|
Thơ
Mỗi
Ngày
ÓNG
ÁNH HƯ NGỤY
Mỗi phen cầm bút viết
về văn chương — làm một thứ văn chương trên văn
chương — tôi hiểu rõ mình đang sống thời buổi
khủng hoảng. Văn chương nhất thiết là hồn nhiên, ngây
thơ hay không, tôi chẳng rõ. Nhưng đối với tôi
khi nó cần trông thấy nó qua phản ánh của
nó, không thể phủ nhận là nó đang truỵ
lạc, sa đoạ. Nhất là buồn bã.
Mỗi phen, tôi đều lập lại với tôi
khẩu hiệu: Enfin, j’écris. Enfin, đó là tín
hiệu của người bạn thân phát ra giúp tôi
nhận biết anh ta bắt đầu say. Trong cuộc rượu của chúng tôi
đã tới một thời điểm gay cấn, hãy nhận Enfin, báo
động cho bạn bè, những kẻ ngồi chung cuộc, rằng: bất ổn, bất
ổn, chán quá, chán quá, tôi
quyết định đẩy cơn say đến cùng, đánh đắm mình
vào mông lung, mù mờ, hỗn độn. Như Hamlet kêu:
“The time is out of joint” (Thời gian đã ly tán).
Như Hamlet, chẳng còn hiểu đời sống, hươi gươm đâm chết
nàng Ophélia. Cơn khùng điên óng
ánh những mảnh minh trí vỡ nát, những mảnh sao
băng miệt mài, không một giây đốn ngộ, từ khước
đốn ngộ — chẳng thể ôm ấp đời sống mênh mông vô
hạn. Đó định mệnh của văn chương trên văn chương, nỗ
lực soi rọi mù mờ bằng những ánh mù mờ, nỗ lực kết
tập thời ly tán bằng những đun đẩy ly tán.
Enfin, j’écris. Enfin, je crie.
Thảm thiết chưa, cũng lố bịch chưa, văn chương
kêu la tắt tiếng trên văn chương. Văn chương soi
bóng làm bộ làm tịch trước văn chương. Mỗi
phen tôi đều nổi da gà, nhờm tởm, thấy mình
đang đóng vai chủ chứa trong tấn kịch Bao Lơn (Le Balcon) của
Genet. Trong nhà chứa của mụ này, mỗi phòng
được bài trí một kiểu dành riêng cho một vai
nhất định mà khách chuộng đóng — tu sĩ, tướng
lãnh, quan toà, cách mạng — với đầy đủ y trang
và các thứ phụ tùng cần thiết để đóng
trò — mọi trò điển hình của dục tính
thác loạn — nữ nhân là phụ tùng thiết
yếu, nhưng phòng nào cũng có gắn gương để cho
các đương sự có thể nhìn ngắm mà sửa bộ.
Ngôi nhà chứa ở trong một thành
phố dấy loạn. Và trên bao lơn của nhà chứa,
khách làng chơi và gái giang hồ dẹp
loạn.
TTT: Âm Bản
Note: The time is out of joint.
TTT dịch là thời gian ly tán. Theo GCC, có
lẽ nên dịch là, thời gian "long, lệch bản lề", joint là mối nối,
bản lề.
Để hiểu từ này, có lẽ cũng nên hiểu thêm
ý niệm "ngoài thời", từ này chỉ thời gian Levi
rong chơi nơi địa ngục.
Cuốn La Tregua xuất bản tại Mỹ có
cái tên "lạc quan" Lại Tỉnh Thức (The Reawakening), trong
khi nhan đề tiếng Ý đề nghị hoặc từ Truce (Hưu chiến), hay Respite
(Giải lao), cuốn sách chấm dứt rõ ràng như vậy,
bởi vì những ngày tháng lang thang vùng
Đông Đức của Levi là một "ngoài-thời" (a kind of
"time out"), giữa Auschwitz-như-kinh nghiệm và Auschwitz-như-hồi
nhớ. Cuốn sách khép lại với tiếng kẻng báo thức,
đúng ra là tiếng hô buổi sáng của trưởng trại
Auschwitz: Thức dậy! (Wstawach!).
LE POÈTE
MAUDIT
“Tôi viết
chỉ bởi lẽ tôi không thể nào làm khác.”
(Je n’écris que parce que je ne puis faire autrement) và
“Đáng nguyền rủa thay con tim không biết đường tự chế.”
(Maudit soit le coeur qui ne sait se contenir — "Penthésilée").
Đó là những lời than thở của Kleist, đối cực của Goethe.
Tôi tự hỏi còn không cái tông
giống thuần khiết kia? Gương mặt ngửng cao dưới bầu trời giông
bão, trán hứng nhận sấm sét và cất giọng
gào ca một điệp khúc hân hoan thịnh nộ của con người,
ganh đua cùng trời đất quỷ thần. Quả nhiên là cái
tông giống đáng nguyền rủa, dập vùi. Đáng
nguyền rủa cái hào quang của tuyệt vọng, đáng dập
vùi cơn đam mê khốn cùng của một tông giống.
Keats hát: “Hạnh phúc thay ở trần gian này
lại còn có nấm mồ (Je suis heureux qu’il y ait ici
bas une chose telle que la tombe).
Nhưng còn không, còn không những
vầng trán hiền lộng mênh mang của một cõi ngoài,
những cửa miệng há mở cho nhảy thoát con tim đỏ ối,
những đôi mắt căng banh dập dồn ánh lửa uy linh một đời
khác? Còn không một tấm lòng trinh bạch?
Còn không chút thơ ngây dại dột, chẳng làm
tuồng?
Nhận chịu bị nguyền rủa (không phải được bị nguyền
rủa) - chẳng hiểu sao, bởi không thể khác — như con chim
thất lạc giữa mùa đông băng giá, cất tiếng kêu
thảm thiết gọi nắng, gọi hoa và đợi chết? Chim bị nguyền rủa,
chẳng nguyền rủa. Còn không? Còn không?
Dường như sau buổi tân hôn bi tráng của
Kleist, tắm đượm niềm hoan lạc phi thường — Tử thần lẫm liệt uy nghi
đã bị Kleist nặn thành tượng trưng bày — cái
tông giống kia không thể tồn tại bởi không thể vượt
hơn. Hãy nghe Kleist viết thư từ biệt cô em gái:
“Que le ciel t’accorde une mort qui ressemble, ne fûtce
qu’à moitié, à la mienne en joie et en sénérité;
c’est le voeu le plus sincère et le plus tendre que je puisse
former pour toi.”
(Cầu trời ban cho em một cái chết hân hoan
và thanh tịnh giống như cái chết của anh, bằng phân
nửa thôi cũng được; đó là lời cầu chúc chân
thành nhất, âu yếm nhất mà anh dành cho
em.)
Chàng thơ ấy bình thản nhìn lần cuối
mớ bản thảo của chàng, một quyển tiểu thuyết đã hoàn
tất, hai vở kịch - tất cả giông tố mê mải của hồn chàng
đó — nhưng bấy giờ lặng thinh mọi tham vọng — không ai
màng những của nợ ấy và chính chàng cũng
chẳng còn thiết (... J’ai cru savoir. Je savais toujours. Je
sais peut-être mais personne ne veut ce secret et je n’en veux pas
moi-même. Tôi từng tưởng biết. Tôi hằng vẫn biết. Bây
giờ có lẽ tôi biết nhưng không một ai màng
đến điều thầm kín ấy và ngay chính tôi, tôi
cũng chẳng thiết — Camus — Trở Lại Tipasa). Và chàng thiêu
huỷ đống giấy lộn kia (như Gogol, Kafka). Chàng viết gửi nhà
chức trách bản tường thuật diễn tiến cuộc tự sát, mở đầu
bằng câu: “Chúng tôi nằm chết trên con lộ...”
Kleist với một người đàn bà xấu xí
bệnh hoạn và cũng cô đơn như chàng, thoả thuận
chết cùng chàng, hớn hở như đôi uyên ương
cùng rủ nhau đến Wannsee. Họ ngồi uống cà phê giữa
trời. Người ta còn nghe họ cười ròn tan, đi khuất vào
đồng cỏ. Đúng giờ đã ghi, hai phát súng nổ.
Kleist đã kề súng bắn vào trái tim của người
đàn bà đồng hội đồng thuyền rồi ngậm họng súng trong
miệng mình nổ phát thứ nhì. Tay chàng không
hề run rẩy.
“Tôi đã làm tất cả những gì thuộc
quyền năng của một người... Tôi đã thử thách đến
điều bất khả. Tôi đã mang đặt thời vận cuối cùng
của đời tôi trong một tiếng bạc. Mấy con xúc xắc định mệnh
đã thẩy lăn, tôi cố tìm hiểu... Tôi thua. (J’ai
fait tout ce qui est dans le pouvoir d’un homme... J’ai tenté l’impossible.
J’ai mis ma dernière chance dans un coup de dés. Les dés
fatals ont roulé, j’essaie de comprendre... J’ai perdu!) — “Penthésilée”.
Tôi thua! Tôi thua! Và “tôi nghĩ
tôi có quyền chết”.
Sau Kleist, không còn poète
maudit. Mọi người đều bị nguyền rủa, đều được nguyền rủa, đều cùng
nguyền rủa, đều tự nguyền rủa. Khốn khổ, thảm hại thay tuồng nguyền
rủa. Tuồng văn chương truỵ lạc đấy thôi. Coi kìa Dosoievski
đeo thánh giá, đọc diễn văn dưới chân tượng Pouchkine.
Henri Miller khoác áo mô phạm đứng trên bục
giảng đường thuyết pháp. Sartre từ khước Nobel, xuống đường tranh
đấu, tự đoạ mình trong tự do... Nhiều vô xiết kể. Tất cả
những người ấy, hết thảy những người — ít nhiều chăn nuôi
ảo tưởng của văn chương nghĩa lý đều đã mang giấc mộng tột
cùng / khốn cùng: trở thành maudit, đều từng đóng
các tuồng tích và đều trở thành hề. Không
chừa ai.
Đã tuyệt giống poète maudit.
Còn chăng là những chàng thơ bị ám toán,
“triệu triệu chúa Kytô có đôi mắt u sầu và
hiền hậu” (O, million de Christ aux yeux sombres et doux) (Rimbaud).
1973
TTT:
Âm Bản
Ui chao,
phải đến lúc sắp sửa, tí nữa, sẽ đi xa, thì Gấu
mới biết đến thơ, và mới nhập vô được dòng suy tư
của ông anh nhà thơ của GCC.
Món quà bonus, của Tên Trời Già
Khốn Kiếp, sau khi năn nỉ Gấu nhận món quà Lò
Thiêu.
Nhìn như thế, thì hai vị hộ pháp của trang
Tin Văn cũng có trong toan tính của Thằng Chả.
Một mình mi không làm nổi đâu, để
ta ban cho thêm hai vị phụ tá!
Đúng như thế.
Tiếng Pháp, tiếng Anh của Gấu, là thứ tự học, đầy lỗ hổng, quãng
đời đẹp nhất, thì hầu hạ Cô Ba, quãng đời còn
lại, ngắn ngủi quá, đọc ào ào, cái nào
không hiểu, cho qua luôn.
K chẳng đã có lần hỏi, bộ anh tính kiểm
tra tình trạng, khả năng tiếng Anh của tôi ư?
Thơ
Mỗi
Ngày
ÓNG
ÁNH HƯ NGỤY
Mỗi phen cầm bút viết
về văn chương — làm một thứ văn chương trên văn chương
— tôi hiểu rõ mình đang sống thời buổi khủng hoảng.
Văn chương nhất thiết là hồn nhiên, ngây thơ hay
không, tôi chẳng rõ. Nhưng đối với tôi khi
nó cần trông thấy nó qua phản ánh của nó,
không thể phủ nhận là nó đang truỵ lạc, sa đoạ.
Nhất là buồn bã.
Mỗi phen, tôi đều lập lại với tôi khẩu hiệu:
Enfin, j’écris. Enfin, đó là tín hiệu
của người bạn thân phát ra giúp tôi nhận
biết anh ta bắt đầu say. Trong cuộc rượu của chúng tôi đã
tới một thời điểm gay cấn, hãy nhận Enfin, báo động cho
bạn bè, những kẻ ngồi chung cuộc, rằng: bất ổn, bất ổn, chán
quá, chán quá, tôi quyết định đẩy cơn
say đến cùng, đánh đắm mình vào mông
lung, mù mờ, hỗn độn. Như Hamlet kêu: “The time is out
of joint” (Thời gian đã ly tán). Như Hamlet, chẳng còn
hiểu đời sống, hươi gươm đâm chết nàng Ophélia. Cơn
khùng điên óng ánh những mảnh minh trí
vỡ nát, những mảnh sao băng miệt mài, không một giây
đốn ngộ, từ khước đốn ngộ — chẳng thể ôm ấp đời sống mênh
mông vô hạn. Đó định mệnh của văn chương trên
văn chương, nỗ lực soi rọi mù mờ bằng những ánh mù
mờ, nỗ lực kết tập thời ly tán bằng những đun đẩy ly tán.
Enfin, j’écris. Enfin, je crie.
Thảm thiết chưa, cũng lố bịch chưa, văn chương kêu
la tắt tiếng trên văn chương. Văn chương soi bóng làm
bộ làm tịch trước văn chương. Mỗi phen tôi đều nổi da
gà, nhờm tởm, thấy mình đang đóng vai chủ chứa
trong tấn kịch Bao Lơn (Le Balcon) của Genet. Trong nhà chứa
của mụ này, mỗi phòng được bài trí một
kiểu dành riêng cho một vai nhất định mà khách
chuộng đóng — tu sĩ, tướng lãnh, quan toà, cách
mạng — với đầy đủ y trang và các thứ phụ tùng cần
thiết để đóng trò — mọi trò điển hình của
dục tính thác loạn — nữ nhân là phụ tùng
thiết yếu, nhưng phòng nào cũng có gắn gương để
cho các đương sự có thể nhìn ngắm mà sửa
bộ.
Ngôi nhà chứa ở trong một thành phố
dấy loạn. Và trên bao lơn của nhà chứa, khách
làng chơi và gái giang hồ dẹp loạn.
TTT: Âm Bản
Note: The time is out of joint.
TTT dịch là thời gian ly tán. Theo GCC, có lẽ nên
dịch là, thời gian "long, lệch bản lề", joint là mối nối,
bản lề.
Để hiểu từ này, có lẽ cũng nên hiểu thêm ý
niệm "ngoài thời", từ này chỉ thời gian Levi rong chơi nơi
địa ngục.
Cuốn La Tregua xuất bản tại Mỹ có
cái tên "lạc quan" Lại Tỉnh Thức (The Reawakening), trong
khi nhan đề tiếng Ý đề nghị hoặc từ Truce (Hưu chiến), hay Respite
(Giải lao), cuốn sách chấm dứt rõ ràng như vậy, bởi
vì những ngày tháng lang thang vùng Đông
Đức của Levi là một "ngoài-thời" (a kind of "time out"), giữa
Auschwitz-như-kinh nghiệm và Auschwitz-như-hồi nhớ. Cuốn sách
khép lại với tiếng kẻng báo thức, đúng ra là
tiếng hô buổi sáng của trưởng trại Auschwitz: Thức dậy! (Wstawach!).
LE POÈTE
MAUDIT
“Tôi viết
chỉ bởi lẽ tôi không thể nào làm khác.”
(Je n’écris que parce que je ne puis faire autrement) và
“Đáng nguyền rủa thay con tim không biết đường tự chế.” (Maudit
soit le coeur qui ne sait se contenir — "Penthésilée"). Đó
là những lời than thở của Kleist, đối cực của Goethe.
Tôi tự hỏi còn không cái tông giống
thuần khiết kia? Gương mặt ngửng cao dưới bầu trời giông bão,
trán hứng nhận sấm sét và cất giọng gào ca
một điệp khúc hân hoan thịnh nộ của con người, ganh đua cùng
trời đất quỷ thần. Quả nhiên là cái tông giống
đáng nguyền rủa, dập vùi. Đáng nguyền rủa cái
hào quang của tuyệt vọng, đáng dập vùi cơn đam mê
khốn cùng của một tông giống.
Keats hát: “Hạnh phúc thay ở trần gian này lại
còn có nấm mồ (Je suis heureux qu’il y ait ici bas une chose
telle que la tombe).
Nhưng còn không, còn không những vầng trán
hiền lộng mênh mang của một cõi ngoài, những cửa miệng
há mở cho nhảy thoát con tim đỏ ối, những đôi mắt căng
banh dập dồn ánh lửa uy linh một đời khác? Còn không
một tấm lòng trinh bạch? Còn không chút thơ
ngây dại dột, chẳng làm tuồng?
Nhận chịu bị nguyền rủa (không phải được bị nguyền rủa) - chẳng
hiểu sao, bởi không thể khác — như con chim thất lạc giữa
mùa đông băng giá, cất tiếng kêu thảm thiết gọi
nắng, gọi hoa và đợi chết? Chim bị nguyền rủa, chẳng nguyền rủa.
Còn không? Còn không?
Dường như sau buổi tân hôn bi tráng của Kleist,
tắm đượm niềm hoan lạc phi thường — Tử thần lẫm liệt uy nghi đã bị
Kleist nặn thành tượng trưng bày — cái tông giống
kia không thể tồn tại bởi không thể vượt hơn. Hãy nghe
Kleist viết thư từ biệt cô em gái:
“Que le ciel t’accorde une mort qui ressemble, ne fûtce qu’à
moitié, à la mienne en joie et en sénérité;
c’est le voeu le plus sincère et le plus tendre que je puisse former
pour toi.”
(Cầu trời ban cho em một cái chết hân hoan và
thanh tịnh giống như cái chết của anh, bằng phân nửa thôi
cũng được; đó là lời cầu chúc chân thành
nhất, âu yếm nhất mà anh dành cho em.)
Chàng thơ ấy bình thản nhìn lần cuối mớ bản thảo
của chàng, một quyển tiểu thuyết đã hoàn tất, hai
vở kịch - tất cả giông tố mê mải của hồn chàng đó
— nhưng bấy giờ lặng thinh mọi tham vọng — không ai màng
những của nợ ấy và chính chàng cũng chẳng còn
thiết (... J’ai cru savoir. Je savais toujours. Je sais peut-être
mais personne ne veut ce secret et je n’en veux pas moi-même. Tôi
từng tưởng biết. Tôi hằng vẫn biết. Bây giờ có lẽ tôi
biết nhưng không một ai màng đến điều thầm kín ấy và
ngay chính tôi, tôi cũng chẳng thiết — Camus — Trở
Lại Tipasa). Và chàng thiêu huỷ đống giấy lộn kia (như
Gogol, Kafka). Chàng viết gửi nhà chức trách bản
tường thuật diễn tiến cuộc tự sát, mở đầu bằng câu: “Chúng
tôi nằm chết trên con lộ...”
Kleist với một người đàn bà xấu xí bệnh hoạn
và cũng cô đơn như chàng, thoả thuận chết cùng
chàng, hớn hở như đôi uyên ương cùng rủ nhau
đến Wannsee. Họ ngồi uống cà phê giữa trời. Người ta còn
nghe họ cười ròn tan, đi khuất vào đồng cỏ. Đúng
giờ đã ghi, hai phát súng nổ. Kleist đã kề
súng bắn vào trái tim của người đàn bà
đồng hội đồng thuyền rồi ngậm họng súng trong miệng mình
nổ phát thứ nhì. Tay chàng không hề run rẩy.
“Tôi đã làm tất cả những gì thuộc quyền
năng của một người... Tôi đã thử thách đến điều bất
khả. Tôi đã mang đặt thời vận cuối cùng của đời tôi
trong một tiếng bạc. Mấy con xúc xắc định mệnh đã thẩy lăn,
tôi cố tìm hiểu... Tôi thua. (J’ai fait tout ce qui
est dans le pouvoir d’un homme... J’ai tenté l’impossible. J’ai
mis ma dernière chance dans un coup de dés. Les dés
fatals ont roulé, j’essaie de comprendre... J’ai perdu!) — “Penthésilée”.
Tôi thua! Tôi thua! Và “tôi nghĩ tôi
có quyền chết”.
Sau Kleist, không còn poète maudit.
Mọi người đều bị nguyền rủa, đều được nguyền rủa, đều cùng nguyền
rủa, đều tự nguyền rủa. Khốn khổ, thảm hại thay tuồng nguyền rủa. Tuồng
văn chương truỵ lạc đấy thôi. Coi kìa Dosoievski đeo thánh
giá, đọc diễn văn dưới chân tượng Pouchkine. Henri Miller
khoác áo mô phạm đứng trên bục giảng đường thuyết
pháp. Sartre từ khước Nobel, xuống đường tranh đấu, tự đoạ mình
trong tự do... Nhiều vô xiết kể. Tất cả những người ấy, hết thảy
những người — ít nhiều chăn nuôi ảo tưởng của văn chương nghĩa
lý đều đã mang giấc mộng tột cùng / khốn cùng:
trở thành maudit, đều từng đóng các tuồng tích
và đều trở thành hề. Không chừa ai.
Đã tuyệt giống poète maudit. Còn
chăng là những chàng thơ bị ám toán, “triệu
triệu chúa Kytô có đôi mắt u sầu và hiền
hậu” (O, million de Christ aux yeux sombres et doux) (Rimbaud).
1973
TTT: Âm
Bản
Ui chao, phải
đến lúc sắp sửa, tí nữa, sẽ đi xa, thì Gấu mới biết
đến thơ, và mới nhập vô được dòng suy tư của ông
anh nhà thơ của GCC.
Món quà bonus, của Tên Trời Già Khốn Kiếp,
sau khi năn nỉ Gấu nhận món quà Lò Thiêu.
Nhìn như thế, thì hai vị hộ pháp của trang Tin Văn
cũng có trong toan tính của Thằng Chả.
Một mình mi không làm nổi đâu, để ta ban cho
thêm hai vị phụ tá!
Đúng như thế.
Tiếng Pháp, tiếng Anh của Gấu, là thứ tự học, đầy lỗ hổng, quãng
đời đẹp nhất, thì hầu hạ Cô Ba, quãng đời còn
lại, ngắn ngủi quá, đọc ào ào, cái nào
không hiểu, cho qua luôn.
K chẳng đã có lần hỏi, bộ anh tính kiểm tra tình
trạng, khả năng tiếng
Anh của tôi ư?
A Struggle Against Suffocation
Chiến
đấu chống nghẹt thở
Czeslaw
Milosz
August 14, 1980 Issue
A Part of Speech
by Joseph Brodsky
Farrar, Straus and Giroux, 152 pp., $12.95
The strong presence of Joseph Brodsky has needed less than a
decade to establish itself in world poetry. Yet of his four books published
in Russian, only one, Selected Poems, was translated into English,
by George L. Kline. Probably, by a sort of instinct, the cultured public
vaguely feels, if not clearly comprehends, his stature. His poetry
has attracted good translators, as the present volume shows. On the
other hand, the reader of his work enters a huge building of strange
architecture (a cathedral? an ICBM site?) at his own risk, since critics
and literary scholars have not yet begun to compile literary guidebooks
to it.
In syllables,
feet, rhyme, stanzas Brodsky follows a tradition, but not slavishly.
The very nature of the Russian language seems to have determined a peculiar
brand of modernism in our century: innovation within strict metrical
patterns. Russian verse in this respect is different from its English,
French, and also Polish, Czech, and Serbo-Croatian counterparts. Brodsky’s
colloquialisms, slang expressions, and words not met with in literary
usage would seem to call for the freedom of William Carlos Williams’s
“spoken” rhythms. Instead, together with a web of metaphors, often sustained
and enlarged through several stanzas, they make up a pattern of lines
to be half sung, half recited. In his practice of poetry as a vocation,
Brodsky observes rules of craftsmanship going back to the late eighteenth-century
poet Derzhavin. In his experiments with poetic genres—ode, lyrical
poem, elegy, descriptive poem, the story in verse—he resembles Auden.
The obstacles such poetry presents to transplantation into another language
should add to our surprise when we see how Brodsky comes through in English
and finds an attentive ear, at least among serious readers.
The secret lies, probably, in the way
he reverses some of the trends that have dominated poetry for the last
half century. These trends were based on certain unavowed premises which,
as is common in the history of ideas, are fated not to be overcome in
direct combat, but simply bypassed. Brodsky grew up in the Soviet Union,
but being self-educated he has remained impervious to its imposed and
largely accepted modes of thinking. During his years of exile, since
1972, he has also preserved a skeptical distance from the intellectual
fashions of his new milieu. At the same time, he does not resemble those
recent Russian immigrants who stay in their Slavic shell and are mistrustful
of the evil West. Looking for his roots, we must turn to the era of European
cosmopolitanism, which came to an end with the outbreak of World War
I, and ended in Russia with the Revolution. Brodsky takes over where
young Osip Mandelstam and young Anna Akhmatova were stopped.
This does
not mean, though, that the post-revolutionary decades, so tragic for Russian
poetry, did not leave a durable impression on his view of the world. Behind
Brodsky’s poetry is the…
Đọc Brodsky như
thế, thì cũng có thể đọc TTT, như thế: TTT bắt đầu làm
thơ, khi cõi Bắc Kít ngưng thở, vì nghẹt thở!
Hannah Arendt nói đến khoảng trống "no longer & not yet",
là cũng cùng 1 dòng như thế.
G. Lukacs,
trong Solzhenitsyn: Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovich
(1969) [William David Graf, dịch từ tiếng Đức, nhà xb The MIT
Press, Cambridge,
Mass 1971] viết:
Liên hệ mỹ học giữa truyện ngắn [novella] và truyện
dài [tiểu thuyết, novel] thường được phân tích,
nghiên cứu. Ít, là nối kết lịch sử và liên
hệ nội tại giữa hai thể loại, trong cuộc phát triển văn học [their
historical connection and their interrelationship throughout the course
of literary development]. Tuy nhiên, đây là một vấn
đề rất thú vị, bổ ích, nó chiếu sáng tình
hình văn học hiện thời [the present-day situation]. Tôi
[Lukacs] đang nghĩ tới sự kiện, truyện ngắn [novella] thường xuất hiện
hoặc, như là một con chim báo bão [nguyên
văn: tiền thân, precursor] cho sự ra đời của hùng ca, sử
thi, hay những hình thức bi kịch lớn, hoặc như là đội quân
hậu vệ [rearguard], một cách viết ở tận cùng một giai đoạn.
Nói cách khác, hoặc nó xuất hiện như là
một Sẽ Có, [a Not-Yet, Nochnicht], hay một Không Còn
Nữa [a No-Longer, Nichtmehr].
Áp
dụng nhận xét trên vào Một Ngày... của
Solz., Lukacs viết: Với một chút dè dặt, người ta
có thể nói, thể loại giả tưởng cận và đương thời
đã từ bỏ truyện dài để cố thủ ở trong truyện ngắn, trong
toan tính cung cấp, cái gọi là bằng chứng, về một
cách thế đạo đức của con người. [With this reservation, one can
say of contemporary and near-contemporary fiction that it often withdraws
from the novel into the novella, in its attempt to provide proof of man's
moral stature…..] "Không phát hiện quá khứ thì
sẽ không khám phá hiện tại. Một Ngày
Trong Đời Ivan Denisovich của Solzhenitsyn là một khai mở ý
nghĩa cho tiến trình lại khám phá ra cái tôi,
cái ngã, the self, ở trong văn chương, trong hiện tại xã
hội chủ nghĩa." [Lukacs].
Trên Tin Văn, Gấu đã áp dụng tư tưởng của
Lukacs, trên, để giải thích sự xuất hiện của truyện ngắn NHT.
*
Hannah Arendt cũng sử dụng cặp từ No Longer/Not Yet, để giải
thích hố thẳm giữa Proust và Kafka.
Nếu áp dụng cái nhìn của bà vào
trường hợp nhóm Sáng Tạo, và cú đả phá
văn chương tiền chiến của họ, xem ra có thể giải thích
câu hỏi Võ Phiến đặt ra, trong Tổng Quan Văn Học.
*
Hannah Arendt mở ra bài viết No Longer and Not Yet, điểm cuốn The
Death of Virgil của Herman Broch, trong tập tiểu luận Essays in Understanding, bằng nhận xét
của Hume, trọn văn minh nhân loại dựa vào sự kiện, ‘một
thế hệ thì không lui khỏi sàn diễn liền lập tức
và một thế hệ khác kế tiếp nó, như trường hợp
tằm và bướm’. Ở vài điểm ngoặt lịch sử, ở vài đỉnh
cao của khủng hoảng, một số phận tương tự như tằm và bướm giáng
xuống một thế hệ: thế hệ già suy tàn, thế hệ mới không
bắt buộc phải sinh ra tiếp theo liền; giữa những thế hệ, giữa những con
người vì lý do này hay lý do khác, vẫn
thuộc về thế hệ già, và những người hoặc cảm thấy cơn thảm
họa ở trong xương trong hồn trong tuỷ, hay là đã trưởng thành
cùng với nó, sợi ‘sên’ bị gẫy, và một “lỗ hổng,
khoảng trống”, một thứ khoảng đất không người lịch sử xuất hiện,
và chỉ có thể diễn tả bằng thuật ngữ “không còn
nữa, và chưa xẩy ra nhưng sẽ có” [For the decline
of the old, and the birth of the new, is not necessarily an affair of continuity;
between the generations, between those who for some reason or other still
belong to the old and those who either feel the catastrophe in their very
bones or have already grown up with it, the chain is broken and an "empty
space," a kind of historical no man's land, comes to the surface which
can be described only in terms of "no longer and not yet."]
Đoạn Gấu gạch đít trên, giải thích
thái độ của nhóm Sáng Tạo khi đả phá văn
học tiền chiến, thế hệ già.
Đây cũng là thái độ của PTH, khi nói
về nhóm Nhân Văn Giai Phẩm: Sợi sên nối tiếp giữa
họ bị gãy, và một lỗ hổng lịch sử xuất hiện.
Khoanh
vùng vào văn chương Âu châu mà nói,
cái hố thẳm mở ra một không gian trống và thời gian
rỗng này, nhìn rõ nhất là ở sự lệch pha,
không đồng điệu, giữa hai ông khổng lồ, hai vị sư phụ vĩ
đại nhất của thời đại chúng ta, đó là Marcel Proust
và Franz Kafka. Proust là lời giã từ cuối cùng,
đẹp như mơ, gửi tới thế giới của thế kỷ 19, và khi chúng
ta trở lại với tác phẩm của ông, viết trong âm điệu
"no longer", "không còn nữa”, ["than ôi, hoa rụng
bên kia sông mất rồi, hết rồi, hết rồi, em ơi chiều nay cơn
mộng tan rồi”, "ố là là", hết Loan, hết Dũng, hết Đôi
Bạn mất rồi…], và thế là cái tâm trạng não
nề [‘từ lúc đưa em về là biết xa ngàn trùng’]
khiến chúng ta vãi lệ chứa chan!
Kafka, về một mặt khác, là người đương thời với
chúng ta, chỉ tới một giới hạn. Sự tình như thể, ông
viết từ một điểm thuận tiện cho ông, nghĩa là, từ một tương
lai xa xa, như thể, ông chỉ có thể ‘ở nhà’ trong một
thế giới ‘not yet’, "chưa có nhưng sẽ có". Godot sẽ tới, nhưng
chiều nay, thì chưa! Điều này đẩy chúng ta vào
một cái vị thế xa xa, bất cứ khi nào chúng ta đọc, và
bàn về tác phẩm của ông, một khoảng cách chẳng
bao giờ trở nên nhỏ lại, mặc dù chúng ta biết nghệ thuật
của ông thì là biểu hiện của một thế giới tương lai
nào đó, cũng là thế giới của chúng ta – giả
như chúng ta có được tương lai!
Nếu Nhất Linh, ông Trùm
tiền chiến, đóng vai Proust, thì Kafka Mít, là
Thanh Tâm Tuyền!
Cái hố thẳm giữa họ, được
cuộc chiến khốn kiếp làm đầy.
*
Tất cả những nhà văn và
thi sĩ lớn khác của Âu Châu tìm thấy chỗ, và
những chuẩn mức đo lường của họ ở đâu đó giữa hai vị thầy
đã mất này. Nhưng sách của Hermann Broch
rớt vào một phạm trù khác hẳn so với số còn
lại. Ông có chung, với Proust giọng độc thoại nội tâm,
và với Kafka sự chối bỏ hoàn toàn và triệt
để, điều mua vui, giải trí, cũng như sự bận bịu với cái siêu
hình. Ông chia sẻ với Proust một sự yêu mến quá
đỗi, thật là thâm sâu, với cõi đời, như là
nó được trao cho chúng ta; và ông chia sẻ với
Kafka, niềm tin tưởng, rằng, “người hùng” của tiểu thuyết thì
hết còn là một nhân vật với một số phẩm chất được
định nghĩa tới nơi tới chốn, mà chỉ là “một con người như
thế đó” (bởi vì đối với cuộc đời thực của một con người
và nhà thơ, Virgil chỉ là một cơ hội cho những dự
đoán triết học của Broch) - tất cả thì đều thực, và
những lịch sử của văn học sau này có thể sẽ nói ra
điều này.
Điều quan trọng hơn – ít ra vào lúc này,
là, tác phẩm của Broch – qua những đề tài mà
nó quan tâm, qua trọn tính uyên nguyên,
qua giọng rất đỗi thơ tuyệt vời của nó – có một điều gì
giống như một đường dây dẫn bị thiếu, mất, giữa Proust và
Kafka, giữa một quá khứ mà chúng ta đã mất
và không thể nào lấy lại được và một tương lai
chưa ở trong tay. Nói một cách khác, cuốn sách,
tự thân nó, thì giống như một cây cầu mà
Virgil cố gắng băng qua hố thẳm của quãng không giữa “không
còn nữa” và “chưa nhưng sẽ có”. Và kể từ
khi mà cái hố thẳm này thì thực, rất đỗi thực,
kể từ khi mỗi năm nó lại mỗi sâu thêm, đáng sợ
thêm, kể từ năm định mệnh 1914 trở đi, cho tới khi những cơ xưởng
của Thần Chết được dựng lên ở ngay trái tim của Âu Châu,
cắt đứt luôn sợi dây đã cũ mòn mà nhờ nó
chúng ta còn bám víu được với thực thể hơn
hai ngàn năm lịch sử; và, kể từ khi chúng ta hoàn
toàn sống trong “cõi trống rỗng”, đối đầu với một thực tại
mù tịt về ý tưởng truyền thống về thế giới và con người
có thể thắp sáng – quý báu như thể truyền thống
này vẫn còn nằm ở trong tim của chúng ta – chúng
ta phải cám ơn sâu xa tác phẩm thi ca lớn lao cố bám
víu thật tuyệt vọng vào đề tài này.
