lình
Tớ sướng điên
người
Ôi, trời
buồn gió cao
Ôi bầy
quạ
Ôi quạ,
quạ
Ôi sướng
điên người!
Lúc
khác, vào buổi sáng không
mặt trời
Lang thang
rảo bộ, tay trong tay
Qua những hàng
cây hình dáng như những giá
treo cổ,
Với Helen thân
thương của tớ
Nàng
ư?
Thì
cũng một con chim lạ.
Cảm giác
như bị Cớm Vẹm đòi trình diện
Khẩn cấp, nhưng
đúng là 1 lời mời rất ư là
lịch sự, tếu thế.
Để ăn sáng
với chúng
Xực những miếng
dưa hấu
Cùng
với những vị thần nam và nữ
Tất cả đều
khoả thân
Trên
một miếng băng
Của tuyết đêm
qua
As if there were nothing to live for ...
As if there were ... nothing.
In the fading light, our mother
Sat sewing with her head bowed.
Did her hand tremble? By the first faint
Hint of night coming, how all lay
Still, except for the memory of that voice:
Him whom the wild life hurried away ...
Long stretches of silence in between.
Clock talking to a clock.
Dogs lying on their paws with ears cocked.
You and me afraid to breathe.
Finally, she went to peek. Someone covered
With a newspaper on the sidewalk.
Otherwise, no one about. The street empty.
The sky full of homeless clouds.
The Scarecrow
God's refuted but the devil's not.
This year's tomatoes are something to see.
Bite into them, Martha,
As you would into a ripe apple.
After each bite add a little salt.
If the juices run down your chin
Onto your bare breasts,
Bend over the kitchen sink.
From there you can see your husband
Come to a dead stop in the empty field
Before one of his bleakest thoughts
Spreading its arms like a scarecrow.
There are many varieties of coping with life in
exile and Chinese poets are very skillful at them
-like this poet, my favorite realist, Po Chu-I. He came
up with a good approach to exile.
Có nhiều cách để chịu đựng nỗi lưu vong,
và những nhà thơ TQ rất bảnh về
vụ này, như nhà thơ Po Chu I, một nhà
thơ hiện thực mà tôi rất mê. Bài
thơ sau đây đúng là 1 cú nhập
vào cõi lưu vong thần sầu
Czeslaw Milosz: A Book of Luminous Things
MADLY SINGING IN THE MOUNTAINS
There is no one among men that has not a special
failing;
And my failing consists in writing verses.
I have broken away from the thousand ties of life;
But this infirmity still remains behind.
Each time that I look at a fine landscape,
Each time that I meet a loved friend,
I raise my voice and recite a stanza of poetry
And marvel as though a God had crossed my path.
Ever since the day I was banished to Hsun-yang
Half my time I have lived among the hills.
And often, when I have finished a new poem,
Alone I climb the road to the Eastern Rock.
I lean my body on the banks of white Stone;
I pull down with my hands a green cassia branch.
My mad singing startles the valleys and hills;
The apes and birds all come to peep.
Fearing to become a laughing-stock to the world,
I choose a place that is unfrequented by men.
Translated from the Chinese
by Arthur Waley
Hát Khùng Ở Trong Núi
Con người ai mà không có nhược
điểm, thứ thật là đặc biệt
Với Gấu Cà Chớn, là, mần thơ!
Gấu đã rẫy ra hằng hà sa số những rằng
buộc với cõi đời
Nhưng cái thú khốn kiếp đó, cứ
như con điả, không làm sao rứt ra được!
Cứ mỗi lần thấy 1 kiều nữ Playboy là mắt sáng
rỡ lên
Và bèn làm thơ!
Cứ mỗi lần gặp một vị bạn quí
Là cũng dzậy
Nghĩa là lên giọng, đi 1 đường thơ
Cứ như là Bà Chúa Thơ, Cô
T, hay Sến Cô Nương, vô tình
ngó xuống Gấu!
Kể từ khi bị lũ VC đá đít ra khỏi xứ Mít
Cả quãng tuổi già của Gấu là
bèn sống ở giữa những cảnh đồi
Và thường xuyên mỗi lần ị ra được 1 cục
thơ
Được gọi là thơ lưu vong cái con mẹ
gì đó
Là Gấu đi ra thật xa, tìm một nơi thật
cao
Ở giữa rừng, giữa núi
Và cứ thế rống thơ, như 1 tên khùng!
Lũ khỉ vượn, chim chóc bèn tìm
chỗ ẩn náu, kêu chít chít.
Sợ biến thành trò cười cho thiên
hạ,
Gấu thường kiếm 1 chỗ
Không có người qua lại.
Note: Đọc Mít viết về 40 năm thơ Mít
lưu vong, ớn quá, may sao vớ được bài
này.
Lạ, là thằng nào cũng bò về,
thằng thì châm đóm cho
nhà thơ mê gái hút thuốc
lào, thằng thì xin được vấn an đao
phủ Mậu Thân HPNT, thằng nào thì
cũng xin được kiểm duyệt sách, để được quảng
bá thơ văn hải ngoại ở trong nước… lưu vong ở chỗ
nào?
Nhớ, hồi Thảo Trường còn sống, Gấu bèn
nói với ông, đưa hết lên net,
là trong nước tha hồ đọc. Ông OK liền.
Thành ra, cùng với internet, với
blog free, cái từ lưu vong đã mất
1 phần nào ý nghĩa của nó.
Bạn viết trên net, bằng tiếng Mít,
bạn gần gũi với xứ Mít mỗi giây mỗi
phút, từ lưu vong bây giờ có 1 ý
nghĩa mới, khác hẳn trước đây.
Do VC kiểm duyệt, bạn viết những gì trong
nước cần đọc, lưu vong đặt nặng vào cú
đánh này, theo GCC.
To: DV. Long time no mail.
Po Chu I: Đỗ Phủ?
Nhớ gửi thơ
Take Care
NQT
Sent as a present from Annam—
A red cockatoo.
Colored like the peach-tree blossom,
Speaking with the speech of men.
And they did to it what is always done
To the learned and eloquent.
They took a cage with stout bars
And shut it up inside.
Translated by Arthur Waley
Note: Bài thơ này
đểu quá.
Cứ coi như là quà của... VC,
gửi cho những nhà thơ Mít lưu vong
& những nhà phê bình bằng
cấp đầy mình, ở hải ngoại!
Vẹt Đỏ
Được xứ An Nam gửi tới như là món quà
Một con vẹt đỏ
Màu sắc như anh đào nở rộ
Nói như con người nói.
Và chúng làm như đã từng
làm
Với đám học vị khoa bảng.
Chúng nhốt nó vô 1 cái
lồng.
V/v
Po Chu I. Một vị bằng hữu FB cho biết, là Bạch
Cư Dị.
Tks
NQT
Milosz
rất mê Bạch Cư Dị. Trong cuốn “The Book of…”
ông giới thiệu mấy bài thơ của ông,
trong có bài Lão Tử, sau đây.
Trường
hợp Lão Tử theo GCC, giống của Kafka. Một vị
bằng hữu của Kafka, trong 1 cuốn viết về Kafka, trên
Tin Văn có giới thiệu, đã so sánh
cả hai, và nhận ra cả hai đều dùng nghịch
lý để làm bật ra chân lý.
Xây
tháp Babel ư, OK, nhưng đừng trèo
lên. Đấu sinh tử tay đôi giữa mi và
cuộc đời, ở về phiá cuộc đời…, Làng
Kế Bên ở ngay kế bên, nhưng không thể tới
- tới được, là ô hô ai tai - AZ mà
không đọc được Kafka, là thế.
Trường
hợp Nobel văn học, theo GCC cũng là 1 trường
hợp nghịch lý, mà chỉ những tên
nào thực sự mê văn chương, tức là
mê viết văn, chứ không phải mê
viết phê bình, rồi lên giọng khen chê,
thì mới ngộ ra được. Nên nhớ, là
có những người cho họ Nobel là làm nhục
họ, có thể nói như thế. Steiner, khi nhận xét
về Borges, đã nói ra điều này, rằng
cái việc trao giải thưởng cho Borges làm bực mình
cái thiểu số độc giả mê ông, biến ông
thành tên hề giữa “công chúng đại
trà” (media). Chính Borges mà còn
ngạc nhiên và bực mình. Ông cám
ơn tay Callois, là để chửi Callois, ông ta làm
cho tôi sáng ra, mà tôi đâu có
muốn như thế.
Beckett,
dễ gì đọc, vậy mà được Nobel, chính
ông cũng bực.
Vậy
mà Thầy Phúc còn để ông
đứng kế bên Vũ Khắc Khoan, ông thầy của
GCC khi học Chu Văn An.
Ngay
cả cái đám thiểu số độc giả coi họ là
tri âm của Borges, cũng làm ông
bực.
Borges
phán:
“Ta
đếch viết cho một thiểu số được chọn lọc, chúng
là cái chó gì mà
viết cho chúng, ta cũng đếch viết cho một thực
thể lý tưởng ưa nịnh hót, được biết dưới
cái tên “Quần Chúng”. Cả hai lũ khốn,
trừu tượng, đó, ta đều không tin, tuy chúng
thật là đáng quí đối với những tên
mị dân. Ta viết cho chính ta, và cho
bạn bè của ta, và ta viết để làm dịu thời
gian trôi qua."
The Philosopher [Lao Tzu]
“Those
who speak know nothing;
Those
who know are silent.”
These
words, as I am told,
Were
spoken by Lao Tzu.
If
we are to believe that Lao Ttzu
Was
himself one who knew,
How
comes it that he wrote a book
Of
five thousand words? Translated by Arthur Waley
Theo GCC, hay, với riêng
GCC, nói, dùng nghịch lý...
cái con mẹ gì đó, là
cũng chỉ là 1 cách nói, và
có lẽ Borges nói đúng, hơn thế,
khi cho rằng phần số của chúng ta là
không tới được Thiên Đàng!
“Luật
số 1”, “Rule number 1” trong cái gọi là
"chỉ truyện tình là vĩ đại"!
Nhưng
tới được Thiên Đường, mà đếch thèm
vô thì… sao?
Gấu
đã gặp cú này rồi, bởi vậy mà
bị em - cô bạn ngày nào
- mắng, ta chưa thấy 1 tên nào cù
lần như mi!
Hà,
hà!
Gấu
Cái thì nói, con nào mê
mày cũng có tí máu khùng,
chỉ có ta là khùng thực, điên
thực, mới lấy mi!
Gấu mua cuốn Into The Looking-Glass Wood của
Alberto Manguel cũng lâu rồi, có
đọc lai rai, vì là 1 tác
giả Gấu mê, ngay từ lúc vừa ra hải ngoại,
qua sự giới thiệu của Nguyễn Tiến Văn, với cuốn A
History of Reading của ông. Bữa nay lôi ra
đọc, vớ đúng 1 bài thật là thần
sầu “Borges in Love”.
Manguel đã từng hân hạnh
là người đọc truyện cho Borges, khi
ông bị mù. Bài viết kể về cuộc tình
của Borges với Estela Canto, và Borges viết
truyện The Aleph, là để tặng vị này.
Sau đây là link bản tiếng
Anh, và bản tiếng Việt (Da Màu).
Tiép đó, Gấu bèn
lai rai về truyện ngắn The Aleph.
In a 1970 commentary on the story, Borges
explained, "What eternity is to time, the
Aleph is to space." As the narrator of the story discovers,
however, trying to describe such an idea in conventional
terms can prove a daunting—even impossible—task.
Trong 1 lần còm, Borges giải thích,
"cái" là "vĩnh cửu" với thời
gian, thì với The Aleph, "nó" là
"không gian".
Món quà của Borges tặng
em, đúng là như thế, cái
"nơi chốn của tất cả nơi chốn"
Bạn đọc Tin Văn hẳn cũng đã đọc
MCNK của TTT, trên Tin Văn, và
chắc hẳn cũng khổ tâm như Duy, 1 nhân
vật ở trong truyện. Duy băn khoăn, thế rồi Hiền đi
đâu. Kiệt thì giải thích
với vợ là, anh đưa Hiền tới đó, rồi lại
về với em.
Chỗ đó là chỗ nào?
Có lần Gấu gọi nơi chốn đó,
là Lost Domain, muợn từ Anh Môn.
Nhưng Manguel cho biết, đó là Ithaca:
The place that is all places, tức là The Aleph.
Borges cho biết, ông cảm thấy
định mệnh của ông, là, đếch được
hạnh phúc, that it was not his destiny
to be happy. Quái làm sao, Gấu cũng đã
từng bị phán như thế, qua ông bạn chưa
từng được gặp là nhà văn Doãn Dân,
sĩ quan VNCH, đã tử trận. Nhớ là, Nguyễn Tân
Văn, bạn thời còn đi học của Gấu, có lần đưa
cho anh đọc cuốn “Những ngày ở Sài Gòn”,
đọc xong, anh phán, thằng cha này quá
sợ hạnh phúc! (1)
(1) Doãn Dân:
Tên Trần Doãn Dân, sinh
năm 1938 tại Nam
Định. Sĩ quan. Tử trận tại Quảng Trị ngày
29.4.1972
VHTQ Võ Phiến
A young woman in the audience:
"Mr. Borges, have you ever been in love?"
Borges (unhesitatingly): "Yes."
Yale University, March 1971
LCPEZ LECUBE: You
said once that you have always
been in love with a woman.
BORGES: Yes, but
the women have changed over time.
LCPEZ LECUBE: Have
you had so many loves?
BORGES: I asked my
sister about her first love and she said
to me, "I don't remember much from my life
but I know that I've been in love since I was four
years old," and as far as I remember I have always
been in love, but the people change. The love is always
the same, and the person is always unique, even if
she is different.
LCPEZ LECUBE: Who
is that unique person?
BORGES: There have
been so many that I've lost track.
LOPEZ LECUBE: Have
you been in love with many women?
BORGES: It would
be very strange if I hadn't.
LOPEZ LECUBE: Because
I would say that actually one has very
few great loves.
BORGES: All love
is great, love doesn't come in different
sizes, whenever one is in love, they’re
in love with a unique person. Maybe every person
is unique, maybe when one is in love they see a person
as they really are, or how God sees them. If not, why
fall in love with them? Maybe every person is unique,
I could go further: maybe every ant is unique, if not why
are there so many of them? Why else would God like ants
so much? There are millions of ants and each one is undoubtedly
as individual as, well, as Shakespeare or Walt Whitman.
Every ant is undoubtedly unique. And every person is unique.
LOPEZ LECUBE: Like
women ... ? The species known as woman?
BORGES: I think that
they're more sensible than men, I have
no doubt that if women governed countries,
there would be no wars, men are irrational,
they've evolved that way, women too.
LOPEZ LECUBE: So
why aren't women allowed to govern countries?
BORGES: Well, they
probably have somewhere ... I was talking
to Alicia Moreau de Justo who seems a miraculous
person to me; she's about to turn a hundred
and she speaks so fluently. She can put together
long, complex phrases and each phrase has a certain
elegance. I was genuinely amazed for the first time
in my life, really, a few months ago at her house, which
is in Cinco Esquinas. The tenement where Leónidas
Barletta was born used to stand where her house
is now, in Juncal and Libertad, and Barletta used to
say to me ''I'm a compadrito
from Cinco Esquinas." In the end he came into town. He
liked to play the guitar and knew how to improvise,
he was very good. Once he dedicated a song to Mastronardi
that lasted maybe a quarter of an hour, all improvised,
the whole thing, it came to him very easily.
Có lần ông
phán, ông luôn
yêu 1 người đàn bà
Yes. Nhưng đàn
bà thay đổi theo thời gian
Ông có
nhiều tình yêu?
Tôi hỏi bà
chị của tôi, về tình yêu
đầu tiên của bà, bà
nói, “Ta không nhớ nhưng ta nhớ
là ta yêu lần đầu khi ta bốn tuổi”, và
như tôi nhớ, tôi luôn yêu,
nhưng con người thay đổi. Tình thì
luôn luôn là thế đó,
và người, thì độc nhất, ngay
cả nếu nàng khác đi.
The infinite yawns and keeps yawning.
Is it sleepy?
Does it miss Pythagoras?
The sails on Columbus's three ships?
Does the sound of the surf remind it of itself?
Does it ever sit over a glass of wine
and philosophize?
Does it peek into mirrors at night?
Does it have a suitcase full of souvenirs
stashed away somewhere?
Does it like to lie in a hammock with the wind
whispering sweet nothings in its ear?
Does it enter empty churches and light a single
candle on the altar?
Does it see us as a couple of fireflies
playing hide-and-seek in a graveyard?
Does it find us good to eat?
Vĩnh Cửu
Vĩnh Cửu ngáp và tiếp tục ngáp
Nó buồn ngủ ư?
Hay nhớ Pythagoras?
Ba con thuyền và những chuyến ra khơi của
Kha Luân Bố?
Hay tiếng sóng gợi nhớ nó, về chính
nó?
Nó đã từng ngồi bên 1 ly rượu
vang
Và triết lý?
Đưa mắt nhìn mình, ở trong gương,
vào ban đêm?
Có cái cà tạp đầy ứ kỷ niệm
Quăng ở đâu đó?
Thích nằm võng
Nghe gió thì thầm những hư vô
ngọt ngào vào tai?
Vô 1 ngôi nhà thờ vắng hoe
Đốt ngọn nến cô đơn nơi bàn thờ?
Liệu nó có nhìn chúng
ta như 1 cặp đom đóm
Chơi trò hú tim nơi nghĩa địa?
Hay là nó nghĩ hai đứa mình
thịt ngon lắm, thử xực 1 phát xem sao?
IN SOMEONE'S BACKYARD
What a pretty sight
To see two lovers drink wine and kiss,
A dog on his hind legs
Begging for table scraps.
Ở sân sau nhà ai đó
Coi kìa, tuyệt làm sao
Cặp tình nhân, uống và hôn
Và con chó, ngồi lên chân
Chờ mẩu vụn.
THE ART OF HAPPINESS
Thanks to a stash of theatrical costumes
And their kindly owner,
An opportunity for this couple to brighten up
This dark and dreary day,
Cut a dash as they step out
Into the crowded street
Wearing powdered wigs,
Cross against the screeching traffic,
And go have lunch,
She looking like Marie Antoinette,
And he all in black,
Like her executioner or father confessor,
Watching the young French Queen
Splashing ketchup over her fries
With a wicked smile on her face,
While he struggles to balance the straw
That came with the Coke
On his nose and waits for her applause.
Nghệ thuật hạnh phúc
Nhờ
giấu được những bộ đồ sân khấu
Và
người chủ tốt bụng
Một
cơ hội đã mở ra cho cặp vợ chồng,
Sáng
hẳn lên
Hay,
như Ngụy nói,
Đời
lên hương
Trong
một ngày âm u, ảm đạm như thế này.
Đi
1 đường huê dạng,
Và
thế là cặp vợ chồng
Bèn
nhập vô phố phường đông đúc
Đầu,
tóc giả xịt phấn
Chúng
sấn vô dòng xe cộ chát chúa
Chúng
đi làm bữa trưa
Nàng,
như Marie Antoinette
Chàng,
đồ đen tuyền
Như
tên sắp sửa chặt đầu nàng
Hay,
vì linh mục xưng tội giờ phút chót.
Nàng,
Nữ Hoàng Pháp trẻ măng
Chét
nước cà tô mát lên mớ
khoai chiên
Với
nụ cười ma mị trên mặt
Trong
khi chàng
Vật
lộn
Với
cái ống hút
Ở trên
mũi của chàng
Tới,
cùng lúc với chai Cô Ca Cô
La
Và
đợi nàng
Ban
cho 1 chầu vỗ tay!
Surely, he walks among us unrecognized:
Some barber, store clerk, delivery man,
Pharmacist, hairdresser, bodybuilder,
Exotic dancer, gem cutter, dog walker,
The blind beggar singing, O Lord, remember me,
Some window decorator starting
a fake fire
In a fake fireplace while mother and father watch
From the couch with their frozen smiles
As the street empties and the time comes
For the undertaker and the last waiter to head
home.
O homeless old man, standing
in a doorway
With your face half hidden,
I wouldn't even rule out the black cat crossing
the street
The bare light bulb swinging on a wire
In a subway tunnel as the train comes to a stop.
Tổ sư Hoá trang
Hẳn rồi, hắn đi giữa chúng
ta mà không ai nhận ra
Một anh thợ hớt tóc, một viên thư
ký, một người giao hàng
Nhà bào chế thuốc Tây, thợ
làm tóc, lực sĩ thẩm mỹ
Người khiêu vũ điệu Ba Tư, Ả rập
Thợ kim hoàn, người dẫn chó đi dạo,
Người ăn xin mù ư ử, Ôi Chúa,
hãy nhớ đến tôi
Một cửa sổ trang hoàng
Noel “bục” 1 phát, khởi sự đám
cháy dởm
Ở một đám lửa dởm, trong lúc bà
via và ông via nhìn,
Từ giường nằm, với nụ cười đóng băng
Con phố trống dần, đã tới lúc người
chủ nhà hòm và tên bồi
cuối cùng về nhà
Ôi tên già
không nhà, đứng ở lối
đi vô nhà
Với bộ mặt giấu mất một nửa,
Ta sẽ không ra lệnh cho con mèo đen
vượt qua đường
Ngọn đèn nơi đường hầm lắc lư khi xe điện
ngầm tới trạm
Summer Light
It likes empty churches
At the blue hour of dawn
The shadows parting
Like curtains in a sideshow,
The eyes of the crucified
Staring down from the cross
As if seeing his bloody feet
For the very first time.
Charles Simic
Ánh Sáng
Mùa Hè
Nó thích nhà thờ trống rỗng
Vào cái giờ xanh của buổi sáng
tinh mơ
Những cái bóng bỏ đi
Như những bức màn trong 1 buổi diễn phụ
Con mắt của Người bị đóng đinh
Nhìn xuống từ cây thập tự
Như thể Người nhìn thấy máu của Người
Ở chân
Lần đầu
Private Miseries
More than this crippled veteran
playing the banjo,
I have no right to grumble,
More than this old woman cracking open her purse
To give him a quarter,
Lest they both take offense and
beat me
On the head with one of his crutches.
My own anguish must remain unspoken,
Hidden behind a firm stride and a smile.
One day I knelt down and cursed
God
For all the suffering and injustice he consents
to.
Since then, I have felt even more alone.
Like a lifelong widower forever unconsoled
I pass the homeless huddled in
doorways
Upon a winter morning and dare not
Grouse about my own sleepless night,
And my cold feet that make me hurry past them.
Những nỗi khốn khổ mình ên
Hơn cả cái anh cựu binh
VNCH,
già què, đang từng tưng với cây
đàn băng dzô
Tớ đếch có quyền càu nhàu
Hơn cả cái bà già đang cố
mở bóp
lấy mấy nghìn Cụ Hồ cho ông lính
Ngụy già què
Cứ để cho họ cảm thấy bị tổn
thương và đập vào đầu
tớ
Với một trong những cây nạng
Cái nỗi thống khổ của riêng tớ phải
được nín khe,
Và được giấu ở bên dưới bước đi mạnh
mẽ, và nụ cười.
Một bữa tớ quỳ xuống và
nguyền rủa Thượng Đế
Về bao đau khổ và bất công mà
ông ta cứ nhè tớ mà trút
xuống
Kể từ đó, tớ cảm thấy cô đơn còn
hơn bao giờ hết
Như một bà goá cả đời không
hề được an ủi.
Tớ đi qua một đám người
vô gia cư láo nháo
ở hành lang
Một buổi sáng mùa đông và
không dám
Càu nhàu về một đêm mất ngủ
của riêng tớ
Và đôi chân lạnh giá
của tớ càng khiến tớ vội vã đi
qua họ
And Who Are You, Sir?
I'm just a shuffling old man,
Ventriloquizing
For a god
Who hasn't spoken to me once.
The one with the eyes of a goat
Grazing alone
On some high mountain meadow
In the long summer dusk.
Nhưng Ngài là Ai, hử Ngài?
Tớ chỉ là một tên
già lê lết
Nói chuyện bằng bụng
Về một ông trời
Chưa từng nói với tớ một lần
Kẻ có
đôi mắt dê
Thả dê một mình
Trên cánh đồng cỏ trên núi
cao
Vào một hoàng hôn dài
mùa hè
Charles Simic
Apollinaire
Ta đã hái nhành
lá cây thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi
L’adieu
J'ai cueilli ce brin de bruyère
L'automne est morte souviens-t'en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t'attends
Và nhớ nhé
ta đợi chờ em đó
Bài thơ vỏn vẹn chỉ có năm câu.
Năm câu phiêu hốt mang thiên
nhiên nằm giữa nền thi ca Tây Phương Hiện
Đại – năm câu cũng đồ sộ như toàn khối Đường
Thi Trung Hoa hay mấy vần tứ tuyệt của một Thôi
Hộ.
Ta đã hái nhành
lá cây thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng được
nữa
Mộng trùng lai không có ở trên
đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó…
Dịch làm sáu câu, tôi có
phần áy náy. Nhưng không biết
phải làm sao. Cái chất đạm nhiên
bát ngát trong thơ Apollinaire đang trừ
khử mọi lối dịch diễn dịch di, dịch tinh, dịch thể.
Cứ thử liều một trận xem sao.
Ta đã hái nhành
lá cây thạch thảo
Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ chẳng nhìn nhau trên
đất nữa
Hương thời gian nhành thạch thảo tí
hon
Và nhớ nhé ta đợi chờ em nhé…
Cũng tạm gọi là được.
Nếu ta đem bài thơ bát ngát
kia đặt vào giữa nguồn thơ mênh mông
của Apollinaire ắt ta dám dịch nó
ra làm lục bát Huy Cận, lục bát Nguyễn
Du, hoặc thất ngôn Du Nguyễn
Đã hái nhánh
kia một buổi nào
Ngậm ngùi thạch thảo chết từ bao
Thu còn sống sót đâu chăng nữa
Người sẽ xa nhau suốt điệu chào
Anh nhớ em quên và
em cũng
Quên rồi khoảnh khắc rộng xuân xanh
Thời gian đất nhạt mờ năm tháng
Tuế nguyệt ta đà nhị hoán tam
Dịch như thế là diễn giải một mùi hương
ẩn tàng trong nếp gấp. Nhưng đâu
có cần gì.
Nếu như cần thì tớ cứ buông bừa bút
mực viết bừa thơ.
Mùa thu chết liễu
nhớ chăng em?
Đã chết xuân xanh suốt bóng thềm
Đất lạnh quy hồi thôi hết dịp
Chờ nhau trong Vĩnh Viễn Nguôi Quên
Thấp thoáng thiều
quang mỏng mảnh dường
Nhành hoang thạch thảo ngậm ngùi vương
Chờ nhau chin kiếp tam sinh tại
Thạch thượng khê đầu nguyệt điểu mang
Xa nhau trùng điệp
quan san
Một lần ly biệt nhuộm vàng cỏ cây
Mùi hương tuế nguyệt bên ngày
Phù du như mộng liễu dài như mơ
Nét my sầu toả hai
bờ
Ai về cố quận ai ngờ ai đi
Tôi hồi tưởng lại thanh kỳ
Tuổi thơ giọt nước lương thì ngủ yên
Dịch ra như vậy thì tiếp giáp với bài
thơ “Je me souviens”:
Je me souviens de mon enfance
Eau qui dormait dans un verre
Autant de tempêtes l’espérance
Je me souviens de mon enfance
Tôi hồi tưởng tuổi
thơ ngày trước
Đáy ly nào giọt nước ngủ yên
Trước khi rông bão muộn phiền
Dậy cơn hy vọng cuối miền thơ ngây
Je songe aux métamorphoses
Qui s’épanouissent dans un verre
Comme l’espoir et la tristesse
Je songe aux métamorphoses
C’est ma destinée que je lis
Dans les reflets incertains
Les jeux sont faits rien ne va plus
C’est ma destinée que je lis
Tôi nghĩ tới tháng
ngày chuyển dịch
Những thay hình đổi dạng mở phơi
Trong ly nước mộng tuyệt vời
Với sầu dao động với đời giao thoa
Linh hồn định mệnh âm ba
Bóng vang khép mở đầu hoa mơ hồ
Hỡi ơi dâu biển xô bồ
Hồn trong định mệnh bây giờ đọc ra
(Sương Bình Nguyên)
GUILLAME APOLLINAIRE (1880-1918)
The Farewell
I picked this fragile sprig
of heather
Autumn has died long since remember
Never again shall we see one another
Odor of time sprig of heather
Remember I await our time together
J'ai
cueilli ce brin de bruyère
L'automne est morte souviens-t'en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t'attends
Lời vĩnh biệt
(1)
Ta đã
hái nhành lá cây
thạch thảo
Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng được
nữa
Mộng trùng lai không có ở trên
đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó ...