Điều khá kỳ quặc là tác phẩm trước đó
của Broch chẳng hề tiên đoán, ông sẽ ị ra Cái Chết của Virgil. Những kẻ mộng du,
ngoại trừ những phẩm chất của nó, như là một cuốn tiểu
thuyết, chỉ cho thấy một điều là, tác giả của nó
thì đầy ứ tài kể chuyện, xuyên suốt tác phẩm,
ông tỏ ra nôn nóng với tác phẩm của riêng
mình: ông nói với độc giả của mình, tốt nhất,
hãy cố mà tìm cho ra kết cục của câu chuyện,
đừng trông mong ở nơi ông; ông lơ là nhân
vật, tình tiết và chỉ xoắn mãi vào những ức
đoán dài dòng về bản chất của lịch sử. Cho tới một
thời điểm nào đó, Broch quả là một tay kể chuyện tốt,
chịu chơi, biết chọc cười, làm độc giả vui, nhưng không phải
là một thi sĩ lớn.
Cái biến động làm cho Broch thành một nhà
thơ có vẻ trùng hợp với màn cuối u tối của Âu
Châu. Khi bóng đêm chụp xuống, thế là a ê
hấp, Broch thức giấc…
Ui chao,
đọc đoạn trên đây, làm sao không nghĩ đến ông
anh nhà thơ cho được! Ông tỉnh giấc, trở thành nhà
thơ, đúng vào màn cuối u tối của miền đất ông
ra đời, rời bỏ nó, đúng lúc đêm đen chụp xuống,
1954.
Biến
động làm Broch thành một nhà thơ có vẻ
trùng hợp với giai đoạn u tối sau cùng của Âu Châu.
Khi bóng đêm chụp xuống, thế là a ê hấp, Broch
thức dậy. Ông tỉnh giấc trước thực tại khiến ông ngỡ ngàng
và thế là ông lập tức chuyển dịch nó vào
trong một giấc mơ, quá xứng hợp với một người thức giấc trong đêm.
Giấc mơ này là Cái Chết của Virgil.
Những nhà phê bình phán, cuốn sách
được viết bằng một thứ văn xuôi trữ tình, điều này
không hẳn đã đúng. Văn phong, độc nhất, do căng thẳng
dồn nén, rất giống những lời cầu khấn trong những thánh
ca Homer, trong đó Thượng Đế được con người kêu gọi hoài
hoài, mỗi lần là mỗi nơi chốn Thượng Đế cư ngụ, mỗi khung
cảnh thần thoại, nơi khấn bái, thờ phụng, như thể kẻ cầu nguyện
phải cảm thấy chắc chắc, tuyệt đối chắc chắn, anh ta không thể nào
quên Thượng Đế. Trong cùng đường hướng như vậy, Broch cầu
khấn Đời sống, hay Cái chết, hay Tình yêu, hay Thời
gian, hay Không gian, như thể ông muốn hoàn toàn
chắc chắn, tuyệt đối chắc chắc, ông
không quên một điểm nào. Điều này
đem cho cuộc độc thoại khẩn thiết tình cảm thê thiết của
nó và làm bật ra hành động căng thẳng, tập
trung từ dự đoán rất thực […]
Đề tài của cuốn sách của Broch, như cái
tít chỉ ra, là 24 giờ chót của cuộc đời Virgil.
Nhưng cái chết thì được coi như không phải là
một sự kiện mà là một thành tựu tối hậu của con
người - hoặc theo nghĩa, những khoảnh khắc hấp hối là cơ may sau
cùng và độc nhất để biết đời sống là cái
gì, hay theo nghĩa, đó là thời khắc mà con
người phán đoán về chính cuộc đời của mình,
kẻ đang chết đó. Phán đoán này không
phải là tự buộc tội, bởi vì lúc đó đã
quá muộn để mà mất thì giờ với một việc như thế,
cũng không phải tự biện minh, bởi vì, nếu như thế, thì
việc này lại quá sớm; đó là cố gắng tối hậu
để tìm ra sự thực, lời nói chung quyết của trọn câu
chuyện. Điều này làm cho phán đoán sau cùng
là chuyện của con người, con người tự tính sổ với con người,
tránh cho Thượng Đế khỏi vướng bận vào chuyện tầm phào
như thế!
http://tanvien.net/new_daily_poetry/
Two
(Scholarly) Love- Poems
1. Dead Sea Scrolls
I was like the words
on a papyrus apocryphon
buried in a cave at Qumran,
and you were the scholar
I had been waiting
for
all my life, the one reader
who unravelled the scrolls
and understood the
language
and deciphered its mysteries.
2. A Treatise on Ecstasy
Touching your body
I was like a rabbi
poring
over a treatise on ecstasy,
the message hidden in the scrolls.
I remember our delirium
as my fingers moved
backwards
across the page, letter by letter,
word by word, sentence by sentence.
I was a devoted scholar
patiently tracing
the secret
passages of a mysterious text.
Our room became a holy place
as my hands trembled
and my voice shook
when I recited the blessings
of a book that burst into flames.
Edward Hirsch: The Living Fire
LUKE XXIII
Gentile or Jew or simply a man
Whose face has been lost in time,
We shall not save the silent
Letters of his name from oblivion.
What could he know of forgiveness,
A thief whom Judea nailed to a cross?
For us those days are lost.
During his last undertaking,
Death by crucifixion,
He learned from the taunts of the crowd
That the man who was dying beside him
Was God. And blindly he said:
Remember me when thou eomest
Into thy kingdom,
and from the terrible cross
The unimaginable voice
Which one day will judge us all
Promised him Paradise. Nothing
more was said
Between them before the end came,
But history will not let the memory
Of their last afternoon die.
O friends, the innocence of
this friend
Of Jesus! That simplicity which made him,
From the disgrace of punishment, ask for
And be granted Paradise
Was what drove him time
And again to sin and to bloody crime.
[Mark Strand]
J.L. Borges
LUKE 23
Gentile or Hebrew or simply one
Whose face has been lost to us in time;
We shall not rescue from oblivion
Now the silent letters of his name.
He knew of mercy what a bandit may
Whom Judea has nailed to a cross.
And we today are at a loss
About the time preceding. That day
At his task of dying crucified,
He heard, amid the crowd's mockery,
That he who was dying at his side
Was a god, and said to him blindly,
Remember me when you inherit
Your kingdom, and the inconceivable voice
That shall judge one day each man's merit
Promised him from the terrible cross
Paradise. Nothing more was said
Until the end came, but history
Shall preserve from death. the memory
Of the afternoon on which they died.
Oh friends, the innocence of this friend
Of Jesus, the candor that moved him
From the ignominy of his end
To ask for Heaven and receive it,
Was the very same that so many times
Had hurled him into sin and bloody crimes.
-Translated by IRVING FELDMAN
[in trong Borges: A Personal Anthology,
ed with a Foreword by Anthony Kerrigan]
Luke XXIII
Không phải Do Thái,
hay Do Thái, hay giản dị một người đàn ông
Mặt, thời gian bào mòn
Chúng ta cũng không thể nào
Giành lại được từ quên lãng
Những con chữ câm lặng
Là cái tên của anh ta
Anh ta biết gì về tha
thứ
Tên trộm từ Judea, bị đóng đinh vô thập tự?
Với chúng ta, những ngày đó đã mất.
Trong cú cuối cùng của anh ta
Chết bằng đóng đinh thập
tự
Anh ta biết, từ những lời chế nhạo của đám đông
Người đang chết kế bên anh ta,
Là Chúa. Và mù lòa, anh nói:
Xin hãy nhớ đến tôi khi Người vô
Nước Thiên
Đường
Và từ cây thập tự khủng khiếp
Một giọng nói không thể nào tưởng tượng được
Một ngày nào sẽ phán xét tất cả chúng
ta
Đã hứa với anh ta Thiên
Đàng.
Chẳng lời nào nữa được thốt ra giữa họ trước khi tận cùng
Và lịch sử sẽ không để cho hồi ức của buổi chiều
cuối cùng này chết.
Ôi bạn bè, sự ngây
thơ vô tội của người bạn của Giê Su.
Khiến anh thoát khỏi hình phạt ô nhục
Khẩn cầu
Và được ban cho Thiên Đàng
Cho anh ta thời gian
Và nữa, nữa, tội lỗi, và tội ác
LUC, XXIII
Qu'était-il : juif, gentil? Peut-on le dire? Non.
Nous ne ramènerons jamais du fond des ages
Son visage perdu parmi tant de visages,
Ni les lettres silencieuses de son nom.
Disons un homme, simplement. Pour son idée
De la clémence, ce devait être, je crois,
Celle que peut s'en faire un bandit de Judée
Qu'on se propose de clouer sur une croix.
Nous possédons sa mort; sa vie est oubliée.
II va toucher au but lorsque, sait-on comment,
II apprend parmi le scandale et la huée
Qu'à ses cotes c'est Dieu qui meurt. Aveuglement
II crie alors : Quand vous viendrez dans votre règne,
Pensez à moi, Seigneur! Et du haut de
la croix,
De la terrible croix qui prononce et qui saigne,
La grâce vient à lui ; l'inconcevable Voix
A répondu : Ce soir, tu seras dans ma gloire.
Ils ne disent plus rien jusqu'aux derniers efforts;
Mais du jour implacable où tous les deux sont morts
Les hommes à jamais garderont la mémoire.
Ô mes amis, l'innocence de cet ami
De Jésus notre Dieu, cette candeur de l'âme
Qui lui valut la gloire éternelle parmi
L'appareil conspué du châtiment infâme,
C'est la même qui tant de fois l'avait jeté
Dans le mal et dans le hasard ensanglanté.
Ibarra
Viết Mỗi
Ngày
OLD FASHIONS
I remember an old, meticulously executed print.
Swallowed by a whale, a small man with a frock coat sits inside
its belly at a small table, lit by an oil lamp.
But from time to time the
whale gets hungry. And here is the
second print.
A powerful wave of seawater
rushes through the throat to the
belly, with a shoal of swallowed small fish.
The table with the lamp
is knocked down; the small man,
diving, nestles against the slick wall of the whale's massive
bulk.
After the wave's retreat
he sets up his table, hangs the lamp,
and begins to work.
Perhaps he is studying
the Old Testament? Perhaps he is
studying maps?
What else could be of interest
to a traveler miraculously saved
from a shipwreck?
I often think of this print
as I lay books down on my table for
work, after tightly closing windows and doors.
-Julia Hartwig
(Translated from the Polish by John and Bogdana
Carpenter)
NYRB April
27, 2006
At My Father's Funeral
The idea that the body as well as the soul was immortal was probably
linked on to a very primitive belief regarding the dead, and one shared
by many peoples, that they lived on in the grave. This conception was
never forgotten, even in regions where the theory of a distant land of
the dead was evolved, or where the body was consumed by fire before burial.
It appears from such practices as binding the dead with cords, or laying
heavy stones or a mound of earth on the grave, probably to prevent their
egress, or feeding the dead with sacrificial food at the grave, or from
the belief that the dead come forth not as
spirits, but in the body from the grave.
J.A. MacCulloch, The Religion of the Ancient Celts
We wanted
to seal his mouth
with a handful of clay,
to cover his eyes
with the ash of the last
bonfire he made
at the rainiest edge
of the garden
and didn't we think, for a moment,
of crushing his feet
so he couldn't return to the house
at Halloween,
to stand at the window.
smoking and peering in,
the look on his face
like that flaw in the sway of the world
where mastery fails
and a hinge in the mind
swings open - grief
or terror coming loose
and drifting, like a leaf,
into the flames.
LRB 26 Jan, 2012
The Watcher
The light
enters and I remember who I am; he is there.
He begins by telling me his name which (it should now be clear) is
mine.
I revert to the servitude which has lasted more than seven times
ten years.
He saddles me with his rememberings.
He saddles me with the miseries of every day, the human condition.
I am his old nurse; he requires me to wash his feet.
He spies on me in mirrors, in mahogany, in shop windows.
One or another woman has rejected him, and I must share his anguish.
He dictates to me now this poem, which I do not like.
He insists I apprentice myself tentatively to the stubborn Anglo-Saxon.
He has won me over to the hero worship of dead soldiers, people with
whom I could
scarcely exchange a single word.
On the last flight of stairs, I feel him at my side.
He is in my footsteps, in my voice.
Down to the last detail, I abhor him.
I am gratified to remark that he can hardly see.
I am in a circular cell and the infinite wall is closing in.
Neither of the two deceives the other, but we both lie.
We know each other too well, inseparable brother.
You drink the water from my cup and you wolf down my bread.
The door to suicide is open, but theologians assert that, in the
subsequent
shadows
of the other kingdom, there will I be, waiting for myself.
-A.R.
J.L. Borges
The Double
Kẻ Kép
Ðược đề xuất, huých
huých bởi những phản chiếu từ gương soi, từ mặt nước, từ cặp song
sinh, ý tưởng về Kẻ Kép thì thông thuộc trong
nhiều xứ sở. Thí dụ câu này “Bạn Quí là
một GNV khác”, của Pythagore, và tư tưởng Hãy
Biết Mình của trường phái Platonic được gợi hứng từ đó.
Trong tiếng Ðức, Kẻ Kép được gọi là Doppelganger,
có nghĩa, “người đi bộ sóng đôi”. Trong tiếng Scotland
thì có từ fetch, cũng có nghĩa là
“bạn quí”, nhưng ông bạn quí này đem cái
chết đến cho bạn. Từ wraith, tiếng Scottish, có
nghĩa là hồn ma, y chang bạn, và bạn chỉ vừa kịp nhìn
thấy, là thở hắt ra, đi một đường ô hô ai tai!
Thành ra cái chuyện “Gấu gặp bạn quí là
Gấu” [ngồi bờ sông lâu thể nào cũng thấy xác
của mình trôi qua], quả đáng ngại thật. Ðiềm gở.
Khúc “ba lát” bi thương "Ticonderoga" của Robert Louis Stevenson
kể 1 giai thoại về đề tài này. Bức họa lạ lùng của
Rossetti [Họ gặp chính họ như thế nào, "How They Met Themselves"],
kể câu chuyện hai kẻ yêu nhau đụng đầu trong khu rừng âm
u vào lúc chạng vạng. Còn nhiều thí dụ, từ
Hawthorne ("Howe's Masquerade"), Dostoyevsky, Alfred de Musset, James
("The Jolly Corner"), Kleist, Chesterton ("The Mirror of Madmen"), and
Hearn (Some Chinese Ghosts).
Những người Ai Cập cổ tin tưởng, Kẻ Kép, the “ka”, là
phần chiếu tướng đích thị của một con người, kẻ đối tác
có cùng bước đi, cùng chiếc áo dài.
Không chỉ con người mà thần thánh, thú vật,
đá, cây, ghế, dao, đều có “ka” của chúng, vô
hình, trừ một vài ông thầy tu là có thể
nhìn thấy Kẻ Kép của những vị thần và được thần ban
cho khả năng biết được những sự vật đã qua và sắp tới.
Với người Do Thái, sự xuất hiện Kẻ Kép không
phải là điềm gở, [tới giờ đi rồi cha nội, lẹ lên không
lỡ chuyến tầu suốt, rồi không làm sao mà đi được, như
Cao Bồi, bạn của Gấu, hay như Võ Ðại Tướng, vừa mới chợp mắt tính... đi, là đã thấy 3 triệu
oan hồn hau háu, đau đáu chờ đòi mạng, thì đi
thế đéo nào được?] Ngược lại, họ tin đó là bằng
chứng bạn tu luyện đã thành, đạt được những quyền năng tiên
tri. Ðó là cách giải thích của Gershom
Scholem.
Một giai thoại được ghi lại trong Talmud kể câu chuyện một
thằng cha GNV, suối đời tìm hoài Thượng Ðế, và
khi gặp, hóa ra là… GCC!
Trong “William Wilson” của Poe, Kẻ Kép là lương tâm
của nhân vật trong truyện. Anh ta thịt nó, thế là
bèn ngỏm theo. Cũng cùng đường hướng như vậy, Dorian Gray, trong tiểu thuyết của Wilde, đâm
bức hình của anh ta, và bèn gặp gỡ Thần Chết. Trong
những bài thơ của Yeats, Kẻ Kép là phía bên
kia của chúng ta, kẻ bổ túc, hoàn thiện chúng
ta, kẻ mà chúng ta không, và sẽ chẳng bao giờ
trở thành.
Plutarch viết,
người Hy Lạp gọi, cái ngã khác,
bằng cái tên, viên đại sứ của hoàng đế.
J.L. Borges
Một
giai thoại được ghi lại trong Talmud kể câu chuyện một thằng cha
GNV, suối đời tìm hoài Thượng Ðế, và khi gặp, hóa
ra là… GCC!
1. Jorge Luis Borges: Thiên
Thư
Gửi những cư dân của một đền thiêng Sài Gòn,
đã từng đọc ra câu thần chú của Đức Thánh
Trần: Hãy lấy nước mà dựng đất, và từ đó,
có một dân tộc được gọi là "thuyền nhân".
JT
Nhà tù sâu. Bằng đá. Như một nửa trái
cầu thật tròn trịa. Mặt đất, cũng bằng đá, chặn đứng nhà
tù, khi nó mon men tới gần vòng tròn lớn,
như để tăng thêm cảm giác tù túng. Một bức
tường cắt nhà tù ngay tại tâm của nó. Tường
thật cao, nhưng không đụng mái cầu bên trên. Một
bên bức tường, là tôi, Tzinacán, đạo sĩ ở kim
tự tháp Qaholom. Tháp này đã bị Pedro de Alvarado
thiêu rụi. Bên kia, là một con báo. Con vật
đếm thời gian và không gian bên trong chuồng bằng bước
chân vô hình, đều đặn của nó. Sát mặt
đất, là một cửa sổ lớn, có chấn song, ăn vào bức tường
giữa nhà tù. Vào giờ không bóng [giờ ngọ],
người ta mở cái bẫy sập ở bên trên, và người gác,
cũng mòn mỏi dần theo năm tháng, ròng xuống một sợi
cáp, ở đầu sợi cáp là nước uống và vài
mẩu thịt. Ánh sáng nhờ đó cũng tuôn vào
căn hầm. Và đó là lúc tôi có thể
nhìn thấy con báo.
Tôi cũng không còn nhớ rõ mình đã
trải qua bao năm tháng ở trong cõi tối tăm này.
Tôi, vốn ngày nào trẻ măng, còn đi lại trong
chuồng, chẳng làm chi ngoại trừ chờ, kết thúc của đời mình,
mà ông trời đã quyết định, bằng thái độ của
một kẻ biết mình sẽ chết. Tôi, ngày nào, với
con dao bằng đá nhọn hoắt, mở banh ngực biết bao nạn nhân,
giờ này không làm sao nhắc nổi thân hình
lên khỏi bụi bặm, nếu không nhờ ma thuật.
Buổi tối, bữa tháp bị đốt, đám kỵ sĩ, từ những con
ngựa cao lớn, đã tra tấn tôi, bằng những thanh sắt nặng nề.
Họ tra khảo, bắt chỉ ra nơi chôn giấu kho tàng. Họ đạp đổ
tượng trời, ngay trước mắt tôi, nhưng trời đã không
bỏ tôi, và tôi cứ thế lặng câm, trong những lần
tra tấn. Họ đánh đập, dầy vò, chà nát thân
xác tôi. Rồi tôi tỉnh dậy, thấy mình ở trong nhà
tù này, nơi kéo dài những ngày sống
còn lại của mình.
Bị thúc đẩy bởi ý nghĩ, phải làm một điều gì
nhằm lấp đầy thời gian, tôi tính hồi tưởng, trong bóng
đêm, tất cả những gì tôi đã biết. Tôi
đốt phí, hết đêm nay tới đêm mai, cố nhớ lại một số
rắn đá, bao nhiêu con, con nào trước, con nào
sau; hình dạng một thứ dược thảo. Bằng cách đó, tôi
trốn chạy năm tháng, và sở hữu tất cả những gì đã
từng thuộc về mình. Một đêm, tôi cảm thấy mình
đang sáp gần một kỷ niệm thật quí báu, như thể, trước
khi nhìn thấy biển, kẻ du lịch chợt nhận ra, rằng máu mình
sôi động. Vài giờ sau, kỷ niệm thấp thoáng hiện ra.
Đây là một trong những truyền thống liên quan
tới ông trời. Tiên đoán ra được rằng, vào cuối
thời gian, sẽ xẩy ra rất nhiều tai ương và điêu tàn,
vào cái ngày đầu tiên sáng tạo ra vũ
trụ, ông trời viết ra một câu thần chú; biết được
câu thần chú này, là tránh khỏi mọi
tai tương. Ông trời viết, theo một cách mà bao nhiêu
thế hệ sau này, dù xa xăm cách mấy, hoặc may mắn,
tình cờ tới cỡ nào, cũng không làm sao mở ra
được. Chẳng ai biết ông trời đã viết ở đâu, và
bằng những con chữ gì, nhưng chúng ta chẳng hề nghi ngờ,
rằng câu thần chú chắc chắn là ở đâu đó,
và sẽ có ngày có người được chọn lựa, và
người đó sẽ mở ra được. Tôi suy nghĩ, như là chúng
ta luôn luôn thấy đấy, lúc này chúng ta
đang ở những ngày cuối cùng của thời gian, và tôi,
với tư cách vị tu sĩ cuối cùng của đạo trời, có thể
mình sẽ có đặc ân mở ra câu thần chú.
Sự kiện, những bức tường nhà tù bao quanh, chẳng làm
sao ngăn cấm hy vọng này của tôi. Có thể tôi
đã từng nhìn thấy câu thần chú này hàng
nghìn lần, được ghi tại Tháp Qaholom, và đã
bỏ qua không tìm hiểu.
Ý nghĩ này cho tôi can đảm, nhưng liền lập tức,
nó làm tôi choáng váng. Trời đất bao
la như vầy, bao la những hình dáng cổ xưa, bao la những hình
dáng không thể lụi tàn, gần như thiên thu vĩnh
viễn cứ như vậy: bất cứ một hình dáng nào trong hằng
hà sa số đó, cũng có thể chứa đựng thiên thư.
Một ngọn núi cũng có thể là lời của trời, hay một
dòng sông, một đế quốc, hay là sự sắp xếp của những
vì sao. Nhưng qua bao thế kỷ, núi mòn đá lở,
sông thay đổi dòng, đế quốc tang thương dâu bể, con đường
của những vì sao khác đi. Nhà trời cũng đâu tránh
được sự chuyển nhượng, từ thế lực này qua thế lực khác. Núi
và sao là những cá thể, và những cá
thể qua đi. Tôi phải kiếm một thứ gì bền bỉ hơn, ít
bị hư hỏng hơn. Tôi nghĩ tới đời này qua đời nọ những loài
ngũ cốc, cây cỏ, chim chóc, con người. Có thể câu
thần chú được viết trên mặt tôi, và chính
tôi là mục đích sự tìm kiếm của mình.
Đúng vào lúc đó, tôi chợt nhớ ra là
con báo cũng là một trong những tùy tùng của
trời, cũng do trời mà ra.
Thế là lòng thành kính dâng lên
ở trong tôi. Tôi tưởng tượng ra buổi sáng đầu tiên
của thời gian. Tôi tưởng tượng, trời đã giấu câu thần
chú ở trong da của những con báo, một loài vật quần
tụ, sinh sôi nẩy nở đời này qua đời khác, ở hang, đồng,
đảo, và sau cùng con người đã nhận chúng. Tôi
tưởng tượng một mạng lưới những con hổ như thế đó, một mê
cung nóng bỏng những con hổ, reo rắc khủng bố ghê rợn trên
những cánh đồng, giữa những đàn súc vật, để bảo tồn
một ý đồ. Phòng giam kế bên chứa một con báo.
Trong gang tấc như thế đó, tôi nhận ra mối tương liên
và niềm ân điển bí ẩn.
Tôi đã trải qua những năm tháng dài, để
học hỏi trật tự và sắp xếp những công việc phải làm.
Cứ mỗi ngày mù lòa cho tôi chút ánh
sáng, và tôi có thể gắn chặt vào hồi
ức của mình những khoảng đen đánh dấu bộ lông vàng.
Có những khoảng cho thấy những điểm, những khoảng khác làm
thành những đường vằn ăn vào mặt sau những ngón chân;
những khoảng khác lập đi lập lại hàng năm. Có thể
vẫn chỉ là, cùng một âm thanh, hay cùng một
từ. Rất nhiều khoảng có những đường viền mầu đỏ.
Cực nhọc trần ai, làm sao tôi có thể nói
ra cho hết được. Đã bao lần, tôi la lớn, vào những
bức tường, chuyện giải ra một câu thần chú như vậy, là
điều không thể. Hết còn cảm giác, tôi đánh
vật với câu đố đang hành hạ tôi, dù sao cũng chưa
cực nhọc nhiều, nếu so với toàn thể câu đố mẹ của mọi câu
đố, tức là là câu thần chú mà ông
trời đã viết ra. "Câu nói lên sự thông
minh tuyệt đối, nó phải như thế nào?" Tôi suy nghĩ,
ngay trong những ngôn ngữ con người, mỗi câu nói là
giả dụ tất cả vũ trụ. Nói "hổ", là nói những con hổ
đẻ ra "hổ", những con hươu, những con rùa mà "hổ" đã
xé xác, cỏ mà những con hươu sống nhờ nó, đất
là mẹ của cỏ, không gian đem ngày đến cho đất. Tôi
suy nghĩ thêm, trong ngôn ngữ của một ông trời, lời nói
đẻ ra một chuỗi vô tận những sự kiện, không phải theo kiểu
ôm vào, mà là mở ra; không phải theo
cách liên lũy, mà là tức thì. Cùng
với thời gian, ý niệm về một câu nói thiêng
liêng, đối với tôi, nó có vẻ chứa đầy nguy nàn,
và cũng không kém phần bổ báng. Tôi nghĩ,
"Ông trời chỉ nói một từ, và từ này ôm
ở trong nó sự tràn đầy. Bất cứ một từ, đẻ ra từ đó,
đều chỉ là thứ yếu, so với vũ trụ, và chẳng thể nào
được coi là hoàn tất, so với tổng số thời gian. Những từ
đầy ứ tham vọng, nhưng cũng thật nghèo nàn đáng thương
của con người, "tất cả, thế giới", vũ trụ": chỉ là những cái
bóng, những âm thanh nhai nhái của tiếng trời, chỉ
có tiếng trời mới tương đương một ngôn ngữ, và chứa
đựng tất cả những gì mà ngôn ngữ có thể chứa
đựng."
Bữa đó, hay đêm đó – đêm hay ngày
khác chi đâu đối với tôi? – tôi mơ thấy trên
mặt đất nhà tù của tôi có một hạt cát.
Tôi lại thiu thiu, chẳng màng chi tiết này. Tôi
mơ thấy mình thức giấc, và có hai hạt cát.
Tôi lại ru mình ngủ, và mơ thấy có ba hạt cát.
Chúng sinh sôi chứa chật nhà tù, và
tôi, tôi chết ngạt ở bên trong nửa trái cầu cát.
Tôi hiểu mình mơ, và cố gắng thức dậy. Ích
chi đâu, thức dậy: cát làm tôi nghẹt thở. Một
người nào đó có nói cho tôi hay rằng,"Mi
không thức giấc sau đêm, mà là từ giấc mộng trước.
Giấc mơ này là ở bên trong một giấc mơ khác,
và cứ thế cho tới vô cùng, và là con
số những hạt cát. Con đường trở ngược là vô tận; mi
sẽ chết trước khi thực sự thức giấc."
Tôi thấy mình tiêu tùng. Cát chật
mồm tôi, nhưng tôi la lên: "Hạt cát mơ, mi làm
sao giết nổi ta; làm gì có chuyện những giấc mơ ở
trong những giấc mơ khác." Một tia sáng làm tôi
tỉnh. Trong cõi tối tăm hết mực, một vòng tròn sáng
vẽ ra. Tôi nhìn thấy hai bàn tay và khuôn
mặt người cai ngục, cái ròng rọc, sợi dây cáp,
thịt, và những cái hũ.
Từng chút từng chút, con người nhập dạng, là
cái phần số của mình; cứ thế cứ thế, nó trở thành
những hoàn cảnh của nó. Một kẻ giải mã câu thần
chú, một người trả thù, một tên thầy tu của một đền
thiêng, đâu chỉ có vậy mà còn hơn thế nữa:
tôi là một tên tù. Từ mê cung miệt mài
không mệt mỏi của những giấc mơ, tôi trở lại căn hầm gớm ghiếc,
như nơi ăn chốn ở của mình. Tôi chúc phúc cho
cái ẩm ướt của nó, tôi chúc phúc cho con
hổ của nó, tôi chúc phúc cho cái cửa
hầm tù, tôi chúc phúc cho cái thân
già đau khổ của tôi, tôi chúc phúc cho sự
tối tăm của đá.
Thế rồi tới sát na, tôi không thể quên,
mà cũng không thể trao đổi liên lạc. Tới sát
na, tôi nhập vào, đồng nhất với sự thiêng liêng
cao cả, với thiên tính, với vũ trụ, (tôi không
hiểu hai từ thiên tính – divinité - và vũ trụ
– univers - có khác nhau gì không). Cực lạc
như thế đó, là không thể lập đi lập lại những biểu
tượng của nó. Có người nhìn thấy Ông Trời trong
một phản ánh, kẻ khác nhận ra Ông Trời trong một thanh
gươm, hay là trong những vòng tròn của một bông
hồng. Tôi nhìn thấy Một Cái Bánh Xe rất cao,
không phải ở trước mắt tôi, cũng không phải ở đằng sau
tôi, mà là ở khắp cả mọi chốn, cùng một lúc.
Cái Bánh Xe này làm bằng nước, và cũng
bằng lửa, và, rõ ràng phân biệt được những đường
viền, vậy mà nó vô vùng. Hỗn mang ở trong đó,
tất cả những sự vật sẽ là, đang là, và đã là,
được tạo thành. Tôi là một sợi, của cái khổ dệt
toàn thể đó, và Pedro de Alvarado, kẻ tra tấn tôi,
là một sợi khác. Trong đó, có tất cả, nào
là nguyên nhân, nào là hậu quả, và
chỉ nhìn Cái Bánh Xe, tôi đủ hiểu, những nguyên
nhân hậu quả như thế đó, là vô tận. Ôi,
nỗi vui hiểu còn hơn cả nỗi vui tưởng tượng, hoặc cảm tượng (sentir)!
Tôi nhìn vũ trụ và tôi nhìn thấy những
mưu đồ thầm kín của vũ trụ. Tôi nhìn thấy những cội
nguồn được kể ở trong cuốn Lời Khuyên (Le Livre du Conseil). Tôi
nhìn thấy những ngọn núi từ dưới nước nhô lên.
Tôi nhìn thấy những con người đầu tiên, được làm
bằng lá cây và thớ gỗ. Tôi nhìn thấy sỏi
đá tấn công người. Tôi nhìn thấy chó xé
nát mặt người. Tôi nhìn thấy một ông trời không
mặt, ở phía sau những ông trời. Tôi nhìn thấy
những con đường vô tận tạo thành cực lạc độc nhất, và,
ngộ ra mọi điều, tôi đọc ra được hổ thư (l’écriture du tigre).
Đó là một công thức gồm mười bốn từ ngẫu nhiên
(có vẻ như là ngẫu nhiên). Tôi chỉ cần đọc
lớn lên là trở thành bách chiến bách
thắng đả biến thiên hạ vô địch thủ. Tôi chỉ cần đọc lên
là nhà tù bằng đá này tan biến vào
hư vô, là ngày biến vào đêm đen của tôi,
là trẻ mãi không già, là bất tử, là
hổ xé xác Alvarado, là lưỡi dao thiêng cắm ngập
vào những lồng ngực Tây Ban Nha, là đền thiêng
được dựng lại, là cả vương quốc được tái lập. Mười bốn con
chữ, mười bốn từ, và tôi, Tzinacán, tôi sẽ cai
trị những vùng đất mà Moctezuma đã cai trị. Nhưng tôi
biết rõ một điều, tôi sẽ chẳng bao giờ đọc lên mười bốn
từ huyền diệu đó, lý do là, tôi chẳng còn
nhớ gì về Tzinacán.
Hãy chết đi, tôi, tôi, tôi, cùng
với câu thần chú ghi trên da loài hổ dữ kia.
Kẻ nào đã từng ngộ ra vũ trụ, ngộ ra những mưu đồ cuồng
điên của vũ trụ, làm sao kẻ đó còn có
thể nghĩ tới, chỉ một con người, với những trò thổi bong bóng
rẻ tiền, những hạnh phúc dớ dẩn, cho dù con người đó
đích thị là... tôi? Con người đó "đã
có thời là nó", nhưng bây giờ, ích chi
đâu? Rằng nó cưu mang số phận kia, tổ quốc nọ, ích chi
đâu, một khi nó chẳng là một ai, chẳng là gì?
Chính vì lý do đó, tôi sẽ chẳng thèm
đọc lên câu thần chú, tôi sẽ để cho ngày
tháng quên lãng mình, nằm sóng sượt trong
đêm đen.
Jennifer Tran chuyển ngữ
(Theo bản tiếng Pháp của Roger Caillois, "L’Écriture
de Dieu", trong "L’Aleph" - chữ đầu tiên trong bảng mẫu tự tiếng
Do Thái cổ Hêbrơ - nhà xuất bản Gallimard, tủ sách
L’Imaginaire).
Chú thích của Roger Callois: Trong "Thiên Thư",
(L’Écriture de Dieu), cuốn "Lời Khuyên" (Le Livre du Conseil),
lẽ dĩ nhiên là "Popol-Vu", cuốn sách thiêng của
người Mayas-Quichés. Có một bản dịch tiếng Pháp, của
Georges Raynaud (Tủ sách "École des Hautes Études",
t. XLI, Paris, 1925).
Lời bạt của tác giả, Jorge Luis Borges, về "Thiên Thư"
của ông:
"... Thiên Thư được xét đoán với thiện cảm; con
báo bắt buộc tôi phải để vào miệng "nhà thuật
sĩ của tháp Qaholom" những câu nói có vẻ thần
bí." (J.L.B. Buenos Aires ngày 3 tháng Năm 1949).
2. Borges: Tôi thường ngẩn ngơ trước chuồng
hổ...
Trong Thiên Thư, bản tiếng Pháp của Roger Caillois,
để chỉ con vật chia sẻ một nửa nhà tù với nhà thuật
sĩ tháp Qaholom, dịch giả thoạt đầu sử dụng từ "báo" và
sau đó, từ "hổ". Ông không giải thích tại sao.
Tình cờ được đọc bài viết của Olivier Rolin, trên
tờ báo Pháp Thế Giới (Le Monde), số đề ngày Thứ Năm
26 tháng Tám 1999: Borges, "Sự thực hành huyền bí"
của ("La pratique mystérieuse" de) Buenos Aires, trong đó
tác giả vô tình giải thích giùm thắc
mắc của Jennifer tôi: "Từ ‘hổ", ở Nam Mỹ thường được dùng
để chỉ những loài báo tầm thường (vulgaires tigres)."
Nhưng con hổ mang trên mình chữ của trời chắc chắn không
phải là một loài báo tầm thường của Nam Mỹ.
"Tủ sách của ông bố, giầu có với những bộ bách
khoa, những cuốn sách bằng tiếng Anh, bị hớp hồn bởi những con
hổ ở trong vườn thú, sự can đảm của những tay anh chị khu ngoại
ô Palermo: đây là những dấu ấn về những năm đầu tiên
của một nhà văn uyên bác và cũng không
kém phần ác độc (cruauté)," tác giả bài
viết giới thiệu Borges như vậy.