(2)
Ðã
hái nhành kia một buổi
nào
Ngậm ngùi thạch thảo chết từ bao
Thu còn sống sót đâu chăng nữa
Người sẽ xa nhau suốt điệu chào
Anh nhớ em quên và em cũng
Quên rồi khoảnh khắc rộng xuân xanh
Thời gian đất nhạt mờ năm tháng
Tuế nguyệt hoa đà nhị hoán tam
(3)
Mùa
thu chiết liễu nhớ chăng em ?
Ðã chết xuân xanh suốt bóng
thềm
Ðất lạnh qui hồi thôi hết dịp
Chờ nhau trong Vĩnh Viễn Nguôi Quên
Thấp thoáng thiều quang mỏng mảnh dường
Nhành hoang thạch thảo ngậm mùi vương
Chờ nhau chín kiếp tam sinh tại
Thạch thượng khuê đầu nguyệt diểu mang
Xa nhau trùng điệp quan san
Một lần ly biệt nhuộm vàng cỏ cây
Mùi hương tuế nguyệt bên ngày
Phù du như mộng liễu dài như mơ
Nét mi sầu tỏa hai bờ
Ai về cố quận ai ngờ ai đi
Tôi hồi tưởng lại thanh kỳ
Tuổi thơ giọt nước lương thì ngủ yên
Bùi Giáng
(1925-1998) dịch (Ði vào cõi
thơ, tr 80-82, Ca Dao xuất bản, Sài
Gòn, Việt Nam) Nguồn
ELEGY FOR A PARK
The labyrinth
has vanished. Vanished also
those orderly avenues
of eucalyptus,
the summer awnings,
and the watchful eye
of the ever-seeing
mirror, duplicating
every expression
on every human face,
everything brief
and fleeting. The stopped clock,
the ingrown tangle
of the honeysuckle,
the garden arbor
with its whimsical statues,
the other side of
evening, the trill of birds,
the mirador, the
lazy swish of a fountain,
are all things of
the past. Things of what past?
If there were no
beginning, nor imminent ending,
if lying in store
for us is an infinity
of white days alternating
with black nights,
we are living now
the past we will become.
We are time itself,
the indivisible river.
We are Uxmal and
Carthage, we are the perished
walls of the Romans
and the vanished park,
the vanished park
these lines commemorate.
-A.R.
J.L. Borges: Poems
of the Night
Bi Khúc
Công Viên
Mê cung biến mất
Cũng biến mất, là,
Những đại lộ với những hàng
me ngay ngắn
Những mái hiên buổi
chiều
Và tấm gương hằng chăm chú
theo dõi
Nhân lên mọi khuôn
mặt mỗi người
Mọi thứ, mọi điều thoáng
chốc, trôi tuột.
Đồng hồ ngừng,
Mớ kim ngân mọc lộn xộn
Công viên Chi Lăng với
những hàng cây, những pho
tượng bất thường
Phiá bên kia của buổi
chiều, sự rùng mình của
những chú chim
Bao lơn, tiếng lào xào
lười biếng của con suối
Đều là những điều của quá
khứ
Những điều của quá khứ nào?
Nếu không có bắt đầu,
thì cũng chẳng hề có tận
cùng hiển nhiên sắp hiển hiện
Nếu nằm ườn trong kho, với chúng
ta, là một vô cùng
tận
Của những ngày trắng xen
những đêm đen
Thì
Chúng ta bây giờ đang
sống cái quá khứ chúng
ta sẽ trở thành
Chúng ta là thời gian,
chính nó
Là con sông không
thể nào chia cắt ra được
Chúng ta là Sài
Gòn, là Carthage, là
Uxmal
Là những bức tường đã
thành bụi
Của những người Sài Gòn
ngày nào, trước 1975
Là công viên
Chi Lăng trước Quán Chùa
Đã biến mất
Công viên biến mất mà,
Những dòng thơ này
của GCC
Đang tưởng nhớ, hoài niệm.
Note: Gấu về VN hai lần, ngay từ hồi đầu, cc
2000, khi chưa tên Mít viết văn
nào ở hải ngoại, dám về. Chủ yếu là
để tới nơi ông cụ Gấu bị tên học trò
làm thịt, thẩy xác xuống sông, để
thắp 1 cây nhang cho Bố, và sau đó,
tìm hiểu, ông mất đúng ngày nào,
và tại làm sao ông không theo
Vẹm.
Ôi chao, hóa ra đó là
món quà quí hóa
nhất, ông để lại cho con cái: Bố của
tụi mi không phải là 1 tên Vẹm, tức
1 tên sát nhân!
Chúng giết, đâu chỉ 1 người, mà
là 1 đất nước.
Mừng Tám Bó bằng bài thơ
sau đây, mà không "Nghị
Hách" (1) sao ?
Kyrie
Sometimes my life opened its eyes in
the dark.
A feeling as if crowds drew through the streets
in blindness and anxiety on the way toward
a miracle,
while I invisibly remain standing.
As the child falls asleep in terror
listening to the heart's heavy tread.
Slowly, slowly until morning puts its rays
in the locks
and the doors of darkness open.
Tomas Transtromer: the great enigma
Kyrie
Đôi khi đời tớ mở những con mắt đen
thui của nó vào trong bóng
tối
Cảm giác như thể lũ người ngoài
đường xô đẩy nhau, chèn ép
nhau, trên con đường tới thiên đường
- tới phép lạ thì cũng rứa -
Trong mù lòa trong xốn xang
Trong khi GCC, vô hình, bèn
đứng lại.
Như Anh Cu Gấu thiu thiu ngủ trong ghê
rợn
Từ từ, chầm chậm,
Cho tới khi buổi sáng nhét những
tia sáng của nó vô ổ khoá
Và những cánh cửa của bóng
tối bèn mở ra.
(1)
.... thì vẫn mơ và tiếc rằng
SN 80 không post được hình những nàng
kiều nữ trang trong của PlayBoy kia kìa
!!
Tks.
Trong cuốn
Nhà văn Ba Lan, do AZ biên tập, có 1 số
thư từ trao đổi giữa S. và Witold Gombrowicz, và
trong 1, S trình bày quan
điểm nghệ thuật của ông, thứ mà Coetzee
gọi là “trưởng thành trong ấu thơ”.
K, vị bằng hữu, chủ nhân trang art2all,
đã từng nhận xét về sự liên
tưởng “quái dị” của GCC. THNM, nhìn
đâu cũng thấy VC, đọc ai cũng thấy BHD, thí
dụ, như K phán.
S. đẩy cái sự liên tưởng quái
dị, thành nghệ thuật, thứ của ông. Ông
viết, chúng ta thường coi từ, word ,
như là cái bóng của thực
tại, biểu tượng của nó, as the shadow of reality,
its symbol. Ngược lại mới đúng: thực tại là
cái bóng của từ. Triết học thực sự là
philology, ngữ văn, sự khai phá sâu thẳm có
tính sáng tạo của từ, the deep, creative exploration
of the word.
Tin Văn sẽ post mấy cái thư, và
mấy trang nhật ký của Anna Kamienska,
trong có trang về "Thơ là nghĩa địa".
Thứ này lũ thi sĩ Mít cần. Nhất là
mấy tên thi sĩ Vẹm, rất cần.
GCC mê nhất 1 câu,
nhớ đại khái, thằng cha này,
sống đời với nó, cực khó, nhưng
chết chung, thì OK.
Có em nào muốn, chuyện này,
thì đăng ký!
Tiểu Thu
Cái truyện Tiểu Thu, và cái
gọi là “duyên thừa, từ bố mẹ
để lại”, làm GCC nhớ lại, hồi mới ra được
hải ngoại, lần đầu nghe Yanni, và hiểu ra được
chân lý này: Một khi bạn sống đời
của bạn mà chưa 1 lần phải “biên tập đạo
hạnh” – biên tập theo nghĩa của Brodsky - thì
về già, bạn sẽ được sống lại đời bạn lần thứ nhì,
thứ ba, thứ tư… và trong những cuộc
đời này, cái gọi là khổ đau, không
còn nữa, hoặc nó cũng được thanh hóa...
trở thành hoan lạc, hạnh phúc, ân
sủng….
Note: Mấy dòng trên, khi
viết, GCC tính đặt cục gạch, để sau đó, viết tiếp.
Viễn ảnh của bài viết, thì
có rồi, chôm từ Schulz. Trong
1 bài essay, huyền thoại hóa thực tại,
hay nói kiểu GCC: THNM thực tại.
Bài viết này cũng thật thần
sầu. Từ từ tính!
A word that comes to mind tonight
Strolling past red paper lanterns,
Bead curtains, and Oriental carpets
In a softly lit window of a fortune-teller.
A pretty girl in white evening gown
Seated at a small round table
Awaiting the arrival of the oracle
With tears streaking down her face.
A sight the live parrot on the premises
May want to comment on from his perch,
And the devil himself display tonight
To a young monk kneeling in prayer.
Belladona
Một từ tới với cái đầu tối nay
Rảo bộ quá mấy cái đèn
lồng đỏ bằng giấy
Những bức màn hột soàn và
những tấm thảm Đông Phương
Ở cái cửa sổ có ánh
đèn dìu dịu của bà thầy bói.
Một em xinh đẹp trong cái áo
dài buổi tối màu trắng
Ngồi ở cái bàn tròn,
nhỏ
Đợi quẻ thánh
Với những dòng lệ chảy dài
trên mặt.
Con vẹt đậu trên cây sào
gần đó
Hình như tính đi 1 đường
còm
Và tên quỉ, chính nó,
bèn đi 1 đường trình diễn đêm
nay
Với vì tu sĩ trẻ đang quì
cầu kinh.
ON CLOUD NINE
Most days I'm airborne.
Nights too.
One foot before the other
On a thread so thin
A spider couldn't tell it from its own,
I promenade unseen
Over your heads.
You who are always ready
To applaud a fireman
Saving a child from a burning building,
Look up now and then
And try to catch my act.
Chín Đường Mây
Hầu như tất cả mọi ngày, tớ chơi
trò airborne
Đêm, luôn.
Một chân, trước, một chân
Trên sợi dây mỏng dính
Một con nhện cũng chào thua luôn
Tớ dạo chơi trong cái thế vô
hình như thế
Ở trên đầu mấy bạn
Bạn, vốn lúc nào cũng sẵn
sàng
Để vỗ tay chào mừng người lính
cứu hoả
Cứu đứa trẻ khỏi toà nhà đang
cháy
Thỉnh thoảng, lâu lâu, lại
ngước mắt nhìn
Và cố bắt chước tớ.
STAR ATLAS
The madness of it, Miss Dickinson!
Then the dawning suspicion-
We are here alone ventriloquizing
For the one we call God.
Just to be sure, I lifted my eyes
From the star atlas to the night sky
And found one tiny star in it
Above a field covered in snow.
One more mystery for some boy
To ponder as he closes his schoolbook,
Sleepy boy chewing a thumb
As he rests his head on a table.
His tomorrow's classroom empty;
Its huge blackboard wiped clean.
Just a low voice talking on TV
In the janitor's quarters down the hall.
A quick tour by weather satellite
Of the bleak and desolate northern regions
Of our planet, predicting dropping
Temperatures and a blizzard or two
Someplace out there hard to imagine,
Like these photos of distant nebulae-
Blurry remains where portraits of old gods
Once hung hiding the horror from us.
The once popular sitcom everyone watched
Recounting their furies and squabbles
Regarding the fate of their terrestrial
subjects,
Has been canceled, some say indefinitely.
The huge cast joining the line of the unemployed
Winding around the globe, stamping
Their feet and blowing on their hands
To keep warm as the long freeze sets in.
STAR ATLAS
Đúng là khùng rồi,
Miss Dickinson
Thế rồi hồ nghi len lén xuất hiện,
như tia sáng vào lúc
rạng đông
Chúng mình có ở đây,
cô đơn,
Là để nói bằng bụng
Về một đấng cà chớn mà chúng
ta gọi là Ông Giời
Để cho chắc ăn, tớ bèn ngước mắt
Nhìn lên bầu trời đầy sao,
cẩm như Mai Thảo, chắc thế
Và kiếm thấy 1 vì, nhỏ xíu
Ở phiá bên trên 1 cánh
đồng phủ tuyết.
Thêm một bí ẩn cho 1 cậu học
trò nào đó
Để cậu ngạc nhiên, khi đóng
lại cuốn tập
Cậu buồn ngủ, miệng ngậm ngón tay
cái
Đầu gục lên mặt bàn.
Cái phòng học của cậu ngày
mai trống vắng
Cái bảng đen to tổ bố thì đã
được lau sạch
Chỉ có tiếng rì rầm từ cái
TV
Ở khu người gác trường, cuối hành
lang.
Một tua ngắn bằng vệ tinh khí hậu
Ở vùng phía bắc âm u,
hoang vắng của hành tinh chúng
ta
Tiên đoán, nhiệt độ xuống và
1 hay 2, trận bão.
Một nơi nào đó, ở ngoài
đó, thật khó mà tưởng
tượng
Như những bức hình về những thiên
hà xa vời
Dấu mờ vẫn còn, nơi chân dung
những vị thần cổ lỗ sĩ
Có một thời được treo, giấu chúng
ta sự ghê rợn.
Một show hài, phổ thông có
thời mọi người đều coi
Kể những cơn giận dữ, cãi cọ của họ
Liên quan đến phần số của những đề tài
trần tục
Đã bị hủy bỏ, một số người cho biết,
vĩnh viễn.
Cái sân khấu rộng lớn bèn
gia nhập hàng ngũ những người thất nghiệp
Lang thang khắp trái đất
Chân nện rầm rầm, thổi lòng
bàn tay phù phù
Để giữ hơi ấm, chừng nào lạnh giá
còn dài dài
BLACK BUTTERFLY
Ghost ship of my life,
Weighed down by coffins
Sailing out
On the evening tide.
Bướm Đen
Con thuyền ma của đời Gấu Cà
Chớn
Chở khẳm hòm
Ra khơi
Vào con nước buổi chiều.
A QUIET AFTERNOON
Generously donated for our use
By an unknown benefactor
Who made sure the sky is blue,
The breeze mild and caressing
As we lie in the shade of a tree,
Our eyelids heavy, our yawns
Lengthening and lengthening
In the stillness of the afternoon,
As the last leaf falls quiet
And time itself comes to a stop
With its brightly colored circus wagons
Far from any village or town.
Every card in the caravan lying
facedown,
Only a horse in a field permitted
To flick his tail and a woman
Sunbathing in the nude to swat a fly.
Một buổi chiều yên tịnh
Được hào phóng
tặng, bởi 1 vị ân nhân
Chúng ta tha hồ muốn làm gì
thì làm
Với sự bảo đảm của vị này,
Rằng bầu trời thì xanh
Gió mát nhẹ, đầy mơn trớn,
nhạy cảm.
Chúng ta bèn nằm
dưới bóng cây
Mi mắt nặng, ngáp thật dài,
Thật dai
Trong cái sững lặng của buổi chiều.
Khi cái lá cuối
cùng lặng lẽ rớt xuống
Và thời gian, đích thị xừ lủy,
đi đến 1 cú ngừng
Với con tầu sặc sỡ sáng ngời nhiều
toa của 1 gánh xiệc của nó
Xa bất cứ một làng, một thành
phố
Mọi cây bài trong
đoàn xe thì đều nằm
sấp
Trừ con ngựa ở nơi cánh đồng thì
được phép
Hích hích cái tai
Và một người đàn bà
Tắm nắng, khoả thân,
Để đập 1 con ruồi.
Under the Nazi occupation of Poland, Anna
Karnieriska participated as a teacher in
underground education. Before the war she had studied
pedagogy; after the war she graduated from the classics
department at Lodz University.
She then moved to Warsaw, where she collaborated
with several literary magazines. Kamieriska
published many volumes of poetry. She was also
active as a translator of poetry. Later on, she also published
books of essays, commenting on poetry from biblical
and classical perspectives.
The history of Karnieriska's
poetry is a history of a slow, honest evolution
toward religious conversion. Her poetry has nothing
to do with any intellectual fashion, although
the twentieth century knew some moments when religion
was hip. Her religious leanings were accompanied by intense
reading of the Bible and Christian and Judaic philosophy,
and were deepened by mourning the death of her husband,
Jan Spiewak, also a poet.
The pages presented
in this chapter are taken from Karnieriska's
beautiful Diary (or Notebook-Notatnik in Polish)
of which there are two volumes.
These volumes count among the most moving
and perspicacious poets' diaries.
Short entries having to do with poetry and
spiritual life radiate force and freshness that
only genuine contemplation can convey.
Poetry is not liked in Poland. What are
the reasons for this? Maybe one of them is
that we always associate poetry with slavery. Its function
has been too closely tied to recompensation for all the
losses of the age of slavery.
Thơ không được yêu thích
ở Ba Lan. Lý do? Có lẽ 1 trong
những lý do là chúng ta luôn
kết hợp thơ với nô lệ.
Chức năng của nó rất gần gũi với
sự đền đáp cho tất những mất mát
của thời nô lệ.
Câu trên, áp dụng cho
thơ Mít VC quá đúng.
Cái sự nô lệ của thơ Mít
có cái tên thật là
mĩ miều, là, viết dưới ánh sáng
của Đảng.
Reading her, I realized how
rich she was and myself, how poor
Rich in love and suffering, in crying
and dreams and prayer.
She lived among her own people who
were not very happy but
supported each other,
And were bound by a pact between the
dead and the living renewed
at the graves.
She was gladdened by herbs, wild roses,
pines, potato fields
nd the scents of the soil, familiar
since childhood.
She was not an eminent poet. But that
was just:
A good person will not learn the wiles
of art.
Đọc bà, tôi nhận
ra bà giầu biết bao,
còn tôi, nghèo làm
sao.
Giầu có trong tình yêu,
và đau khổ, trong than khóc
và mơ mộng, cầu nguyện .
Bà sống giữa những con người
của riêng bà, không
rất hạnh phúc, nhưng giúp đỡ lẫn nhau,
Và được gắn bó bằng 1
hợp đồng giữa người chết và người sống
được làm mới ở những nấm mồ.
Bà thì thật vui với cỏ,
hoa, thông, cánh đồng khoai
tây
Và mùi của đất, quen
thuộc từ khi còn là con nít.
Bà không phải là
1 nhà thơ uyên bác.
Nhưng đúng là như thế này:
Một con người tốt sẽ không học
những mưu ma chước quỉ của nghệ thuật.
Note: Trong cuốn Nhà văn Balan
về viết, Polish Writers on Writing, Adam
Zagajewski có dành 1 số trang cho
Bà này, và cho nhật ký
của Bà.
Trong 1 trang nhật ký, bà
coi thơ là… nghĩa địa.
THNM, Gấu bèn nghĩ đến Đà
Lạt, nghĩa địa voi của TTT, trong MCNK
Câu này của Bà,
cũng thật tuyệt:
Thơ là dự báo sự thực.
Poetry is a presentiment of the truth.
Gấu bèn nghĩ đến dòng
thơ tự do của TTT. Nó dự báo cuộc
chiến sau đó, như có lần Gấu đã
từng phán, từ trước 1975, khi đọc Bếp Lửa.
Tin Văn sẽ đi 1 đường về thơ như là
nghĩa địa.
Reading her, I realized how
rich she was and myself, how poor
Rich
in love and suffering, in crying and dreams and prayer.
She
lived among her own people who were not very happy
but
supported
each other,
And
were bound by a pact between the dead and the living
renewed
at
the graves.
She
was gladdened by herbs, wild roses, pines, potato
fields
nd
the scents of the soil, familiar since childhood.
She
was not an eminent poet. But that was just:
A
good person will not learn the wiles of art.
Đọc bà, tôi nhận
ra bà giầu biết bao, còn
tôi, nghèo làm sao.
Giầu
có trong tình yêu, và
đau khổ, trong than khóc và mơ mộng,
cầu nguyện .
Bà
sống giữa những con người của riêng bà,
không rất hạnh phúc, nhưng giúp
đỡ lẫn nhau,
Và
được gắn bó bằng 1 hợp đồng giữa người chết
và người sống được làm mới ở những nấm
mồ.
Bà
thì thật vui với cỏ, hoa, thông, cánh
đồng khoai tây
Và
mùi của đất, quen thuộc từ khi còn
là con nít.
Bà
không phải là 1 nhà thơ uyên
bác. Nhưng đúng là như thế
này:
Một
con người tốt sẽ không học những mưu ma chước
quỉ của nghệ thuật.
Note:
Trong cuốn Nhà văn Balan về viết, Polish Writers
on Writing, Adam Zagajewski có dành
1 số trang cho Bà này, và cho nhật ký
của Bà.
Trong
1 trang nhật ký, bà coi thơ là…
nghĩa địa. THNM, Gấu bèn nghĩ đến Đà
Lạt, nghĩa địa voi của TTT, trong MCNK
Câu
này của Bà, cũng thật tuyệt: Thơ là
dự báo sự thực. Poetry is a presentiment of
the truth.
Gấu
bèn nghĩ đến dòng thơ tự do của TTT.
Nó dự báo cuộc chiến sau đó, như
có lần Gấu đã từng phán, từ trước
1975, khi đọc Bếp Lửa.
Tin
Văn sẽ đi 1 đường về thơ như là nghĩa địa.
Nhân đọc hai
bài thơ của A.Z, có những câu
thật hợp tâm tình, nhất là
hai khổ cuối:
Bạn chỉ là 1 hình ảnh,
một giấc mộng
Bạn
làm bằng trọn một nỗi nhớ mong;
Khi
bạn biến mất, thì cũng vậy, những đám
mây.
Bạn
chỉ còn là 1 hồi tưởng trong màu
đen.
Bạn sẽ ám ảnh những con sông
quê Những
bóng cây Nhưng
sau cùng bạn té xuống Chìm
vào đất, đất, đất.
Xin gửi bác một bài
thơ viết cách đây ít
lâu, mời bác đọc cho vui
nhé:
Bên một
dòng thơ cổ xưa
sông khơi dòng trên
tấm toan thời xa
cây
xanh lục hai bên bờ, thuyền buồm giữa dòng,
cánh
tay quăng lưới vào khoảng không
đêm
xóm cồn, trăng soi, cá quẫy nước
những
con người thời xưa, khăn áo lạ lẫm
chợ
họp bến sông, ồn ã rạng đông
sương
còn lạnh áo người khua tay chèo
trưa,
theo gió nam, một tiếng ru thời gần, nghe quen
nhắn
người đi xa trở về, con ve kêu mùa
hạ
(rằng,
biết mấy thu nguôi lòng)
tìm
lại người chuyện trò, cây già,
quán cũ
cúi
đầu dòng chữ hoen, trang sách ố
có
rủ nhau về, nhấp chén rượu bên bãi dâu,
trong gió mùa
vài
lá thuyền gieo neo về một bến vắng chưa xa..
Huế, 11.2011
Dã
Viên
Tks. NQT
Câu thơ
đầu của bạn làm Gấu nhớ đến Borges, và đoạn vừa đọc, trong
Ngón Thơ, This Craft of Verse, và
cũng đã chôm 1 câu
đưa lên Tin Văn.
Borges
nhắc đến câu thơ của Tennyson, trong 1 bài
thơ làm khi mới 13, 14 tuổi, dục bỏ, destroy,
nhưng may sao còn 1 câu:
Thời gian trôi nửa đêm,
Time flowing in the middle of the night. Và
Borges khen cậu bé Tennyson chọn chữ cực khôn.
Nửa đêm, im ắng, người ngủ, tuy nhiên
sông vưỡn trôi không 1 tiếng động...
Bữa
nay, lạ làm sao đọc lại, thì
nó lại bật ra dòng thơ của Apollinaire:
Đêm
tới, giờ đổ,
Ngày
đi ta ở!
Vienne
la nuit sonne l'heure
Les
jours s'en vont je demeure
Cũng trong đoạn trên,
trong bài viết về "Ẩn dụ", Borges nhắc tới 1 cuốn tiểu thuyết, giản
dị có cái tên, Of Time
and the River [còn cái bài hát cùng
tên, thật tuyệt Gấu thật mê, khi mới lớn, Nat King Cole ca (1) ].
Thời
gian, dòng sông, cả hai cùng
trôi…
Và
tất nhiên, Borges bèn lôi câu
nổi tiếng của triết gia Hy Lạp: Chẳng ai có thể
tắm hai lần trong cùng dòng sông,
No man steps twice into the same river.
Nhưng đến đây, thì
Borges đổi giọng:
Ở
đây, chúng ta có cái khởi
đầu của sự ghê rợn. Here we have the beginning of
terror.
Bởi
là vì lúc thoạt đầu, at first,
chúng ta nghĩ đến dòng sông
trôi, những giọt nước khác nhau…
Và
rồi chúng ta được làm ra để mà
nghĩ rằng, chúng
ta là con sông, và chúng
ta cũng “phiêu” như là con sông!
Tuyệt!
And we are made to feel that
we are
the river, that weare
as fugitive as the river.
Hai dòng thơ của Apollinaire,
ngược hẳn lại:
Đêm tới, giờ đổ
Ngày
đi, ta ở
Và rồi:
L'amour s'en va comme cette
eau courante
L'amour
s'en va
Comme
la vie est lente
Et
comme l'Espérance est violente
Tình bỏ đi như nước sông
chảy
Tình
bỏ đi
Đời
sao chậm như rùa
Và
hy vọng mới hung bạo làm sao!
*
Về bài thơ của bạn, Gấu
mê mấy dòng cuối:
tìm lại
người chuyện trò, cây già,
quán cũ cúi đầu
dòng chữ hoen, trang sách
ố có rủ nhau
về, nhấp chén rượu bên bãi
dâu, trong gió mùa vài lá
thuyền gieo neo về một bến vắng chưa xa.
Tuyệt. Nhất là
dòng cuối, "gieo neo về" (1) "bến
vắng chưa xa".
Thơ
bạn rất lạ, tuy cùng trong không khí
thơ Tàu.
Tks NQT
(1)
Hãy để
ý đến những "connotations", gia nghĩa, của cụm từ “gieo neo về”: "gieo
neo" có nghĩa của "gieo neo", “gieo” lại có nghĩa của “gieo”;
cũng thế, là "neo", trong "neo thuyền", từ đó, nó bèn
kéo ra cái "bến vắng chưa
xa, chưa xưa"!
Tuyệt cú! Trở
lại với Borges.
Tiếp
theo đó, ông nhắc tới những
dòng thơ Manrique:
Nuestras vidas son los ríos
que
van a dar en la mar
qu’es
el morir.
Bản tiếng Anh:
Our lives are the rivers
that
flow into that sea
which
is death
Và ông phán:
Lẽ tất nhiên, đằng sau
ẩn dụ, the stock metaphor, còn
âm nhạc nặng nề, the grave music, không
làm sao dịch được:
Nuestras vidas son los díos
que
van a dar en la mar
qu’es
el morir
allí
van los senoríos
derechos
a se acabar
e
consumir
Note: Tình cờ, lướt Tin
Văn, đọc lại thơ bạn, Gấu nhận ra cái chất Huế
của nó, mà trước đó, không
nhận ra: sang trọng, quyền quí, không lẫn
vào chốn tục lụy, và nhất là chất cổ xưa,
đúng cái chất mà cõi thơ
vinh danh nhà thơ Ba Lan, Zbigniew Herbert. Chính
cái chất này làm ông tách
ra khỏi đương thời. Có thể do GCC đang đọc cuốn thơ
Ba Lan do AZ biên tập nên ngộ ra.
Đám
thi sĩ Huế cũng không có được chất
này. Trịnh Công Sơn có chăng, là
nhờ những giọt mưa bay trên tầng tháp
cổ.
Một tay
không phải Huế, thi sĩ Cao Thoại Châu,
lại có những dòng thần sầu về Huế,
lạ thiệt.
Thương cả hai người, em với bóng
chiều
vàng nghiêng nón lá qua
sông
để
giọng hò em mát mái xuôi
dòng
người
ta đã xây bến đò Thừa Phủ.
người ta đã xây bến
đò Thừa Phủ.
Đây
là câu thơ 'hiện thực', nhưng "không
có không được", nó "đảm bảo"
cho những hình ảnh ở trên.
Theo
nghĩa của Lukacs, khi viết về "ý thức tiểu
thuyết gia vượt ý thức nhân vật", để tìm
lại đời sống thực, đời sống mất đi tìm lại được.
Đám
"tiểu thuyết mới", theo đó, định nghĩa: Đọc,
là treo lửng thời gian. Là "tạm ngưng"
sống.
Cũng
theo nghĩa đó, Nabokov gọi, mỗi cuốn tiểu thuyết,
là một câu chuyện thần tiên.
Đọc,
là lạc vào thế giới đó.
Đọc đến
câu chót, là lúc Lưu Nguyễn
về trần!
Câu
thơ cuối, người ta đã xây bến đò
Thừa Phủ, đẩy những hình ảnh, cảm xúc,
"thương cả hai người", "chiều vàng nghiêng
nón".... lên đến đỉnh cao của chúng.