Trong bài viết còn có bức hình của cậu
học sinh trung học Jorge Luis Borges, chụp năm 1911; bức vẽ thảo một
chú hổ của "Georgie", khi mới sáu tuổi, và bức hình
tuyệt vời của Borges, vào năm 1969, khi ông đã mù.
Bức hình của Eduardo Comesana này được rất nhiều độc giả
của Borges biết tới.
Không phải loài hổ tầm thường của Nam Mỹ.
Olivier Rolin, tác giả bài viết trên tờ Thế Giới
nhớ lại, đã từng gặp Borges trước đó nhiều năm. Một tấm
biển đồng khắc tên ông, tại một căn nhà trên
phố Maipú. Bà mucama, la gouvernante (quản gia), mời tôi
(Olivier Rolin) vào phòng khách. Borges ngồi ở cuối
phòng, trên sô pha, tay cầm tẩu, tì nhẹ lên
cây gậy. Dọc theo tường phòng khách, là những
chiếc ghế, đều có người ngồi, và đều là khách
như tôi, và đang đợi tới lượt mình. Người tới mời ông
chủ trì một trung tâm văn hóa địa phương, người mong
một lời đề tặng... Tất cả mọi người đều có thể được mời, và
người ta kể cho tôi nghe, có cả những du khách Mỹ,
tới để mong ông chụp hình cùng với họ. Bạn có
thể tưởng tượng ra được, hoàn cảnh của tôi lúc đó:
chẳng khác chi lạc vào phòng đợi của nha sĩ. Có
điều, tại phòng nhổ răng, người khách không thể biết
"nỗi đau một góc con người" [lấy ý từ câu nói
của người Việt, ‘cái răng cái tóc một góc con
người’], của người tới trước mình nó ra sao.
Đã từng đọc rất nhiều tác phẩm của Borges, đặc biệt
là "Ca ngợi bóng tối", trong đó ông viết, "Thoạt
đầu thì chưa, nhưng rồi thì thế là, tôi đã
dành cả cuộc đời dài ngoẵng của mình cho mớ chữ....
cho sự thực hành huyền bí của thành phố Buenos Aires,
và cho những điều ngỡ ngàng, mà nếu bạn không
nghĩ là tôi quá tự kiêu, thì hãy
tạm gọi nó là siêu hình học", Rolin tính
gặp Borges để hỏi về "sự thực hành huyền bí" đó.
Nhưng ông bỏ cuộc, có lẽ vì thấy còn lâu
mới tới lượt mình, nhưng đúng ra, ông biết, khó
mà hỏi Borges, trong một hoàn cảnh như vậy. Bài viết
là nhằm để trả lời thay cho Borges.
"Tôi (Borges) thường ngẩn ngơ trước chuồng hổ." Nói
rõ hơn, cái điều mà ông thực hành với
một niềm ngưỡng mộ, đó chính là "ngẩn ngơ trước chuồng
hổ", chính là con hổ "gậm một mối căm hờn trong cũi sắt
đó"! Ông giải thích thêm, "không phải
hổ mắt đốm của những hòn đảo trôi bềnh bồng nơi vùng
Paraná... nhưng mà hổ da vằn, thuộc vùng Á
Châu, thật uy nghi thật vương giả, và chỉ có những
chiến binh (hommes de guerre), ngồi chót vót ở trên
lưng những chú voi cao khềnh mới dám đương đầu với nó."
"Tôi thường ngẩn ngơ, dứt tình bỏ đi không nổi,
trước một trong những cái chuồng ở trong vườn thú; tôi
mê những cuốn bách khoa rộng lớn, và những cuốn sách
lịch sử tự nhiên, chính vì vẻ tuyệt vời của những
con hổ ở trong đó (tôi vẫn còn nhớ những hình
ảnh này, và mỗi lần nhớ, tôi vẫn thường lầm chúng
với vầng trán và nụ cười của một người phụ nữ)."
Hổ, sự độc ác, đàn bà, bách khoa... có
tất cả những thứ đó, trong đầu một nhà văn, vào
cái thời còn cắp sách đi học. "Những con đường chia
năm xẻ bẩy", cũng từ đó. Chúa sơn lâm, chính
là sự dữ dằn, và cũng là tình yêu. Đó
là tình yêu được cảm thấy, như là một sự độc
ác. [Nhà thơ Thanh Tâm Tuyền đã từng ví
mùa Thu với một người đàn bà là vậy: Độc và
Đẹp]. Emma Zunc, trong một câu chuyện mang tên nàng,
khi hiến thân cho một người thủy thủ norvégien, "nàng
nghĩ (nàng không thể không nghĩ), rằng cha nàng
đã làm điều ghê rợn đó với mẹ nàng, cái
điều mà bây giờ người ta làm với nàng." Nói
một cách ngắn gọn, trong văn chương Borges, không có
cái hành động làm tình, hoặc có thì
cũng bị coi là gớm ghiếc! Độc giả của Borges chắc khó
mà quên câu chuyện khủng khiếp, "L’intruse", hai anh
em san sẻ cùng một người đàn bà, và sau bán
cho một ổ điếm, cuối cùng chuộc lại, để làm thịt, bởi vì
thân thể của nàng đã chia rẽ hai anh em. Hành
động làm tình, người ta có thể nói, là
"sự độc ác xấu", giống như tấm gương, cứ thế nhân lên
mãi, những vẻ bề ngoài của chúng ta, một cách
thật là vô tích sự. Trên tất cả, hổ là
vật tổ của cái gọi là "sự độc ác tốt", có ở
những đấng hảo hớn thiện nghệ dùng dao, chuyên ném bút
chì... Tới đây, chúng ta dời vườn thú để đi
gặp những tay anh chị mà Borges đã từng say mê, nơi
ngoại ô Palermo, phía bên kia đại lộ Santa Fé.
Nhưng trước khi gặp gỡ họ, Rolin cẩn trọng chúng ta, về sự
khác biệt giữa nhà văn tồi [loài báo tầm thường]
và nhà văn tốt [hổ Á Châu, có vằn, uy
nghi vương giả]: Điều phân biệt chữ [cách viết] của nhà
văn, với cách viết của "những gã nho nhỏ thích viết"
[tạm dịch cụm từ cay độc mà Rolin mượn của Michaux, "les petits hommes
qui aiment à écrire"], đó là tính đa
tầng của những đề tài đan chéo vào với nhau, những nút
câu, đoạn xoắn lại. Đó là độ đậm đặc của những ngã
ba, tư, năm, sáu... của một thành phố, tức mê cung chữ.
Chính vì vậy, viết, đọc là những hành động làm
nên điều mà Ponge gọi là "chơi tư tưởng" (jouir de la
pensée).
Tôi thường ngơ ngẩn trước chuồng hổ....
Jennifer Tran
Thơ làm khi đi nuôi
cá
Gánh cỏ trên vai thơ trong đầu
Trời chớm thu hạ muờng tượng hồng au
Tung hê cỏ vụn trên hồ vắng
Băm nát tình si đều nhịp dao.
[Yên Báy. Bắc Việt]
Thanh Tâm Tuyền
Comme la vie est lente
Et comme l'Espérance est violente (1)
How violently flowers fade.
How awfully slow life is.
Lá thu vàng
mới hung bạo làm sao
Đời lừng khừng mới chán chường thế nào!
Viết Mỗi
Ngày
Puppet Maker
In his fear
of solitude, he made us.
Fearing eternity, he gave us time.
I hear his white cane thumping
Up and down the hall.
I expect neighbors to complain, but no.
The little girl who sobbed
When her daddy crawled into her bed
Is quiet now.
It's quarter to two.
On this street of darkened pawnshops,
Welfare hotels and tenements,
One or two ragged puppets are awake.
Charles Simic
Lão Tặc Thiên
Sợ cô đơn, Lão bèn nặn ra lũ chúng ta
Sợ vĩnh cửu, bèn cho chúng ta thời gian
[Đủ để làm đủ Tứ Khoái]
Tớ nghe tiếng ba toong của Lão
Lên và xuống hành lang
Tớ hy vọng lối xóm phàn nàn, nhưng không
Cô bé khóc ư ử
Khi ông bố bò vô giường
Bi giờ chắc là ngủ rồi
Cỡ hai giờ thiếu mười lăm.
Trên con phố với những tiệm cầm đồ tối thui
Những khách sạn của dân ăn tiền trợ cấp xã
hội, và những khu nhà tập thể
Hai hay ba con rối tã tượi đã mở mắt
Note; Bài này, mới được 1 vị độc giả đi 1 cái
còm thần sầu, nhưng giữ riêng, không post được.
V/v Charles Simic, Gấu nhớ là hồi đầu, đọc, sợ, mãi
sau mới quen được.
Tập thơ mới nhất, toàn những bài ngắn, nhưng thật
là tuyệt vời.
Đúng cái ý của Brodsky, gừng càng già
càng cay.
Đó, đó, lại lăm le mở hé cửa quá khứ. Bỏ
đi tám ơi .
Tại sao
lại hai giờ thiếu mười lăm ? Giờ khắc này đánh dấu hay biểu
hiện một điều gì ? Là lúc các con rối khác
quá mỏi mệt để khóc ? Là lúc các con rối
khác nữa chưa lục đục mang mặt nạ để cười ? Là khoảnh khắc
nhỏ nhoi để sống cho mình trong yên lặng ?
Bữa trước,
có đọc 1 bài thơ về cũng cái giờ này, hay lắm,
nhưng bây giờ quên sạch.
Kiếm thấy rồi, nhưng
mà là 4 giờ sáng!
FOUR A.M.
The hour between
night and day.
The hour between toss and turn.
The hour of thirty-year-olds.
The hour swept clean for roosters' crowing.
The hour when the earth takes back its warm embrace.
The hour of cool drafts from extinguished stars.
The hour of do-we-vanish-too-without-a-trace.
Empty hour.
Hollow. Vain.
Rock bottom of all the other hours.
No one feels fine at four a.m.
If ants feel fine at four a.m.,
we're happy for the ants. And let five a.m. come
if we've got to go on living.
Szymborska: Poems New and Collected 1957-1997
http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/Lunatic_Simic.html
Obscurely
Occupied
You are the Lord of the maimed,
The one bled and crucified
In a cellar of some prison
Over which the day is breaking.
You inspect the latest refinements
Of cruelty. You may even kneel
Down in wonder. They know
Their business, these grim fellows
Whose wives and mothers rise
For the early Mass. You, yourself,
Must hurry back through the snow
Before they find your rightful
Place on the cross vacated,
The few candles burning higher
In your terrifying absence
Under the darkly magnified dome.
Charles Simic
U tối bận rộn
Người là Chúa Tể
của những kẻ bị thương tật
Người chảy máu, bị đóng đinh trên cây
thập tự
Ở nơi tầng hầm một nhà tù nào đó
Bên trên ngày ló dạng
Người kiểm tra những trau truốt
sau cùng
Của sự độc ác.
Người có thể quỳ xuống, ngạc nhiên lẩm lẩm
Chúng quả là quá rành nghề của chúng,
Những tên nhẫn tâm, ác nghiệt này
Vợ của chúng, mẹ của
chúng
Dậy sớm, cho Lễ Sớm
Người, chính Người
Phải vội vã trở lại, băng qua tuyết
Trước khi họ tìm sự công bằng chính trực của
Người
Hãy để trước cây
thập tự bỏ trống
Vài
cây đèn cầy, cháy thật cao
Cao
hơn cả sự vắng mặt khủng khiếp của Người
Dưới
vòm trời phóng lớn tối thui.
Note: Bài thơ này
cực kỳ… u tối. Chỉ bằng mấy dòng
thơ Simic bèn dẫn ra 1 Ông Trời “bỏ chạy, vắng mặt, ẩn giấu"
[Dieu caché], khi xẩy ra Lò Thiêu.
Đọc Simic, GCC cứ sờ sợ, là vậy!
THIS TOWN IS ALRIGHT
A little river, then a bridge,
After which a row of white homes
With well-trimmed lawns
And a fat, bowlegged dog
Walking slowly from the curb,
Carrying a paper in his mouth.
Charles Simic
Thành phố này thì OK
Con sông nhỏ - Sông
Hương, rồi cây cầu - Trường Tiền (?)
Sau cây cầu, một dẫy nhà màu trắng
Với những lối cỏ gọn ghẽ
Và một con chó mập, chân vòng kiềng
Nhàn nhã tản bộ từ mép đường
Miệng ngậm tờ giấy.
Hội
An
Có
hai nơi, ở Việt Nam, Gấu chưa được “đi”, là Hội An, và Pleiku.
Nhiều nơi chưa đi, như Qui Nhơn, thí dụ, nhưng chỉ thèm,
tự hỏi, và tự trách mình, tại làm sao mà
chưa “đi” Pleiku và Hội An.
Huế cũng
chưa, nhưng lại có 1 kỷ niệm thật thê luơng về Huế. Lần bỏ chạy
quê hương, trên đường từ Sài Gòn tới Lao Bảo, có
nghỉ 1 đêm ở Huế. Buổi chiều, xe chạy trên 1 con cầu, ngó
xuống, thấy xa xa, 1 anh chạy xích lô, dừng cái xế, chìa
cái tay ra cho 1 anh bán ken chích cho 1 phát.
Ui chao,
nhớ hoài.
Ði, ở đây, có
1 “gia nghĩa”, connotation, thật thú vị, và liên quan
tới 1 nhà thơ, bạn của Gấu từ hồi còn đi học. Anh học sư
phạm, ra trường, được bổ về Pleiku. Tuổi trẻ, xa nhà, làm
thơ, sống rất bụi, chẳng có tí giáo sư nào
trong cách sống cả.
Nghe truyền tụng, giường anh nằm, nơi nhà trọ, chăng đầy
nội y của bướm. Mỗi 1 lần đi là xin bướm nội y về treo quanh giường
làm kỷ niệm. Một lần có 1 anh bạn, trưởng 1 cái tầu
hải quân, ghé thăm. Thì lại rủ đi thăm bướm. Trong
câu chuyện anh có nói cho anh bạn biết, học trò
tao có 1 em làm nghề này, 1 lần tao gặp, thầy trò
đều ngượng. Anh trưởng tầu vô ý kể lại cho 1 anh bạn, dân
Pleiku. Anh này lại có 1 đứa con gái học ông thầy,
thi sĩ cà chớn.
Thế là ầm lên.
Ông bạn nhà giáo thi sĩ sau phải đưa đi tỉnh khác.
Thơ
Mỗi
Ngày
Thơ làm khi đi nuôi cá
Gánh cỏ trên vai thơ trong đầu
Trời chớm thu hạ muờng tượng hồng au
Tung hê cỏ vụn trên hồ vắng
Băm nát tình si đều nhịp dao.
[Yên Báy. Bắc Việt]
Thanh Tâm Tuyền
Comme la vie est lente
Et comme l'Espérance est violente (1)
How violently flowers fade.
How awfully slow life is.
Lá thu vàng
mới hung bạo làm sao
Đời lừng khừng mới chán chường thế nào!
http://www.griffinpoetryprize.com/awards-and-poets/shortlists/2005-shortlist/charles-simic/
http://houseofanansi.com/products/the-2016-griffin-poetry-prize-anthology
Poetry is an act of hope - that we
may all recognize our shared humanity.
Richard Blanco
[Bìa
sau]
For a Drowned Poet
after Du Fu
An October wind
has cleared the sky
and the brown waters
clarify their depths.
What might one reflect
in this empty hour?
When will the wild geese
bring their high word?
I whisper with one
fool enough to choose
perfection of the work.
How hell rejoiced.
I mail this poem for him
into the river.
Don Paterson
Dành cho 1 thi sĩ tự trầm
Theo Du Fu
Gió
Tháng Mười
Quét sạch bầu trời
Và những vùng nước nâu
Làm trong chúng, tới tận đáy
Gấu nghĩ gì, ở nơi quán trống vắng, như trên?
Vào cái giờ trống vắng, của một MCNK không hề có?
[Hà, hà!]
Khi nào thì lũ vịt giời
Mang tới
Cái từ, cao thật cao, của chúng?
Gấu thì thầm với một con
Khùng, đủ để mà chọn
Sự toàn hảo của trang Tin Văn
How hell rejoiced
Gấu mail cái bài thơ này
Cho hải âu của Gấu
Thay vì, 1 ngỗng giời!
Note: Du Fu, Lý Bạch ư?
Du Fu là phiên âm latinh của Đỗ Phủ, còn
Lí Bạch là Li Bai, thưa bác!
Kính,
DV
Tôi post, là cũng có ý hỏi DV.
Tuy nhiên, “nhà thơ chết đuối”, thì phải là
Lý Bạch. Hay là tác giả bài thơ, lầm?
Tks
Take Care.
Nhân tiện, btw, by the way, nhớ gửi thơ.
Ăn mừng thượng thọ, như nhà thơ DS, ông con trai của
TTT, dự tính,
đi 1 đường hoành tráng, 10 năm ông anh, đi, tám
bó thằng em, tới?
The Griffin Poetry Prize
Anthology 2016
International Shortlist
NORMAN DUBIE
The Quotations of Bone
The poems in
Dubie's newest collection are deeply oneiric, governed by vigorous leaping
energy that brings the intimate into contact with history, and blurs the
distinction between what is real because it once happened, and what is
real because of the emphatic manner in which it has been felt. Longtime
admirers of Dubie will certainly recognize the familiar mind and spirit
able to punch through the surface of experience and into deep psychic quandary
with a single revelatory gesture ("Did you ever want to give someone /
/ All your money?") - but that tendency is greatly amplified here. One feels
the unconscious mind working ceaselessly, even playfully, alongside memory,
imparting the poems as if with a strange and consoling living spirit. This
makes for a heightened sense of mystery and mortality in poems of private
experience. And when such an impulse is aligned with public history - the
division of Germany, say, or the acceleration of the planet's ecological
crisis - it is outright haunting. Dubie's uncontested mastery of the lyric
poem has, in this collection, broken into strange and revelatory territory.
The Novel
as Manuscript
An ars poetica
I
remember the death, in Russia,
of postage stamps
like immense museum masterpieces
patchwork
wrapped in linen, tea stained,
with hemp for strapping ...
these colored stamps designed for foreign places
were even printed during famine -
so when they vanished, so did the whole
Soviet system:
the Berlin Wall, tanks from Afghanistan,
and Ceausescu's bride before a firing squad.
It had begun with the character ofYuri Zhivago
in a frozen wilderness, the summer house
of his dead in-laws, his
pregnant mistress asleep .
before the fireplace
with flames dancing around a broken chair, piano keys,
and the gardener's long black underwear.
Lara lying there. A vulgar fat businessman
coming by sleigh to collect her for the dangers
of a near arctic escape ...
But for Yuri, not that long ago, he was
with celebrity,
a young doctor publishing a thin volume
of poems in France, he was writing
now at a cold desk
poems against all experience
and for love of a woman buried
in moth-eaten furs on the floor -
while he wrote
wolves out along the green tree line
howled at him. The author of this novel,
Boris Pasternak, arranged it all. Stalin would
have liked to have killed him. But superstition kept him from it.
So, the daughter of Pasternak's mistress eventually
is walking with a candle
through a prison basement -
she is stepping over acres of twisted corpses
hoping to locate her vanished mother ...
she thinks this reminds her of edging slowly
over the crust on a very deep snow, just a child who believes
she
is about to be swallowed by the purity of it all,
like
this write your new poems.
http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/2.html
Mặt Trời Lặn ở Fossoli
Tôi biết, nghĩa là
gì, không trở về.
Qua
những hàng rào kẽm gai
tôi
nhìn thấy mặt trời xuống và chết
Và
da thịt tôi như bị xé ra
Bởi
những dòng thơ của một thi sĩ già:
“Mặt
trời thì có thể lặn và mọc
Nhưng
chúng tôi, ngược hẳn lại
Ngủ,
sau 1 tí ánh sáng ngắn ngủi,
Một
đêm dài ơi là dài”
Tháng Hai, 7, 1946
Primo Levi
In the Library
For Octavio
There’s a book called
”A Dictionary of Angels.”
No one has opened it in fifty years,
I know, because when I did,
The covers creaked, the pages
Crumbled. There I discovered
The angels were once as plentiful
As species of flies.
The sky at dusk
Used to be thick with them.
You had to wave both arms
Just to keep them away.
Now the sun is shining
Through the tall windows.
The library is a quiet place.
Angels and gods huddled
In dark unopened books.
The great secret lies
On some shelf Miss Jones
Passes every day on her rounds.
She’s very tall, so she keeps
Her head tipped as if listening.
The books are whispering.
I hear nothing, but she does.
Trong thư viện
Gửi Octavio
Có 1 cuốn sách
kêu là
Từ điển thiên
thần
Năm muơi năm không có ai đụng vô
Gấu biết, ấy là vì khi mở ra
Cái bìa kêu “cục” 1 phát,
Những trang giấy bở ra.
Và Gấu khám phá
Thiên thần ngày
xưa nhiều lắm
Như muỗi rừng Cà Mâu thời Miền Nam Sâu Thẳm
Vào buổi chiều, chúng bay đặc trời
Bạn phải lấy cả hai tay xua
Để chúng bỏ đi
Bây giờ, mặt trời chói
chang
Qua những khung cửa sổ cao
Thư viện lặng lẽ
Thiên thần, thánh thần
Bèn chui vô những cuốn sách đóng kín,
tối thui
Niềm bí ẩn lớn nằm
Trong kệ sách nào đó
Miss Jones mỗi ngày
Đi vòng vòng
Em cao ơi là cao
Em bèn cúi cái đầu
Như thể đang lắng nghe
Những cuốn sách thì thầm
Gấu chẳng nghe thấy cái chó gì hết!
Nhưng Em, nghe.
Note: Quên không
ghi tên tác giả, nhưng cứ đinh ninh là của Charles
Simic.
Bèn gõ đầu Bác Gúc.
Quả đúng như thế:
https://www.poets.org/poetsorg/poem/library
Bác Gúc khủng khiếp thật!
ARS POETICA
To look at the river made of
time and water
And remember that time is another river,
To know that we are lost like the river
And that faces dissolve like water.
To be aware that waking dreams
it is not asleep
While it is another dream, and that the death
That our flesh goes in fear of is that death
Which comes every night and is called sleep.
To see in the day or in the
year a symbol
Of the days of man and of his years,
To transmute the outrage of the years
Into a music, a murmur of voices, and a symbol,
To see in death sleep, and in
the sunset
A sad gold-such is poetry,
Which is immortal and poor. Poetry
Returns like the dawn and the sunset.
At times in the evenings a face
Looks at us out of the depths of a mirror;
Art should be like that mirror
Which reveals to us our own face.
They say that Ulysses, sated
with marvels,
Wept tears of love at the sight of his Ithaca,
Green and humble. Art is that Ithaca
Of green eternity, not of marvels.
It is also like the river with
no end
That flows and remains and is the mirror of one same
Inconstant Heraclitus, who is the same
And is another, like the river with no end.
-W.S.M.
J.L. Borges
ARS POETICA
Nhìn dòng sông
dệt bằng thời gian và nước
Bèn ngộ ra thời gian là 1 dòng sông
khác.
Và ngộ thêm ra rằng chúng mình thì
cũng sẽ mất nhau, như dòng sông
Và khuôn mặt đôi ta rã ra như là
nước
Và để ý rằng thì
là, những giấc mộng thức, thì không phải là
ngủ
Nó là một giấc mộng khác,
Rằng cái chết,
Cái chết mà xác thịt chúng ta sợ hãi
nó,
Là cái chết hàng đêm chúng ta
quen gọi là giấc ngủ.
Là nhìn ra, trong
ngày, hoặc trong năm, một biểu tượng
Của những ngày của người, và những năm của nó
Thế là bèn chuyển hóa cơn giận dữ của những
năm
Vào âm nhạc, vào tiếng thì thầm, vào
một biểu tượng
Để nhìn ra trong giấc
ngủ sâu như cái chết, trong hoàng hôn,
Một nỗi buồn vàng – và cái đó gọi
là thơ ca của Miền Nam, là nhạc sến
Nó thì mới bất tử, và nghèo nàn
làm sao. Thơ
Trở lại như rạng đông và hoàng hôn.
Có những lúc vào
buổi chiều, một khuôn mặt
Nhìn chúng ta từ những chiều sâu thăm thẳm
của 1 chiếc gương
Nghệ thuật thì như thế đấy,
Như tấm gương đó
Nó vén lên, như 1 em vén váy,
làm lộ ra cho chúng ta,
Bộ mặt riêng của chúng ta
Một bướm đẹp tuyệt trần
Người ta nói là
Anh Cu Gấu,
Chán chường những điều huyền diệu của tụi mũi lõ,
Và quá tởm Lò Thiêu
Khóc những giọt nước mắt thương yêu khi nhìn
thấy Xề Gòn
Xanh vô cùng, khiêm tốn vô cùng
Nghệ thuật là Xề Gòn đó
Xề Gòn của Niềm Xanh Vĩnh Cửu.
Đếch phải những huyền diệu, kỳ tích.
Nó cũng là dòng
sông chẳng tận cùng
Trôi đi và ở lại và là tấm gương của
vẫn một
Heraclitus không hằng hằng,
Kẻ vẫn thế,
Và kẻ khác,
Như dòng sông không tận cùng.
ELEGY
Three very ancient faces stay
with me:
one is the Ocean, which would talk with Claudius,
another the North, with its unfeeling temper,
savage both at sunrise and at sunset;
the third is Death, that other name we give
to passing time, which wears us all away.
The secular burden of those yesterdays
from history which happened or was dreamed,
oppresses me as personally as guilt.
I think of the proud ship, carrying back
to sea the body of Scyld Sceaving,
who ruled in Denmark underneath the sky;
I think of the great wolf, whose reins were serpents,
who lent the burning boat the purity
and whiteness of the beautiful dead god;
I think of pirates too, whose human flesh
is scattered through the slime beneath the weight
of waters which were ground for their adventures;
I think of mausoleums which the sailors
saw in the course of Northern odysseys.
I think of my own death, my perfect death,
without a funeral urn, without a tear.
-A.R.
J.L. Borges
Bi Khúc
Có những khuôn mặt
từ đời nào đời nảo
Ở hoài với tôi:
Một là Đại Dương, lèm bèm hoài với
Claudius
Cái nữa, là Miền Bắc, với cái tính
khí cà chớn của nó,
hung dữ, man rợ, cả vào rạng đông cũng như hoàng
hôn
Cái nữa, là, Thần Chết,
Một cái tên khác mà chúng ta
ban cho
Thời gian,
Nó lẵng nhẳng như đỉa đói, có bao giờ tha
làm phiền chúng ta đâu?
[Kiếp trước mi đúng là con đỉa
Như 1 nữ thi sĩ mắng Gấu Cà Chớn
Nên kiếp này mi làm phiền ta hoài,
Ta bận chồng, bận con
Bận làm thơ,
Đâu có thì giờ dành cho mi]
Cái gánh nặng trường kỳ của những ngày hôm
qua
của lịch sử, xẩy ra, hoặc, mơ xẩy ra.
Chúng đè dí tôi xuống, riêng
tư, cá nhân, như là tội lỗi.
HAIKU
The endless
night
is now nothing more
than a scent.
Đêm vô tận
Còn gì đâu
Ngoài mùi thơm
Của một bông hồng?
*
Is it or isn't it
the dream I forgot
before dawn?
Có hay không
Một giấc mộng
Mà Gấu quên
Khi trời chưa kịp/vội sáng ?
*
The sword at rest
dreams of its battles.
My dream is something else.
Cây gươm nằm ngơi
Mơ những trận đã từng giết người của nó
Gấu mơ, ngược lại.
*
The man has died.
His beard doesn't know.
His nails keep growing.
Gấu ngỏm
Râu và tóc của Gấu
Đếch biết
Cứ mọc ra dài dài
*
Under the moon
the lengthening shadow
is all one shadow.
Dưới ánh trăng
Thì vẫn chỉ có cái bóng của Gấu
Cứ thế trải trải dài
*
The old hand
goes on setting down lines
for oblivion.
Tay tên Gấu già
Cứ gõ Tin Văn hoài hoài
Mần mò lãng quên
J.L. Borges: Poems of the Night
Nếu một mai
Thơ ĐLK
Đóa vạn sầu
Cơn gió chiều nay đổ
Em, một mình viễn phương
Đôi mắt nhầu sương phủ
Chân ngây ngây phố người
Khóc một đời nước mặn
Cười một thưở vô ngôn
Bao lần ngày sỏi đá
Nở những đóa vạn sầu
Đài Sử
Note: Mấy bài thơ trên
lướt Tin Văn, vớ được. Hai bài thơ của K, là từ thuở
chưa có art2all
Borges viết về khoảnh khắc xém
lên chuyến tàu suốt của GCC ở bên ngoài khu
Phước Lộc Thọ:
The Suicide
Not a single star will be left
in the night.
The night will not be left.
I will die and, with me,
the weight of the intolerable universe.
I shall erase the pyramids, the medallions,
the continents and faces.
I shall erase the accumulated past.
I shall make dust of history, dust of dust.
Now I am looking on the final sunset.
I am hearing the last bird.
I bequeath nothingness to no one.
-A.R.
Đi Xa
Đêm nay Gấu sẽ không
cho phép ngôi sao nào được bỏ lại ở trên
bầu trời
Đêm cũng đếch được bỏ lại
Gấu sẽ đi xa, và, cùng với Gấu
Là cái sức nặng đếch làm sao chịu đựng
nổi của vũ trụ
Gấu sẽ xoá sạch những kim tự tháp
Những cái mề đay, nhất là cái của cái
tên Nobel Toán người xứ Bắc Kít
Những đại lục, và những khuôn mặt.
Gấu sẽ xóa sạch quá khứ được tích tụ
từ bốn ngàn năm của xứ Mít –
như vậy đủ rồi, với Gấu Cà Chớn –
Gấu sẽ làm cho lịch sử Mít biến thành
bụi, bụi của bụi.
Và bi giờ, Gấu đối diện với buổi mặt trời lặn lần
cuối cùng
Ở bên ngoài khu Phước Lộc Thọ, ở thủ đô
lưu vong của giống Mít.
Gấu nghe tiếng chim cuối cùng
Gấu đếch thèm để lại chúc thư văn chương cho
bất cứ thằng chó nào!
Hà, hà!
Romania
Herodotus once said that
Our ancestors, the Tracs
Might have become all-powerful
If each did not against the other fight.
But for them, there was never
a desire for unity.
Gods in vain have told them to relent.
They have fought, and fight again.
We, descendants of their blood,
Have walked their roads for centuries.
But never, and nowhere
Have we found the healing flowers.
To argue is our way
as their cursed schemes remain.
We are wedded to the conflicts
That Herodotus knew well.
ALEXANDRU CETATEANU
Asia
Literary Review. Winter 2009
ALEXANDRU
CETATEANU was born in Romania, which
he escaped during the Ceausescu regime to Canada where he now lives.
He edits Destine Literare and runs Scricorii
Romani, an association of expatriate Romanian writers. Cerateanus
published works include A Romanian in Canada
(Helios, 1995), Canada- Country of Hyperboreans (Amim Ivireanul/Edition
Langues et Cultures Européennes, 2004), and A Foreigner
in America (Junimea, 2007).
ALEXANDRU CETATEANU gốc Romania, bỏ chạy quê hương,
chuồn qua Canada.
Xứ Mít
Sử gia Ngô Sĩ Liên
có lần phán
Giống Mít đúng ra là
Đả Biến Thiên Hạ Vô Địch Thủ
Nếu chúng đừng đâm chém lẫn nhau
Nhưng với lũ Mít
Chẳng hề có chuyện kết hợp thành 1 khối
Thần Thánh năn nỉ chúng hoài
Hãy tha thứ cho nhau, hãy thư thả,
Đừng giết nhau dữ quá,
Ít ít thì còn được!
Chúng đâu có chịu nghe.
Chúng ta, lũ hậu duệ của
Con Rồng Cháu Tiên,
Không thể ở với nhau đời đời được
Có cái máu làm thịt lẫn nhau
từ thời dựng nước
Và cứ tiếp tục con đường máu của tổ tiên
để lại hoài
Tìm hoài, tìm
hoài,
Chẳng bao giờ, và chẳng nơi đâu,
Những bông hoa chữa lành
Vết thương hình chữ S
Cái Xứ mình nó
thế
Sử gia họ Ngô biết rất rành điều này
Hà, hà!
Note: Tình cờ lật số
báo cũ, thấy bài thơ, hồi chưa mê thơ. Cũng
trong số báo này, có bài điểm cuốn
sách viết về cuộc tình giữa Pasternak và
Tsvetaeva.
Tác giả bài điểm sách
cho biết Tsvetaeva là nhân vật Lara, trong
Bác Sĩ Zhivago: T. became a main
prototype for Lara in Doctor Zhivago, the novel which
Pat completed almost 15 years after her suicide.
Cái Chết
Của Một Thi Sĩ
Marina Tsvetaev
Trong “Trò chuyện với
Brodsky”, của Solomon Volkov, có 1 chương dành
cho Marina Tsvetaeva.
Brodsky coi Tsvetaeva là “nhà
thơ thứ nhất của thế kỷ 20”, nhà thơ của thời trẻ tuổi
của ông, và thơ của bà, có tính
Calvinistic, và ông giải thích, Calvinism thì
cũng đơn giản thôi: đó là 1 người bám
chặt vào chính mình, với ý thức và
lương tâm của mình. Theo nghĩa này, thì
Dos là 1 Calvinist. Nói ngắn gọn, Calvinist là
1 kẻ lúc nào cũng phán Ngày Tận Thế, chống
lại anh ta.
Brodsky cho biết, ông đọc
thơ Tsvetaeva, khi ông 19, hoặc 20. Không phải trong
những cuốn sách mà đặc biệt là trong những
bản in dưới hầm, but exclusively in samizdat typescript. Ông
không nhớ là ai đưa cho ông, và khi đọc
“Thơ núi”, “Poem of the Mountain” mọi thứ clich 1 phát,
everything clicked. Chưa từng có gì đọc trước đó,
ở Nga, gây ấn tượng như vậy: Nothing I’ve read in Russian has produced
such an impression…. Tất cả thi ca của bà có thể giản
lược, qui về câu này, If the content of Tsvetaeva’s poetry
could be reduced to some formula then it’s this:
To your insane world
But one reply – I refuse
Bài trò chuyện này cũng
thật là tuyệt, và quái làm sao, Gấu
nhận ra, 1 cái gì đó, ở TTT, ở đây,
qua cái thái độ quá nghiêm khắc với
chính mình của ông.
Lũ bạn bè của ông, sở dĩ quê
ông, cũng vì cái cú, "I refuse", y
chang!
Có vẻ như sau cùng,
ông cũng có 1 người bạn, qua DC - như GCC, qua
Joseph Huỳnh Văn.
Một tên đủ rồi.