*
Trong
bài thơ Dạ Vũ Ký Bắc, chẳng hạn, ước
muốn - gặp lại bạn, kể cho bạn nghe, về cái đêm
mưa - đảm bảo bài thơ:
Hà
đương cộng tiễn tây song chúc,
Khước
thoại Ba Sơn dạ vũ thì
Dạ Vũ
Ký Bắc
Theo
nghĩa đó, câu kết thúc Bếp Lửa,
nghe rất cải lương, nhưng lại rất ư thực, rất ư cảm
động, ấy là vì, không gian, khí
hậu, nội dung câu chuyện - 'miêu tả không
khí Hà-nội trước 1954; đi và ở
đều là những chọn lựa miễn cưỡng, chia lìa
hoặc cái chết': Thơ giữa Chiến Tranh và
Trại Tù - đảm bảo nó:
Anh yêu
quê hương vô cùng và
anh yêu em vô cùng.
Đây
là phần đảo của "định lý" Lukacs.
Thuận:
Nếu cả cuốn sách là ảo, thì
câu cuối phải là thực.
Đảo:
Câu chót ảo, cải luơng, thì cả
cuốn sách phải thực.
Cái
cải lương mùi mẫn này là 'evidence',
chứng cớ, đảm bảo, những suy nghĩ, hành động,
nỗi đau, cái ý thức khốn khổ... của
những nhân vật trong Bếp Lửa, là có
thực.
Bài
viết Bếp Lửa trong văn chương, trong số Văn đặc
biệt về Thanh Tâm Tuyền [1973], là dựa
trên "định lý" Lukacs, trong Lý Thuyết
về Tiểu thuyết, La Théorie du Roman, như được tóm
tắt ở trên. (1)
Vào
thời điểm đó, người viết không thể
nào cảm nhận ra được, câu văn chót
kết thúc Bếp Lửa, lại là tiếng nói
của những người Việt lưu vong, vọng về trong nước:
Anh yêu
quê hương vô cùng và
anh yêu em vô cùng.
Câu
nói đó, là của bao nhiêu
năm sau này, của bao nhiêu con người đã
sống sốt cuộc chiến, sống sót cuộc bỏ chạy, sống
sót biển cả, sống sót cuộc hội nhập nơi xứ
người - như tiếng chuông xe đạp leng keng - vọng về Quê
Nhà.
-Nghe
thấy rồi!
(1) "Định
lý" Lukacs: "Con đường tận cùng, cuộc
hành trình bắt đầu" (Le chemin est fini,
le voyage est commencé).
Lưu vong
và Tiểu thuyết
It's nice sitting here in the shade
At our small outdoor table
Pacing a row of brownstones
In the late afternoon sunlight
Under a cloudless summer sky.
Together with its daily horrors,
Life doles out these small pleasures:
A platter of raw oysters on ice,
A ripe lemon sliced in half,
And a glass of chilled white wine.
If the couple holding hands at the next table
Are now in a hurry to leave,
Let them go ahead.
We'll linger over this bottle
And then go looking for a bed ourselves.
PAST THE CEMETARY
Thật thú mà ngồi ở đây
Trong bóng râm
Ở cái bàn nhỏ ngoài trời
Đối diện với những dẫy nhà
Vào lúc xế trưa
Dưới bầu trời mùa hạ không một cụm
mây
Cùng với những ghê rợn hàng
ngày
Đời vưỡn ban cho chúng ta tí ti lạc
thú
Một dĩa hến tươi ủ đá lạnh
Những lát chanh mọng
Và một ly rượu vang trắng, lạnh
Nếu cái cặp tay trong tay, bàn kế
bên
Lúc này vội vã rời bàn
Thì kệ cha họ
Đôi ta bèn cứ bám chặt với
cái rượu
Và bèn tự đi tìm cái
giường sau đó
cemetary: cemetery?
NIGHT OWLS
Addicts of introspection,
Inmates of inner prisons
Drawn and quartered
Between body and soul,
Eyeballing time and eternity,
Making burglar's tools
Out of your ecstatic visions
To pick the lock of their mystery.
Scribblers of briefs and writs
Against a dissembling God.
Mad dogs of mystic love
On your way to the pound.
Fellow sufferers, wretches like me
And you pretty ladies too,
Each nailed to her own cross,
Let's all get some shut-eye if we can.
Cú đêm
Ghiền nhìn lại
Tù nhân nội tù
Bèn lôi kéo, phân thành
bốn
Thể xác và linh hồn,
Xăm soi thời gian và vĩnh cửu
Làm đồ nghề cho tên trộm đêm,
Từ những viễn ảnh mê ly
Bèn lấy ra cái khóa của sự
bí mật của chúng
Kều cào những bảng tóm tắt, những
lệnh lạc
Chống lại một ông Trời bị banh thây
xẻ thịt
Những con chó điên của tình
yêu thần bí
Trên con đường của bạn tới nhà giam
Hởi những bạn bè đau khổ, những kẻ đê
tiện, như tớ đây
Và luôn cả mấy em xinh đẹp nữa
Mỗi nường thì được đóng đinh trên
cây thập tự của riêng nường
Hãy ban cho tất cả một cú chợp mắt
nếu có thể.
Sky full of autumn
earth like crystal
news arrives from a long way off following
one wild goose.
The fragrance gone from the ten-foot
lotus
by the Heavenly Well.
Beech leaves
fall through the night onto the cold
river,
fireflies drift by the bamboo fence.
Summer clothes are too thin.
Suddenly the distant flute stops
and I stand a long time waiting.
Where is Paradise
so that I can mount the phoenix and
fly there?
1968, translated with
Nguyen Ngoc Bich
THU
Trời đầy thu
Đất như pha lê
Tin xa về theo cánh vịt giời
Hương sen bên Giếng Trời
Bèn bỏ đi
Lá sồi
Nhân đêm xuống
Bèn tuồn vô sông
lạnh
Đom đóm lập loè nơi giậu
tre
Aó hè mỏng quá
Bất thình lình tiếng
sáo xa ngưng
Gấu đợi, đợi mãi, thèm
nghe lại tiếng sáo
Thiên Đàng ở đâu?
Gấu gõ cửa và khóc
ròng
Làm sao mà có
được 1 em phượng hoàng
Trèo lên em và
bay lên đó?
AUTUMN
This yardful of the landlord's
used cars
does not intrude. The landlord
himself, does not intrude.
He hunches
all day over a swage,
or else is enveloped in the
blue flame
of the arc-welding device.
He takes note of
me though,
often stopping work to grin
and nod at me through the
window. He even
apologizes for parking his
logging gear
in my living room.
But we remain
friends.
Slowly the days thin, and
we
move together towards spring,
towards high water, the jack-salmon,
the sea-run cutthroat.
AUTOMNE
Ce jardin plein des voitures
usagées du proprio
ne me dérange pas. Le
proprio
lui-même n'est pas dérangeant.
II reste courbé
toute la journée au-dessus
d'un porte-pièces,
ou bien enveloppé par
la flamme bleue
de la lampe à souder.
II fait attention
à moi pourtant,
s'arrêtant souvent de
travailler pour m'adresser
un sourire ou un signe de tête
à travers le carreau.
Il s'excuse
même d'avoir remisé
sa tronconneuse
dans ma salle de séjour.
Mais nous restons
amis.
Lentement les jours s'allongent,
et nous
avancons ensemble vers le printernps,
vers la montée des
eaux, le frai des saumons
et la truite anadrome.
Thu
Cái mảnh vườn để xe hơi phế thải
của vì chủ đất không làm phiền tớ
Chính xừ luý thì
cũng thế
Ông ta suốt ngày
còng lưng trên cái máy
rập
Hay, lung linh mờ ảo,
Trong làn xanh xanh
Của tia lửa hàn
Tuy nhiên,
có tí để ý
Những lần ngưng làm
Để ném cái cười
Hay gật cái đầu
Qua khung cửa sổ
Ông ta lại đi 1 đường xin
lỗi nữa chứ
Về việc để bộ đồ nghề
Ở trong phòng khách
của chúng tôi
Nhưng chúng
tôi là bạn.
Dần dà, ngày mỏng
dần, trải dài mãi ra
Và Xuân tới
Hai đứa chúng tôi
bèn đi tới vùng nước lớn
Câu cá hồi.
Autumn Sky
In my great-grandmother's
time,
All one needed was a broom
To get to see places
And give the geese a chase in
the sky.
•
The stars know everything,
So we try to read their minds.
As distant as they are,
We choose to whisper in their
presence.
•
Oh, Cynthia,
Take a clock that has lost its
hands
For a ride.
Get me a room at Hotel Eternity
Where Time likes to stop now
and then.
•
Come, lovers of dark corners,
The sky says,
And sit in one of my dark corners.
There are tasty little zeros
In the peanut dish tonight.
Charles Simic: New
and Selected Poems 1962-2012
Trời Thu
Vào thời bà cố
của tôi
Tất cả những gì một người
cần
Là 1 cây chổi
Để kiếm chỗ
Và để đuổi
Vịt giời
Những ngôi sao biết hết,
biết đủ thứ
Thế là chúng ta
bèn cố đọc
Những cái đầu của chúng
Bởi là vì chúng
ở quá xa
Chúng ta chọn cách
nói thì thầm
Dưới sự chứng giám của
họ
Ôi BHD của GCC
Hãy lấy cái đồng
hồ mất mẹ mấy cây kim
Làm cái chổi
Đi 1 đường tới Đà Lạt/Thiên
Đàng
Lấy cái phòng
ở Khách Sạn Thiên Thu
Nơi Thời Gian thì bèn
nghỉ chơi
Lúc này, hay,
lúc khác
Hãy tới đây
Những cặp tình nhân
của những góc nhà, hay
xó bếp
Bầu trời phán,
Và hãy ngồi, 1
trong những góc tối của ta
Ở đó có những
con số không nho nhỏ, dễ thèm
Trong cái dĩa đậu phọng
tối nay.
One thing
does not exist: Oblivion. God saves the metal and he
saves the dross, And his prophetic memory guards
from loss The moons to come, and those
of evenings gone. Everything is:
the shadows in the glass Which, in between the day’s
two twilights, you Have scattered by the thousands,
or shall strew Henceforward in the mirrors
that you pass. And everything is part of that
diverse Crystalline memory, the universe; Whoever through its endless
mazes wanders Hears door on door click shut
behind his stride, And only from the sunset’s
farther side Shall view at last the Archetypes
and the Splendors.
Translated from Spanish by Richard Wilbur
[net]
Everness
One thing alone does not exist-oblivion.
God, who saves the metal, saves the dross
and stores in his prophetic memory
moons that have still to come, moons that
have shone.
Everything is there. The thousands of reflections
which between the dawn and the twilight
your face has left behind in many mirrors
and those faces it will go on leaving yet.
And everything is part of that diverse
and mirroring memory, the universe;
there is no end to its exigent corridors
and the doors that close behind you as
you go;
only the far side of the sunset's glow
will show you at last the Archetypes and
Splendors.
-A.R.
Note: Bài thơ này, Tin
Văn đã giới thiệu, và có
bản tiếng Mít, để kiếm sau.
Nhớ, là có chôm Nguyễn
Du, "Mai sau dù có bao giờ", để dịch
cái từ thần sầu Everness, của Borges...
Đành dịch lại, theo hai bản tiếng
Anh, trên đây.
Mai sau dù có bao giờ
Một điều, mình nó không
thôi, thì không hiện
hữu - Sự Lãng Quên
Ông Trời, Người kíu kim loại,
kíu kít kim loại – còn
gọi là gỉ sét -
Và trữ, chứa trong hồi ức tiên
tri của Xừ Luỷ,
Những con trăng sẽ tới
Những con trăng những đêm nào
đã qua đi
Mọi thứ thì, rằng thì
là, cứ thế bày
ra đó
Ngàn ngàn những phản chiếu
Giữa rạng đông và hoàng
hôn
Trong rất nhiều tấm gương
Là khuôn mặt Em để lại
[Cái gì gì, đập cổ kính
ra tìm lại bóng]
Hay, sẽ để lại, trước khi soi bóng
Và mọi điều thì là phần
của cái hồi nhớ tản mạn, long lanh, vũ trụ;
Làm gì có tận cùng
cho những hành lang khẩn cấp của nó
Những cánh cửa đóng lại sau
khi Em đi
Chỉ ở mãi phía xa kia, trong
rực rỡ dương quang
Sẽ chỉ cho Em thấy, sau cùng, những
Nguyên Mẫu và những Huy Hoàng
My gift to you will be an abyss,
she said,
but it will be so subtle you'll perceive
it
only after many years have passed
and you are far from Mexico and me.
You'll find it when you need it most,
and that won't be
the happy ending,
but it will be an instant of emptiness
and joy.
And maybe then you'll remember me,
if only just a little.
Roberto Bolano The Paris Review Summer 2012
Xuống phố, đổi phim, ghé
tiệm sách, mua số The Paris Review
có bài thơ tuyệt vời của Bolano, tả đúng
tâm sự Gấu, đúng cái
cảnh tình cờ gặp lại Em, khi Em đi chợ
Bến Thành, về, và “kín đáo”
nói cho biết, tại làm sao Em vờ Gấu,
và chọn một anh bồ, cùng học Y Khoa.
(1)
Quà BHD tặng Gấu
Quà ta tặng
mi sẽ là 1 vực thẳm, em nói Nhưng nó "tế
vi" đến nỗi mi không thể nào
nhận ra Chỉ sau thật nhiều năm,
có khi, chỉ sau khi ta đi xa rồi,
Và cả hai đều
chạy ra khỏi cả hai quê hương
Bắc Kít và Nam Kít rồi Thì lúc
đó mi mới tìm thấy món
quà ta tặng mi Khi mà mi cực
cần đến nó Và chắc chắn
không phải là một kết thúc
hạnh phúc Nhưng sẽ là một
thoáng chốc của sự trống rỗng
và niềm vui. Và có
thể, chỉ lúc đó mi mới
nhớ ta, Và mới hiểu
cái gọi là "mono no aware", “Nỗi
buồn cháy da, cháy thịt khi
ta đã đi ra khỏi đời của mi". Nhưng cũng chỉ được
1 tí tí.
Gunnar Thorgilsson
(1816-1879)
The memory of time
Is full of swords and ships
And the dust of empires
And the rumble of hexameters
And the high horses of war
And shouts and Shakespeare.
I want to recall that kiss, the kiss
You bestowed on me in Iceland.
-H.R.
J.L. Borges Gunnar Thorgilsson
(1816-1879)
Hồi ức thời gian
Thì đầy gươm giáo và
tầu thuyền
Và bụi của những đế quốc
Và tiếng ì ầm sóng
vỗ chung quanh chỗ ngồi
Của những vần thơ ở đâu xa
Và những chú chiến mã
hùng vĩ
Và những tiếng la thét và
Shakespeare.
Gấu chỉ muốn nhớ nụ hôn của BHD
Bữa bãi khoá, biểu tình
Nơi nghĩa trang Bắc Việt
Note: Bài viết
sau đây, của Bùi
Giáng, về bài Mùa
Thu Chết, trong Đười Ươi Chân Kinh. Do không
vô được FB, và do Nestcape không
cho post images nữa, cho nên Tin Văn đành
type bài của BG. Thi sĩ kể, ông dịch
bài thơ như thế nào
Apollinaire
Ta đã hái nhành
lá cây thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đã
chết rồi
L’adieu
J'ai cueilli ce brin de bruyère L'automne est morte
souviens-t'en Nous ne nous verrons
plus sur terre Odeur du temps brin de
bruyère Et souviens-toi que
je t'attends
Và nhớ nhé ta đợi
chờ em đó
Bài thơ vỏn vẹn chỉ có
năm câu. Năm câu phiêu hốt mang thiên
nhiên nằm giữa nền
thi ca Tây Phương Hiện Đại – năm câu
cũng đồ sộ như toàn khối Đường Thi Trung
Hoa hay mấy vần tứ tuyệt của một Thôi Hộ
Ta đã hái nhành
lá cây thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đã
chết rồi
Chúng ta sẽ không
tao phùng được nữa
Mộng trùng lai không
có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch
thảo bốc hơi \
Và nhớ nhé ta đợi
chờ em đó…
Wine
had bloodied your lips and tongue,
When you whispered your tale
Of how young witches
Used to ride married men
Through the sky on a night like this.
The stars were like lit candles
That had wandered off on their own,
And the misty woods
Were full of floating nightgowns.
It seemed only yesterday
Old Scratch tucked us into a bed of dead leaves.
You turned into a black cat
And I ran after you on all fours
Into a church where a dog chased us
And the congregation sat
With their grave faces looking on.
Charles
Simic: That Little Something
Những điều thần tiên của thế
giới vô hình
Hồng đào nhuộm đỏ như máu, môi
và lưỡi em,
Khi em thầm thì,
Như thế nào mấy cô bé phù
thuỷ
Thường cưỡi mấy đấng có vợ
Băng qua bầu trời vào một đêm như đêm
nay
Những ngôi sao thì như những cây
đèn cầy
Tự chúng muốn, chẳng ai bắt
Đi lang thang
Và những khu rừng, đầm đìa sương
mù,
Thì đầm đìa những chiếc áo
ngủ đàn bà, trôi lềnh bềnh
Hình như mới chỉ hôm qua
Con Quỉ Già lùa chúng mình
vô 1 cái giuờng đầy lá chết
Em biến thành một con mèo đen
Và anh bò bốn chân rượt đuổi
Vô một ngôi nhà thờ
Nơi con chó rượt đuổi cả đôi ta
Và giáo đoàn, ngồi
Mặt người nào người nấy coi bộ thật trầm
trọng
Theo dõi trò hú tim.
Note: Bài viết
sau đây, của Bùi
Giáng, về bài Mùa
Thu Chết, trong Đười Ươi Chân Kinh. Do không
vô được FB, và do Nestcape không
cho post images nữa, cho nên Tin Văn đành
type bài của BG. Thi sĩ kể, ông dịch
bài thơ như thế nào
Apollinaire
Ta đã hái nhành
lá cây thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đã
chết rồi
L’adieu
J'ai cueilli ce brin de bruyère L'automne est morte souviens-t'en Nous ne nous verrons plus
sur terre Odeur du temps brin de
bruyère Et souviens-toi que je
t'attends
Và nhớ nhé ta đợi
chờ em đó
Bài thơ vỏn vẹn chỉ có
năm câu. Năm câu phiêu hốt mang thiên nhiên
nằm giữa nền thi ca Tây Phương Hiện Đại – năm câu
cũng đồ sộ như toàn khối Đường Thi Trung Hoa hay mấy vần
tứ tuyệt của một Thôi Hộ
Ta đã hái nhành
lá cây thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đã
chết rồi
Chúng ta sẽ không tao
phùng được nữa
Mộng trùng lai không
có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo
bốc hơi \
Và nhớ nhé ta đợi chờ
em đó…
Lips half-willing in a doorway
Lips half-singing at a window
Eyes half-dreaming in the walls
Feet half-dancing in a kitchen
Even the clocks half-yawn the hours
And the farmers make-half answers
Carl Sandburg
(6 January 1878 – 22 July 1967) Nhà thơ Mỹ ba
lần được giải Pulitzer.
Tôi thấy bài thơ này thật đáng
yêu, nhưng không thể truyền đạt được qua bản dịch. Tôi
cảm nhận được vẻ chậm chạp, lười
biếng, của những ngày hè.
Cuối hạ ở thôn làng
Nụ hôn ngần ngừ ở cửa
Tiếng hát chần chờ bên song
Mắt lơ đãng đậu trên tường
Chân hững hờ nhịp luân vũ
Đồng hồ lửng lơ ngáp gió
Nhà nông nửa vời đáp lời
Nguyễn thị Hải Hà dịch tạm tạm, để xem có
ai nghĩa hiệp ra tay.
Note: Bài thơ trên, mạn
phép Bà Tám bê về Tin Văn, để nhân đó
lèm bèm về hai ý thơ, được nhắc tới trong bài
thơ ngắn, trên.
Ý thứ nhất, là ở từ “late”. Ý
này được những nhà thơ, nhà
văn ưa sử dụng, nhất là cho mùa
thu, cái gì gì, 1 cảnh thu muộn,
thí dụ.
Nhưng từ đó, nó được chiếu ra
thành cái ý, “muộn, lỡ, hỏng,
biết nhau trễ quá”, hoặc, biết nhau đúng
thì đúng lúc, nhưng ngu quá
bỏ qua, cái gì gì “ba đồng 1 mớ
trầu cay, sao anh chẳng hỏi những ngày còn
không”, có mấy bao gạo mà cũng tiếc tiền
không chịu khệ nệ vác đến nhà ông
bố vợ tương lai, ngu ý mà ngu thế!
Ý thứ nhì, là ở từ “mid”;
“mid” không có nghĩa ngần ngại, ngần
ngừ, chần chờ, mà là ở cái nghĩa
chót, trong bản dịch, “nửa vời”.
Muộn, quá thì, thành ra
có gì cũng chỉ là nửa vời.
Rành quá chuyện đúng thì,
làm gì có ngần ngại,
mà chỉ có nửa vời!
Cũng “mi’, nhưng chỉ “nửa cái
mi”.
Ôi chao, đúng cái
cảnh GCC gặp Sad Seagull, nhưng cũng thật khác:
Chỉ dám hôn nhẹ lên mái
tóc, không phải ngần ngại, cũng
không phải nửa vời, mà là, “ông
Trời cho mi, chỉ có vậy”!
Bài viết dưới đây, của
1 vị bằng hữu, là cũng nói về cái chuyện, trách
ông Trời sao cho gặp nhau quá
muộn, cũng mi, nhưng chỉ được nửa cái
mi!
Ý này, nhớ là,
cũng được K viết ra, nhằm ý
so sánh, chỉ lũ đàn ông
là chung tình. (1)
Đàn bà, bị chính ông
Trời không cho phép chung tình:
Yêu mộng mơ, yêu tha thiết,
yêu mặn nồng ... chỉ có
đàn ông mới có khả
năng yêu như vậy. Tôi vẫn bảo tạo hóa
khéo bất công: khi cho đàn bà
lên thiên chức làm mẹ, tạo hóa
đã tước mất khả năng yêu của họ. Yêu
thương giờ đây là yêu vờ, yêu
vĩnh; mọi tình yêu họ đã
dồn qua cho đứa con, để đứa con có khả năng làm
tiếp công việc tạo hóa trao cho: khả năng
yêu!
(1)
Những mối tình e ấp, sót
lại những sợi tơ vương vướng đâu
đó trong tâm hồn
phần đông trong chúng ta, không
giống như vết dao vẫn còn tươm máu
mãi trong “Lan Hương” của NQT. Anh có
thể lồng bóng mình và người yêu
một thời (và một đời) của mình gần như vào
bất cứ một mối tình văn chương nào mà
anh đọc đến, chỉ cần mối tình ấy là một mối
tình lý tưởng, trong trắng và mù
quáng đến rũ rượi. Đọc truyện tình của anh, K. có
cảm tưởng như nếu giả thử cần bắt đầu lại, thì anh cũng
sẽ lao vào cuộc tình như thế, không ngần
ngại chút nào, chỉ lại để được đau đớn một cách
hạnh phúc.
K. [Thư luân lưu art2all]
Tks. NQT
Ba cái lăng nhăng
Một trà, một rượu, một đàn
bà,
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta.
Chừa được cái gì, hay cái
nấy
Có chăng chừa rượu với chừa trà.
Cứ mỗi lần đọc mấy vần thơ trên của Trấn
Tế Xương, là tôi lại tủm tỉm cười
thầm, chỉ mấy câu thơ tâng vợ để xin tiền mua
rượu, mua trà mà nói lên hết
được tấn thảm kịch của người đàn ông:
chừa cho được đàn bà! Ấy, không phải
chừa đàn bà đâu, mà chừa bám
dính vào đàn bà! Dính
vào rượu làm sao rứt cho được? Ấy, mấy
cái lăng nhăng của đàn ông rồi cũng
chỉ quy về một.
Thế mấy cái lăng nhăng của đàn
bà? Chắc tỉ số dính vào
rượu, vào trà của đàn bà
không cao bằng đàn ông! Dính
vào đàn ông? May thay cũng
đến một số tuổi nào đó ông trời
làm công việc chấm dứt giùm cho họ.
Thôi thì đàn ông,
đàn bà chúng mình
chừa được cái gì thì chừa.
Chừa để không tái phạm:
Nhớ ai như nhớ bà nhà,
Vừa chôn bà ấy xuống,
Lại vời bà khác lên.
Tôi thích đọc Kinh Thánh
để tìm trong đó một gương sống. Chẳng
hạn, muốn chừa một tật xấu, phải dứt khoát
từ bỏ nó, tôi lấy chuyện nàng Lốt
trong Cựu Ước ra làm gương. Số là để trừng
phạt một thành phố sống trong tội lỗi, Chúa
gởi Thiên Thần xuống cứu với điều kiện tìm
cho được một vài gia đình tốt trong thành
phố, tìm mãi chỉ có một gia đình,
Chúa đành phá hủy thành
phố đó. Để cứu gia đình này, Thiên
Thần đem họ ra khỏi thành phố và dặn tất cả
mọi người trong gia đình khi đi ra khỏi thành
phố, không vì cớ gì mà quay đầu
nhìn lại. Vừa ra khỏi thành phố, nghe tiếng động
ầm ầm sau lưng, nàng Lốt, con dâu của gia đình,
quay đầu nhìn lại liền bị hóa muối chết tại chỗ.
Thế, chỉ cần do dự, hoang mang một chút là đi trệch
ra khỏi đạo! Nhưng, một khi bước cho được một bước đầu vượt thắng
những yếu kém của mình, thì những bước
sau cứ thế mà theo bước đầu, không đến nỗi khó
khăn lắm!
Những người nghiện rượu, nghiện thuốc
lá, một giọt rượu cũng phải tránh
xa, một làn khói cũng phải tránh
ngửi. Thế thì đàn bà? Một làn
hương cũng phải cố quên. Nhắc đến chữ quên,
tôi nhớ đến chữ quên của Trang Tử trong chương
14- Thiên vận: "Làm con, kính trọng
cha mẹ dễ hơn là thương yêu cha mẹ; thương yêu
cha mẹ lại dễ hơn quên cha mẹ; quên cha mẹ
lại dễ hơn làm sao cho cha mẹ quên mình;
làm sao cho cha mẹ quên mình lại dễ
hơn mình quên hết được thiên hạ, quên
hết được thiên hạ lại dễ hơn là làm sao
cho thiên hạ quên mình..."
Ấy, quên đàn bà thì
dễ, nhưng làm sao để cho đàn
bà quên mình mới là
khó, mới là xứng là bậc anh hùng.
"Yêu ai yêu cả cuộc đời"
Khi người ca sĩ ngân đến chữ "đời,"
hình như họ muốn ngân dài đến
vô tận. Tôi vẫn thầm nghĩ: "vẽ chuyện,"
chỉ có các nhà văn-thơ-nhạc khéo
bịa. "Lụy ai lụy cả cuộc đời!" thì đúng
hơn. Tôi thầm mong có một luật lệ nào
đó cho phép, lấy ai, chỉ được phép
lấy mười năm, sau đó muốn tiếp tục ở với nhau, khải
ký giấy lại; khi đó, e mọi người thở phào!
... còn con cái? Chuyện hậu xét.
Lấy ai lấy cả cuộc đời, họ tưởng còn dư thì
giờ nhiều quá, họ sinh con đẻ cái bất kể giờ giấc,
đến 50, 60, 70 vẫn còn sinh. Thế thì khi chỉ
có mười năm để sống chung, họ sẽ cẩn thận hơn.
Ở cuối thế kỷ 20, khi nhu cầu nào
cũng được xem là tối khẩn thiết thì
chuyện "yêu ai yêu cả cuộc đời," nghe
như chuyện cổ tích "cô bé quàng
khăn đỏ," chẳng còn ai buồn nghe. Nhu cầu
tối khẩn thiết: nhu cầu ăn. Chẳng ai để người qua đường đói
nằm bên lề đường mà không cho ăn.
Nhu cầu tối khẩn thiết: nhu cầu yêu. Chẳng ai lên
án người yêu điên cuồng, yêu
đến độ đổi cả mạng sống của mình để thỏa mãn
nhu cầu yêu thương chốc lát, người ta chỉ
tỏ lòng thương xót, và cả xã hội
ra tay cứu chữa họ. Chẳng còn ai đặt câu hỏi
vì sao. Thế thì hôm nay tôi kể bạn
nghe chuyện "yêu ai yêu cả cuộc đời," bạn
còn kiên nhẫn để nghe?
Chắc là không. tôi
đoán trước mà! Bạn sẽ thích:
Roméo và Juliette.
Carmen.
Bà Butterfly.
Trà hoa nữ.