Vị bằng hữu K. của trang TV, chúc GCC
nhân 1 SN, chẳng cần thằng nào, chẳng nghĩ đến
thằng nào, lõ cũng như tẹt, chỉ mần thơ là
được rồi!
OK Salem!
Tks
NQT
THANH TÂM
TUYỀN
(1936-2006)
Âm Bản
(1)
... See More
THANH TÂM
TUYỀN
(1936-2006)
Âm Bản
Mémoire
est le rassemblement de la pensée fidèle.
(M. Heidegger)
[Hồi ức là gom góp tư tưởng trung thực. GCC
tạm dịch]
J’ai dit facile
et ce qui est facile
c’est la fidélité
(P. Eluard)
Tớ nói dễ ợt, và cái dễ ợt là
cái trung thực, chính xác
ÓNG
ÁNH HƯ NGỤY
Mỗi phen cầm
bút viết về văn chương — làm một thứ văn chương trên
văn chương — tôi hiểu rõ mình đang sống thời
buổi khủng hoảng. Văn chương nhất thiết là hồn nhiên,
ngây thơ hay không, tôi chẳng rõ. Nhưng đối
với tôi khi nó cần trông thấy nó qua phản
ánh của nó, không thể phủ nhận là nó
đang truỵ lạc, sa đoạ. Nhất là buồn bã.
Mỗi phen, tôi đều lập lại với tôi khẩu hiệu:
Enfin, j’écris. Enfin, đó là tín hiệu của
người bạn thân phát ra giúp tôi nhận biết
anh ta bắt đầu say. Trong cuộc rượu của chúng tôi đã
tới một thời điểm gay cấn, hãy nhận Enfin, báo động cho bạn
bè, những kẻ ngồi chung cuộc, rằng: bất ổn, bất ổn, chán
quá, chán quá, tôi quyết định đẩy cơn say
đến cùng, đánh đắm mình vào mông lung,
mù mờ, hỗn độn. Như Hamlet kêu: “The time is out of joint”
(Thời gian đã ly tán). Như Hamlet, chẳng còn hiểu
đời sống, hươi gươm đâm chết nàng Ophélia. Cơn khùng
điên óng ánh những mảnh minh trí vỡ nát,
những mảnh sao băng miệt mài, không một giây đốn
ngộ, từ khước đốn ngộ — chẳng thể ôm ấp đời sống mênh mông
vô hạn. Đó định mệnh của văn chương trên văn chương,
nỗ lực soi rọi mù mờ bằng những ánh mù mờ, nỗ lực
kết tập thời ly tán bằng những đun đẩy ly tán.
Enfin, j’écris. Enfin, je crie.
Thảm thiết chưa, cũng lố bịch chưa, văn chương kêu
la tắt tiếng trên văn chương. Văn chương soi bóng làm
bộ làm tịch trước văn chương. Mỗi phen tôi đều nổi
da gà, nhờm tởm, thấy mình đang đóng vai chủ
chứa trong tấn kịch Bao Lơn (Le Balcon) của Genet. Trong nhà
chứa của mụ này, mỗi phòng được bài trí
một kiểu dành riêng cho một vai nhất định mà khách
chuộng đóng — tu sĩ, tướng lãnh, quan toà, cách
mạng — với đầy đủ y trang và các thứ phụ tùng
cần thiết để đóng trò — mọi trò điển hình
của dục tính thác loạn — nữ nhân là phụ
tùng thiết yếu, nhưng phòng nào cũng có
gắn gương để cho các đương sự có thể nhìn ngắm mà
sửa bộ.
Ngôi nhà chứa ở trong một thành phố
dấy loạn. Và trên bao lơn của nhà chứa, khách
làng chơi và gái giang hồ dẹp loạn.
Note: Enfin, đó là tín
hiệu của người bạn thân phát ra giúp tôi
nhận biết anh ta bắt đầu say.
"Anh ta", như GCC còn nhớ được, là Thạch Chương.
http://tanvien.net/TV_Journal_new/12.html
Hiện Tượng Bóng Đè
The Balcony, [Ban công, Bao Lơn],
kịch nổi tiếng của "Thánh" Genet.
Thánh, là do Sartre phong cho ông.
Genet viết kịch
này, ấn bản thứ nhất, vào năm 1955. Kịch xẩy ra tại
Bao Lơn Lớn, Le Grand Balcon, một nhà bướm, khách của
nó, tầng lớp tinh anh của thành phố, của chế độ, của
tôn giáo... Họ tới để được bướm hành hạ, chửi
mắng, xỉa xói, đánh đập. Sau khi được hành, cả
phần xác lẫn phần hồn, tới chỉ như thế, họ thảnh thơi ra về,
được thanh hoá, và phạm tội tiếp. Mắm mì, chủ nhà
bướm - căn nhà của những ảo tưởng, the house of illusions - tên
là Irma. Những nhân vật khi xuất hiện, thường lập đi lập
lại những "ẩn dụ" liên quan tới cuộc cách mạng đang diễn
ra dưới phố. Một trong những bướm, Chantal, trốn nhà bướm tham gia
cách mạng và trở thành biểu tượng của Tự Do.
Cách mạng thành công, làm thịt
Vua và Hoàng Hậu, trùm Công An bèn
thay thế Hoàng Hậu bằng mắm mì Irma....
Gấu tui không hiểu, Đỗ Hoàng Diệu đã
từng đọc "The Balcony"?
Thiên hạ khen Bóng
Đè um lên, bởi là vì ĐHD đã
"viết giùm" những ẩn ức, những ẩn dụ cho họ?
Đọc Bóng Đè,
theo một nghĩa nào đó, là trở thành khách
hàng của Bóng Đè
[của The Balcony]?
Được đến The Balcony,
được hành xác, và sau đó, được thanh hoá?
Những đao phủ, thay vì ngồi thiền, thì đọc...
Bóng Đè?
Gấu sợ rằng, những quán chửi ở Hà Thành,
là đã nắm đúng huyệt của thời đại, đi đúng
giòng văn học tự kiểm, tự vấn với những NHT chẳng hạn.
Ông này chẳng phải chửi um lên, mà
gạt đi không hết độc giả?
*
Le mauvais gout mène au crime [Stendhal].
Thưởng ngoạn dởm đưa đến tội ác.
Trong nhiều năm
Genet mơ tưởng viết một vở kịch về Tây Ban Nha, và Bao
Lơn bật ra từ ao ước đó:
"Điểm xuất phát Bao Lơn được ấn định là
Tây Ban Nha. Một Tây Ban Nha của Franco, và cuộc
cách mạng tự thiến chính nó, là của tất cả
đám Cộng Hoà, khi họ chấp nhận thua trận."
"Nhưng sau đó, vở kịch cứ thế triển nở, mặc xác,
chẳng thèm để ý đến Tây Ban Nha: Kịch đi đằng kịch,
Tây Ban Nha đi đằng Tây Bán Nhà! [And then
my play continued to grow in its own direction and Spain in another]."
Rõ ràng là Trùm Công An
có thể coi như Franco, nhà độc tài, Roger, những
anh em cách mạng, Chantal, cô bướm bỏ nhà điếm
đi theo cách mạng: cuộc đời ngắn ngủi của nền Cộng Hòa.
Và mắm mì Irma: Tây Ban Nha đích
thị đất nước thân yêu của chúng ta!
Nhìn như thế, có thể giải thích, con
đường từ NHT đến ĐHD, và liệu có thể đây là
lý do thầm kín tại sao vẫn lại là NN làm
bà đỡ cho tài năng mới mẻ này: Thất bại của một
Tướng Về Hưu phát sinh một Bóng
Đè? Hay nói theo kiểu "bỗ bã" đặc biệt NHT:
Tướng Về Hưu bị thiến biến thành Bóng
Đè, hay ngược lại, Bóng Đè là
một trường hợp "quá cái biến thành đực", "âm
thịnh dương suy"?
Trong những kỳ tới Tin Văn sẽ giới thiệu bài phỏng
vấn Genet, và trường hợp Bao Lơn được dàn dựng,
phản ứng của chính tác giả với đứa con của mình,
khi qua tay đạo diễn, và của khán thính giả. Có
vẻ như, nó sẽ đưa ra thêm một ý kiến cho cuộc tranh
luận chung quanh vấn đề tác giả có nên bảo vệ tác
phẩm của mình, hay là kệ mẹ nó, ai muốn hiểu thế
nào thì hiểu
Cali 2012 With H/A
Bỗng nhớ… Sad
Seagull và những ngày tá túc ở nhà
ông bạn Bạn, ở Tiểu Xề Gòn, và lời dặn dò
của ông:
Ông về chuyến này, phải viết về kịch. Hoặc
tệ lắm, dịch Kịch!
Bỗng nhớ đến Bao Lơn, và những buổi sáng
chỉ có hai anh em, là Ông Số 1, “Đông Phương
Bất Bại” – nick nhà thơ kẹo mứt ban cho ông, và
thằng em, tên “sa đích văn nghệ” –cũng NS ban cho
- ở Quán Chùa, Xề Gòn.
Ông phán, Kịch mới đứng đầu cõi giang
hồ gió tanh mưa máu.
Và “Bao Lơn”, và 1 trong những đỉnh của nó.
Bi giờ, đọc lại, thì
mới hiểu, tại sao TTT mê Le Balcon:
Nó là/ làm nhớ đến, cái không
khí bị vây hãm của Xề Gòn, hồi đó.
Trong Bao Lơn,
cũng có 1 ông HPNT, sát thủ số 1 của Mậu Thân
Huế ngày nào.
"Rotten with genius", thối rữa với thiên tài.
Céline phán, về “Thánh Jean Genet" [chữ của Sartre]
Wed, Oct 2, 2013
Hello
Đừng viết kịch, đừng viết “tỉu
thiết”, và cũng cóc cần “triện ngắn”.
Chỉ cần Gấu lèm bèm về “thời của mình”,
và “hiện tại chán nản” là đủ tuyệt vời...
I know that I won't be able to
stop you if you want to post my words on TV. Please don't use my hand writing
letter. Please type and post.
Best regards,
Sad Seagull
Đầu năm thấy mấy
bài thơ dán trên Gio-O có vẻ đẹp
ra,người mần ra nó cũng thấy đường mương ống cống trên
mặt mình mờ lặn đi bớt.
Hổng biết nhà thơ họa Nguyễn Man Nhiên
có thấy tranh mình vậy không.
Cám ơn Việt Văn Đà Lạt, chủ
biên GIÓ-O.
Hiếm khi chủ nhân trang TIN VĂN khen
ai, xin đa tạ như một sự khích lệ quý báu.
Chúc bác Quoc
Tru Nguyen an lành, hạnh phúc, viết càng
uyên bác nhân mừng năm mới.
http://www.gio-o.com/Chung2/NguyenThuySongThanhCamTayHon.htm
cầm tay hôn biết địa chỉ
Hôn tay xong ngàn thu sau
Chẳng bao giờ còn thấy nhau
Linh hồn em anh đã giữ
Đem đi đâu đi đâu
Đi đâu
Note: Bạn có thể sử dụng những gì
mà Borges viết về Robert Frost, qua mấy bài thơ
Tin Văn vừa giới thiệu, Làm quen với Đêm,
Dừng ngựa bên rừng chiều tuyết phủ, Kinh Cầu..... cho
bài thơ của vị nữ thi sĩ, phu nhân nhà thơ Khoa
Hữu. Như cái tập sách Anh Văn vỡ lòng mà
Gấu vớ được ở Trại Tị Nạn, lấy câu thơ của Frost làm
nhan đề, Lời Hứa Để Giữ, Promises To Keep: GCC
cũng lấy cụm từ đó làm cái entry cho mẩu
viết này.
Mít chúng ta quả là có
những lời hứa phải giữ.
GCC, dịch bài thơ tiếng Anh đầu tiên
trong đời, của Frost, là cũng có ý đó.
"And miles to go before I sleep/
And miles to go before I sleep.
"And miles to go before I sleep/
And miles to go before I sleep." There we see that the same
words have two different meanings. In the first of the last two
verses, the words stand for miles and going and sleeping. And in the
last line, sleep stands for death.
And that, I think, is the chief achievement
of Frost. He could write poems that seem simple, but every time
you read them you are delving deeper and finding many winding paths
and many different senses. So Frost has given us a new idea of metaphor.
He gives us metaphor in such a way that we take it as a simple, straightforward
statement. And then you find that it is a metaphor. "And miles to go
before I sleep/ And miles to go before I sleep." There we see that the
same words have two different meanings. In the first of the last two
verses, the words stand for miles and going and sleeping. And in the
last line, sleep stands for death.
Và đó là thành
tựu “lớn nhất, chủ, trùm...” [chief] của Frost. Ông
có thể viết những bài thơ xem ra thì thật
giản dị, nhưng mỗi lần chúng ta đọc, là mọi lần chúng
ta đào bới sâu thêm, và tìm ra không
biết bao nhiêu là lối đi, và nghĩa
nghiếc khác nhau.
Và thế là thi sĩ đem tới cho
chúng ta 1 ý nghĩa mới về ẩn dụ. Ông cho
chúng ta ẩn dụ, theo cái cách mà chúng
ta coi nó như là 1 phát biểu tự nhiên,
giản dị, thẳng 1 lèo. Và thế rồi, bạn ngộ ra, đây là 1 ẩn dụ:
Cầm tay hôn 1 phát
Là biết được địa chỉ
Là đã ngàn thu sau!
Ông [Borges] đồng ý với…
Gấu, ẩn dụ không
đơn giản, nhiều khi, tưởng là ẩn dụ, nhưng thực sự, là
đốn ngộ, là mặc khải.
Dũng trong “Đôi Bạn”, 1 buổi trưa hè
“Ôi nắng vàng sao mà nhớ nhung", nhìn
sang nhà hàng xóm, thấy cái áo
cánh trắng phất phơ bay trong gió, ngạc nhiên
tự hỏi, áo ai nhỉ, và nhớ ra là Loan, đi
học Hà Nội, nghỉ hè, về.
Khám pháp đó chỉ là
bề mặt, giản dị!
Bề sâu, "siêu hình
mà nói", Dũng khám phá
ra tình yêu của mình!
ROBERT FROST
NEITHER OUT FAR
NOR IN DEEP
The people along the sand
All turn and look one way
They turn their back on the land.
They look at the sea all day.
As long as it takes to pass
A ship keeps raising its hull;
The wetter ground like glass
Reflects a standing gull.
The land may vary more;
But wherever the truth may be-
The water comes ashore,
And the people look at the sea.
They cannot look out far.
They cannot look in deep.
But when was that ever a bar
To any watch they keep?
Không xa mà cũng chẳng
sâu
Đám người dọc
theo cát
Tất cả quay và nhìn
một phía.
Lưng xoay vô đất
Mắt nhìn biển cả ngày.
Con tàu dâng thân
lên
Chừng nào nó đi
qua
Thân tầu, lóng lánh
như mặt gương,
Phản chiếu một hải âu đứng
sững.
Đất có thể tang thương
như thế nào
Một khi sự thực thì như
thế nào đó –
Nước vẫn tạt vô bờ
Và mọi người nhìn
ra biển
Họ không thể nhìn
xa
Họ không thể nhìn
sâu
Nhưng liệu có 1 cái
kè đá nào
Cho bất cứ 1 cái nhìn
mà họ giữ?
Phản chiếu một hải âu
đứng sững.
Tuyệt!
Tất nhiên, với riêng Gấu!
trapped
don't undress my love
you might find a mannequin;
don't undress the mannequin
you might find
my love.
she's long ago
forgotten me.
she's trying on a new
hat
and looks more the
coquette
than ever.
she is a
child
and a mannequin
and
death.
I can't hate
that.
she didn't do
anything
unusual.
I only wanted her
to.
Mắc bẫy
Đừng lột truồng em của tớ nhe
Mi sẽ thấy một ma nơ canh;
Đừng cởi truồng ma mơ canh
Mi sẽ thấy BHD của tớ
Nàng quên tớ từ thuở
Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ
rùi
Nàng thử cái nón mới
Ôi duyên dáng làm sao
Với cái răng khểnh!
Nàng là đứa bé
Và ma mơ canh
Và cái chết
Làm sao tớ có thể thù ghét,
một điều như thế
Nàng không làm điều gì
bất thường
Tớ chỉ muốn nàng như thế
dog
a single
dog
walking alone on a hot sidewalk
of
summer
appears to have the power
of ten thousand gods.
why is this?
Gấu Chó
Gấu Chó cô đơn
Một mình xuống phố Xề Gòn
Một ngày hè nóng bỏng
Có vẻ như nó có đủ quyền uy
Của ít nhất 1 ngàn vị thần
Why is this?
Thì thế mới là Gấu Chó, Gấu
Cà Chớn, Gấu Nhà Văn chứ!
Old Goat
A pretty young woman disfigured
by
Disappointment, anger, cocaine.
A quick-witted man made stupid by debt.
These things have I lived to see,
Said the wise old goat,
Ruminant, sign of the zodiac too.
Crazy old goat on a heap of trash,
In his nostrils a fly.
Crazy old goat on a heap of trash,
A chamois ram on his alp,
In his ears the crack of heads butting.
Slipping, he says, I'm not falling.
Falling, he says, I leap.
BEN SONNENBERG
TLS AUGUST 3 2007
Gấu già, Cừu già
Một thiếu nữ trẻ, đẹp biến thành
quỉ
Bởi bực mình, cáu giận, và
ma tuý
Một chàng trai thông minh lanh lẹn,
biến thành tên ngu đần
Nợ
Mấy trò dâu bể như thế, tớ đã
sống và chứng kiến suốt cuộc đời bể dâu của tớ!
Tên Gấu Già thông thái,
uyên bác – mấy từ này độc giả TV thân
tặng -
Ngồi lẩm bẩm, nhai đi nhai lại trang Tin Văn của
nó.
Tên Gấu Già khùng ngồi ngất
ngưởng trên đỉnh 1 đống rác ở Chợ Cũ
Giang sơn của nó
Ở lỗ mũi của nó, có 1 con ruồi đang
nằm phê xì ke
Nè, té bi giờ!
Nó vặc lại
Làm sao té?
Người như tớ không thể té, vấp ngã,
sa sẩy được
Cứ đến giây phút chót
Tớ nhảy 1 phát!
Note: Tình cờ lật số
báo cũ, thấy bài thơ, hồi chưa mê thơ. Cũng
trong số báo này, có bài điểm cuốn sách
viết về cuộc tình giữa Pasternak và Tsvetaeva.
Tác giả bài điểm sách cho
biết Tsvetaeva là nhân vật Lara, trong Bác
Sĩ Zhivago: T. became a main prototype for Lara in Doctor
Zhivago, the novel which Pat completed almost 15 years after
her suicide.
López Lecube: Khi nào ông thực sự cảm thấy
bronca?
Borges: Từ đó nặng quá!
LOPEZ LECUBE: When precisely do you feel
that bronca? (1)
BORGES: No, bronca is too strong a word.
LOPEZ LECUBE: You never feel bronca?
BORGES: I don't know, bronca is lunfardo
for anger isn't it? I don't know, no, not anger, sometimes
I feel deflated, but that's natural, and at my age ... old age
is a form of deflation too, but why be angry about it? It's no one's
fault.
(1) A slang word for "frustration" or "anger."
Bài thơ nào của ông mà
ông cực khoái? Tại sao? Bài bảnh về ông?...
Borges: Tớ đếch khoái thơ của tớ về tớ. Tớ
khoái bài sonnet của tớ về Spinoza. Tớ viết hai sonnets
về ông ta, có 1 dòng như vầy, Một người đàn
ông sáng tạo ra Chúa ở trong bóng tối,
người đàn ông đó, là Spinoza, who engenders
God, his God, made of an infinite substance whose tributes will be
infinite.
Nếu bi giờ chúng ta đang ở thư viện của ông,
bài thơ nào ông muốn tôi đọc cho ông
nghe?
Bài của Robert Frost
Acquainted with the Night
By Robert Frost
I have been one acquainted with
the night.
I have walked out in rain—and
back in rain.
I have outwalked the furthest
city light.
I have looked down the saddest
city lane.
I have passed by the watchman
on his beat
And dropped my eyes, unwilling
to explain.
I have stood still and stopped
the sound of feet
When far away an interrupted
cry
Came over houses from another
street,
But not to call me back or say
good-bye;
And further still at an unearthly
height,
One luminary clock against the
sky
Proclaimed the time was neither
wrong nor right.
I have been one acquainted with
the night.
Làm quen với đêm
Tớ
là kẻ làm quen với đêm
Tớ bước ra ngoài mưa, rồi trở lại trong mưa
Tớ lang thang thật xa, xa nhất, ánh sáng thành
phố
Tớ nhìn xuống lối đi buồn nhất thành phố
Tớ đi ngang qua một người gác đêm đang đi tuần
Mắt xịu xuống, tớ không tính phân trần
với ông ta
Tớ đứng sững, và bèn ngưng tiếng chân
của tớ
Khi xa xa vọng tới một tiếng khóc nức nở
Vượt qua những mái nhà, từ một con phố khác
Nhưng không kêu tớ trở lại, hay nói, bye
bye
Và vẫn xa ơi là xa, ở một nơi chốn thật cao,
không thuộc cõi trần tục này
Một cái đồng hồ treo tường lấp lánh chống lại
bầu trời
Đòi điệc, cấm kiếc thời gian thì đếch sai,
đếch đúng, cái con mẹ gì hết
Tớ là một kẻ làm quen với đêm
Note: Trong
Borges Tám Bó, Borges có đi 1 đường về bài
thơ này.
BARNSTONE: I wonder whether we could finish our talk by your saying
something about Robert Frost. Perhaps you remember by heart his poem "Acquainted
with the Night"?
BORGES:
I have been one acquainted with the night.
I have walked out in rain-and back in rain.
I have outwalked the furthest city light.
And at the end, we get the same line "I have been one acquainted
with the night." In the beginning, at the first reading, you think that
acquainted with the night means: I have walked through a city at night.
But then you foresee, as you come to the last lines,
that the night stands for evil, especially for sensual evil as felt by
a Puritan, because
One luminary clock against the sky
Proclaimed the time was neither wrong nor right.
I have been one acquainted with the night.
And that, I think, is the chief achievement of Frost. He could
write poems that seem simple, but every time you read them you are delving
deeper and finding many winding paths and many different senses. So Frost
has given us a new idea of metaphor. He gives us metaphor in such a way
that we take it as a simple, straightforward statement. And then you find
that it is a metaphor. "And miles to go before I sleep/ And miles to go
before I sleep." There we see that the same words have two different meanings.
In the first of the last two verses, the words stand for
miles and going and sleeping. And in the last line, sleep stands for death.
But in a very unobtrusive way. He was a shy man, I suppose.
But I think of him as being, perhaps, the greatest poet of the century,
if "greatest poet" means anything. I think of Frost as being perhaps a
finer poet than the other candidate, and that would be William Butler
Yeats. I prefer Frost, but that would be a personal bias. Of course I revere
Yeats. When I think back to such lines as "That dolphin-torn, that gong-tormented
sea." That of course is gorgeous writing, the kind of writing that Frost
tried to avoid, that I try to avoid also. But Yeats could also write straightforward
verses. For example:
How can I, that girl standing there,
My attention fix
On Roman or on Russian
Or on Spanish politics?
Then:
And maybe what they say is true
Of war and war's alarms,
but O that I were young again
And held her in my arms!
Robert Frost : Stopping by woods on a snowy evening
http://tanvien.net/new_daily_poetry/5.html
Tuyệt hơn nữa, là những
dòng Borges về nó, trong cuốn trên:
[So] we have two ways of writing
poetry. People speak generally of a plain style and an elaborate style.
I think this is wrong, because what is important, what is all-meaning,
is the fact that poetry should be living or dead, not that the style should
be plain or elaborate. That depends on the poet. We may have, for example,
very striking poetry written plainly, and such poetry is, to me, no less
admirable-in fact, I sometimes think it is more admirable-than the other.
For example, when Stevenson (and as I have disagreed with Stevenson, I
want to worship him now) wrote his "Requiem":
Under....
This verse is plain language; it is plain and living. But also,
the poet must have worked very hard to get it. I do not think that such
lines as "Glad did I live and gladly die" come except in those very rare
moments when the muse is generous.
Cũng trong cuốn trên,
Borges lèm bèm về bài thơ thần sầu của Frost, trong
bài viết về Ẩn Dụ. GGC cứ thèm dịch hoài để chia sẻ
với quí vị độc giả TV:
Robert Frost
Stopping By Woods on a Snowy Evening
Whose woods these are I think
I know.
His house is in the village, though;
He will not see me stopping here
To watch his woods fill up with snow.
My little horse must think it
queer
To stop without a farmhouse near
Between the woods and frozen lake
The darkest evening of the year.
He gives his harness bells a
shake
To ask if there is some mistake.
The only other sound's the sweep
Of easy wind and downy flake.
The woods are lovely, dark and
deep,
But I have promises to keep,
And miles to go before I sleep,
And miles to go before I sleep
Dừng ngựa bên
rừng buổi chiều tuyết rụng
Rừng này của ai tôi
nghĩ tôi biết
Nhà ông ta ở trong làng
Làm sao ông ta thấy tôi ngừng ngựa
Ngắm tuyết rơi phủ kín rừng.
Ngựa của tôi chắc thấy
kỳ kỳ
Tại sao ngưng ở đây, chung quanh chẳng nhà cửa trang
trại,
Chỉ thấy rừng và hồ nước đóng băng
Vào đúng chiều hôm cuối năm
Nó bèn khẩy khẩy
cái chuông nhỏ
Như để nói với chủ của nó, này, chắc có
chi lầm lẫn
Để đáp lại tiếng chuông ngựa,
Là tiếng gió thoảng và tiếng mỏng của hạt
tuyết rơi.
Rừng thì đẹp, tối, và
sâu
Nhưng tôi còn những lời hứa phải giữ
Và nhiều dặm đường phải đi
Trước khi lăn ra ngủ
Lăn ra ngủ
Đây là bài
thơ tiếng Anh đầu tiên Gấu đọc, khi tới Trại Tị Nạn Thái
Lan, cc 1990. Trong 1 cuốn sách học tiếng Anh, có cái
tít là Những lời hứa phải giữ, Promises To Keep, từ thơ Frost.
As to the metaphor, I should
add that I now see that metaphor is a far more complicated thing than
I thought. It is not merely a comparing of one thing to another-saying,
"the moon is like ... ," and so on. No-it may be done in a more subtle
way.
Think of Robert Frost. You of course remember the lines:
For I have promises to keep
And miles to go before I sleep
And miles to go before I sleep
If we take the last two lines,
the first-"And miles to go before I sleep"-is a statement: the poet
is thinking of miles and of sleep. But when he repeats it, "And miles
to go before I sleep," the line becomes a
metaphor; for "miles," stands for "days," for "years," for
a long stretch of time, while "sleep" presumably stands for "death." Perhaps
I am doing no good for us by pointing this out. Perhaps the pleasure lies
not in our translating "miles" into "years" and "sleep" into" death," but
rather in feeling the implication.
Borges: This craft of verse
Về ẩn dụ, tôi có
lẽ nên nói thêm là, nó rất ư “cà
chớn”, rất rắc rối, hơn là thoạt đầu tôi nghĩ. Nó
không giản dị chỉ là so sánh sự vật này với
sự vật khác - thí dụ, "mặt trăng thì như là...
" - Không, nó “tế vi” hơn nhiều.
For I have promises to keep
And miles to go before I sleep
And miles to go before I sleep
Nếu lấy hai dòng đầu,
thì nó là 1 câu phán của thi sĩ, về
những "dặm đường", và "ngủ". Nhưng khi ông lập lại, thì
dòng thơ biến thành ẩn dụ. "dặm" biến thành "ngày",
thành "năm", và dài dài mãi ra, và
"ngủ", có nghĩa là, ngỏm củ tỏi!
Về già, đọc lại bài
thơ, Gấu mới hiểu, tại làm sao mà 1 cuốn sách dạy
tiếng Anh, lại lấy dòng thơ của Frost làm cái tít!
Những lời hứa phải giữ! (1)
[Như vậy], chúng ta có
hai cách làm thơ. Người ta thường nói về văn phong
giản dị và văn phong phức tạp. Tôi nghĩ, nhảm, bởi là
vì điều quan trọng, what is all-meaning, là sự kiện, thơ
nên sống hay nên chết, chứ không phải văn phong nên
giản dị hay rắc rối. Điều này tùy thuộc vào
thi sĩ thứ thiệt hay thứ dởm. Chúng ta có thể có những
dòng thơ thần sầu dưới cái vẻ [cái vỏ, cũng được]
rất ư là giản dị, tự nhiên. Thí dụ, khi Stevenson viết
những dòng thơ "Kinh Cầu", thì đúng là thứ
thơ giản dị, nhưng thi sĩ đã phải lao động cật lực mới có
được. Tôi tin là, dòng thơ “Vui tớ sống, vui tớ đi”,
bật ra vào 1 khoảnh khắc mà nữ thần thi ca thật vui, và
thật là rộng lượng, và bèn ngó xuống thi sĩ.
Ở 1 chỗ khác, cũng trong
cuốn "Tập Làm Thơ" ["This Craft of Verse": Mánh, Ngón,
Nghề.. Thơ], Borges chỉ cho chúng
ta thấy, có những dòng thơ, bề ngoài thật giản dị,
nhưng là với 1 thi sĩ… dởm, hay người
trần mất thịt.
Thí dụ câu thơ sau đây, mà theo Borges,
là của Tennyson, làm khi 13 hay 14 tuổi, và [chắc
là ngượng quá], bèn dục bỏ, may làm sao còn
1 dòng: “Thời gian trôi vào lúc nửa đêm”,
“Time flowing in the middle of the night”. Tôi [Borges] nghĩ là
thi sĩ đã chọn thời gian 1 cách thật là cực khôn
khéo, very wisely. Vào ban đêm, im ắng, con người
thì ngủ, nhưng thời gian vưỡn trôi, đếch có 1 tiếng
động!
Borges rất mê bài
thơ “Dừng ngựa bên rừng chiều tuyết phủ”. Ông nhắc tới nó
mấy lần, trong cuốn “Tập Làm Thơ”, và mỗi lần, ông
lôi ra 1 chi tiết, 1 phát giác thần sầu.
Trong cuốn sách, ông
đồng ý với… Gấu, ẩn dụ không
đơn giản, nhiều khi, tưởng là ẩn dụ, nhưng thực sự, là
đốn ngộ, là mặc khải.
Dũng trong “Đôi Bạn”, 1 buổi trưa hè “Ôi nắng
vàng sao mà nhớ nhung", nhìn sang nhà hàng
xóm, thấy cái áo cánh trắng phất phơ bay
trong gió, ngạc nhiên tự hỏi, áo ai nhỉ, và
nhớ ra là Loan, đi học Hà Nội, nghỉ hè, về.
Khám pháp đó chỉ là bề mặt, giản dị!
Bề sâu, "siêu hình mà nói", Dũng khám phá
ra tình yêu của mình!
Lament for the makers: Khóc người làm
thơ
ROBERT FROST
NEITHER OUT FAR NOR IN DEEP
The people along the sand
All turn and look one way
They turn their back on the land.
They look at the sea all day.
As long as it takes to pass
A ship keeps raising its hull;
The wetter ground like glass
Reflects a standing gull.
The land may vary more;
But wherever the truth may be-
The water comes ashore,
And the people look at the sea.
They cannot look out far.
They cannot look in deep.
But when was that ever a bar
To any watch they keep?
Không xa mà cũng chẳng
sâu
Đám người dọc theo cát
Tất cả quay và nhìn một phía.
Lưng xoay vô đất
Mắt nhìn biển cả ngày.
Con tàu dâng thân lên
Chừng nào nó đi qua
Thân tầu, lóng lánh như mặt gương,
Phản chiếu một hải âu đứng sững.
Đất có thể tang thương như thế nào
Một khi sự thực thì như thế nào đó
–
Nước vẫn tạt vô bờ
Và mọi người nhìn ra biển
Họ không thể nhìn xa
Họ không thể nhìn sâu
Nhưng liệu có 1 cái kè đá
nào
Cho bất cứ 1 cái nhìn mà họ giữ?
López Lecube:
Khi nào ông thực sự cảm thấy bronca?
Borges: Từ đó nặng quá!
LOPEZ LECUBE: When precisely do you feel that bronca?
(1)
BORGES: No, bronca is too strong a word.
LOPEZ LECUBE: You never feel bronca?
BORGES: I don't know, bronca is lunfardo
for anger isn't it? I don't know, no, not anger, sometimes I feel
deflated, but that's natural, and at my age ... old age is a form
of deflation too, but why be angry about it? It's no one's fault.
(1) A slang word for "frustration" or "anger."
Bài thơ nào của ông mà ông
cực khoái? Tại sao? Bài bảnh về ông?...
Borges: Tớ đếch khoái thơ của tớ về tớ. Tớ khoái
bài sonnet của tớ về Spinoza. Tớ viết hai sonnets về ông
ta, có 1 dòng như vầy, Một người đàn ông
sáng tạo ra Chúa ở trong bóng tối, người đàn
ông đó, là Spinoza, who engenders God, his God, made
of an infinite substance whose tributes will be infinite.
Nếu bi giờ chúng ta đang ở thư viện của ông,
bài thơ nào ông muốn tôi đọc cho ông
nghe?
Bài của Robert Frost
Acquainted with the Night
By
Robert Frost
I have
been one acquainted with the night.
I have
walked out in rain—and back in rain.
I have
outwalked the furthest city light.
I have
looked down the saddest city lane.
I have
passed by the watchman on his beat
And
dropped my eyes, unwilling to explain.
I have
stood still and stopped the sound of feet
When
far away an interrupted cry
Came
over houses from another street,
But
not to call me back or say good-bye;
And
further still at an unearthly height,
One
luminary clock against the sky
Proclaimed
the time was neither wrong nor right.
I have
been one acquainted with the night.
Robert Frost : Stopping by woods on a snowy evening
Stopping by Woods on a Snowy Evening
Whose woods these are I think I
know.
His house is in the village, though;
He will not see me stopping here
To watch his woods fill up with snow.
My little horse must think it queer
To stop without a farmhouse near
Between the woods and frozen lake
The darkest evening of the year.
He gives his harness bells a shake
To ask if there is some mistake.
The only other sound's the sweep
Of easy wind and downy flake.
The woods are lovely, dark and deep,
But I have promises to keep,
And miles to go before I sleep,
And miles to go before I sleep
Robert Frost
~~oOo~~
Dừng ngựa bên rừng buổi
chiều tuyết rụng
Rừng này của ai tôi nghĩ tôi biết
Nhà ông ta ở trong làng
Làm sao ông ta thấy tôi ngừng ngựa
Ngắm tuyết rơi phủ kín rừng.
Ngựa của tôi chắc thấy kỳ kỳ
Tại sao ngưng ở đây, chung quanh chẳng nhà cửa
trang trại,
Chỉ thấy rừng và hồ nước đóng băng
Vào đúng chiều hôm cuối năm
Nó bèn khẩy khẩy cái chuông nhỏ
Như để nói với chủ của nó, này, chắc
có chi lầm lẫn
Để đáp lại tiếng chuông ngựa,
Là tiếng gió thoảng và tiếng mỏng của
hạt tuyết rơi.
Rừng thì đẹp, tối, và sâu
Nhưng tôi còn những lời hứa phải giữ
Và nhiều dặm đường phải đi
Trước khi lăn ra ngủ
Lăn ra ngủ
Lament for the makers: Khóc người làm
thơ
ROBERT FROST
NEITHER OUT FAR NOR IN DEEP
The people
along the sand
All turn and look one way
They turn their back on the land.
They look at the sea all day.
As long as it takes to pass
A ship keeps raising its hull;
The wetter ground like glass
Reflects a standing gull.
The land may vary more;
But wherever the truth may be-
The water comes ashore,
And the people look at the sea.
They cannot look out far.
They cannot look in deep.
But when was that ever a bar
To any watch they keep?
Không xa mà cũng chẳng
sâu
Đám người dọc theo cát
Tất cả quay và nhìn một phía.
Lưng xoay vô đất
Mắt nhìn biển cả ngày.
Con tàu dâng thân lên
Chừng nào nó đi qua
Thân tầu, lóng lánh như mặt gương,
Phản chiếu một hải âu đứng sững.
Đất có thể tang thương như thế nào
Một khi sự thực thì như thế nào đó –
Nước vẫn tạt vô bờ
Và mọi người nhìn ra biển
Họ không thể nhìn xa
Họ không thể nhìn sâu
Nhưng liệu có 1 cái kè đá nào
Cho bất cứ 1 cái nhìn mà họ giữ?
POETS
Poets
shouldn't commit
Suicide
That would leave the world
To those without imaginations
Or hearts
That would bequeath
To the world
A mangled syntax
And no love
Of champagne
Poets must live
In misery and ecstasy
To sing a song
With the katydids
Poets should be ashamed
To die
Before they kiss
The sun
Thi
sĩ
Thi
sĩ không nên tự tử
Bởi là
vì nếu làm như thế
Là
để lại thế giới cho những kẻ
Không
biết tưởng tượng, liên tưởng…
Là
cái chó gì
Và
cho những kẻ
Đếch
có trái tim
Để lại
thế giới
Một cú
pháp nham nhở
Và
không tình yêu sâm banh
Thi sĩ
nên sống trong khốn cùng, và cực khoái,
cực sướng
Để hát
1 bài hát
Với châu
chấu voi
Thi sĩ
nên xẩu hổ
Một khi
chết
Mà
chưa kịp hôn mặt trời 1 phát!
Rain
Quite suddenly the evening clears
at last
as now outside the soft small rain is falling.
Falling or fallen. Rain itself is something
undoubtedly which happens in the past.
Whoever hears it falling has remembered
a time in which a curious twist of fate
brought back to him a flower whose name was "rose"
and the perplexing redness of its red.
This rain which spreads its blind across the pane
must also brighten in forgotten suburbs
the black grapes on a vine across a shrouded
patio now no more. The evening's rain
brings me the voice, the dear voice of my father,
who comes back now, who never has been dead.
-A.R.
Mưa
Hoàn toàn bất
thình lình, sau cùng, buổi chiều sáng ra
Như là giờ đây, bên ngoài mưa
mềm, nhỏ, đang rơi.
Đang rơi hay đã rơi?
Mưa, tự nó là một cái gì chẳng
nghi ngờ chi, xẩy ra trong quá khứ
Bất cứ ai nghe mưa rơi thì đều nhớ tới cái
lúc mà số mệnh, xoắn 1 phát,
Mang trả lại cho anh ta một bông hoa, tên là....
BHD
Cơn mưa trải dài
sự mùa lòa của nó dọc theo ô kính
hẳn cũng làm sáng lên,
nơi những vùng ngoại vi thành phố bị bỏ quên,
những trái nho đen nơi hàng cây dọc
theo sân tẩm liệm nay không
còn nữa.
Cơn mưa buổi chiều mang cho tôi giọng nói,
giọng nói yêu thương của BHD,
bây giờ trở lại, chẳng hề đi xa.
The Rain
The afternoon grows light because
at last
Abruptly a minutely shredded rain
Is falling, or it fell. For once again
Rain is something happening in the past.
Whoever hears it fall has brought
to mind
Time when by a sudden lucky chance
A flower called “rose” was open to his glance
And the curious color of the colored kind.
This rain that blinds the windows
with its mists
Will gladden in suburbs no more to be found
The black grapes on a vine there overhead
In a certain patio that no longer
exists.
And the drenched afternoon brings back the sound
How longed for, of my father’s voice, not dead.
[From Dreamtigers,
by Jorge Luis Borges, translated by Harold Morland]
LA PLUIE
Brusquement s'éclaircit
le ciel embarrassé :
II pleut enfin. Le flot minutieux arrose
Ma rue. Ou l'arrosa. La pluie est une chose
En quelque sorte qui survient dans le passé.
Je l'écoute; à
sa voix, dans le soir remplacé,
Tout un temps bienheureux s'entrouvre et se propose:
Le temps qui m'enseigna le parfum de la rose
Et l'étrange couleur du rouge courroucé.
La rafale qui bat aux vitres
aveuglées
Rejouira les noirs raisins et les allées
Poudreuses d'un jardin qui n'est plus, vers le bord
Indécis d'un faubourg.
A travers la durée,
L'heure humide m'apporte une voix desirée :
Mon pere est là, qui revient et qui n'est pas mort.
Ibarra
Note: Rain, có hai bản tiếng Anh, khác nhau,
và 1 bản tiếng Tây.
De vent et de Fumée
III
Ces pages sont traduites. D'une
langue
Qui hante la mémoire que je suis.
Les phrases de cette langue sont incertaines
Comme les tout premiers de nos souvenirs.
J'ai restitue le texte mot après mot,
Mais le mien n'en sera qu'une ombre, c'est à
croire
Que l'origine est une Troie qui brule,
La beaut é un regret, l' oeuvre ne prendre
À pleines mains qu'une eau qui se refuse.
Yves Bonnefoy
III
These pages are translations.
From a tongue
That haunts the memory I have become.
Its phrases falter, like what we recollect
From early childhood, long ago.
I built the text again, word for word:
But mine is only shadow. As though we know
All origin is a Troy that burns,
All beauty but regret, and all our work
Runs like water through our hands.
Translated by Hoyt Rogers
Của Gió và Khói
III
Những trang này đã
được dịch
Từ một ngôn ngữ quần nát bấy hồi nhớ
Là thằng Gấu Cà Chớn vào lúc
bi giờ
Những câu kệ thì chẳng ra làm
sao cả
Như là những gì mà chúng
ta nhặt nhạnh được, từ thời ấu thơ, thuở nảo thuở nào
Gấu cố gầy dựng lại bản văn, từng từ từng từ
Nhưng của Gấu thì chỉ là 1 bóng
mờ
Mà nguyên bản thì là một
thành phố Xề Gòn bị VC thiêu huỷ
[Bạn hẳn vưỡn còn nhớ cuộc phần thư năm đó?]
Cái đẹp ngày nào nếu còn
chăng, thì là 1 niềm ân hận
Tác phẩm, cái gọi là văn học
Miền Nam trước 1975, ư?
Như nước lọt qua kẽ tay của bạn.
1919: Vienna
YOU DON'T GO HOME AGAIN
I will mention an experience culled from psychoanalytic
work, which, unless it rests on pure coincidence, supplies the most
pleasing confirmation of our conception of the uncanny. It often
happens that neurotic men state that to them there is something uncanny
about the female genitals. But what they find uncanny [ unheimlich]
is actually the entrance to man's old "home" [ heimlich], the place
where everyone once lived. A jocular saying has it that "love is a longing
for home," and if someone dreams of a certain place or a certain landscape
and, while dreaming, thinks to himself, "I know this place, I've been here
before," this place can be interpreted as representing his mother's genitals
or her womb. Here too, then, the uncanny is what was' once familiar [ heimisch,
"homely"]' The negative prefix un- is the indicator
of repression.
Sigmund Freud, from "The
Uncanny." The year this essay ran in Imago, the journal Freud cofounded
in 1912, a postwar Austria was compelled to cede South Tyrol to Italy.
"To be sure, I'm not a patriot, " wrote the psychoanalyst, "but it
is painful to think that pretty much the whole world will be a foreign
country. " The study began as a reworking of an old paper but later
became influential, particularly in cultural criticism. Freud was forced
into exile in 1938, the year Germany annexed Austria, and died in London
the following year.
Note: Cái mẩu viết này, làm GNV nhớ một kỷ niệm về Đất Bắc, cũng
đã kể ra rồi, ngày còn
con nít được đi theo đám ma, khi quan tài hạ
huyệt, mấy bà Bắc Kỳ nhẩy qua lỗ huyệt , vén váy thật cao, và
nó ám ảnh thằng bé Bắc Kít kể như suốt
1 đời, kể từ khi vô được nước Nam Kít! Cứ mỗi lần nhớ
xứ Bắc Kít, là cái xen tốc váy lại trở về.
Nhớ luôn cái cảnh, một bà bước qua 1 bên lề
đường, nhắc 1 cái chân, vén 1 bên váy,
và cứ thế xè xè, xè xè...
Chỉ
đến khi đọc nhà văn
Nhật, Mishima,
tả một anh lính bị thương nặng, muốn đi mà không
làm sao đi được, mắt cứ ngước nhìn mấy bà,
khẩn khoản cầu xin một điều gì đó, và một bà
hiểu ra, bèn vạch vú, cố nặn ra một giọt sữa nhỏ vô
miệng.... tới lúc đó, hình ảnh tốc váy
hiện về, và nhờ thế, được "mặc khải"!
Sến cô nương kể huyền sử Chống
Mỹ Cứu Nước, về những chàng trai Bắc Kít, sau khi
nhỏ máu viết huyết thư tình nguyện vô Nam, thì,
đúng vào buổi tối, sáng hôm sau xuất quân,
được Đảng cho gặp 'thánh nữ', chuyên giữ nhang khói
ngôi đền thờ của Đảng, và được “khai sáng”!
Thành thử một đấng
đàn ông, khi đi xa, chỉ muốn nhớ lại, hoặc là
cái vú của bà mẹ, hoặc là cái bướm
của một em!
Bạn chọn thứ nào?
"I know this place,
I've been here before," this place can be interpreted as representing
his mother's genitals or her womb.
Tớ biết chỗ đó, tớ đã từng ở đó!
Tớ không phải là 1 nhà yêu nước,
Freud phán, nhưng thật nhức nhối khi nghĩ cả thế gian là
nhà của người dưng!
Thơ
Mỗi
Ngày
Khi chàng già đi, có tuổi mãi
ra – những năm sau cùng,
chàng già hơi bị nhanh, như muốn bắt kịp khúc
chót, hoặc tóm lấy nó, vượt quá nó,
nếu có thể, hà, hà… - một thứ âu lo về
đời, nhìn lại đời mình “cái con mẹ gì
đó”, thay thế cái vẻ chua chát trước đó,
nhưng ngay cả như thế, thì thế giới vưỡn là 1 nơi chốn
tuyệt vời. Sức sáng tạo của Joseph vưỡn chưa bỏ chạy chàng!
Nói về những nơi chốn tuyệt vời, một đấng
Joseph của Thành Phố Nữu Ước, mặt mũi ra sao, nhỉ?
Đây là nhà của chàng
hầu hết thời gian ở Tây Phương, ngay cả, kể từ năm 1981,
chàng dạy học vào mùa Xuân ở Mount Holyoke
College và mướn 1 căn nhà tại South Hadley. Chàng
lại có thói quen trải qua Noel ở Venice. Chàng
Joseph mà tôi biết thì là một Joseph Nữu
Ước [Joseph của Gấu thì ở Trương Minh Giảng, gần Cổng Xe Lửa Số
6], mặc dù tôi gặp chàng trước tiên là
ở London, và ít ra, thập niên 1970, thường gặp
chàng ở đó, lần gặp đầu tiên, là ở Ann Arbor,
Micgigan. Tôi chỉ thăm chàng 1 lần, ở Emily Dickinson
country.
Nữu Ước trở thành nhà của chàng,
và chàng ở nhà của chàng ở Nữu Ước.
Thì sự thể nó là như thế. Thành phố
cho phép ( hay khuyến khích?), chàng muốn là
cái đéo gì tùy chàng, nghĩa là,
bất cứ cái đéo gì chàng muốn từ nó
[hail from], không chỉ cái chuyện tao muốn làm kẻ
lạ, kẻ đứng bên lề, người dưng, muốn sao được thế, người ơi.
Mọi người, bất cứ một ai, thì cũng là
cả hai, kẻ lạ và kẻ nội. Sống ở Nữu Ước là thành
một kẻ sinh ở Nữu Ước. Nếu Joseph thoải mái nhất với… Joseph,
thì đó là một Joseph Nữu Ước [như Joseph Trương
Minh Giảng của GCC].
Nhưng có cái gì khác
nữa.
POEM OF THE GIFTS
To Maria Esther Vazquez
No one should read self-pity
or reproach
Into this statement of the majesty
Of God; who with such splendid irony
Granted me books and blindness at one touch.
Care of this city of books he handed over
To sightless eyes, which now can do no more
Than read in libraries of dream the poor
And senseless paragraphs that dawns deliver
To wishful scrutiny. In vain the day
Squanders on these same eyes its infinite
tomes,
As distant as the inaccessible volumes
Which perished in Alexandria.
From hunger and from thirst (in the Greek
story),
A king lies dying among gardens and fountains.
Aimlessly, endlessly, I trace the confines,
High and profound, of this blind library.
Cultures of East and West, the entire atlas,
Encyclopedias, centuries, dynasties,
Symbols, the cosmos, and cosmogonies
Are offered from the walls, all to no purpose.
In shadow, with a tentative stick, I try
The hollow twilight, slow and imprecise-
I, who had always thought of Paradise
In form and image as a library.
Something, which certainly is not defined
By the word fate, arranges all these things;
Another man was given, on other evenings
Now gone, these many books. He too was blind.
Wandering through the gradual galleries,
I often feel with vague and holy dread
I am that other dead one, who attempted
The same uncertain steps on similar days.
Which of the two is setting down this poem-
A single sightless self, a plural I?
What can it matter, then, the name that names
me,
Given our curse is common and the same?
Groussac or Borges, now I look upon
This dear world losing shape, fading away
Into a pale uncertain ashy-gray
That feels like sleep, or else oblivion.
(Alastair Reid)
J.L. Borges
Paul Groussac (1845-1929), Argentine critic
and man of letters, and a predecessor of Borges as director
of the National Library, also suffered from the accompanying irony
of blindness.
Thơ
Mỗi Ngày
Year's End
Neither the symbolic detail
of a three instead of a two,
nor that rough metaphor
that hails one term dying and another emerging
nor the fulfillment of an astronomical process
muddle and undermine
the high plateau of this night
making us wait
for the twelve irreparable strokes of the bell.
The real cause
is our murky pervasive suspicion
of the enigma of Time,
it is our awe at the miracle
that, though the chances are infinite
and though we are
drops in Heraclitus' river,
allows something in us to endure,
never moving.
-W.S.M.
J.L. Borges
Năm Tận
Không phải chi tiết biểu tượng
Rằng, “ba” thay vì “hai”
Cũng không phải ẩn dụ xù xì,
Có cái ngỏm thì có cái
khác mò ra
Cũng không phải sự thành tựu của một tiến trình
thiên văn
Lộn xộn và xói mòn
Cao nguyên đêm nay
Bắt chúng ta đợi
Mười hai tiếng chuông vô phương sửa chữa
[Cái gì gì,
Đêm tới, giờ đổ
Ngày đi, ta ở] (1)
Lý do thực sự
Là sự hồ nghi tràn trề, tối tăm của chúng
ta
Về bí ẩn của Thời Gian
Nỗi khiếp sợ của chúng ta, ở phép lạ -
mặc dù cơ may thì là vô cùng
mặc dù chúng ta chỉ là những giọt nước
sông Heraclitus –
cho phép một điều gì đó ở trong chúng
ta
mãi mãi hoài hoài
chẳng bao giờ chuyển động.
(1)
Thơ Apollinaire:
Vienne la nuit sonne l’heure
Les jours s’en vont je demeure
Chi tiết biểu tượng, ba thay vì hai, thú thực,
GCC không hiểu Borges tính nói gì!
Cầu Mirabeau
Dưới cầu Mirabeau, sông
Seine chảy
Và tình đôi ta
Liệu anh phải nhớ
Niềm vui luôn tới, sau nỗi đau
Đêm tới, giờ đổ
Ngày đi, ta ở
Tay trong tay mặt nhìn
mặt
Dưới cầu đôi tay
Sóng uể oải lập đi lập lại
Nhân lên mãi mãi
Ánh mắt thiên thu hoài hoài của
đôi ta
Đêm tới, giờ đổ
Ngày đi, ta ở
Tình đi, như nước chảy
Tình đi
Ôi, đời sao chậm lụt
Hy vọng sao hung bạo đến như vầy
Đêm tới giờ đổ
Ngày đi, ta ở
Ngày đi, tháng
đi
Thời gian không đi
Tình không bao giờ trở lại
Dưới cầu Mirabeau sông Seine chảy
Đêm tới, giờ đổ
Ngày đi, ta ở
http://www.tanvien.net/Dayly_Poems/15.html
Thơ Mỗi Ngày
RADE DRAINAC
[1899-1943]
Drainac was a famous Belgrade
bohemian who spent his life in the taverns of the city, often playing
the violin. He served in the Serbian army in the First World War. His
first book, Purple Laughter, was published in 1920. He wrote three more
collections of poetry, plus a novel and a war diary. He was influenced
by Apollinaire, Cendrars, and Esenin. He died of consumption.
Leaf
I've changed stations: autumn
remained behind and my bags.
The sky now is doubtful like an awkward lie.
In the first tavern I'll need to forget
the melancholy letter that woke me from my sleep.
Idle, I stagger down the street past offices.
The swallows have flown and the typewriters have stayed.
One
the horizon there is a huge trumpet of smoke.
A plane has just been invented as small as a butterfly.
Bravo! That's a good sign.
The first autumn leaf falls on my hat.
Note: One the horizon.
Thú thực, GCC không hiểu được cái từ "One", ở đây.
Cầu cứu sư phụ, sư phụ nghi, chắc in sai, On the horizon. Nhưng
không lẽ sách Mẽo cũng in sai ư? NQT
Drainac là 1 tay bụi đời
Belgrade nổi tiếng, trải qua đời mình bằng cách chơi vĩ cầm
trong những quán rượu của thành phố. Tham dự Ðệ Nhất Chiến
trong quân đội Serb. Cuốn đầu tay, Cười Tía, 1920. Sau chơi
thêm ba tập thơ, 1 tiểu thuyết, và 1 nhật ký. Rất chịu
Apollinaire, Cendrars, và Esenin. Chết vì lao phổi.
Lá
Tôi thay đổi những nhà
ga: mùa thu ở đằng sau, cùng với mấy cái bị.
Bầu trời nghi ngại, chẳng khác gì một lời dối
trá ngượng nghịu.
Trong quán rượu đầu tiên tôi sẽ cần phải
quên
Lá thư buồn đánh thức giấc ngủ.
Không biết làm gì, tôi loạng quạng
đi xuống con phố qua những văn phòng.
Những con chim nhạn đã bay đi, những người đánh
máy thì ở lại.
Nơi chân trời có một ống khói lớn hình
cái kèn trôm pét
Một cái máy bay mới được phát minh,
nhỏ như 1 con bướm
Hoan hô! Ðúng là 1 dấu hiệu tốt
Cái lá thu đầu tiên đậu trên mũ
tôi.
MILAN DJORDJEVIC
[1954-]
Born in Belgrade, Djordjevic
is a short-story writer and essayist and a translator as well as a
poet. His first book of poems, On Both
Sides of the Skin,
came out in 1979. Since then, there have been seven more, the latest
of which has just been published. He has received most of the prestigious
literary awards in Serbia for his collections of poetry and his stories
and essays and has had his work translated into German, Polish, Romanian,
Hungarian, Slovak, Portuguese, Macedonian, and now English.
Love Poem
My dear Nothing,
with love and words I keep trying
to breathe life into you.
With so much flirting
I'm becoming a part of you.
My dreamy Nothing,
daughter of human nothingness,
I want you dead and gone,
but you are indestructible,
truly untouchable
like everything imagined.
Will I be free of you,
one day perhaps?
Or will I hide you deep within me
while all around me you give birth
to monsters and specters?
You'll whisper the same stories,
pour over me
the same black ashes
and desert rains
without erasing the bloodstains
of my childhood.
My sweet and formless,
bloodless and colorless,
best-loved Nothing,
with what eyes shall I look at you
to see you truly
and remember your face forever?
JOVAN HRISTIC
[1933-2002]
Hristic studied philosophy, and
after many years of working in publishing, he taught at the drama school in
Belgrade, where he was born. His first book, The Diary of Ulysses) came out
in 1954, and his The Alexandrian School in 1963. He wrote five plays, a study
of Chekhov, a book of essays, and translated T. S. Eliot and Cavafy. Hristic
was also a drama critic.
The Tragedy Is Over
The tragedy is over. Blind Oedipus
exits
into his darkness, into our darkness.
The chorus remains behind on the square
to mumble a few additional verses
and then disperses homeward, where already one can smell
the evening meals being cooked.
That's our moment. The curtain
hasn't yet
been lowered as we step on the stage:
the columns of the palace are suddenly of cardboard,
the blood that drew so much pity and fear
is spilling from the bottle with colored water,
while with wooden swords we begin our play.
Everything you saw we'll make you see once more:
Oedipus will again answer the riddle and gouge his eyes out,
Jocasta will scream in the wings, the messenger
will arrive and announce the latest horrors,
and the blood will flow.
In a pause, between two verses,
while the costumes
and scenery are changed, in the silence and darkness,
perhaps at the very end when the sets are removed,
and the last lights are being turned off,
the scream of Oedipus, whose long shadow
has, too, disappeared behind a hill,
will once again be heard.
But only for a moment. We will
continue our play
happy that we were called to come out on the stage
and display our art before the lights were out.
BI KỊCH NGỎM
Bi kịch hết rồi. Anh mù Ơ Ðíp chuồn
Vô đêm đen của anh ta. Của chúng ta.
Dàn đồng ca thì còn ở lại phía
sau diễn trường
Ðọc chơi vài bài ca dao
Rồi tan hàng, ai về nhà người đó
Trong không khí có mùi thịt nướng
của bữa ăn tối.
Ðây là thời
điểm của chúng ta. Màn chưa buông xuống
Khi chúng ta bước ra sàn diễn:
Những cây cột Dinh Ðộc Lập bất thình lình
biến thành hàng mã
Máu làm đổ biết bao sự thương hại và
sợ hãi
Chảy ra từ cái chai chứa nước màu,
Trong lúc bằng những cây gươm gỗ,
Chúng ta chơi kịch của chúng ta.
Mọi chuyện bạn đã thấy, chúng ta sẽ làm
cho bạn thấy
Một lần nữa:
Ơ Ðíp lại trả lời thai đố, và tự móc
mắt của mình ra
Jocasta sẽ than khóc bên trong cánh gà
Thiên Sứ của Sến Cô Nương
Sẽ tới và thông báo những điều ghê
rợn mới nhất, bô xịt, thí dụ.
Và máu sẽ chảy.
Trong lúc ngưng nghỉ,
giữa hai câu thơ,
Khi thay đổi màn diễn, trang phục, trong im lặng và
bóng tối,
Và có thể vào giây phút
chót khi những dàn dựng được dời đi
Và những ánh sáng sau cùng tắt
ngấm
Tiếng khóc than của Ơ Ðíp lại vang lên
Khi cái bóng dài thòng của anh
ta thì cũng đã biến mất sau ngọn đồi.
Nhưng chỉ một chốc lát
thôi.
Chúng ta sẽ tiếp tục vở kịch của chúng ta.
Sướng điên lên vì đã được vời ra
sàn diễn
Ðể chơi vở kịch của chúng ta
Ðọc chơi vài bài ca dao,
Làm thơ Tạ Lỗi Trường
Sơn, thí dụ.
Trước khi đèn đuốc tắt ngúm.
Thơ
Mỗi
Ngày
488
for what
in this year's end market
goes a crow
Note:
488
nani ni kono / shiwasu no ichi
ni / yltku karasu what in this / year-end market in / go crow
1689-New Year, It seems Basho
was surprised to find himself going off to shop at the end of the year
like everyone else. He often wore black robes and therefore called
himself a crow:
[Basho thường mặc đồ đen, ông tự gọi ông,
con quạ]
485
a famous artist
what is the source of sadness
at the year's end
Note:
485. Kohogen / de dokoro aware / toshi no kure
famous artist / the source of sadness / year's end
1684-94-New Year. The idea for the poem came from
the custom in Japan that the end of the year was the time to payoff
one's debts even if it meant selling a famous painting. Kohogen (1476-1559)
was the son of the founder of the Kano school of painting.
[Bài thơ cuối năm, là thời gian trang trải
nợ nần, theo phong tục Nhật]
487
New Year's Day
longing to see the sun in Tagoto's
rice paddies
SAIGON 1965 - Photo by Tom
Robinson (‘Tinker’) - Continental Palace Hotel - Nắng chiều trên
đường Tự Do
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/31659970876/
Trong một bài viết ở phía sau tác phẩm, Nabokov
kể lại, phút hạnh ngộ giữa ông và cô bé
kiều diễm, thời gian ông bị những cơn đau đầu thường trực hành
hạ. Và một thoáng nàng - la palpitation de Lolita
- đã lung linh xuất hiện, khi ông đang đọc mẩu báo,
thuật câu chuyện về một nhà bác học đã thành
công trong việc dậy vẽ cho một chú khỉ ở một vườn thú.
"Tác phẩm đầu tay" của "con vật đáng thương" là
hình ảnh mấy chấn song của cái chuồng giam giữ nó.
Trong chuyến đi
dài chạy trốn quê hương, trong mớ sách vở vội vã
mang theo, tôi thấy hai cuốn, một của Nabokov, và một của Koestler.
Tôi đã đọc Darkness at Noon" qua bản dịch "Đêm hay Ngày"
do Phòng Thông Tin Hoa Kỳ xuất bản cùng một thời với
những cuốn như "Tôi chọn Tự do"... Chúng vô tình
đánh dấu cuộc di cư vĩ đại với gần một triệu người, trong có
một chú nhỏ không làm sao quên nổi chiếc chuồng
giam giữ thời ấu thơ của mình: Miền Bắc, Hà-nội.
Lần thứ nhì bỏ chạy quê hương, cùng
nỗi nhớ Sài-gòn là sự thật đắng cay mà
tuổi già càng làm thêm chua xót:
Một giấc mộng, dù lớn lao dù lý tưởng cỡ nào,
cũng không thể làm sống lại, một sợi nắng ấm của Sài-gòn:
Chỉ có những
người vội vã rời bỏ Sài-gòn ngay những ngày
đầu, họ đã không kịp sửa soạn cho mình một
nỗi nhớ Sài-gòn. Còn những ai ở trong tâm
trạng sắp sửa ra đi, đều tập cho quen dần với cơn đau sẽ kéo
dài. Đều lựa cho mình một góc đường, một gốc
cây, một mái nhà... để cười hay để khóc
một mình. Một mẩu đời, một đoạn nhạc, một bóng chiều,
một giọt mưa, một sợi nắng... để gọi thầm trong những lúc quá
cô đơn. Để mai kia mốt nọ, trên đường tha phương cầu thực, nơi
đất khách quê người, những khi ngọn gió heo may bắt
đầu thổi, những khi ngồi bó gối bên trời, nhìn lá
vàng rơi đầy, lấy tay che thời gian không nổi, hay những đêm
tàn nghe bếp lửa réo gọi... sẽ nhâm nhi những cọng
cỏ tưởng tượng của quê hương. Ôi,"Ôm em trong tay mà
đã nhớ em ngày sắp tới".
481
In mourning for the death of a certain
person
dying charcoal fire
extinguished by tears
a boiling sound
486
bottom of discretion
has been reached
end of the year
Chợt tiếng buồn xưa động bóng
cây
Người đi chưa dạt dấu chân bày
Bàn tay nằm đó không ngày
tháng
Tình ái xin về với cỏ may
Rồi lá mùa xanh
cũng đỏ dần
Còn đây niềm nuối tiếc thanh xuân
Giấc mơ choàng dậy tan hình bóng
Và nỗi tàn phai gõ một lần
Kỷ niệm sầu như tiếng thở dài
Khuya chìm trong tiếng khóc tương lai
Tầm xa hạnh phúc bằng đêm tối
Tôi mất thời gian lỡ nụ cười
Đời sống ôi buồn như cỏ
khô
Này anh, em cũng tợ sương mù
Khi về tay nhỏ che trời rét
Nghe giá băng mòn hết tuổi thơ
[Trích Văn, số mới nhất, đặc biệt
về Nhã Ca]
Tờ Người Kinh Tế, số đúp đầu năm,
mục điểm sách, ca ngợi Paul Paulin, người Anh, thi sĩ và
phê bình văn học, nhân cuốn mới ra lò của
ông: Subliminal thinking.
Paul Paulin là một tay
chi ly tới chỉ về ngôn ngữ. Điều ông băn khoăn nhất,
là làm thế nào đọc và hiểu một bản văn?
Nó là một tác phẩm nghệ thuật thiên thượng
địa hạ duy ngã độc tôn, an autononous work of art in its
own right, một cái chi đẹp ơi là đẹp nhưng chỉ có
thể hiểu được, bằng những tiêu chí của riêng nó,
hay nó muôn đời là một món đồ, do những sức
mạnh xã hội và lịch sử nhào nặn?
Theo ông, lịch sử và
mỹ học luôn tay trong tay, cùng tiến.
Nhưng điều này mới quan
trọng, về ông, theo Hai Lúa. Ông cho rằng, những
nhà phê bình đã mất quá nhiều thời
giờ để nghiên cứu ảnh tượng, thi ảnh, trong khi đúng
ra, họ phải chú trọng đến "tiếng thơ", tức những tính
chất mò mẫm tạo âm của ngôn ngữ, the tactile and
sonic qualities of language. Ông tin tưởng, âm thanh mang
nghĩa đến cho tạo vật. Những từ dính với nhau theo âm thanh.
Nói ngắn gọn, ông
tin rằng thơ phải đọc lên mới thành thơ được. Nhà
thơ gọi nhau. Cũng vậy, nhà văn gọi nhau: Writers also echo
other writers.
Bạn đọc thơ Nhã Ca, là
ngộ ngay chân lý trên. Cỏ khô xào
xạc cỏ khô, sương mù ẩn hiện sương mù, âm
thơ, tiếng thơ cứ thế tiếp nối, dắt díu nhau...
Đây là bài
thơ Hai Lúa mê nhất, của Nhã Ca.
Nhất là bốn câu
cuối.
Tay nhà văn Peru, Mario
Vargas Llosa, hồi trẻ, mê dấn thân, mê Sartre
quá, nhưng tối về, là mò Borges đọc, không
dám nói cho ai hay.
Hai Lúa mê bài
thơ trên, cũng chẳng dám cho ai hay, sợ bị chê
là sến.
Hay là những câu
của Du Tử Lê.
Chỉ nhớ người thôi đủ hết
đời
Em còn gương lược dấu đường ngôi
Nằm mơ thấy tóc thơm vai hẹn
Và khoảng trời xanh đến rợn người
Tha thiết quá, khiến tôi
thành bận bịu
Đến tức cười vì chỉ ngóng, trông
thôi
Tin không về. Tôi cúi hỏi bàn
tay
Buồn ghê nhỉ. Ngón nào đang thở
dốc?
K. Khúc của Lê
Tôi xa người như xa núi
sông,
Em bên kia suối? Bên kia rừng?
Em bên kia nắng? Bên kia gió?
Tôi một giòng sương lên mênh
mông
Tôi xa người như xa biển
đông
Chiều dâng lênh láng chiều giăng
hàng
Những cây ghi dấu ngày em đến
Đã chết từ đêm mưa không sang
Tôi xa người xa hơi thuốc
cay
Ngày mai tình sẽ bỏ tim này
Chiều em không tới hàng cây đã
Nghiêng xuống tôi từng ngọn heo may
Tôi xa người như xa biển
đông
Như xa núi sông
Em bên kia suối
Sương lên mênh mông
Tôi xa người xa tôi từ đây lặng yên
dấu xưa
Còn chân đã cũ, còn lời
oán than
Tôi xa người xa môi
rất tham
Em như gió núi, như chim ngàn
Em xa xôi quá làm sao biết
Tôi âm thầm như cơn mê hoang
Tôi xa người xa không
hờn oán
Vườn tôi trăng lạnh đến hoang tàn
Nhớ ai buồn ngất trên vai áo
Mưa ở đâu về như vết thương...
[Trích lại từ một trang
net].
http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/35.html
Winter Travels
who's typing on the void
too many stories
they're twelve stones
hitting the clockface
twelve swans
flying out of winter
tongues in the night
describe gleams of light
blind bells
cry out for someone absent
entering the room
you see that jester's
entered winter
leaving behind flame
Bei Dao
Translated by David Hinton
with Yanbing Chen
Du ngoạn Mùa đông
người gõ lên
quãng không
rất nhiều chuyện
chúng là
mười hai hòn đá
gõ lên mặt
đồng hồ
mười hai con thiên
nga
bay ra khỏi mùa
đông
những giọng nói
trong đêm
mô tả những tia
sáng
chuông mù
khóc ai đó
vắng mặt
đi vô phòng
bạn sẽ thấy, của anh
hề
đi vô mùa
đông
để lại đằng sau ngọn
lửa
Bắc Đảo
Thơ
Mỗi
Ngày
Tuesday,
December 20, 2016
KHI THƠ ĐƯỢC KHẮC TRÊN ĐÁ…
Ngô Thị Kim Cúc
http://phovanblog.blogspot.ca/2016/12/khi-tho-uoc-khac-tren-a.html
Bei Dao, Bắc Đảo. Cũng như Ocean Vương, GCC biết đến Bắc
Đảo, qua tờ Điểm Sách Á Châu. Đọc 1 phát,
là trúng độc liền, và bèn mò mẫm
tìm đọc.
Trên Tin Văn có nhiều thơ của ông, qua
tập Bông Hồng của Thời Gian. Ông viết
essay mới thú. Trên tờ Harvard Review, số 49, có bài về mùi.