Yêu đi, rồi chết, có gì
đâu mà phải sợ! Bạn đâu có
muốn ở trong chùa gặm nhắm mối tình
thiên thu, trong lăng tẩm khóc quân
vương suốt đời. Nhưng giả dụ không chết được, bạn
có muốn có một người để thương để nhớ?
Và đố bạn, khả năng yêu của giới nào mạnh
hơn, chung tình hơn?
Đối với bạn, câu hỏi này
dễ quá nhỉ? Tôi cũng sẽ trả lời
như bạn: "Của đàn ông."
Đàn ông chung tình?
Đúng! Họ chung tình, họ kiên
trì, họ không bỏ cuộc; chứ đàn
bà, rồi ra đến một giai đoạn nào đó
trong cuộc đời, họ sẽ bỏ cuộc.
Khả năng yêu của đàn ông
mạnh hơn? Điều đó không chối cãi:
Con người là tạo vật tổng hợp gồm thân
xác, tinh thần và ý chí,
mọi cảm xúc đều phải được thân xác
chuyên chở. Mà kích thích
tố nam vẫn là một kích thích tố mạnh
mẽ và quyết định. sức yêu của đàn ông
là sức sáng tạo của thế giới, sức biến hóa
của cuộc đời, và cũng là sức hủy diệt của
cuộc đời. Còn sức yêu của đàn bà
chỉ là sức tiếp nhận, nhiều lúc lại là
thụ động ... và rốt cùng, thu gọn vào nhiệm
vụ chuyên chở ... Ồ! Tôi không kéo
bạn đi xa trong cuộc tranh luận này.
Yêu mộng mơ, yêu tha thiết,
yêu mặn nồng ... chỉ có đàn
ông mới có khả năng yêu như
vậy. Tôi vẫn bảo tạo hóa khéo bất
công: khi cho đàn bà lên thiên
chức làm mẹ, tạo hóa đã tước mất
khả năng yêu của họ. Yêu thương giờ đây
là yêu vờ, yêu vỉnh; mọi tình
yêu họ đã dồn qua cho đứa con, để đứa
con có khả năng làm tiếp công việc tạo
hóa trao cho: khả năng yêu!
Tôi biết bạn đang thầm nghĩ tôi
kỳ thị nam nữ, có mặc cảm tự ti. Vâng,
tôi biết, bôn ba cũng không qua
cách con tạo xoay vần! Chuyện gì người xưa
cũng đã từng nói, này nhé, bạn
mở quyển kinh dịch ra, ở quẻ thứ 28. Người xưa đã
nói:
"Khô dương sinh hoa, lão
phụ đắc kì sỉ phu vô cữu, vô
dự.
Khô dương sinh đề, lão phu đắc
kì mỉ thê vô bất lợi."
Cây dương khô ra hoa, bà
cụ già có người bạn trẻ, không
chê không khen.
Cây dương khô đâm rễ mới,
cụ ông lấy được cô gái trẻ, không
phải là không lợi.
Cây ra hoa cuối mùa làm
sao bằng cây đâm rễ mới! Bạn đã
thấy những nụ hoa cuối mùa trong khu vườn
đã tàn úa chờ những ngọn gió
đông, buồn biết chừng nào! Bạn cũng
đã thấy cây đâm rễ mới vào mùa
xuân, có gì ngăn được sức sống của
nó!
Trên thế giới này, có
bao nhiêu cặp "khô dương sinh hoa,"
tôi chỉ biết vài cặp lừng danh:
Edith Piaff và Sarapo.
Marguerite Duras và Yann Andréa.
Colette và Bertrand de Jouvenel.
Bà Simone và Alain Fournier.
Còn "khô dương sinh đề,"
thì e là một danh sách bất
tận, bắt đầu có lẽ là người ở bên
cạnh bạn! Chẳng thế mà ngạn ngữ do-thái
có câu: "Cám ơn Thượng đế đã
cho tôi sinh ra là đàn ông."
Có thế, mới có thể "yêu
ai, yêu cả cuộc đời," yêu mặn nồng,
yêu tha thiết.
Bây giờ, mời bạn, định nghĩa chữ
"ai" giùm cho tôi.
Lan Nguyễn
1995
Nhưng, phải là Tản Đà,
thì mới nói hết cái ý "muộn", và "tàn
nhẫn" của... đàn bà:
Vàng bay mấy lá, năm hồ
hết
Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng!
Bản tiếng Việt của HH, bỏ qua cái
muộn, trong từ late, nhưng lại quá
chú trọng vào cái
mid, và được hiểu theo nghĩa ngần ngại, không
theo nghĩa hờ hững, nửa vời.
Note: Bài thơ này, mở ra tập thơ
mới ra lò của Charles Simic, Nguệch ngoạc
trong đêm, Scribbled
in the Dark, thật khó chuyển qua tiếng
Mít.
Thatch có nghĩa là lợp, như lợp
mái nhà.
Tôi lợp tôi bằng những từ, đêm
này tiếp đêm nọ, tôi lợp tôi,
lại một cách, anew, chống lại cục tẩy treo
lửng.
Bài thơ, và cả tập thơ, hình
như là 1 ứng tác, improvisation,
ý của Borges, khi ông cám
ơn ông trời, "cà chớn như GCC", [God,
who with such such splendid irony], cho ông
cả 1 thư viện của thế gian, và cùng lúc,
sự mù lòa!
No one should read self-pity or reproach
into this statement of the majesty
of God, who with such such splendid irony
granted me books and blindness in one touch.
Care of this city of books he handed over
to sightless eyes, which now can do no more
than read in libraries of dream the poor
and senseless paragraphs that dawns deliver
to wishful scrutiny. In vain the day
squanders on the same eyes its infinite tomes,
as distant as the inaccessible volumes
that perished once in Alexandria.
From hunger and from thirst (in the Greek story),
a king lies dying among gardens and fountains.
Aimlessly, endlessly, I trace the confines,
high and profound, of the blind library.
Cultures of East and West, the entire atlas,
encyclopedias, centuries, dynasties,
symbols, the cosmos, and cosmogonies
are offered from the walls, all to no purpose.
In shadows, with a tentative stick, I try
the hollow twilight, slow and imprecise—
I, who had always thought of Paradise
In form and image as a library.
Something, which certainly is not defined
by the word fate, arranges all these things;
another man was given, on other evenings
now gone, these many books, He too was blind.
Wandering through the gradual galleries,
I often feel with vague and holy dread
I am that other dead one, who attempted
the same uncertain steps on similar days.
Which of the two is setting down this poem—
A single sightless self, a plural I?
What can it matter, then, the name that names
me,
given our curse is common and the same?
Groussac or Borges, now I look upon
this dear world losing shape, fading away
into a pale uncertain ashy-gray
that feels like sleep, or else oblivion.
Note: Bài thơ này Tin Văn đã
có bản tiếng Mít, nhưng chưa kiếm
ra được!
Trong bài Tuổi
Thiên Đường, anh có nhắc về Schulz,
và có dịch một đoạn nhỏ của bài
Age of Genius . K xin tách bài này
làm hai : Tuổi Thiên Đường và Tuổi
Thiên Tài . Tuổi thiên đường chỉ
nói về NQT thôi, và Tuổi Thiên
Tài sẽ nói về Schulz . Bài
trong NY hay quá, K sẽ gắng dành chút
thì giờ ra dịch hết ( 22 trang!) để bổ túc
cho bài Age of Genius anh dịch dở dang .
Note:
Đây là cái bản gốc, nhờ nó,
vị chủ nhân trang art2all đành bỏ
chút thì giờ dịch trọn bài trên
NY của David Grossman.
(1) Ui chao
bạn có nhớ cái đoạn TTT kể
chuyện lần đầu tiên đọc MT, và
sau đó, mời MT tới tòa soạn chơi, và
MT tâm sự, anh mà chê nó,
là tôi bỏ cái mộng “đành
làm” nhà văn, “đành” đi buôn!
Ui
chao, đọc một cái là Gấu nhớ đến cái
lần gửi bản thảo truyện ngắn đầu tay xuống
tòa soạn Sáng Tạo, và một buổi
tối, tới nhà, nghe Cụ C. nói, mày
viết truyện ngắn hả, tao nghe thằng T nói, mà
nó còn nói, mày viết được
lắm....
*
Gấu
có tới ba cái truyện ngắn đầu tay.
Tếu thế. Mỗi truyện là một thời kỳ, thời
đại, theo kiểu của Picasso, thời xanh, thời hồng, thời
lập thể… Thế mới ghê!
Truyện
ngắn thực sự đầu tay, tính theo dòng
thời gian, Gấu bây giờ cũng chẳng thể nhớ
tên, đăng trên tuần báo Mã Thượng,
của tay Trịnh Vân Thanh, trang VHNT do Huỳnh
Phan Anh đứng đầu tầu, khoảng 1961. HPA khoái truyện
này lắm. Đúng giọng tiểu thuyết mới, đúng
giọng Tel Quel, theo nghĩa, chẳng có cái chó
gì hết ở trong đó.
Quả
thế thật. Đây là câu chuyện
mà Gấu còn nhớ đại khái, một
bữa chủ nhật, Gấu mò đến nhà em chơi,
em mời ngồi bàn, ở hành lang căn nhà,
một tòa biệt thự nơi đường Trần Quang Khải. Thế
rồi em ngồi cũng gần đó, nhặt rau, Gấu ngồi nhìn
em nhặt rau mà cứ nghĩ mình là những
cọng rau. Rồi ngồi lâu quá, em cũng nhặt
rau xong, thế là về. Bữa đó trời mưa. Ra đường,
đứng ngay cổng nhà, nhìn mưa, nhìn phố
xá, nhìn người qua lại, Gấu lẩn thẩn tự hỏi:
Tại
sao trời mưa?
@ Indigo, 30 Oct 2014
Nostalgia for the Present
At that very instant:
Oh, what I would not give for the joy
of being at your side in Iceland
inside the great unmoving daytime
and of sharing this now
the way one shares music
or the taste of fruit.
At that very instant
the man was at her side in Iceland.
-A.S.T.
J.L. Borges
Hoài nhớ hiện tại
Vào cái khoảnh khắc rất khoảnh khắc
này
Ôi sung sướng làm sao
Nếu có em kế bên ở tiệm cà
phê Starbucks
Trong cái buổi sáng lớn lao không
chuyển động
Và chia sẻ điều này, bây
giờ,
Cách người ta chia sẻ âm nhạc
Hay vị trái cây
Vào cái khoảnh khắc rất khoảnh khắc
đó
GCC thì ngồi với em ở 1 tiệm cà
phê Starbucks ở Tiểu Sài Gòn.
Note: Bài thơ này, đúng
là ý của Brodsky, thơ là
thời gian được cấu trúc lại, cái gì
gì, "giọt mưa Trời khóc từ ngàn
năm trước, sao lúc này lại ướt trên
lưng bàn tay GCC?"
Nhưng, kỳ lạ thay, cái hoài nhớ hiện
này, chính là ý của
Nguyễn Du, khi ông viết, nhớ đại khái,
mai sau dù có bao giờ, đốt lò
hương cũ, so lại sợi giây đờn này.
Khi dịch từ Everness, của Borges, GCC chôm
đại Nguyễn Du, không ngờ thật đắc địa.
Everness, là từ Borges chôm, để thay
cho từ eternity. Trong Borges Tám Bó,
ông đi 1 đường thần sầu về từ này.
There is also that wonderful word invented by Bishop
Wilkins in the seventeenth century, a word so fine
that no poet has ever dared to use it. He invented
two words. One, everness, and
I was bold enough to use that as the title for a sonnet of mine,
"Everness." Because everness is better than eternity.
It goes with the German Ewigkeit. Then another word like
doom, a word far better than that line I
like so much in Dante:
Lasciate ogni speranza voi ch'entrate "Abandon all
hope you who enter here."
[Bài
thơ này, TTT cũng đã từng
dịch.
Bạn nào còn giữ được, thêm
vô đây, làm thế chân
vạc.
Thi sĩ còn viết tựa Tựa
cho tập thơ của Trần Lê
Nguyễn,
cũng có tên như của Prévert.
NQT] Thơ
Mỗi Ngày
J'ai cueilli ce brin de bruyère L'automne est morte
souviens-t'en Nous ne nous verrons
plus sur terre Odeur du temps brin de
bruyère Et souviens-toi que
je t'attends
The Farewell
I picked this fragile sprig of heather
Autumn has died long since remember
Never again shall we see one another
Odor of time sprig of heather
Remember I await our time together
Rainer Maria Rilke is one of
the great poets of the twentieth
century. He's also one of the most popular.
He's been translated again and again, as if some ideal
English version of his German poems haunted so many minds
that writers have had to keep trying to find it. Here,
for the time of year, are some translations of a poem about
the fall. He wrote it in Paris on September 21, 1902.
Rilke là 1 trong những
nhà thơ lớn của thế kỷ 20.
Ông cũng là 1 nhà thơ
phổ thông. Ông được dịch đi dịch lại,
như thể, những bài thơ tiếng Đức của ông
ám ảnh rất nhiều cái đầu, và
những nhà văn phải cố tìm cho thấy nó.
Đây là bài thơ cho mùa
thu năm nay, với cả 1 lố bản dịch.
Note: Bài viết
sau đây, của Bùi Giáng,
về bài Mùa Thu Chết, trong
Đười Ươi Chân Kinh. Do không vô
được FB, và do Nestcape không cho post
images nữa, cho nên Tin Văn đành type
bài của BG. Thi sĩ kể, ông dịch bài
thơ như thế nào
Apollinaire
Ta đã hái nhành
lá cây thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi
L’adieu
J'ai cueilli ce brin de bruyère L'automne est morte
souviens-t'en Nous ne nous verrons
plus sur terre Odeur du temps brin de
bruyère Et souviens-toi que
je t'attends
Và nhớ nhé ta đợi
chờ em đó
Bài thơ vỏn vẹn chỉ có
năm câu. Năm câu phiêu hốt mang thiên nhiên
nằm giữa nền thi ca Tây Phương
Hiện Đại – năm câu cũng đồ sộ như toàn
khối Đường Thi Trung Hoa hay mấy vần tứ tuyệt của
một Thôi Hộ
Ta đã hái nhành
lá cây thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng
được nữa
Mộng trùng lai không có
ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
\
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó…
Dịch làm sáu câu,
tôi có phần áy náy…
[suite]
Apollinaire: Alcools
Mùa thu bịnh
Mùa thu bịnh và
đáng mê làm
sao
Mi sẽ chết khi bão thổi qua những
vườn hồng
Khi tuyết xuống
Trong những vườn cây
Mùa thu đáng
thương, tội nghiệp
Chết trong cái màu trắng,
trong cái giầu sang
Của tuyết và của trái chín
Ở nơi cuối trời
Những cánh chim bồ cắt bay lượn
Bên trên những thuỷ thần già,
tóc xanh và lùn
chẳng bao giờ yêu
Ở nơi bìa rừng
Những con hươu thèm nhau, rền rĩ
Ui chao, mùa thu, mùa,
tôi mới yêu làm sao
Những tiếng thì thầm của nó
Những trái cây rụng xuống,
không ai hái
Gió và rừng đều thi nhau
khóc
Tất cả những giọt nước mắt, mùa thu,
lệ thu, từng chiếc, từng chiếc
Những chiếc lá con người dẫm lên
Một con tàu chạy
Và đời cứ thế mà trôi
đi.