Đọc, thì bèn nhớ đến mùi ốc nhồi khi còn
là thằng bé Bắc Kít. Hăm he dịch hoài,
mà cũng quên hoài
ASIA LITERARY
REVIEW
Winter 2010
Modern Chinese Poetry - Insistent
Voices
Landscape Above Zero
It was the seagull that taught
the song to swim
It was the song that found the first wind's source
We shared shards of happiness
Entering the home from different directions
It was father who recognized
darkness
It was darkness that led us to sudden lightning
The weeping door slammed shut
And echo pursued its cries
It was the pen that bloomed
in despair
It was the flower that refused the necessary journey
It was rays of love that awoke
Lighting the landscape above zero
Bei Dao
Phong cảnh ở bên trên con số không
Đó là hải âu
dậy bài ca bơi
Đó là bài ca tìm thấy nguồn
gió
Chúng ta chia nhau những
mảnh vụn của hạnh phúc
Về nhà từ nhiều hướng khác nhau
Đó là người cha
nhận ra bóng tối
Đó là bóng tối dẫn chúng ta
tới ánh sáng bất thần
Cánh cửa nức nở đóng
sầm lại
Và tiếng vang đuổi theo tiếng khóc của nó
Đó là cây
viết nở hoa trong chán chường
Đó là bông hoa từ chối một chuyến
đi cần thiết
Đó là những tia
tình yêu thức giấc
Soi sáng phong cảnh ở trên con số không
Note: Bài thơ này,
có tới hai bản tiếng Mít, một của GCC, khi đọc Bei
Dao trên tờ Điểm Văn Á, Asia Literary Review, mê
quá [tại sao mê thì đừng bắt GCC phải tự thú!]
Sau, gặp tập thơ của ông, bèn chơi liền, và được
bạn Dã Viên dịch thẳng từ tiếng Tầu. Vị độc giả này,
dân Huế, rất mê thơ. Rất giỏi tiếng Tầu. Trang TV như vậy
là có thêm 1 vị hộ pháp!
Tks All. NQT
Phong
cảnh trên độ không
Là ó biển dạy tiếng
hát bơi
Là tiếng hát lần về ngọn gió sơ ngộ
Chúng ta đổi trao những miểng
vụn hân hoan
Tiến vào nhà từ những phương trời khác
biệt
Là người cha xác nhận
bóng tối
Là bóng tối nối liền ánh chớp kinh
điển
Cánh cửa nức nở đóng
sầm lại
Tiếng vang đuổi theo tiếng nó khóc gào
Là bút trổ bông
trong tuyệt vọng
Là hoa từ chối cuộc lữ tất nhiên
Là tia sáng tình
yêu choàng tỉnh
Chiếu sáng phong cảnh trên độ không.
Bei Dao
Dã Viên
dịch từ nguyên tác
Bei Dao
WE
lost souls and scattered spirits
holding lanterns chase spring
scars shimmer, cups revolve
light's being created
look at that enchanting moment
a thief steals into a post office
letters cry out
nails o nails
the lyrics never change
firewood huddles together
searching for an audience to listen
searching for the heart of winter
river's end
a boatman awaiting boundless twilight
there must be someone to rewrite love
Chúng ta
những linh hồn mất, những tinh
anh lạc
cầm đèn rượt mùa xuân
những vết sẹo sáng mờ
mờ, nhưng cái ly xoay xoay
ánh sáng được tái tạo
hãy nhìn cái khoảnh khắc thần sầu đó
một tên trộm chui vô bưu điện
những lá thư khóc toáng lên
tay em, móng nhọn, ôi
móng nhọn
những bản nhạc vàng, nhạc sến chẳng hề thay đổi
pháo bông xúm lại
kiếm một diễn đàn lắng nghe
kiếm trái tim mùa
đông
cuối sông
một anh chèo thuyền đợi cõi mộng mị vô
bờ bến
Ở đó phải có 1
tên nào đó viết lại tình yêu
THIS DAY
wind knows what love is
the summer day flashing royal colors
a lone fisherman surveys
the world's wound
a struck bell swells
people strolling in the afternoon
please join
the year's implications
someone bends toward a piano
someone carries a ladder past
sleepiness has been postponed a few minutes
only a few minutes
the sun researches shadow
and drinking water from a bright mirror
I see the enemy within
an oil tanker
the tenor's song enrages the sea
at three in the morning I open a tin can
setting some fish on fire
Bei Dao: The ROSE
of TIME
Edited by Eliot
Weinberger
[Note: To DV: Làm ơn
dịch bài trên. Tks. NQT]
Ngày này
Gió biết rõ tình
yêu
Ngày hè lấp lánh sắc màu vương
giả
Người câu cá cô độc đang đo lường
vết thương của mặt đất
Chuông ngân vang đang trương nở
Người rảo bước sau ngọ
Xin hãy
thêm vô hàm nghĩa của tháng năm này
Có người cúi mình
xuống dương cầm
Có người vác thang đi qua
Cơn buồn ngủ bị đẩy lùi mấy phút
Chỉ là mấy phút
Mặt trời đang coi xét chiếc bóng
Tôi uống nước từ tấm gương sáng
Nhìn thấy kẻ địch của lòng mình
Tiếng hát của một giọng
nam cao
Giống tàu chở dầu chọc giận biển lớn
Tôi mở lon đồ hộp lúc ba giờ sáng
Để những con cá tỏa ánh rạng ngời.
From my iFone
Gửi bác bản tạm dịch
bài “This day” của Bei Dao. Chúc bác vui luôn.
D.V
Tks
Many Tks. Take Care. GNV.
Gấu sẽ đi 1 đường dịch, từ bản tiếng Anh, sau.
Có tí khác biệt, giữa hai bản dịch,
tiếng Việt của DV và tiếng Anh, của Eilot Weinberger.
[Trong Now & Then, Robert Hass, trong 1
bài viết về Rilke, đã đưa ra chừng 10 bản dịch, tiếng Anh,
của 1 bài thơ của Rilke. Bài này thú lắm, cho
thấy, dịch thơ, theo GCC, càng có nhiều bản dịch, càng
tốt, và đừng bao giờ sợ sai ý của nguyên tác.
Borges sửa thơ của chính ông hoài. Thành ra, tờ
TLS khuyên, tốt nhất, bạn nên học tiếng Tây Ban Nha, để
có nhiều bản dịch, của 1 bài thơ, của chính Borges,
do Borges sửa đi sửa lại!]
Ngày này
Gió biết tình yêu
là gì
Ngày hạ, sắc màu vương giả lấp lánh
Một ông câu trơ trọi
Đo vết thương của thế giới
Chuông ngân vang rền rĩ,
Người tản bộ sau ngọ
Làm ơn nhập vào
những hàm ngụ của năm
Một người nào đó
cúi xuống chiếc dương cầm
Một người nào đó vác thang qua
Cơn buồn ngủ bị cưỡng lại vài phút
Chỉ vài phút
Mặt trời kiếm cái bóng
Uống nước từ gương sáng,
Tôi nhìn thấy kẻ nội thù
Một chiếc tàu
chở dầu
Tiếng hát giọng nam cao chọc giận biển
Ba giờ sáng tôi mở lon thiếc
Đưa mấy chú cá lên giàn hỏa.
Ngủ đi, thung lũng
Ngủ đi, thung lũng
mau lấy mây mù xanh che khung trời
che con mắt bông huệ tây xanh xao
Ngủ đi, thung
lũngmau lấy nhịp chân
mưa đuổi theo ngọn gió
đuổi theo tiếng hót thấp thỏm của chim cu
Ngủ đi, thung lũng
chúng tôi nấp ở đây
cứ như nấp vào giấc mộng ngàn năm
thời gian thôi chẳng còn trượt qua lá
cỏ
đồng hồ mặt trời ngưng sau tầng mây
cũng thôi không lay rụng ráng chiều với
hừng đông
Cây rừng vặn mình
thả rơi vô số quả thông cứng
bảo vệ hai hàng dấu chân
tuổi thơ chúng tôi cùng rảo bước
với mùa màng quanh
co đường nhỏ
phấn hoa dính đầy những bụi tầm gai
Ôi, vắng lặng sao
phiến đá ném đi không vọng tiếng
có lẽ, bạn đang tìm kiếm điều chi
-từ tim đến tim
một cầu vồng lặng lẽ dâng cao
-từ mắt đến mắt
Ngủ đi, thung lũng
gió, ngủ đi
thung lũng ngủ say trong mây mù xanh
gió, trong lòng bàn tay chúng
tôi say ngủ.
Bei Dao: The Rose
of Time, p12
Ps: Bác có thấy
bài thơ này có cái khí hậu Tứ Tấu Khúc của bác không:)
Tks. NQT
SLEEP, VALLEY
Sleep, valley
with blue mist quickly cover the sky
and the wild lilies' pale eyes
Sleep, valley
with rainsteps
quickly chase away the wind
and the anxious cries of the cuckoo
Sleep, valley
here we hide
as if in a thousand-year dream
time no longer glides past blades of grass
stopped behind layers of clouds, the sun's clock
no longer swings down evening glow or dawn
Spinning trees
toss down countless hard pine cones
protecting two lines of footprints
our childhoods walked with the seasons
along this winding path
and pollen drenched the brambles
Ah, it's so quiet and still
the cast stone has no echo
perhaps you are searching for something
-from heart to heart
a rainbow rises in silence
- from eye to eye
Sleep, valley
sleep, wind
valley, asleep in blue mist
wind, asleep in our hands
Bei Dao
Quả đúng là khí
hậu Tứ Tấu Khúc, như K. có lần phán,
dẹp cả cuộc đời qua 1 bên, lấy cả thiên thu cho... quá
khứ!
Hà, hà!
Tks All of U
NQT
ALLEN GINSBERG
(1926-1997)
New Stanzas for
Amazing Grace
I dreamed I dwelled in a homeless place
Where I was lost alone
Folk looked right through me into space
And passed with eyes of stone
o homeless hand on many a street
Accept this change from me
A friendly smile or word is sweet
As fearless charity
Woe workingman who hears the cry
And cannot spare a dime
Nor look into a homeless eye
Afraid to give the time
So rich or poor no gold to talk
A smile on your face
The homeless ones where you may walk
Receive amazing grace
I dreamed I dwelled in a homeless place
Where I was lost alone
Folk looked right through me into space
And passed with eyes of stone
DECEMBER
Những Chiếc Đồng Hồ Mệnh Chung
The Clocks of the Dead
by Charles Simic
http://www.gio-o.com/LyOcBR/LyOcBRHaiCuGiangSinh2016.htm
Bài
thơ này Tin Văn đã giới thiệu. Đọc cái tít
tiếng Mít, của Lý Ốc, Gấu thấy lạ, bèn lò
mò tìm hiểu....
http://tanvien.net/Dayly_Poems/7.html
NMG có cái hình
ảnh thú vị lắm: Mọi đồng hồ Mít ngưng chạy đúng
vào ngày 30 Tháng Tư 1975.
THE CLOCKS OF THE DEAD
One night I went to keep the
clock company.
It had a loud tick after midnight
As if it were uncommonly afraid.
It's like whistling past a graveyard,
I explained
In any case, I told him I understood
Once there were clocks like
that
In every kitchen in America.
Now the factory's windows are all broken.
The old men on night shift are in Charon's boat.
The day you stop, I said to the clock,
The little wheels they keep in reserve
Will have rolled away
Into many hard-to-find places.
Just thinking about it, I forgot
to wind the clock.
We woke up in the dark.
How quiet the city is, I said.
Like the clocks of the dead, my wife replied.
Grandmother on the wall,
I heard the snows of your childhood
Begin to fall.
Charles Simic
Những chiếc đồng hồ của những người đã
chết
Một đêm Gấu đi ra đường
kiếm bạn đồng hành là chiếc đồng hồ
Nó kêu một tiếng “tích” thật
bự sau nửa đêm
Như thể nó sợ, một cái sợ không
giống ai
Như tiếng huýt sáo khi đi qua nghĩa
địa
Tôi giải thích
Trong bất cứ trường hợp, tôi bảo nó,
tôi hiểu
Đã có 1 lần, có
nhiều đồng hồ như thế
Ở mọi nhà bếp của lũ Ngụy
Bây giờ mọi cửa sổ nhà máy sản
xuất đồng hồ Chợ Lớn,
Đồng hồ một cửa sổ, hai cửa sổ, không người
lái...
thì đều tan hoang, đổ vỡ.
Những người già của những ca trực đêm
thì đều lên con thuyền của Charon
Ngày mi ngưng, tôi biểu cái
đồng hồ,
Những bánh xe dự trữ thì đều bỏ đi
Tới rất nhiều nơi thật khó mà tìm
được
Mải nghĩ về những chuyện đó,
tôi quên mẹ lên giây cót đồng
hồ
Chúng tôi thức dậy trong bóng
tối
Sao thành phố im ắng như thế này,
tôi nói.
Như những đồng hồ của người chết, Gấu Cái
trả lời
Bà cụ ở trên tường,
Con nghe tiếng tuyết của thời thơ ấu của bà
Bắt đầu rơi
POETS
Poets
shouldn't commit
Suicide
That would leave the world
To those without imaginations
Or hearts
That would bequeath
To the world
A mangled syntax
And no love
Of champagne
Poets must live
In misery and ecstasy
To sing a song
With the katydids
Poets should be ashamed
To die
Before they kiss
The sun
The Diver
Oswald von Wolkenstein,
1376-1445
translated from the German by Richard
Sieburth
December 22, 2016 Issue
http://www.nybooks.com/articles/2016/12/22/the-diver/
Then
there was the time
I tried to learn to swim
in a deep lake,
but once in,
shot straight
to the floor,
out of sight, out of mind,
a good hour or more.
Nice & cold down there
as I went looking for fish
with my nose-tip,
but then I fell for her
hook, line & sinker
and that sweet little stinker
snared me like a common thief,
she whom I held so dear
to heart, causing me
all this untold pain & grief.
Not smart on my part.
Had she only died
some time before,
she who still poses
such a threat,
which I realized
as I rode toward Hungary,
still in love, still alone
still accident-prone.
The weather rainy
all the way there,
me learning a few words
of Magyar, chill
to the tongue,
drinking my fill
of the Tauggel waterfall
that plunges down
from the high cliffs,
into which, a fool,
I splashed & nearly
drowned,
escaping by a hair,
wet to the bone.
I’d bet any precious stone,
however well-buffed,
however well-cut,
that no man in a hundred
could survive such
dumb, headlong
dives into love.
TTT 10 years Tribute
Note: Cuốn này, cũng
tuyệt. Trong 1 bài viết ngắn, Reader's
Block, Dyer, cảnh cáo thú đọc sách,
và cho biết, càng ngày
ông càng bớt đọc, và trích
1 câu của Nietzsche:
Sáng
sớm, vớ cuốn sách đọc, tôi coi đó,
là, bửn.
'Early
in the morning, at break of day, in all the freshness
and dawn of one's strength, to read a book - I call that
vicious!'
Nietzsche:
Ecce Homo
Cái kinh nghiệm đọc, đọc
sách nào, về già, nhìn
lại, với riêng GCC, là 1 thử thách
của ông Trời, đối với 1 độc giả, và sau khi thử
thách rồi, thì là món quà
của Xừ Luỷ!
TV
xin post lại, kinh nghiệm của Kafka, và đây
là 1 dẫn nhập tuyệt hảo cho cái việc đọc:
Cuộc
Xét Nghiệm [The Test]
Tôi
là một người hầu, nhưng không có
việc làm. Nhút nhát, lại ít
khi tỏ ra hết mình, thực ra tôi chẳng
chịu sắp hàng, chen lấn với người khác; nhưng
đây chỉ là một lý do khiến tôi
thất nghiệp; cũng có thể chẳng có chi liên
can tới chuyện thất nghiệp của tôi, trong bất cứ trường
hợp nào, chuyện là thế này: chẳng bao giờ
người ta gọi tôi đi hầu; những người khác được
gọi, tuy họ chẳng cố gắng gì hơn tôi, mà thực
ra có khi họ còn chẳng cảm thấy cái ao ước
được gọi, trong khi tôi, ít ra đôi lúc
cảm thấy điều này một cách thật dữ dội.
Vậy
là tôi nằm dài trong khu sảnh dành
cho người hầu, ngó lên chùm ánh
sáng trên trần, mơ mơ màng màng,
chợt thức, và lại rơi vào giấc ngủ.
Đôi khi, tôi bước vào quán,
nơi người ta bán bia đắng, đôi khi tôi
cũng nốc nó một cách ghê tởm, nhưng
những lần khác, tôi uống nó…
Một
lần tôi vô quán, một người khách
ngồi ở chỗ tôi hay ngồi quan sát mọi người.
Tôi không dám nhìn ông
ta thật gần, và quay mình tính bỏ đi.
Nhưng người khách gọi giật lại; hóa ra cũng là
một người hầu, tôi có gặp trước đó,
nhưng chưa từng nói chuyện với anh ta.
-Tại
sao anh bỏ chạy? Hãy ngồi đây làm
một ly. Tôi trả tiền.
Vậy
là tôi ngồi xuống. Anh hỏi tôi đôi
điều, nhưng tôi không thể trả lời, thực ra
là tôi không hiểu ngay cả những câu
hỏi của anh ta. Thế là tôi nói: "Có
lẽ anh buồn vì anh đã mời tôi, như vậy
tôi nên đi thì hơn", và tôi
tính đứng dậy. Nhưng anh ta vươn tay qua bàn đẩy
tôi ngồi xuống. "Hãy ở lại", anh ta nói,
"đây chỉ là một cuộc xét nghiệm. Kẻ nào
không trả lời những câu hỏi, là qua được cuộc
xét nghiệm".
Nên
nhớ, Kafka đã từng phán, Ông
Trời năn nỉ tôi, đừng viết, NO!
Đọc,
với ông, chắc cũng rứa.
Nhưng
căng nhất, là đọc cái gì?
Một
anh Tẫu chẳng đã phán, thứ nhà
văn bảnh nhất trên đời, là thứ, đếch thích
viết!
Vưỡn
cũng thế, thứ độc
giả bảnh, đếch thích
đọc!
Có
thể nói, tất cả cái đọc của GCC, là
1 thử thách, của Ông Trời, nhắm trả
lời cuộc xét nghiệm, liệu mi chịu nổi... Lò Thiêu?
Hà,
hà!
Phách
lối thật
Chọc
chúng chửi!
Compass
Every single thing
becomes a word
in a language
that Someone or Something, night and day,
writes down in
a never-ending scribble,
which is the history
of the world, embracing
Rome, Carthage,
you, me, everyone,
my life, which
I do not understand, this anguish
of being enigma,
accident, and puzzle,
and all the discordant
languages of Babel.
Behind each name
lies that which has no name.
Today I felt its
nameless shadow tremble
in the blue clarity
of the compass needle,
whose rule extends
as far as the far seas,
something like
a clock glimpsed in a dream
or a bird that
stirs suddenly in its sleep.
-A.R.
J.L. Borges
UNE BOUSSOLE
A Esther Zemborain de Torres.
Choses sont mots. Quelqu'un
- mais qui, mais quoi ? -
Nous écrit
: cette incessante graphie
Inextricable et
qui ne signifie
Rien, c'est l'histoire
humaine. En ce convoi
Passent Carthage
et Rome, et moi, lui, toi,
Mon désespoir
d'être cryptographie,
Hasard, rébus
- mon impensable vie,
Cette Babel qui
s'écartèle
en moi.
Mais par-delà
la parole ou le nombre
Un reste attend.
Je sens planer son ombre
Sur cet acier
léger, lucide et bleu
Qui cherche un
point où l'océan fait trêve ;
Presque une montre
entr'apercue en rêve,
Presque un oiseau
qui dort et tremble un peu.
La bàn
Mọi vật đơn trở thành
một từ
Trong một ngôn
ngữ mà Ai Đó, hay Điều Đó, ngày
đêm
Viết xuống một
bản văn chẳng bao giờ chấm dứt
Gọi là
lịch sử thế giới, ôm trong nó
La Mã,
Carthage, bạn, tôi, mọi người
Đời Gấu, không
làm sao hiểu nổi, cơn nhức nhối,
Là niềm
bí ẩn, tai nạn, và thai đố
Và tất
cả những ngôn ngữ chẳng thứ nào chịu
được thứ nào của Babel
Sau mỗi tên,
nằm, mỗi không
tên
Bữa nay Gấu cảm
thấy cái bóng không tên
của nó run rẩy
Trong cái
sáng sủa màu xanh của cây kim
của cái la bàn
Luật của nó
thì vươn xa thật xa như những biển xa
Một điều gì
như cái đồng hồ thấp thoáng trong giấc
mơ
Hay một hải âu
bất thình lình run run trong giấc
ngủ của nàng
Thơ
Mỗi
Ngày
Compass
Every single thing becomes a word
in a language that Someone or Something, night and day,
writes down in a never-ending scribble,
which is the history of the world, embracing
Rome, Carthage, you, me, everyone,
my life, which I do not understand, this anguish
of being enigma, accident, and puzzle,
and all the discordant languages of Babel.
Behind each name lies that which has no name.
Today I felt its nameless shadow tremble
in the blue clarity of the compass needle,
whose rule extends as far as the far seas,
something like a clock glimpsed in a dream
or a bird that stirs suddenly in its sleep.
-A.R.
J.L. Borges
UNE BOUSSOLE
A Esther Zemborain de Torres.
Choses sont mots. Quelqu'un
- mais qui, mais quoi ? -
Nous écrit : cette incessante graphie
Inextricable et qui ne signifie
Rien, c'est l'histoire humaine. En ce convoi
Passent Carthage et Rome, et moi, lui, toi,
Mon désespoir d'être cryptographie,
Hasard, rébus - mon impensable vie,
Cette Babel qui s'écartèle en moi.
Mais par-delà la parole ou le nombre
Un reste attend. Je sens planer son ombre
Sur cet acier léger, lucide et bleu
Qui cherche un point où l'océan fait trêve
;
Presque une montre entr'apercue en rêve,
Presque un oiseau qui dort et tremble un peu.
La bàn
Mọi vật đơn trở thành
một từ
Trong một ngôn ngữ mà Ai Đó, hay
Điều Đó, ngày đêm
Viết xuống một bản văn chẳng bao giờ chấm dứt
Gọi là lịch sử thế giới, ôm trong nó
La Mã, Carthage, bạn, tôi, mọi người
Đời Gấu, không làm sao hiểu nổi, cơn nhức
nhối,
Là niềm bí ẩn, tai nạn, và thai
đố
Và tất cả những ngôn ngữ chẳng thứ nào
chịu được thứ nào của Babel
Sau mỗi tên, nằm, mỗi không tên
Bữa nay Gấu cảm thấy cái bóng không
tên của nó run rẩy
Trong cái sáng sủa màu xanh của
cây kim của cái la bàn
Luật của nó thì vươn xa thật xa như những
biển xa
Một điều gì như cái đồng hồ thấp thoáng
trong giấc mơ
Hay một hải âu bất thình lình run
run trong giấc ngủ của nàng
Louise Glück
b. 1943
Louise Glück is considered
by many to be one of America’s most talented contemporary poets.
The poet Robert Hass has called her “one of the purest and most accomplished
lyric poets now writing,” and her poetry is noted for its technical
precision, sensitivity, and insight into loneliness, family relationships,
divorce, and death. Frequently described as “spare,” James K. Robinson
in Contemporary Women Poets also
noted that “Glück’s poetry is intimate, familial, and what Edwin
Muir has called the fable, the archetypal.” Rosanna Warren has described
Glück’s “classicizing gestures”—her frequent reworking of Greek
and Roman myths such as Persephone and Demeter, for example—as necessary
to her lyric project. According to Warren, Glück’s “power [is] to
distance the lyric ‘I’ as subject and object of attention” and to “impose
a discipline of detachment upon urgently subjective material.” Glück’s
early books feature personae grappling with the aftermaths of failed
love affairs, disastrous family encounters, and existential despair, and
her later work continues to explore the agony of the self. In the New
York Times, critic William Logan described her work as “the logical outcome
of a certain strain of confessional verse—starved of adjectives, thinned
to a nervous set of verbs, intense almost past bearing, her poems have
been dark, damaged and difficult to avert your gaze from.” (b)
Louise
Glück được nhiều người coi là 1 trong những nhà
thơ đương đại tài năng nhất của Mẽo. Thi sĩ Hass gọi bà,
một trong những nhà thơ trữ tình trong trắng và
thành tựu nhất hiện đang còn viết vào lúc
này”, và thơ của bà thì được nhận ra [noted]
bởi cái sự chính xác, cảm tính và
đốn ngộ đưa tới sự cô đơn, những liên hệ gia đình,
ly hôn, và cái chết.
A WORK OF FICTION
As I turned over the last page,
after many nights, a wave of sorrow enveloped me. Where had they all
gone, these people who had seemed so real? To distract myself, I walked
out into the night; instinctively, I lit a cigarette. In the dark, the
cigarette glowed, like a fire lit by a survivor. But who would see this
light, this small dot among the infinite stars? I stood awhile in the dark,
the cigarette glowing and growing small, each breath patiently destroying
me. How small it was, how brief. Brief, brief, but inside me now, which
the stars could never be.
Note: Nhân đọc cả 1 lũ xúm nhau khen 1 mẩu
văn dởm của 1 em Mít, [dưới đây, trên FB] bèn nhớ tới bài thơ
trên!
Và bài điểm thơ của Thầy Đạo (1)
Tiếng Chim – Phan
Quỳnh Trâm
TIẾNG CHIM
Có tiếng
chim hót lảnh lót bên ngoài, nàng
mở cửa nhìn ra ban công. Chỉ thấy, trong bóng
tối, người yêu của nàng đang đứng hút thuốc. Tiếng
chim tắt ngấm.
(Dec-2016)
(1)
http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/17.html
Nguyễn
Thùy Song Thanh
Cánh
Cửa: giữa Đi và Về
đọc
sách
■
Người đời sử dụng ngôn ngữ như dụng cụ để thông
giao trong khi thi sĩ buộc lời nói còn ở dạng thô
sơ (parole brute) này phải im tiếng để cho lời nói thiết
yếu (parole essentielle) tức ngôn ngữ thi ca cất tiếng. Thi sĩ
áp đặt niềm im lặng lên ngôn ngữ thông thường
thô sơ để lắng nghe lời nói thiết yếu cất tiếng trong niềm
im lặng.
Làm
gì có sự phân biệt quái đản, như trên.
Khi Prévert, đặt tên cho tập thơ của ông là
"Paroles” thí dụ, thì nó là ngôn
ngữ gì, brute, hay essentielle?
Những câu thơ của ông, là ngôn
ngữ hàng ngày, đâu thấy “essentielle” ở chỗ
nào?
Phán khủng quá, thì phải đưa ra
1 thí dụ, 1 hình ảnh... để cho người đọc mở mắt ra
chiêm ngưỡng chứ!
Đọc lời phán về thơ của Thầy Đạo, thì
Gấu lại nhớ ra lần đầu được ngồi với thiên tài âm
nhạc Trịnh Công Sơn, ở Quán Chùa. Giữa cả đám
Bắc Kít, ông nói giọng Bắc Kít, tức
thứ ngôn ngữ “brute”, nhưng bất ngờ có 1 tay Trung Kít,
ghé ngang bàn, chỉ để hỏi thăm, hay bắt tay thiên
tài, là ông bèn trở ngay qua ngôn
ngữ "tinh anh, thiết yếu…..", tức tiếng Huệ!
Cái từ “đọc sách” ở đây, nghe đúng
là thứ tiếng “brute”, có lẽ nên thay bằng cụm
từ "giới thiệu", hay "đọc" thơ - không phải sách - thơ
của nữ thi sĩ NTST.
Đọc sách khác đọc thơ!
Thơ Nguyễn Thuỳ Song Thanh,
cộng cả cuộc đời của bà, và cộng luôn cả thơ và
cuộc đời của ông chồng của bà, tức Khoa Hữu, làm Gấu
nhớ tới câu của Borges: Mỗi bài thơ, tới thì của nó,
thì bèn biến thành 1 bi khúc, in time, every
poem becomes an elegy. Và đây là cuộc thoại bắt đầu ngàn
ngàn năm trước, và chẳng bao giờ chấm dứt, theo nghĩa, sách
[thơ, ở đây] tái tạo quá khứ, books restored the past.
Phải ngàn ngàn năm sau, tiếng thơ này mới lại được cất
lên, và trở thành 1 bi khúc, tái tạo quá
khứ 1 thời đại.
Câu chuyện thơ của NTST
và ông chồng Khoa Hữu, còn làm Gấu nhớ
đến trường hợp nhà thơ Osip Mandelstam, và bài
ai điếu của Brodsky:
Bà đâu có muốn
lớn lao, cao cả như vậy, ngay cả chuyện giản dị, là muốn ngang hàng
với chế độ, cũng không. (1)
Đúng như thế, NTST cũng không
muốn mấy chuyện nhơ bửn đó.
Như ông chồng của bà.
Nhân nhắc tới bà
vợ góa của nhà thơ Osip Mandelstam, và bài
ai điếu của Brodsky: Nhà thơ rất tởm chế độ, và đám
Hội Nhà Thổ ở.... Hà Lội - Mút Ku, đúng
hơn.
Ông viết về chúng bằng 1 giọng còn
dữ dằn hơn Gấu nhiều:
Tuy nhiên, vẫn còn
chút ngạc nhiên nho nhỏ, rằng sự thắp sáng
ý thức quốc gia dân tộc này, nó là
hậu quả của việc tố cáo hệ thống, chế độ. Hai cuốn sách
của Bà Mandelstam thực sự là đã nhắm tới Ngày
Phán Xét trên thế gian, về thời của bà và
văn chương của nó - một sự phán xét rất ư là
chính đáng, bởi vì kể từ thời của bà, sự
nghiệp vĩ đại có tên là xây dựng thiên
đàng trên trái đất này được khởi công
thực hiện. Chút ngạc nhiên nhỏ nhoi hơn, là, hai cuốn
hồi ức này, đặc biệt là cuốn thứ nhì, đã không
được ưa thích bởi phía bên kia Bức Tường Điện Cẩm
Linh. Giới cầm quyền, tôi phải nói, họ tỏ ra thành
thực [honest] hơn, so với đám trí thức, ấy là nói
về mặt phản ứng do mấy cuốn sách gây ra. Họ chỉ nói,
việc sở hữu những cuốn sách đó là phạm luật. Nhưng
về phía đám trí thức, nhất là đám
ở Moscow, họ nhao nhao lên, như là một cái chợ,
trước những lời cáo buộc nhắm vào rất nhiều thành
viên nổi tiếng, hoặc cũng nổi tiếng, nhưng in ít hơn, của
nó, về chuyện thậm thụt với chế độ, và đám người
vẫn xun xoe nơi xó bếp nhà bà nhờ vậy mà
giảm đi rất nhiều.
Có những lá thư hở, hoặc nửa kín
nửa hở, có những quyết định rất ư là tởm lợm, là
sẽ không thèm bắt tay, có những tình
bạn, những hôn nhân đổ vỡ, do chuyện, không hiểu
bà đúng hay là sai, khi chỉ tay vào kẻ
đó, và nói, đây là một tên
chỉ điểm. Một tay ly khai nổi tiếng vừa tuyên bố vừa lắc lắc chòm
râu: "Bà đã ỉa lên cả một thế hệ chúng
ta".
Bà đã ỉa lên cả
1 thế hệ chúng ta.
Thầy Đạo học Triết, Đại Học
Văn Khoa Sài Gòn, có được cái bằng Cử Nhân
Triết, đã từng lên tiếng tố cáo GCC, không phải
dân khoa bảng, với Sến, trên diễn đàn talawas, không
đáng nói, nhưng Thầy còn tố cả Thầy của Thầy là
Nguyễn Văn Trung, khi đó là Khoa Trưởng Văn Khoa, là
đã thuổng bài của Tẩy.
Mít kêu là mách bu, mà
không 1 bu Nam Kít!
Cái bằng cử nhân của Thầy, thực sự là
để trốn lính, nhưng đây là do chính sách
của Ngụy, có đi học, mỗi năm mỗi đậu là được hoãn
dịch vì lý do học vấn.
Ai thì cũng biết bằng
cấp không đẻ ra nhà văn, nhà phê bình,
nhà thơ. Cái chuyện Thầy tố cáo GCC vô
lý quá, vì Thầy, bằng cấp là như thế,
mà viết không nổi 1 bài giới thiệu 1 tập thơ, cho
thấy, viết, bất cứ cái gì, là phải có cái
gì của riêng mình, một phát hiện của riêng
mình, về 1 tác phẩm văn học, thí dụ.
Bao nhiêu Thầy Mít, ở hải ngoại, hiện đang
sống đó, thực sự theo Gấu, không ông nào
viết ra hồn cả. Vì thiếu óc sáng tạo, dù
trong 1 bài giới thiệu rất ư là tầm thường, bình
thường.
Đây là 1 thảm họa. Thầy Phúc, mỗi
lần viết về 1 ông Mít, là xách cổ 1 ông
mũi lõ, cho đứng kế bên. Thầy Thục, thì tra kíu
hộc máu mồm, toàn những tác giả vô danh
tiểu tốt, rồi… thôi.
Bà Thụy Khuê, cực nổ, nhưng như.. pháo.
Sến thì thật đanh đá. Và cũng thuộc
loại nổ, ít đọc.
Cái chuyện Sến phán, về trường hợp VP,
khiến lũ Nam Kít phát điên lên, theo Gấu,
nhảm. Bà này vẫn thường phán như thế, với ngay
cả Trần Dần, tiền chiến… Có rũ bụi thì bà cũng
đếch thèm vén váy ngồi chung chiếu.
Quen “…” dzậy rồi, để ý làm
gì mà cũng góp ý góp iếc!
Bảnh như Sến, đâu bao giờ thèm đọc cỡ…
Trừ Tà!
Phê bình, theo
Gấu, bắt buộc phải có sáng tạo, nhưng muốn viết phê bình,
thì phải có năng khiếu về phê bình,
rồi lại phải phát huy cái năng khiếu đó, bằng
cách đọc, đọc thật nhiều, không thể có 1 tên
phê bình mà 1 chữ tiếng Tây không
biết, 1 câu tiếng Anh không dịch được.
Let them all speak for me
mention me when they pray
Every year on the eve of
my burial day
Để lũ Bắc Kít lèm bèm
về Gấu Cà Chớn
Nhắc đến Gấu khi chúng cầu
nguyện
Mỗi năm vào cái buổi
Eve
của cuộc hạ huyệt Gấu!
Ta mang cái gánh nặng
Cái Ác Bắc Kít
Đâu phải chúng!
4
In setting Akhmatova's major poems in their historical
and biographical context, Anderson offers persuasive grounds
for her contention that "one of the driving forces of her life [was]
the determination to honor the dead and to preserve their memory among
the living." That she saw herself as following a tradition set by
Pushkin seems clear from an allusion (immediately evident to her
Russian readers) in the fourth line of "Requiem" to his famous poem
addressed to the Decembrists, "From the depths of the Siberian mines,"
in which he promises that his "free voice" will reach them "even within
your convicts' holes."
Akhmatova offers no such hope:
the Stalinist state had developed techniques of silencing dissidents
to a degree undreamed of by the tsars. Its goal was not merely to
suppress public expression of independent thought, but to wipe Russian
minds clean of all memories, facts, and values other than those
it proclaimed:
Made an unperson, every trace
wiped out,
Horrific facts changed to word of
mouth,
My double's being taken to
"confess."
Such images in "Poem Without a Hero" remind us
that Akhmatova's poems of 1940 were composed under conditions
unknown to previous generations of Russian writers. As the case
of Mandelstam showed, a poem that existed only in one's head, if
re- cited to one other person, could lead to prison or execution.
The fear of further endangering her son, who
was already in a camp, made Akhmatova see threats everywhere.
She refused to write her poems down for herself or anyone else,
yet the fear that if she died they would die with her made her seek
a means of communicating them to others. Her friend Lidiya Chukovskaya,
who had a gift for memorizing poetry, tells how Akhmatova, not daring
to whisper a poem even in her apartment, would write it down on a scrap
of paper, pass it to her to read and memorize, and then burn the paper
over an ashtray. Later, Akhmatova said proudly: "Eleven people knew 'Requiem'
by heart, and not one of them betrayed me."
Those who understood the magnitude of the risk
Akhmatova faced in her determination to bear witness could appreciate
the hidden meaning of the concluding lines of the first part of
"Poem Without a Hero":
I, your olden conscience, here
affirm:
I tracked down the tale that
had been burned,
I went to the deceased's
house
And there I laid it down
On a window shelf-
and then I tiptoed off ...
As Anderson observes, Akhmatova's dedication
to preserving the memory of the dead derived not only from her
deep sense of communion with world culture, but also from her religious
faith in the communion of the present with the past and the living
with the dead as part of a seamless whole in which each person and
event has eternal meaning and value. This faith is reflected in the
epilogue to "Requiem," in Akhmatova's words to the grieving women: "Once
more the hour of remembrance [pominalni chas] draws near,/I see you, I
hear you, I feel you all here." Anderson writes that the Russian words
suggest the Orthodox practice of prayer for the sick or for t II' souls
of the dead, a suggestion reinforced by a subsequent couplet's image of
a list bearing the names of each sufferer. The list has been confiscated,
and in its absence, Akhmatova weaves her "mantle of words/Made up of
the snatches that I've overheard," preserving the memory of all the
bereaved women for whom she speaks.
She asks in return:
Let them all speak for me,
mention me when they pray
Every year on the eve of my
burial day.
The epigraph to "Poem Without a hero" expresses
the same sense of the mutual responsibility of past and present:
"Deus conservat omnia" (God preserves
everything-the motto on the coat of arms of the former Sheremetev
Palace where Akhmatova occupied a room in the apartment of her former
husband Nikolai Punin). It can be seen in the spirit of a resigned
acceptance of suffering that infuses so much of her poetry, as in the
poem of 1922 where she reflects on her refusal to desert her country
in a catastrophic time:
But here, as the dark fires blaze
around
And our last youth burns out in
their glow,
We don't ask where refuge can be
found,
Don't try to avoid a single blow.
We know each hour's worth will
be made clear ,
And justified at the end of days ...
This certitude was a head-on challenge to the
official ideology of her time, which saw the past as something
to be negated and mercilessly extirpated along with its unpersons,
in favor of the present which itself had only instrumental value
as a staging post on the march to the ideal future. For her, no final
judgment could be delivered on the past; the dead retained their right
to make their protest heard by the living. Hence her prescient afterword
to Part I of "Poem
Without a Hero," written in 1940:
... The poem rests now,
... with no more to say.
But what if a theme suddenly
bursts out,
Knocks with its fists on a windowpane-
And to that summons there
replies
A distant sound fraught with
alarm-
Gurgling, groaning, and
shrieking cries
And a vision of crossed arms? ..
Akhmatova's openness to such cries from the past
explains the numerous revisions of the poem, meticulously documented
by Anderson, which occupied her over so many years. It was still
growing when the voices she had preserved were heard by her people
through samizdat.
5.
In February 1956 the silence shrouding the country
was broken when Khrushchev admitted to the Twentieth Congress
of the Communist Party that crimes had been committed in its name.
But severe limitations remained on how much could be said, and by
whom. Even after the opening of the Soviet archives, the full cost
in human lives of Stalin's paranoia is still a matter of educated
guesswork; it has been estimated that over three quarters of a million
Soviet citizens were executed between 1934 and 1953, while 18 million
passed through the camps during Stalin's reign.
Delivered in closed session and transmitted in
secrecy to Party cells all over Russia, Khrushchev's attack
on Stalin focused almost exclusively on the Terror of 1937 and
1938, singling out its victims among the Party elite.
No mention was made of between six and seven
million people who died in the famine of 1933 following forced
collectivization. A few thousand rehabilitations were put in motion-a
tiny percentage of those who had been falsely convicted. Returnees
from the camps were often shunned or met with indifference. Many
faced the ordeal of encountering those who had denounced them, few
of whom were brought to account, while their victims remained objects
of suspicion, as witnessed by the fate of an editor who sought to
publish a book of memoirs by Gulag prisoners. His battle with the
censors ended in his detention in a psychiatric hospital with the diagnosis
that he was "obsessed with the struggle for justice.
Collective amnesia about the
subject of the Gulag was shattered when in 1962, with the aim
of discrediting his enemies, Khrushchev permitted the publication
of Solzhenitsyn's novella A Day in the Life of Ivan
Denisovich, The public's hunger for new revelations was met by
the clandestine circulation of hand-typed manuscripts- two of which
became key texts in the underground battle against the neo- Stalinist
revival under Brezhnev: Hope Against Hope,
Nadezhda Mandelstam's memoirs of the life of the Moscow intelligentsia
under the Terror, and Akhmatova's "Requiem."
Cỏ xanh
rồi sao ngại ngần bước xuống
Đã cuối thu lá rụng ngập
đầy thềm
Những con sếu cuối mùa bay vội
vã
Về phương Nam tìm nắng ấm dịu
êm
Lòng ước gì như cánh
chim tung gió
Theo đường bay đã vạch sẵn cuối
trời
Sẽ đáp xuống giấu mình
trong cánh nhỏ
Và an nhiên từ bỏ cuộc
rong chơi
Ngồi tần ngần nhìn đôi
giày đầy bụi
Bụi thân quen bám từ thuở
biết buồn
Bạc phếch màu thăng trầm qua
năm tháng
Kỷ niệm dâng đầy ngây ngất
tỏa hương
Bỏ đi thôi
những bóng hình năm cũ
Những buồn
vui đang bám víu trong hồn
Bỏ đi hết
những tia nhìn trìu mến
Những đêm
dài, những chiều tím bâng khuâng
Tay ngập ngừng tháo dây
ràng trăm mối
Cởi đôi giày với một chút
rưng rưng
Đặt chân trần lên cỏ xanh
mềm mại
Bên kia bờ thấp thoáng
bóng người thương
Vội đi thôi, trời cuối thu rồi
đó
Gió mùa đông đang
chờ kéo mây mờ
Vạt cỏ xanh nâng niu từng lá
nhỏ
Sẽ úa tàn chìm
đắm dưới cơn mưa
Người thương ơi đưa tay cho em nắm
Bùn dưới chân đang run
rẩy từng cơn
Hãy dắt em lên bờ kia
đầy nắng
Là tay anh ? Hay chỉ sợi tơ
buông ?
Đặng Lệ Khánh
Tình cờ đọc,
cùng lúc, với bài thơ “Hull” của Philip
Larkin, trong tờ báo vừa bệ về Lapham’s Home, sao thấy
như cùng 1 air.
Tay thi sĩ Hồng Mao này, được phong
tước Thi Sĩ Nhà Nước, lắc đầu, chỉ thích làm
1 thủ thư, như... Borges
Note: Bài viết, mới kiếm thấy,
tuyệt lắm. Cái từ đuổi Thần Chết chạy vãi linh
hồn:
She called poetry, "our holy
trade", "the Word that causes death's defeat."
Như
bạn thân của Bà, Osip Mandelstam, nhận xét:
“Thơ chỉ được kính trọng, ở xứ sở này, nơi dân chúng
bị giết vì nó”
"Poetry is respected only in this country
- people are killed for it". Trong 1 bài thơ đề tặng Osip,
bà viết về sự ngần ngại chấp nhận vai trò “chứng nhân”
của mình, nhưng lương tâm của bà không
buông tha:
... earthly time is something it doesn’t
know;
For it, the three dimensions are unreal.
Thời gian của đời có điều gi
không hiểu
Với nó, ba chiều thì không
thực
Let them all speak for me
mention me when they pray
Every year on the eve of
my burial day
Để lũ Bắc Kít lèm bèm
về Gấu Cà Chớn
Nhắc đến Gấu khi chúng cầu nguyện
Mỗi năm vào cái buổi Eve
của cuộc hạ huyệt Gấu!
Ta mang cái gánh nặng Cái
Ác Bắc Kít
Đâu phải chúng!
BATYUSHKOV
Like a flaneur with a magic cane,
tender Batyushkov lives at my place-
wanders down Zamostie lanes,
sniffs a rose, sings Zafna's praise.
Not for a moment believing that
we
could be separated, I bowed to him:
I shake his brightly gloved cold hand
in an envious delirium.
He smiled at me. "Thank you,"
I said,
so shy I could not find the words:
no one commands such curves of sound,
never was there such speech of waves.
With oblique words he made us
feel
the wealth and torments that we share-
the buzz of verse-making, brotherhood's bell
and the harmonies of pouring tears.
And the mourner of Tasso answered
me:
"I am not yet used to eulogy;
I only cooled my tongue by chance
on the grape-flesh of poetry."
All right, raise your eyebrows
in surprise,
city dweller and city dweller's friend-
like blood samples, from glass to glass
keep pouring your eternal dreams.
June 18, 1932
-Osip Mandelstam
(Translated from the Russian by Peter France)
Translator's note: Konstantin
Batyushkov (1787-1855) was a key figure in the emergence of modern
Russian poetry; the harmony of his verse was much admired by Pushkin.
In 1821 he succumbed to incurable mental illness.
NYRB, May 8 2014
Bác Nguyễn
Như gã
tản bộ với cây ba toong thần kỳ
Bác Nguyễn dễ mến sống ở chỗ Gấu - nhà
Cậu Toàn, Phố Cổ -
Lang thang xuống Bờ Hồ, theo những Hàng
Lụa, Hàng Buồm, Hàng Bạc
Ngửi ngửi một bông
hồng, đi một đường thổi, “Hà Nội ta đánh Mẽo giỏi”
Không
một khoảnh khắc nghi ngờ, Mẽo sẽ cút Ngụy sẽ nhào,
Cũng chẳng thể hồ nghi, một tên chăn trâu
học lớp Một sẽ ngồi lên đầu dân Mít
Hà, hà!
Gấu cúi đầu chào sư phụ của mình
Gấu bắt tay, là cái bao tay lạnh
như Hà Lội lạnh
Run run như thần tử diện long nhan
Bác
Nguyễn mỉm cười, Gấu đó ư, trẻ quá nhỉ!
[Thuổng MT khi gặp Thầy Kuốc lần đầu]
Gấu bẽn lẽn không làm sao kiếm ra
lời
Ngoài Bác Nguyễn
ra,
Ai có thể điều khiển được những lọn âm
Những đợn sóng lời
Bằng những từ nghiêng nghiêng
Như những giọt mưa chứa cơn gió nhẹ trong
nó
Bác Nguyễn làm cho chúng ta
cảm thấy
Sự giầu có và những khắc khoải mà
chúng ta chia sẻ -
Thì thầm như thơ, bạn quí như Oanh
vàng, Khánh bạc
Vãi lệ hài hòa
Và người than khóc
Tasso trả lời Gấu:
“Ta không quen với cái trò
thổi ống đu đủ; cái gì gì, đâu phải
đời Mít nào cũng có được?
Ta chỉ uốn nhẹ cái lưỡi cho đầm cái
ngọt ngào mới mẻ của thơ"
OK. Hãy dựng cặp lông
mi lên trong kinh ngạc
Cư dân Hà Lội và bạn của cư
dân Hà Lội –
Như mẫu máu, từ ly này tới ly khác,
Hãy cứ vô tư tiếp tục rót những
giấc mộng đời đời của mi
Gấu ơi là Gấu!
Tháng Sáu 18, 1932
Osip Mandelstam
Ghi chú của người dịch:
Konstantin Batyushkov là nhà thơ
chủ chốt của nền thi ca hiện đại Nga.
Pushkin rất mê tính hài hòa
trong thơ của ông. Mất năm 1821, vì 1 chứng nan
y.
https://www.poetryfoundation.org/poems-and-poets/poets/detail/delmore-schwartz
Delmore
Schwartz
1913–1966
Delmore Schwartz had, writes Alfred
Kazin, "a feeling for literary honor, for the highest standards,
that one can only call noble—he loved the nobility of example
presented by the greatest writers of our century, and he wanted
in this sense to be noble himself, a light unto the less talented....
So he suffered, unceasingly, because he had often to disappoint
himself—because the world turned steadily more irrational and
incomprehensible—because the effort of his intellectual will,
of his superb intellectual culture, was not always enough to sustain
him.... He was the prisoner of his superb intellectual training,
a victim of the logic he respected beyond anything else. He was
of the generation that does not come easily to concepts of the absurd."
Mental illness haunted Schwartz for
approximately twenty years. Marlene Nadle reported that
it sent him "in and out of sanatoriums and into and out of
the isolation of hotel rooms. It was an illness he accepted almost
fatalistically." "Lost he was," said Kazin, "but he was not enough
'lost' in the demonic poet's tradition of losing himself to this
world and finding himself in a richer world of private vision....
He was not a seer, not a visionary of 'the lost traveller's dream
under the hill,' of the 'holy madness' that Yeats claimed to find
in Ireland itself—the madness that Christopher Smart knew, and Holderlin,
and Blake."
DELMORE SCHWARTZ
He heard God coughing in the next
apartment,
his life a hospital, he moved from
bed to bed
with us and Baudelaire, except he
always had
Finnegans Wake tucked
in his pajamas,
which must mean, sure as chance,
the human race is God's phlegm. Penitent,
I say a prayer in God's throat:
"Mister, whose larynx we congest,
spit us into the Atlantic or Hudson
...
let us be dropped into the mouth of
the first fish
that survived by eating its young-
drink hot tea and honey Your mother
brings You
till You are rid of Your catarrh,
well again.
Let us swim back to our handiwork."
Far from the world of Howth Castle,
Delmore died
in a bed-bugged hotel, unclaimed for
three days.
A week before, by chance, I saw him
at a drugstore counter, doubled over
a coffee,
he moaned, "Faithful are the wounds
of a friend,
deceitful enemy kisses."
He held my hand too tight, too long
.
Melancholy Eros flew to my shoulder,
spoke in Greek, Yiddish, and English:
"Wear his sandals, his dirty underwear,
his coat of many colors that did not
keep him warm."
-Stanley Moss
NYRB October 13, 2016
DELMORE SCHWARTZ
Ông nghe Chúa ho ở phòng kế bên
Cuộc đời của ông ở bịnh viện,
Từ giường tới giường,
Với chúng tôi và Baudelaire, ngoại
trừ,
Ông luôn có cuốn Finnegans Wake
cuộn trong quần ngủ
Nó phải có nghĩa - chắc như là
cơ may –
Con người, là đờm, rãi của Chúa.
Ăn năn,
Tôi cầu nguyện, trong cổ họng của Người:
“Thưa Người, chúng con làm thanh quản
của Người tắc nghẽn
Xin khạc chúng con xuống Atlantic, hay Hudson…
Hãy để chúng con rớt vô miệng con
cá thứ nhất
Sống sót nhờ ăn thịt lũ con của nó –
Uống trà nóng và mật ong Mẹ của
Người mang đến cho Người
Cho tới khi Người hết viêm họng, OK trở lại.
Hãy để chúng con bơi trở lại với việc
làm của chúng con"
Xa thế giới Howth Castle, Delmore mất
Trên cái giường đầy bọ chét ở khách
sạn
Ba ngày chẳng có ai nhận xác
Một tuần lễ trước đó, tình cờ, tôi
nhìn thấy ông
Ở quầy một tiệm thuốc,
Gập người trên ly cà phê,
Ông rên rỉ,
“Tận tụy là vết thương của tình bạn
Bịp bợm, cái hôn của kẻ thù”.
Ông cầm tay tôi thật chặt, thật lâu
Buồn bã, Eros thổi qua vai tôi,
Nói bằng tiếng Hy Lạp, tiếngYiddish, tiếng Anh
“Hãy đi dép, mặc quần áo lót
bửn của ông
ta,
Cái áo khoác nhiều mầu không
làm ông ta đủ ấm”
Delmore Schwartz
có, Alfred Kazin
viết, “cảm nghĩ về vinh danh văn chương, với những chuẩn mức cao
nhất mà người ta chỉ có thể gọi là ‘phong nhã’
– 'tuồng phong nhã đã bày ra đấy', ông
mê cái phong nhã của những nhà văn lớn
lao nhất của thế kỷ của chúng ta, và ông muốn ông,
chính ông, cũng được phong nhã như thế, thứ ánh
sáng 'đài gương' soi tới 'dấu bèo' là
ông, 1 tài năng kém cỏi hơn…. Và thế là
ông đau đớn, không ngừng đau đớn, bởi là vì
ông thường xuyên không hài lòng về mình,
bởi là vì thế giới cứ lầm lầm lũi lũi trở thành
vô lý, không thể hiểu được, bởi vì cái
ý chí tinh thần của ông, cái văn hóa
thần sầu của ông, luôn luôn không đủ để cầm giữ
ông… Ông là tù nhân của sự rèn
luyện tinh thần, bảnh chọe của mình, một nạn nhân của 1 luận
lý mà ông kính trọng hơn bất cứ cái
gì khác. Ông thuộc thế hệ không dễ dàng
chấp nhận những quan niệm về phi lý.”
SUJI KWOCK KIM
Return of the Native
for Kang,
born in Sonchon, North Korea
Better not to have been born
than to survive everyone you loved.
There's no one left of those who lived here once,
no one to accuse you, no one to forgive you-
only beggar boys or black-market wives
haggling over croakers and cuttlefish,
hawking scrap-iron and copper-pipes stripped
from factories
in the shadow of the statue of the Great Leader.
Only streets emptied of the villagers you knew,
only the sound of steps of those no longer living,
ghosts grown old, grim shadows of what they had
once been:
some in handcuffs, some in hoods taken away at
midnight,
some roped and dragged into Soviet Tsir trucks
driven to the labor camps that "don't exist."
Every absence has a name, a face, a fate:
but who, besides you, remembers they were ever
alive?
You don't know why you were spared,
why you breathe walk drink eat laugh weep-
never speaking of those who had been killed,
as if they had never existed, as if the act of
surviving them
had murdered them.
Forget, forget! But they want to be remembered.
Better people than you were shot:
do you think your life is enough for them?
For the silence
is never silent: it says We hate you
because you survived. No. We hate you
because you escaped.
from Ploughshares
Gấu về lại Xứ Mít
Thà rằng đừng sinh
ra
Còn hơn sống dai hơn mọi người mà
mi thương yêu
Chẳng còn ai trong số những người ngày
nào sống ở đây
Chẳng còn ai để buộc tội mi
Chẳng còn ai để tha thứ cho mi
Chỉ là những đứa trẻ ăn mày ăn xin,
những bà vợ chợ đen
Tranh giành con cá hay con mực
Lượm ống tuýp hay sắt vụn từ những xưởng
thợ, nhà máy
Dưới bóng của vị Cha Già Vĩ Đại
Chỉ là những phố xá vắng tiệt những
người dân mà mi biết
Chỉ là tiếng bước chân của những
người không còn sống nữa
Những hồn ma trở nên già cằn, những
cái bóng nhăn nhó của những người ngày
nào đã từng sống
Một số tay mang còng,
Một số đầu bị chùm
Bị bắt lúc nửa đêm
Một số bị trói, kéo, và thẩy
lên những xe tải L iên Xô
Đưa tới những Trại Lao Động Cải Tạo “không
hiện hữu”
Mọi vắng mặt, khuất bóng có 1 cái
tên, một bộ mặt, một số phận:
Nhưng ai, ngoại trừ mi, còn nhớ họ đã
từng có thời, sống?
Mi không hiểu tại làm sao mà
mi được chừa ra
Tại làm sao mi thở, bước, uống, ăn, cười,
và khóc
Không bao giờ nói về những người
bị giết
Như thể họ đã từng hiện hữu
Như thể cái hành động sống dai hơn
họ, của mi
Đã sát hại họ
Quên, quên! Nhưng
họ muốn nhớ
Thà những con người còn hơn là
mi bị bắn:
Mi có nghĩ là đời của mi thì
đủ cho họ?
Bởi là vì im lặng chẳng hề là
im lặng
Nó nói:
Chúng ta thù ghét mi
Bởi là vì mi sống sót.
Không.
Chúng ta thù ghét mi
Bởi là vì mi bỏ chạy.
When
your luck deserts you, even cold food burns.
[Zambian
proverb]
Khi
may mắn bỏ chạy bạn, cơm lạnh bỏng như lửa!
1931:
Lisbon
BEAST UNBURDENED
O cat playing in the street
As if it were a bed,
I envy you your luck,
Because it isn't luck at all.
Servant of the fatal laws
Governing stones and people,
You are ruled by instincts
And feel only what you feel.
That's why you're happy.
The nothing that's you is all yours.
I look at myself but I'm missing.
I know myself it's not me.
Fernando
Pessoa, a poem. The Portuguese poet left
Lisbon at the age of seven in 1896 to move to Durban,
South Africa, and lived there until he was seventeen;
his first poems were written in English. He published
much of his work under more than seventy literary "heteronyms,"
artistic personae for which he created complex and overlapping
biographies. In a 1962 essay, Octavio Paz described Pessoa,
who died in 1935 of hepatitis, as 'a humorist who never
smiles and who freezes our blood, inventor of other poets and
destroyer of himself"
Thú Hoang Vu
Ôi chú mèo trên con phố
Như thể là cái giường
Ta thèm may như mi
Bởi là vì chẳng may cái con mẹ gì
Tà lọt của lề luật tàn khốc
Cai trị đá và người,
Mi, tuân theo bản năng
Chỉ cảm, cái mi cảm
Mi, hạnh phúc
Mi, hư vô một cục
Ta không được như mi
Ta thiếu cái ta thiếu
[Dịch… thoáng!]
Pessoa
rời Lisbon khi bảy tuổi vào năm 1896 tới Durban, Nam Phi
và sống ở đó tới năm 17 tuổi. Những bài
thơ đầu của ông được viết bằng tiếng Anh. Hầu
hết tác phẩm của ông được viết dưới hơn 70 cái
nick khác nhau, mỗi 1 cái nick như thế thì
lại kèm 1 cái tiểu sử! Trong 1 bài essay
viết năm 1962, nhà thơ Octavio Paz miêu tả Pessoa,
mất năm 1935 do bịnh gan, như 1 tay “tiếu lâm, hài
hước, không bao giờ cười, và làm máu
của chúng ta đóng băng, kẻ phát minh
ra những nhà thơ, và kẻ huỷ diệt chính
mình”.
1942: Hollywood
RANDOM SELECTION
I know of course; it's simply luck
That I've survived so many friends. But last night
in a dream
I heard those friends say of me: "Survival of the
fittest"
And I hated myself.
Bertolt Brecht, 'I, the Survivor."
Brecht left for California in June 1941
on what would turn out to be the last possible
ship; during the voyage, word came that the United States
had stopped granting entry visas to those with close relatives
in Germany. In spring 1942 Brecht and two other émigrés
living around Los Angeles, Salka Viertel and Ruth Berlau,
discussed a report about German forces murdering thousands
of Russian civilians. The next morning Brecht slipped this poem
under Viertel's door.
Chọn Đại
Gấu
biết, lẽ dĩ nhiên, nhờ may
Gấu
sống dai hơn mấy đấng bạn quí
Nhưng
tối qua,
Trong
một giấc mơ
Gấu
nghe họ lèm bèm về thằng bạn lùn lé
của họ:
Mi
sống dai nhất, quái thế, tên xì ke
kia!
Và
Gấu bèn ghét Gấu thậm tệ
Còn
hơn cả tên Lăng Băm, hay Thầy Đạo, hay Thầy Kuốc
Ghét
Gấu!
Hà,
hà!
Luck is a very
thin wire between survival and disaster and not many people
can keep balance on it
-Hunter
S. Thompson, 2000
May
mắn là sợi dây mỏng dính, giữa sống
sót và thảm họa, ít người giữ được thăng bằng, khi đi trên
sợi dây đó!
One should
always play fairly when one has the winning
cards
-Oscar
Wilde, 1895
Khi
có những cây bài tốt, thì đừng
chơi bửn!
Câu
này tặng Bắc Kít thật tuyệt: Chúng có tất cả
những cây bài đẹp, sau 30 Tháng
Tư 1975.
Chúa
là thơ bị tóm bắt trong bất kỳ một tôn
giáo
God is the poetry caught in any religion
Les Murray
Thiên Đàng không như bay
lượn hay bơi biếc
Nhưng có điều chi mắc mớ tới...
BHD và 1 cái nhìn như 1 thằng ngố!
Heaven is not like flying or swimming,
but has something to do
with blackeness and a strong glare
[Dịch theo kiểu THNM]
Note:
Cuốn này mua xon, lâu rồi, bữa nay mới lôi
ra gặm.
Tác giả là
cái tay viết cuốn tiểu sử Faulkner, Thời Vô Song: Đời
của W. Faulkner, đã từng giới thiệu trên Tin Văn. Trong
lời giới thiệu, ông xoa đầu Tân Nobel BD:
preface
Life is energy, and energy is creativity. And
even when individuals pass on, the energy is retained in the
work of art, locked in it and awaiting release if only someone will
take the time and the care to unlock it.
MARIANNE MOORE
Poetry doesn't matter to most people. That
is, most people don't write it, don't read it, and don't have
any idea why anybody would spend valuable time doing such a thing.
The culture is clamorous, with a television blaring in most living
rooms, magazines proliferating, and earphones downloading a great
deal of garbage into the heads of millions on the subways and byways
of the world. There is little time for concentration, or a space
wherein the still, small voice of poetry can be heard. It could be
argued, of course, that most people get their poetry in the lyrics
of songs. I would, myself, see Bob Dylan as a genuine poet, although
even there the tune carries as much meaning as the words, or (at least)
helps to position the words.
Poetry
doesn't matter to most people.
Ít thằng mê thơ.
Nhảm!
Giả như đúng như thế, thì OK
quá đi mất, chứ than thở cái nỗi gì!
Tôi coi BD đúng thi sĩ, thứ thiệt,
mặc dù điệu nhạc chuyên chở nhiều nghĩa, như lời
hát, hay ít ra, nó chỉ chỗ, của lời hát.
Trên tờ NYRB, số mới, cũng có
bài viết, coi BD xứng đáng đợp Nobel năm nay
http://www.nybooks.com/articles/2016/12/08/why-bob-dylan-deserves-nobel-prize/
Why
Dylan Deserves It
Mark Ford
December 8, 2016 Issue
In her interview for No Direction Home (2005),
Martin Scorsese’s brilliant three- and-a-half-hour documentary
about Bob Dylan, Joan Baez suggested there is something in Dylan’s
music that goes “to the core of people”; there are those, she acknowledges,
who are simply “not interested—but if you’re interested, he goes
way, way deep.” Books on Dylan have been pouring from popular and academic
presses for decades now, not to mention the numerous long-running
fanzines that often combine recondite nuggets of information about
Dylan performances or recording sessions (who was on bass on which
take, what kind of hat he wore on stage) with scholarly accounts of sources
for particular images or general appraisals of his musical and literary
influences. Occasionally one learns about the more egregious of his
many eccentricities. The sheer volume and variety of this secondary literature
on Dylan is itself weighty testimony to the impact of his music on those
who like it: it goes way, way deep, and provokes this need to explore
Dylan’s effects, to analyze his compositional habits, to interpret the
carnival of characters that he creates—including, of course, the overarching
one of Minnesota-born Robert Zimmerman’s creation of Bob Dylan.
But explaining the magic of a song or performance
is much harder than explaining the excellence of a poem or novel.
There’s an uncomfortable scene, for Dylan fans, in Woody Allen’s
Annie Hall, in which the Allen character grimaces almost in pain
as a rock journalist (played by Shelley Duvall) recalls a Dylan
concert she has just been to, and then admiringly quotes the chorus
of “Just Like a Woman.” Allen’s scorn at first makes you wonder how
you would set about defending the lines, but that quickly comes to
feel pointless. Sixties hipster language takes us much closer to what
is perhaps the only question really worth asking about Dylan: Hey, do you
dig what this cat’s up to—or are you some kind of square?
It was delightful to learn this October that
the Nobel Prize Committee for Literature dug Dylan, although,
it soon turned out, this didn’t mean that Dylan dug the Nobel
Prize Committee for Literature. A message fleetingly appeared
on his website acknowledging that he had won the prize, but that
soon disappeared; the “wanted man” was nowhere to be found; he was,
like the girl berated in “Like a Rolling Stone,” “invisible now.”
Contrary to reports in the popular press, Dylan has given hundreds
of interviews throughout his career—indeed there’s a whole book of them,
called Dylan on Dylan (2006). But clearly he wasn’t eager to confront
armies of journalists and mouth platitudes about…
But
explaining the magic of a song or performance is much harder
than explaining the excellence of a poem or no
Nhưng giải thích tính thần kỳ
của 1 bài hát, hay 1 trình diễn thì
căng hơn nhiều so với việc giải thích cái bảnh của
1 bài thơ, hay 1 cuốn tiểu thuyết...
Ui
chao, đọc thì lại nhớ tới lời phán của NL:
Vì đọc thơ, vấn đề không phải
là hiểu. Thơ không phải là
để hiểu. Cũng không phải để "cảm", như một trường phái
dạy dỗ ngày nay hay rao giảng (đọc thơ không phải
là để được hưởng một cơn động kinh). Đọc thơ, trước hết, là
nhìn. Có nhìn thấy, thì
tức là có đọc được.
http://www.tanvien.net/TG_TP/Paul_Celan.html
All three - Felstiner in his biography
of Celan, Popov-McHugh in their notes, Joris in his two introductions
- have illuminating things to say about Celan's language. Joris
is particularly telling on Celan's agonistic relation to German:
Celan's German is an eerie, nearly ghostly language;
it is both mother-tongue, and thus firmly anchored in the realm
of the dead, and a language the poet has to make up, to recreate,
to re-invent, to bring back to life ... Radically dispossessed
of any other reality he set about to create his own language -
a language as absolutely exiled as he himself. To try to translate
it as if it were current, commonly spoken or available German - i.e.
to find a similarly current English or
American 'Umgangssprache' - would be to miss
an essential aspect of the poetry. (Breathturn, pp. 42-3)
Tiếng Đức của Celan là 1 thứ ngôn
ngữ của hồn ma. Vừa là tiếng mẹ đẻ được cắm vào
trong cõi của những người đã chết, vừa là
thứ ngôn ngữ mà nhà thơ phải làm cho
nó sống dậy, tái tạo nó, lại phịa ra nó,
đem nó trở lại đời sống....
[Ui chao, đọc 1 phát thì lại càng
kính phục Thầy Đạo: Người rất mê thơ Celan, và
đã từng viết cả 1 cuốn trường thiên tiểu thuyết triết
học về Celan, trên
trang Gió O!
Bởi thế mà Gấu tin rằng đấng này
cũng 1 thứ Vua Bịp!
Đọc, bịp, viết cũng bịp, suốt đời bịp, vì
có khỉ gì đâu. Cứ giả như không có
trang Gió O, mấy Thầy này post bài ở đâu?
NQT]
Celan is the towering European poet of the middle
decades of the twentieth century, one who, rather than transcending
his times - he had no wish to transcend them - acted as a lightning
rod for their most terrible discharges. His unremitting, intimate
wrestlings with the German language, which form the substrate of all
his later poetry, come across in translation as, at best, over- heard
rather than heard directly. In this sense translation of the later poetry
must always fail. Nevertheless, two generations of translators have
striven, with striking resourcefulness and devotion, to bring home in
English what can be brought. Others will without doubt follow.
(2001)
Coetzee: Celan và những người dịch
ông
[in trong Inner Workings, Essays 2000-2005]
Thơ
Mỗi
Ngày
Light in the grim
JON STALLWORTHY
Adam Zagajewski
ETERNAL ENEMIES
Translated by Clare Cavanagh
Adam Zagajewski' s "Try to
praise the mutilated world", first published in the post-September
11 "black" issue of the New Yorker, takes its title from its
opening line:
Try to praise the mutilated world.
Remember June's long days,
and wild strawberries, drops of rose
wine ..
The nettles that methodically overgrow
the abandoned homesteads of exiles.
You must praise the mutilated world.
You watched the stylish yachts and
ships;
one of them had a long trip ahead
of it,
while salty oblivion awaited others.
You've seen the refugees going nowhere,
you've heard the executioners sing
joyfully.
You should praise the mutilated world.
Remember the moments when we were
together
in a white room and the curtain fluttered.
Return in thought to the concert where
music
lared.
You gathered acorns in the park in
autumn
and leaves eddied over the earth's
scars.
Praise the mutilated world
and the gray feather a thrush lost,
and the gentle light that strays and
vanishes
and returns.
When I read it I was struck, first,
by an awareness that, far from lecturing his reader, the
speaker was speaking to himself; his use of "You" (a Zagajewski
trademark) a welcome change from the self-important I-deology
of so many contemporary poets. It struck me, then, that he had
brilliantly obeyed his own imperatives - "Remember .... Remember ....
Return .... Praise" – and had made me do the same. More generally,
I was arrested by the authority of the voice, the courage and wisdom
of a call to praise in a time (like any other) of mutilation: praise,
a word with Christian associations, repeated with increasing urgency
in the refrain, acquiring the force of a liturgical response, a prayer.
Behind the distinctive new voice, one can) hear a voice heard in Auden's
"Musée des (Beaux Arts" ("About suffering they were never wrong
/ The Old Masters"), juxtaposing "miraculous birth" with "dreadful
martyrdom" in which "the torturer" plays a part. At some level, Zagajewski
remembers this as well as his own love, a fluttering curtain (in
a window Auden had opened), and a "mutilated world" where "the executioners
sing joyfully". Surely, too, Auden's "expensive delicate ship" must
be one of Zagajewski's "stylish ships" - perhaps one heading for
the "salty oblivion" that awaits Icarus in the Bruegel painting on
which Auden's poem is based. Zagajewski's praise poem has the variable
line-length of Auden's which, despite its unobtrusive rhymes,
gives it the easy assurance of the best free verse; and one cannot
pay Clare Cavanagh a greater compliment than to say her English
poem does not suffer by comparison with Auden's, These poems have
a similarly antithetical structure: Auden's moving from birth to death
to life continuing; Zagajewski's, from "June's long days" to "light
that strays and vanishes / and returns". They tell us "we must praise"
the life continuing, the light returning. They are both Christian poets,
intimately involved in human tragedy, yet endowed with the detached perspective
of the Old Masters. Adam Zagajewski was born sixty-four years ago in
Lvov and went to university in Cracow, two cities he loves and celebrates
in his essays and poems. He emigrated to France in 1982 and now lives
between Cracow, Paris and Chicago. Early collections of his poems in
English translation were presented in Without End (2002) - a title
echoing the Book of Common Prayer - with a section of New Poems translated
by Cavanagh. She has achieved something just as remarkable with Eternal
Enemies. These are identified in "Epithalamion", a poem beginning
"Without silence there would be no music", that goes on to assert:
"Only in marriage do love and time, eternal enemies, join forces".