~~oOo~~
Automne
Dans
le brouillard s'en vont un paysan cagneux
Et son bœuf lentement dans le brouillard
d'automne
Qui cache les hameaux pauvres et vergogneux
Et s'en
allant là-bas le paysan chantonne
Une chanson d'amour et d'infidélité
Qui parle d'une bague et d'un cœur que
l'on brise
Oh!
l'automne l'automne a fait mourir l'été
Dans le brouillard s'en vont deux silhouettes
grises
Apollinaire
Mùa Thu
Trong
sương mù, một người nhà quê đi, chân
liềng khiềng
Và con bò của anh ta lừng
khừng đi trong sương mù mùa
thu
Lấp ló trong lớp sương mù
là những thôn xóm
nghèo nàn và xấu hổ
Và
trong khi đi như thế, anh nhà
quê ư ử hát
Một bài tình ca và
sự không trung thuỷ
Nói về một cái nhẫn và
một trái tim mà người ta làm
tan nát
Ôi
mùa thu, mùa thu
làm chết đi mùa hè Trong sương mù
cập kè hai cái bóng
xám
Nguyễn Quốc
Trụ dịch
To K: Hai bài
về Thu, hình như bị bỏ sót,
trên trang NQT, trên art2all.
Was it in the smell of freshly baked bread
That came to greet you out of the bakery?
The sight of two girls playing with dolls
On the steps of a building blackened by fire?
In this city you might've seen once
In a dream or knew in another life,
This street calm as a sharpshooter
Taking his aim in the bright sunlight,
Perhaps at that woman turning a corner,
Pushing a baby carriage ahead of her,
You ran after, as if the child in it was you,
And found yourself lost afterwards
In a crowd of strangers, feeling like someone
Stepping out after a long illness
Who can't help but see the world with his heart
And hopes not to forget what he saw.
Điều khó nắm bắt
Mùi bánh nướng mới ra lò
Ở bên ngoài một tiệm nướng bánh
Chào mừng bạn?
Hai cô bé chơi đùa với búp
bế
Ở bực thềm tòa nhà nám đen vì
lửa?
Trong thành phố bạn có thể có
lần đã nhìn thấy
Ở trong một giấc mơ
Hay trong một đời khác
Con phố này mới êm ả làm sao
Khi tay thiện xạ chỉnh tầm ngắm của mình
Trong ánh mặt trời rực rỡ
Có lẽ anh ta nhắm người đàn bà
quẹo ở góc phố
Đẩy cái xe con nít trước bà
ta
Bạn bèn chạy vội theo
Như thể, đứa bé chính là bạn
Và đúng lúc đó, thấy
mình thất lạc, đời đời, sau đó.
Trong đám đông toàn người xa
lạ
Cảm thấy mình là 1 người nào
đó
Bước lại vào đời, sau trận đau dài
- những tám mươi năm –
Một anh già cằn không thể nào
không nhìn đời với trái
tim cù lần của mình
Bèn hy vọng, chẳng bao giờ quên
Đời này.
To: DS, "vẽ nqt"
and Tks
FAIR-WEATHER FRIENDS
Eddie with flowing locks, plus Joey and me,
Like Jesus and two thieves
Crucified side by side on the blackboard,
Our backs slumped in defeat
While awaiting our punishment.
The Lord took pity on them, wiped
Their souls clean with a sponge.
Not mine. I remained where I was
Holding on to a piece of chalk
Long after they had all gone home.
Night already fallen everywhere,
Hard to be sure what numbers
Still remain there to be added
Or subtracted or whether someone
Is watching as I give them a last try.
Bạn quí
Definition of fair–weather
1
: loyal only during a
time of success a fair–weather friend
2
: suitable for or done
during fair weather a fair–weather sail
Ông
chủ vựa than với mớ tóc lượn sóng,
Khô Khốc Thiền Sư, và Gấu Cà Chớn
Như
Chúa Jesus và hai tên trộm
Bị
đóng đinh thập tự kế bên nhau trên
tấm bảng đen
Lưng
sụm xuống, trong thất thế
Chờ
tới giờ trừng phạt
Chúa
hãy thương hại chúng
Rửa
sạch linh hồn chúng, với tấm bọt biển
Xin
lỗi Chúa 1 phát
Không
có GCC.
Thằng
chả ở đâu vẫn ở đó
Tay
khư khư mẩu phấn trắng
Lâu
thật lâu,
Trong
khi hai đấng bạn quí đã trở về nhà.
Đêm
xuống mọi nơi
Thật
khó mà nhớ được mấy con số
Chúng
vẫn còn đó
Con
nào thêm vô
Con
nào gạch bỏ
Hay
một người nào đó
Đang
theo dõi GCC
Khi
thằng chả cố gắng thử cú chót.
Volkov. When you write
poetry, are you addressing some assumed
audience?
Brodsky. You know, how did
Stravinsky answer a similar question? I
believe Robert Craft asked Stravinsky, "Who do
you compose for?" And he replied, "For myself
and for my hypothetical alter ego." That's it.
Volkov. In your case, does
this hypothetical alter ego speak Russian?
Brodsky. The hell if I know.
That’s his business
Khi
làm thơ, bạn nhắm thứ thính/khán/độc giả nào?
Bạn biết Stravinsky trả lời
sao không? Được Robert Craft phỏng vấn, soạn nhạc cho ai, ông
ta trả lời, cho chính
tôi và tên thế thân
giả dụ của tôi.
Chuyện đời chúng
ta, hai hãi và hài
hài
Như mặt nạ con nít mang ngày
Hội Ma
Khi chúng đi từ nhà này
qua nhà khác
Đứa lớn dắt đứa bé
Trong một lối xóm, hoang tàn,
từ hồi nảo hồi nào
Khi mọi người dùng bữa tối
Trong im lặng giận dữ, hay cãi
nhau ỏm tỏi
Có tiếng gõ cửa nhè
nhẹ
Như khều khều, gãi gãi,
Của 1 đứa bé cả thẹn
Mặc bộ đồ má nó may
Mi mặc thứ chi kỳ quá, thằng cu
Tí?
Và, tiện thể, mi lấy ở đâu
ra cái mặt nạ đó?
Làm mọi người bật cười hô
hố
Trong khi bạn đứng nhìn chúng
tôi
Như thể bạn biết,
từ thuở "xưa rồi Diễm ơi",
chúng ta là... chuyện
Note: GCC dùng Ipod
chôm bài thơ trên,
tính không mua. nhưng lật lật,
thấy được quá, bèn...
One thing
does not exist: Oblivion. God saves
the metal and he saves the dross, And his
prophetic memory guards from loss The moons
to come, and those of evenings gone. Everything is:
the shadows in the glass Which,
in between the day’s two twilights, you Have scattered
by the thousands, or shall strew Henceforward
in the mirrors that you pass. And everything
is part of that diverse Crystalline
memory, the universe; Whoever
through its endless mazes wanders Hears door
on door click shut behind his stride, And only
from the sunset’s farther side Shall view
at last the Archetypes and the Splendors.
Translated from Spanish by Richard Wilbur
This poem was given me by Jacques Felix, in his
comment to my previous post on Borges'
The Immortal. It bears the
mark of Borges, all right. The first line unlocks the
door into the Borgesian universe.
Oblivion does not exist, because the universe
is a memory, a consciousness. We are parts of the universe, meaning we are
the universe itself, and are expressions of that memory, that consciousness.
"Everything is".
The blankness of oblivion is mirrored by the sparkly,
shiny image of the stars and moon,
by mirrors themselves, and by crystal - "[a]nd
everything is part of that diverse / Crystalline
memory, the universe".
And the last line brings back the everness: the
Archetypes and the Splendors.
This poem is so simple yet so intricate and deep.
Time is nowhere - the universe is a
memory, a consciousness.
Note: Bài thơ này, Tin Văn đã
post & dịch cái tít là
"Mai sau dù có bao giờ", thuổng Nguyễn
Du. Thú vị là thi sĩ Nguyễn Bắc Sơn, cũng
có 1 bài thơ, sử dụng cụm từ Mai sau dù
có bao giờ. Post sau đây, bonus cái
note của Norman Thomas Di Giovanni, về từ Everness
Mai sau dù có bao giờ
Nguyễn Bắc Sơn
Đêm Phù Cát dù bên
ngoài trời rất lạnh
Nhưng trong ngôi nhà tranh của thiếu
úy Hồ Bang
Có tình bạn nồng nàn như rượu
chôn nhiều năm dưới đất
Có câu chuyện tình thi vị mang
mang
Vì đàn bà người nào cũng
như người nấy
Nên ta bảo mình thôi hãy
quên em
Nhưng đàn bà đâu phải người nào
cũng như người nấy
Nên suốt đời ta nhớ nhớ quên quên
Có khi nghĩ trời sinh một mình ta là
đủ
Vì đám đông quậy bẩn nước hồ đời
Nhưng lại nghĩ trời sinh thêm bè bạn
Để choàng vai ấm áp cuộc rong chơi
Dù mỗi ngày ta xé đi năm mười
tờ lịch
Nhưng thời gian đâu có chịu trôi
nhanh
Dù đen bạc là nơi cố xứ
Nhưng đi biền biệt cũng không đành…
EVERNESS, p. 187
The word "everness" was coined by John Wilkins, the
seventeenth-century English churchman and inventor
of a universal philosophical language.
The title of the companion sonnet, "Ewigkeit," is
German for "eternity. "
Không làm sao kiếm thấy bản tiếng Mít!
The City
At least one crucified at every comer.
The eyes of a mystic, madman, murderer.
They know it's truly for nothing.
The eyes do. All the martyr's sufferings
On parade. Exalted mother of us all
Tending her bundles on the sidewalk,
Speaking to each as if it were a holy child.
There were many who saw none of this.
A couple lingered on kissing lustily
Right where someone lay under a newspaper.
His bloody feet, swollen twice their size,
Jutted out into the cold of the day,
Grim proofs of a new doctrine.
I tell you, I was afraid. A man screamed
And continued walking as if nothing had happened.
Everyone whose eyes I sought avoided mine.
Was I beginning to resemble him a little?
I had no answer to any of these questions.
Neither did the crucified on the next comer.
Thành Phố
Ít nhất một người bị đóng đinh thập
tự ở mọi góc phố.
Những con mắt của một kẻ thần bí, một gã
khùng, tên sát nhân.
Họ biết, ích chi đâu.
Ánh mắt nói lên điều đó.
Mọi khổ đau của kẻ tuẫn nạn
Diễu hành
Bà mẹ, huyền thoại, được tâng bốc,
của tất cả chúng ta
Nâng niu những gói, bọc bên
lề đường
Nói với chúng, như với 1 đứa bé
thần thánh
Rất nhiều người chẳng nhìn thấy cảnh đó
Một cặp dính chặt vào nhau
Ngay chỗ 1 người nằm trên một tờ báo
Chân, máu me, trương gấp đôi
Lòi ra ngoài, vào cái
lạnh của ngày
Chứng cớ tàn nhẫn của một lý thuyết
mới
Tớ nói cho bạn nghe này, tớ sợ.
Một người đàn ông la lớn
Và tiếp tục bước, như chẳng có gì
xẩy ra
Bất cứ một ai, ánh mắt của tớ bắt gặp, thì
đều tránh, ánh mắt của tớ.
Liệu chăng, tớ bắt đầu giống anh ta, tí
tí?
Tớ không làm sao trả lời, cho bất
cứ 1 câu hỏi
Cái gã bị đóng đính
ở góc phố tới, cũng không.
Charles Simic:
from Hotel Insomnia, in
New and Selected Poems [1962-2012]
Monday comes around with a new tattoo
It won't show us and here's Tuesday
Walking its latest nightmare on a leash
And Wednesday blind as the rain tapping
On a windowpane and Thursday sipping
Bad coffee served by a pretty waitress
And Friday lost in a confusion of sad
And happy faces and Saturday flashing
Like a pinball machine in the morgue
And Sunday with a head of crucified Christ
Hanging sideways in a bathroom mirror
Tuần
Thứ hai mò tới với vết xâm mới
Nó đếch cho chúng ta coi
Và đây là Thứ Ba
Dẫn cơn ác mộng sau chót nhất của
nó di lòng dòng, on a leash.
Và Thứ Tư mù, như mưa gõ lên
kính cửa sổ
Thứ Năm nhấp cà phê, thứ dở như hạch
Được 1 em bồi bàn, xinh ơi là xinh,
phục vụ
Thứ Sáu ư?
Thất lạc trong cơn lầm lẫn giữa
Những khuôn mặt buồn, hạnh phúc
Thứ Bảy, nháy 1 phát
Như cái “pinball machine” trong nhà
xác
Chúa Nhật với cái đầu của Chúa
Ky Tô đóng đinh thập tự
Treo ne né trên tấm gương trong phòng
tắm.
TO BOREDOM
I' m the child of rainy Sundays.
I watched time crawl
Like an injured fly
Over the wet Windowpane.
Or waited for a branch
On a tree to stop shaking,
While Grandmother knitted
Making a ball of yarn
Roll over like a kitten at her feet.
I knew every clock in the house
Had stopped ticking
And that this day will last forever.
Gửi Chán Chường
Tớ là đứa trẻ của những ngày Chủ
Nhật mưa
Ngắm thời gian bò
Như con ruồi bị thương
Trên kính cửa sổ ướt
Hay đợi một cành cây
Ngừng run rẩy
Trong lúc Bà của tớ đan
Một trái banh
Lăn như một con mèo
Dưới chân Bả
Tớ biết mọi cái đồng hồ trong nhà
Chúng đều ngưng
Vào đúng ngày hôm đó
Một ngày ngày vô cùng,
Nghĩa là, chẳng bao giờ chấm dứt.