An earlier poem, "Little Waltz", ends: "love sets us free, time kills
us". The coming together of man and woman is imaged in that of the earth
and "The Sea", In love with the earth, always drawn to shore In love
with the earth, thrusting into cities, Stockholm, Venice, listening
to tourists laugh and chatter before returning to its dark, unmoving
source. The most frequent pairing and dis-pairing of the many antitheses
in these poems are those of light and darkness (themselves linked
to life and death), often in a religious context, as in "The Churches
of France", described as "dark vessels, where the shy flame of a mighty
light wanders". Again, in a more recent poem, "At the Cathedral's Foot",
[we] spoke softly about disasters, about what lay ahead, the coming fear,
and someone said this was the best we could do now - to talk of darkness
in that bright shadow. Such poems remind us that when this Polish Roman
Catholic Adam was born, "the pock- marked / Georgian still lived and
reigned". With a bitter parody of the opening of St John's Gospel, he
now remembers: In the beginning, freezing nights and hatred. Red Army
soldiers fired automatic pistols at the sky, trying to strike the Highest
Being. The title of that poem, "Life is Not a Dream", is echoed by the
end of the next, "It Depends": "I push through a dense thicket of onlookers
and ask: / What's happening? God's coming back. But it's just a dream".
Zagajewski resembles Yeats in the skill with which he links poem to poem,
so that the power of both poets' collections is greater than the sum of
individual poems. The Arch poet liked to quote Blake: "Without contraries
is no progression". Zagajewski would agree but, whereas the Irish agnostic
celebrated the conflict of contraries that, in his "System", made the
world and history go round, the Christian Pole seeks and celebrates harmony,
love: "Remember the moments when we were together". The title of a key
poem proclaims his creed, "Poetry Searches for Radiance", the creed of
creative artists (made in their Creator's image) such as Blake- I watch
William Blake, who spotted angels every day in treetops and met God
on the staircase
of his little house and found light
in grimy alleys - and like others whom he celebrates: Milosz
and Brodsky, Caravaggio and Vermeer, Bach and Schubert. Last
but not least, the composers: indeed, Zagajewski would seem to
believe that life as well as art "aspires to the condition of music".
A sentence borrowed from Conrad Aiken - "Music I heard with you
was more than music" - finds its way into three poems of his new book;
and music in some form is the means of communication/communion in
the joyful epiphanic moments to which he and his fellow makers aspire.
The music of the translator's English free verse, in its happy marriage
to the poet's European themes, makes Cavanagh's Zagajewski as rare
and rewarding an experience as that of Milosz’s Englished
Collected Poems.
TLS Dec 2009
Bài điểm tập thơ Những Kẻ Thù
Đời Đời, của Adam Zagajewski, thời gian nó mới ra
lò.
AZ, như thế, cũng là nhà
thơ Ky Tô, như Milosz, Brodsky.
Note: Gõ bác Gúc,
hóa ra đã có trên Tin Văn rồi!
TRY
TO PRAISE THE MUTILATED WORLD
Try to praise the mutilated world.
Remember June's long days,
and wild strawberries, drops of rose
wine.
The nettles that methodically overgrow
the abandoned homesteads of exiles.
You must praise the mutilated world.
You watched the stylish yachts and
ships;
one of them had a long trip ahead
of it,
while salty oblivion awaited others.
You've seen the refugees going nowhere,
you've heard the executioners sing
joyfully.
You should praise the mutilated world.
Remember the moments when we were
together
in a white room and the curtain fluttered.
Return in thought to the concert
where music flared.
You gathered acorns in the park in
autumn
and leaves eddied over the earth's
scars.
Praise the mutilated world
and the gray feather a thrush lost,
and the gentle light that strays
and vanishes and returns.
Hãy cố mà ca ngợi thế
giới bị tùng xẻo
Hãy nhớ những ngày
dài Tháng Sáu
và những trái dâu
dại, những giọt rượu vang hồng
Những cây tầm ma mọc um tùm
một cách có hệ thống
những trại ấp bỏ hoang của những
người lưu vong.
Bạn phải ca ngợi thế giới bị tùng
xẻo.
Bạn ngắm những chiếc du thuyền kiểu
cách và những chiếc tầu
một trong chúng thì
có một chuyến đi dài phía trước mặt,
trong khi sự lãng quên
đẫm vị mặn của muối chờ đợi những chiếc còn lại.
Bạn đã nhìn thấy những
người tị nạn chẳng có 1 nơi chốn nào để
mà tới
Bạn đã nghe đám đao
phủ hát một cách thật là sảng khoái.
Bạn nên ngợi ca thế giới bị
tùng xẻo
Hãy nhớ khoảnh khắc mà
chúng ra cùng bên nhau
Trong căn phòng trắng và
tấm màn xốn xang.
Hãy để cái đầu của
mình trở về buổi hòa tấu khi âm nhạc
bừng lên.
Chúng ta nhặt trái
sồi ở công viên vào mùa thu
và những chiếc lá xoay
xoay ở bên trên những vết sẹo trên mặt
đất.
Hãy ngợi ca thế giới bị tùng
xẻo
Và chiếc lông xám
của con chim hét đã mất
Và ánh sáng
dịu dàng lang thang, biến mất, rồi trở lại.
Bài thơ “Hãy ca ngợi
một thế giới bị tùng xẻo”, lần thứ nhất được đăng
trên số báo “đen” hậu-11/9, của tờ Người Nữu
Ước.
When I read it I was struck, first,
by an awareness that, far from lecturing his reader, the
speaker was speaking to himself; his use of "You" (a Zagajewski
trademark) a welcome change from the self-important I-deology
of so many contemporary poets. It struck me, then, that he had
brilliantly obeyed his own imperatives - "Remember .... Remember
.... Return .... Praise" - and had made me do the same. More generally,
I was arrested by the authority of the voice, the courage and wisdom
of a call to praise in a time (like any other) of mutilation: praise,
a word with Christian associations, repeated with increasing urgency
in the refrain, acquiring the force of a liturgical response, a prayer.
Behind the distinctive new voice, one can hear a voice heard in Auden's
"Musée des Beaux Arts" ("About suffering they were never wrong
/ The Old Masters"), juxtaposing "miraculous birth" with "dreadful
martyrdom" in which "the torturer" plays a part.
Khi đọc bài thơ “Hãy
cố ngợi ca thế giới bị tùng xẻo”, tôi bị chấn
động, thứ nhất, từ nỗi quan hoài, thay vì đọc
lên giọng ‘mấy lời’ với độc giả thì nhà
thơ lại nói với chính mình; cách sử
dụng đại từ “You”, "Bạn", một thương hiệu của Zagajieski, quả là
một sự chuyển đổi thật tuyệt, tách ra khỏi cái thói
tự quan trọng mình của rất nhiều nhà thơ đương thời. Rồi
tôi còn bị chấn động bởi sự kiện, nhà thơ thật thông
minh, thật duyên dáng tuân theo những mệnh lệnh của
chính mình - Hãy nhớ... Hãy nhớ... Hãy
trở lại.... Hãy ngợi ca – và tôi cũng làm như
vậy.
Nói chung là, tôi
còn bị chấn động hơn thế nữa, bởi giọng quyền uy,
sự can đảm và tính minh triết của một lời kêu
gọi, hãy ngợi ca vào 1 thời [như bất cứ mọi thời]
của sự tùng xẻo: ca ngợi, praise, một từ với những gia
nghĩa mang tính Ky tô giáo, được lập đi lập lại
với cường độ của sự khẩn thiết cứ thế tăng dần, ở điệp khúc,
đòi hỏi một sức mạnh của 1 đáp ứng mang tính
tế lễ, một lời cầu nguyện, khẩn cầu, cầu xin, a prayer.
Đằng sau giọng thơ mới mẻ một cách
thật rành rẽ, phân biệt này, chúng
ta nghe ra một giọng thơ cũ, của một bậc thầy, của Auden, trong
"Viện Bảo Tàng Nghệ Thuật:: "Về đau khổ họ chẳng hề bao
giờ lầm/Những Vị Thầy Cũ", và, chồng lên, sự “ra
đời thần kỳ, giống như là 1 phép lạ”, là, sự
"tuẫn nạn đáng sợ, chết chóc” trong đó, “tên
đao phủ, kẻ tra tấn, tên hành hạ”, cũng có
phần đóng góp của nó, vai trò của
nó....
JON STALLWORTHY đọc Eternal Enemies:
Light in the grime [Bụi Sáng]
TLS
Dec 4 2009
Chắc bạn còn nhớ dòng
thơ của Brodsky:
Bao thơ tôi, ít nhiều
chi, là về cùng một điều - về Thời Gian.
Về thời gian làm gì con người.
"All my poems are more or less about
the same thing – about Time. About what time does to Man."
Đây là câu trả
lời của Adam Zagajewski:
"Only in marriage do love and time,
eternal enemies, join forces".
"love sets us free, time kills us".
Chỉ trong hôn phối, hai kẻ thù
thiên thu, nối vòng tay lớn: tình yêu và
thời gian
Thời gian giết chúng ta.
Tình yêu khiến chúng
ta tự do
(1)
THE MOON
The story goes that in those
far-off times
when every sort of thing was taking
place-
things real, imaginary, dubious things-
a man thought up a plan that would
embrace
the universe entire in just one book.
Relentlessly spurred on by this vast
notion,
he brought off the ambitious manuscript,
polishing the final verse with deep
emotion.
All set to offer thanks to his good
fortune,
he happened to look up and, none too
soon,
beheld a glowing disk in the upper
air,
the one thing he'd left out-the moon.
The story I have told, although made
up,
could very well symbolize the plight
of those of us who cultivate the craft
of turning our lives into the words
we write.
The essential thing is what we always
miss.
From this law no one will be immune
nor will this account be an exception,
of my protracted dealings with the
moon.
Where I saw it first I do not know,
whether in the other sky that, the
Greeks tell,
preceded ours, or one fading afternoon
in the patio, above the fig-tree and
the well.
As is well known, this changing life
of ours
may incidentally seem ever so fair,
and so it was on evenings spent with
her
when the moon was ours alone to share.
More than moons of the night, there
come to mind
moons I have found in verse: the weirdly
haunting
dragon moon that
chills us in the ballad
and Quevedo's blood-stained moon, fully
as daunting.
In the book he wrote full of all the
wildest
wonders and atrocious jubilation,
John tells of a bloody scarlet moon.
There are other silver moons for consolation.
Pythagoras, an old tradition holds,
used to write his verse in blood on
a mirror.
Men looked to its reflection in the
moon's
hoping thus to make his meaning clearer.
In a certain ironclad wood is said
to dwell
a giant wolf whose fate will be to
slay
the moon, once he has knocked it from
the sky
in the red dawning of the final day.
(This is well known throughout the
prophetic North
as also that on that day, as all hope
fails,
the seas of all the world will be infested
by a ship built solely out of dead
men's nails.)
When in Geneva or Zurich the fates
decreed
that I should be a poet, one of the
few,
I set myself a secret obligation
to define the moon, as would-be poets
do.
Working away with studious resolve,
I ran through my modest variations,
terrified that my moonstruck friend
Lugones
would leave no sand or amber for my
creations.
The moons that shed their silver on
my lines
were moons of ivory, smokiness, or
snow.
Needless to say, no typesetter ever
saw
the faintest trace of their transcendent
glow.
I was convinced that like the red-hot
Adam
of Paradise, the poet alone may claim
to bestow on everything within his
reach
its uniquely fitting, never-yet-heard-of
name.
Ariosto holds that in the fickle moon
dwell dreams that slither through our
fingers here,
all time that's lost, all things that
might have been
or might not have-no difference, it
would appear.
Apollodorus let me glimpse the threefold
shape
Diana's magic shadow may assume.
Hugo gave me that reaper's golden sickle
and an Irishman his pitch-black tragic
moon.
And as I dug down deep into that mine
of mythic moons, my still unquiet eye
happened to catch, shining around the
corner,
the familiar nightly moon of our own
sky.
To evoke our satellite there spring
to mind
all those lunar cliches like croon
and June.
The trick, however, is mastering the
use
of a single modest word: that word
is moon.
My daring fails. How can I continue-
.
to thrust vain images in that pure
face?
The moon, both unknowable and familiar,
disdains my claims to literary grace.
The moon I know or the letters of its
name
were created as a puzzle or a pun
for the human need to underscore in
writing
our untold strangenesses, many or one.
Include it then with symbols that fate
or chance
bestow on humankind against the day-
sublimely glorious or plain agonic-
when at last we write its name the
one true way.
-A.S.T.
J.L. Borges
Note: Lục báo cũ, tình
cờ vớ được bài của Michael Wood, "The Unreachable
Real", điểm The Sonnets & Poems of the Night,
LBR, 8 July, 2010, trong có kể 1 giai thoại về Borges.
Sắp đi xa, 1 trong những bạn bè
quanh "giuờng chết", nhắc tới 1 tác phẩm của Borges,
nhưng nhớ lộn tên, "The Golden Coin", thay vì
"The Iron Coin".
Thấy bạn mình áy náy,
Borges an ủi, bạn làm điều thuật giả kim không thể làm được. (1)
Bài điểm này cũng thật
thú.
(1)
WHEN JORGE LUIS BORGES
was dying in Geneva in 1986, a friend committed an elegant
Freudian act of homage. He mentioned Borges's book of poems
The Golden Coin and was instantly corrected: The Iron Coin. The
friend was embarrassed but Borges reassured him: 'Don't worry. You
did what alchemy was unable to do.' The remark perfectly catches
Borges's quickness, grace, learning and love of precision. It has
a touch of self- deprecation too. It wasn't as if he didn't like
the word 'gold' - a 1972 volume of verse is called The Gold of the
Tigers- or as if he hadn't tried plenty of verbal alchemy of his
own. But a long attempt is quite different from an instantaneous,
unintentional success.
Jorge Luis Borges
Break of Day
In the deep night
of the universe
scarcely contradicted
by the streetlamps
a lost gust of wind
has offended the
taciturn streets
like the trembling
premonition
of the horrible
dawn that prowls
the ruined suburbs
of the world.
Curious about the
shadows
and daunted by the
threat of dawn,
I recalled the dreadful
conjecture
of Schopenhauer
and Berkeley
which declares that
the world
is a mental activity,
a dream of souls,
without foundation,
purpose, weight or shape.
And since ideas
are not eternal
like marble
but immortal like
a forest or a river,
the preceding doctrine
assumed another
form as the sun rose,
and in the superstition
of that hour
when light like
a climbing vine
begins to implicate
the shadowed walls,
my reason gave way
and sketched the
following fancy:
If things are void
of substance
and if this teeming
Buenos Aires
is no more than
a dream
made up by souls
in a common act of magic,
there is an instant
when its existence
is gravely endangered
and that is the
shuddering instant of daybreak,
when those who are
dreaming the world are few
and only the ones
who have been up all night retain,
ashen and barely
outlined,
the image of the
streets
that later others
will define.
The hour when the
tenacious dream of life
runs the risk of
being smashed to pieces,
the hour when it
would be easy for God
to level His whole
handiwork!
But again the world
has been spared.
Light roams the
streets inventing dirty colors
and with a certain
remorse
for my complicity
in the day's rebirth
I ask my house to
exist,
amazed and icy in
the white light,
as one bird halts
the silence
and the spent night
stays on in the
eyes of the blind.
http://www.ronnowpoetry.com/contents/borges/BreakofDay.html
The Iron Coin
Before us is the iron coin. Now let us
ask;
The two opposing faces what the answer
will be
To the intractable demand no one has made:
Why does a man require a woman to desire
him?
Let us look. In the higher orb are interwoven
The firmament's four strata that uphold
the flood
And the unalterable planetary stars.
Adam, the youthful father, and young Paradise.
The afternoon and morning. God in every
creature.
In that pure labyrinth you'll find your
own reflection.
Once again let us discard the iron coin,
Which is a magic mirror also. Its reverse
Is no one, nothing, shadow, blindness.
You are that.
The pair of iron faces fashions a single
echo.
Your hands and tongue are unreliable witnesses.
God is the unapproachable center of the
ring.
He does more than exalt or sentence: he
forgets.
Slandered with infamy, why shouldn't they
desire you?
Within the other's shadow, we pursue our
shadow.
Within the other's mirror, our reciprocal
mirror.
-E.M
Note: Gấu cũng lầm, bài thơ trên, với bài sau đây, cũng
của Borges, và đã được dịch.
Sorry, và xin post thêm bản dịch
tiếng Tẩy, để tạ lỗi, trong khi chờ bản tiếng Mít
To a Coin
Cold and stormy the night I sailed
from Montevideo.
As we rounded the Cerro,
I threw from the upper deck
a coin that glinted and winked out in the muddy
water,
a gleam of light swallowed by time and darkness.
I felt I had committed an irrevocable act,
adding to the history of the planet
two endless series, parallel, possibly infinite:
my own destiny, formed from anxieties, love and
futile upsets
and that of that metal disk
carried away by the water to the quiet depths
or to far-off seas that still wear down
the leavings of Saxon and Viking.
Any moment of mine, asleep or wakeful,
matches a moment of the sightless coin's.
At times I have felt remorse,
at others, envy
of you, existing, as we do, in time and its labyrinth,
but without knowing it.
-A.R.
J.L. Borges
Gửi Đồng Xu
Lạnh và bão là
cái đêm tôi dong buồm rời Montevideo
Và khi thuyền chúng tôi lượn
vòng Cerro
Từ trên boong thuyền cao
Tôi thẩy 1 đồng xu xuống dòng nước
bùn.
Lấp lánh, thoáng chốc,
Như một điểm sáng được thời gian và
đêm đen đợp đánh ực một phát
Tôi cảm thấy mình phạm 1 hành
động không làm sao thu hồi lại được
Thêm vào lịch sử của hành
tinh
Hai chuỗi dài song song, chắc là
vô tận:
Số phận của riêng tôi, được dệt bằng
những âu lo, thảng thốt, tình yêu,
Và những bực bội cà chớn, vô
ích
Và của đồng xu, một cái dĩa kim
khí
Được dòng nước cuốn tới những vùng
sâu thăm thẳm, trầm lắng
Hay là tới những những vùng biển
xa vời vợi
Cho tới bây giờ vẫn còn loay loay
với
Những gì còn lại của những sắc
dân Saxon và Viking.
Bất cứ một khoảnh khắc của tôi, ngủ gà
ngủ gật, hay thức thao láo
Thì đều xứng hợp với một khoảnh khắc của
đồng xu đã mất dạng
Có những lúc tôi cảm thấy
hối hận tràn trề
Như là cái lần tính bước
xuống đường cho xe hơi cán
Ở bên ngoài khu Phước Lộc Thọ
Và những lúc khác, thì
lại thèm muốn, ước ao
Em, Sad Seagull
Đang hiện hữu, như đôi ta đang hiện hữu,
trong thời gian và mê cung của nó
Nhưng không biết điều này.
A UNE MONNAIE
Froide et orageuse, la nuit où
mon bateau quitta Montevideo.
Au moment de dépasser le Cerro, (1)
je jetai du haut du pont supérieur
une monnaie qui brilla et qui se noya dans les
eaux
boueuses,
objet de lumière que le temps et l'ombre
ravirent.
J'eus l'impression d'avoir commis un acte irrévocable,
d'ajouter à l'histoire de la planète
deux séries incessantes, parallèles,
peut-être infinies :
mon destin, fait de trouble, d'amour et de vaines
vicissitudes,
et celui de ce disque de métal
que les eaux allaient livrer au mol abime
ou aux mers reculées qui rongent encore
les dépouilles du Saxon et du Viking.
A chaque instant de mon sommeil ou de ma veille
correspond un autre instant de l'aveugle monnaie.
Tu m'as quelquefois fait éprouver du remords
et d'autres fois de l'envie,
toi qui es, comme nous, dans le temps et dans son
labyrinthe
et qui ne le sais pas.
1. La Colline, presque par antonomase
en ce pays plat.
Nobel văn
chương 2016
Thơ
Mỗi
Ngày
CORONA
Autumn is eating a leaf from my hand:
we are friends.
We are picking time out of a nut, we
teach it to run:
and time rushes back to its shell.
In the mirror it's Sunday,
in dreams people sleep,
the mouth tells the truth.
My eye descends to the sex of my loved
one,
we gaze at each other,
we whisper out darkness,
we love one another like poppies and
memory,
we sleep like wine in a seashell,
like the sea in the moon's bloody rays.
Embracing we stand by the window, and
people look up from
the street:
it is time that they knew!
It is time that the stone grew accustomed
to blooming,
that unrest formed a heart.
It is time it was time.
It is time.
JR
Paul Celan
ENCOUNTERS WITH PAUL CELAN
E. M. CIORAN
Précis de decomposition, my first book written in French,
was published in I949 by Gallimard. Five works of mine
had been published in Romanian. In 1937, I arrived in Paris
on a scholarship from the Bucharest Institut francais, and I have
never left. It was only in I947, though, that I thought of giving
up my native language. It was a sudden decision. Switching languages
at the age of thirty-seven is not an easy undertaking. In truth,
it is a martyrdom, but a fruitful martyrdom, an adventure that lends
meaning to being (for which it has great need!). I recommend to anyone
going through a major depression to take on the conquest of a foreign
idiom, to reenergize himself, altogether to renew himself, through
the Word. Without my drive to conquer French, I might have committed
suicide. A language is a continent, a universe, and the one who makes
it his is a conquistador. But let us get to the subject. ...
The German translation of the Précis proved difficult. Rowohlt,
the publisher, had engaged an unqualified woman, with disastrous
resuits. Someone else had to be found. A Romanian writer, Virgil
Ierunca, who, after the war, had edited a literary journal in Romania,
in which Celan's first poems were published, warmly recommended
him. Celan, whom I knew only by name, lived in the Latin quarter, as
did 1. Accepting my offer, Celan set to work and managed it with stunning
speed. I saw him often, and it was his wish that I read closely along,
chapter by chapter, as he progressed, offering possible suggestions.
The vertiginous problems involved in translation were at that time
foreign to me, and I was far from assessing the breadth of it. Even
the idea that one might have a committed interest in it seemed rather
extravagant to me. I was to experience a complete reversal, and, years
later, would come to regard translation as an exceptional undertaking,
as an accomplishment almost equal to that of the work of creation.
I am sure, now, that the only one to understand a book thoroughly is
someone who has gone to the trouble of translating it. As a general rule,
a good translator sees more clearly than the author, who, to the extent
that he is in the grips of his work, cannot know its secrets, thus its
weaknesses and its limits. Perhaps Celan, for whom words were life and
death, would have shared this position on the art of translation.
In 1978, when Klett was reprinting
Lehre vom Zerfall
(the German Précis), I was asked
to correct any errors that might exist. I was unable to do
it myself, and refused to engage anyone else. One does not
correct Celan. A few months before he died, he
said to me that he would like to review the complete text. Undoubtedly,
he would have made numerous revisions, since, we must remember,
the translation of the Précis dates back
to the beginning of his career as a translator. It is really a wonder
that a noninitiate in philosophy dealt so extraordinarily well
with the problems inherent in an excessive, even provocative, use
of paradox that characterizes my book.
Relations with this deeply torn being
were not simple. He clung to his biases against one person
or another, he sustained his mistrust, all the more so because
of his pathological fear of being hurt, and everything hurt
him. The slightest indelicacy, even unintentional, affected him irrevocably.
Watchful, defensive against what might happen, he expected
the same attention from others, and abhorred the easygoing attitude
so prevalent among the Parisians, writers or not. One day, I ran
into him in the street. He was in a rage, in a state nearing despair,
because X, whom he had invited to have dinner with him, had not bothered
to come. Take it easy, I said to him, X is like that, he is known for
his don't-give-a-damn attitude. The only mistake was expecting him.
Celan, at that time, was living very simply and having no luck at all
finding a decent job. You can hardly picture him in an office. Because
of his morbidly sensitive nature, he nearly lost his one opportunity.
The very day that I was going to his
home to lunch with him, I found out that there was a position
open for a German instructor at the Ecole normale supérieure,
and that the appointment of a teacher would be imminent. I tried
to persuade Celan that it was of the utmost importance for him
to appeal vigorously to the German specialist in whose hands the
matter resided. He answered that he would not do anything about
it, that the professor in question gave him the cold shoulder, and
that he would for no price leave himself open to rejection, which,
according to him, was certain. Insistence seemed useless.
Returning home, it occurred to me
to send him by pneumatique, a message
in which I pointed out to him the folly of allowing such an opportunity
to slip away. Finally he called the professor, and the matter
was settled in a few minutes. "I was wrong about him," he told me
later. I won't go so far as to propose that he saw a potential enemy
in every man; however, what was certain was that he lived in fear of disappointment
or outright betrayal. His inability to be detached or cynical made
his life a nightmare. I will never forget the evening I spent with
him when the widow of a poet had, out of literary jealousy, launched
an unspeakably vile campaign against him in France and Germany,
accusing him of having plagiarized her husband. "There isn't anyone
in the world more miserable than I am," Celan kept saying. Pride doesn't
soothe fury, even less despair.
Something within him must have been
broken very early on, even before the misfortunes which
crashed down upon his people and himself. I recall a summer
afternoon spent at his wife's lovely country place, about forty
miles from Paris. It was a magnificent day.
Everything invoked relaxation, bliss,
illusion. Celan, in a lounge chair, tried unsuccessfully
to be lighthearted. He seemed awkward, as if he didn't belong,
as though that brilliance was not for him. What can I be looking
for here? he must have been thinking. And, in fact, what was he
seeking in the innocence of that garden, this man who was guilty of
being unhappy, and condemned not to find his place anywhere? It would
be wrong to say that I felt truly ill at ease; nevertheless, the
fact was that everything about my host, including his smile, was tinged
with a pained charm, and something like a sense of nonfuture.
Is it a privilege or a curse to be
marked by misfortune? Both at once. This double face defines
tragedy. So Celan was a figure, a tragic being. And for that
he is for us somewhat more than a poet .
E. M. Cioran, "Encounters with
Paul Celan," in Translating Tradition: Paul Celan in France,
edited by Benjamin Hollander (San Francisco: ACTS 8/9,1988):
151-52.
Is it a privilege or a curse
to be marked by misfortune? Both at once. This double
face defines tragedy. So Celan was a figure, a tragic being.
And for that he is for us somewhat more than a poet .
Đặc quyền, hay trù ẻo,
khi nhận "ân sủng" của sự bất hạnh?
Liền tù tì cả hai!
Cái bộ mặt kép đó
định nghĩa thế nào là bi kịch.
Và như thế, Celan là
1 hình tượng, một con người bi thương.
Và như thế, ông bảnh
hơn nhiều, chứ không "chỉ là 1 nhà
thơ"!
Cô độc như Celan
"Celan est malade – Il est incurable"
(Celan bịnh. Vô phương cứu chữa).
Heidegger
"Trong cuốn sách căn
lều,
Nhìn ngôi sao con suối,
Và ở nơi trái tim,
Hy vọng
Một lời sẽ tới"
(Dans le livre de la hutte,
avec un regard sur l’étoile
de la fontaine,
avec, au coeur,
l’espoir d’une parole à venir)
Celan.
Celan, Linda Lê,
René Char… là những tác giả ruột của Thầy Đạo, và,
bây giờ, thêm NL.
Mới thấy viết về Celan
NL thì Gấu chưa biết, lý
do nào anh cảm thơ Celan, nhưng riêng Thầy Đạo, Gấu thực
sự không tin Thầy đọc nổi Celan, hay Linda Lê.
Tại sao? Thì đọc những gì
mà Cioran, hay Derrida, hay Coetzee viết về họ, là
hiểu.
Văn chương của họ là thứ mấp mé
bờ điên loạn, tự tử, hoặc sống sót Lò
Thiêu, hoặc mang trong họ xác chết, làm
sao đọc, với 1 kẻ bình thường như Gấu, hoặc Thầy Đạo, hà,
hà!
Thầy Đạo dịch Linda Lê, đăng trên
talawas, bị 1 vị độc giả của trang này chê dài
dài.
Còn Gấu, thì chẳng đã
thú nhận không đọc được văn Linda Lê, với
Blog NL và độc giả của blog này, nhưng lại rất
ư là mê tiểu luận của Bà.
Tiếc mấy bài viết trong mục "Trở
về với những tác giả cổ điển", của bà, mất hết,
do Cô Út làm từ thiện, chủ yếu, để cho Bố không
còn cặm cụi với cái máy PC.
Già rồi, chơi với cháu đủ
vui rồi, tại làm sao mà lại tự làm khổ
mình như thế!
Và trên hết, bạn không
đủ “căn” thì đừng đọc họ!
Tại sao mà lại làm khổ mình
như thế!
Bịp chứ tại làm sao nữa. Gấu, không
đọc được ai là phán liền tù tì.
Không bịp mình, bịp thiên
hạ!
http://nhilinhblog.blogspot.ca/2016/11/tho-paul-celan.html
Vì đọc thơ, vấn đề
không phải là hiểu. Thơ không phải
là để hiểu. Cũng không phải để "cảm", như một trường
phái dạy dỗ ngày nay hay rao giảng (đọc thơ không
phải là để được hưởng một cơn động kinh). Đọc thơ, trước
hết, là nhìn. Có nhìn
thấy, thì tức là có đọc được.
Căng, nhể!
NQT
Thơ
Mỗi
Ngày
NYRB Nov 24.
Gửi Xì Trum:
Cơ may lịch sử đấy.
Nắm ngay lấy, nếu không
là tội lỗi
Lâu lắm mới có được
1 bài thơ của AZ
Còn
đây
là message của Charles Simic, về anh hề Xì
Trum
Charles Simic writes,
"All of us who are familiar with rural areas and former industrial towns
in this country know the impoverishment and hopelessness of many men and
women who live there. Understandably, they are angry." Unfortunately "they
voted for a buffoon who doesn’t care whether they live or die."
These unfortunates, who’ve been cheated
and…
nybooks.com|By
Charles Simic
Tư vấn nhà nước mới
Chúng ta có một nhà
nước mới
Nhà nước mới bao gồm nhiều
bộ trưởng có nghề
Một trong những bộ trưởng của chúng
ta nói tiếng Anh
Nhà nước mới lên lịch
làm việc rất ư là hăm hở.
Bất hạnh thay, nó có
tí thiếu hung hăng, trong một hoàn cảnh cho phép quá nhiều
những kẻ tự do vô phương cải tạo, tồn tại:
trong vài thành phố
chúng còn đông hơn những gia đình
Ky Tô truyền thống
Nhà nước mới của chúng
ta đâu biết làm gì khác?
Nó không thể được dẫn
dắt bởi những quan điểm sướt mướt đặc sản của những chính
trị gia Tây Phương
Một đêm nào đó
nó nên làm thịt vài giám
đốc phim, không chừa đàn bà
Tất cả những giáo sư làm
luật nên cho đi tì suốt đời
Thi sĩ nên tha cho chúng
Bởi là vì có
ai thèm đọc thơ nữa đâu?
Trại tù thì cần thiết,
nhưng nên nhè nhẹ
Đừng chọc tức LHQ
Hầu hết ký giả nên
đầy tới Madagascar
Nước Hung Gia Lợi, về mặt khác,
nên nhẹ nhàng dứt ra bằng kẹp
Và nhét vô giữa
Ba Lan và Đức trên bản đồ.
Và sau đó, một khi phản
ứng của hội tam điểm quốc tế loãng đi,
nên kín đáo để
Đức ở giữa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha
Nhà nước của ngày hôm
nay không thể thận trọng quá mức
Nó được trao cho 1 cơ may lịch
sử
Đúng là một tội lỗi
nếu không nắm lấy nó.
http://www.tanvien.net/Poesie/tho_ngay_12.html
Cũng chỉ là tình cờ: Trước khi xuống
phố, Gấu lục đúng 1 tờ NYRB cũ, Dec, 20, 2001,
có bài của Simic, viết về Milosz, thật tuyệt.
Và
đó là lý do Gấu bệ cuốn tuyển tập thơ
thế giới, trên, sau khi cầm nó lên, đọc
loáng thoáng bài thơ của Simic.
Trong bài viết, Simic có trích,
những dòng thơ thật thần sầu của Milosz, thí
dụ:
One life is not
enough.
I'd like to live twice on this sad
planet,
In lonely cities, in starved villages,
To look at all evil, at the decay of
bodies,
And probe the laws to which the time
was subject,
Time that howled above us like a wind.
Sống một đời chẳng đủ.
Giá mà có hai
đời trên hành tinh buồn này,
Để sống trong những thành phố
cô đơn, trơ trọi,
những làng mạc đói rạc,
Để nhìn đủ thứ ác,
đủ thứ thây người nát
rữa ra,
Và để thấu được luật đời, mà
Thời gian là đề tài của
nó.
Thời gian, hú như gió,
Trên đầu chúng ta.
Bài thơ này làm
nhớ Brodsky:
Bao thơ tôi, ít nhiều
chi, là về cùng một điều - về Thời Gian.
Về thời gian làm gì con người.
"All my poems are more or less about
the same thing – about Time. About what time does to Man."
Joseph Brodsky.
A
World Gone Up in Smoke
Charles Simic
New and Collected Poems, 1931-2001
by Czeslaw Milosz. Ecco, 776 pp., $45.00
To Begin Where I Am:
Selected Essays by Czeslaw Milosz,
edited and with an introduction by
Bogdana Carpenter and Madeline G. Levine.
Farrar, Straus and Giroux,
462 pp., $30.00
In this world
we walk on the roof of Hell
gazing at flowers
-Issa
Hai ông thi sĩ, đều kinh qua
kinh nghiệm... VC, viết về nhau, làm sao mà
không hay cho được!
TV sẽ giới thiệu bài này,
sure!
Trong cuốn tiểu luận này, có bài “Sự Quan Trọng Của Simone Weil”, thật
tuyệt.
Mỗi
lần giở ra đọc, là lại lăm le dịch!
Nói
chung, nhiều bài tuyệt.
Bài
này, nội cái tít không thôi,
là đã đủ lãng quên đời rồi:
“Tiểu
Luận trong đó tác giả thú nhận, hắn
ở phía của con người, do không làm sao kiếm
ra 1 phiá nào khác bảnh hơn!”
Essay in Which Author Confesses
That He is on the Side of Man, For Lack of Anything Better
Sách
& Báo
& Thời Sự Văn Học
Nữ tù nhân: Chân
dung cực kỳ cảm động một người nữ
Volkov. When you write poetry,
are you addressing some assumed audience?
Brodsky. You know, how did Stravinsky
answer a similar question? I believe Robert Craft asked
Stravinsky, "Who do you compose for?" And he replied, "For
myself and for my hypothetical alter ego." That's it.
Volkov. In your case, does this hypothetical
alter ego speak Russian?
Brodsky. The hell if I know. That’s his
business
Volkov. Do you remember Nabokov’s arguments
in connection with the translation he did of Lolita
into Russian. He said himself didn’t understand what inner impulse
had prompted him to do it. He said he couldn't even imagine a possible
reader.
Brodsky. This is very much the psychology
of the prose writer. A prose writer thinks seriously about
these kinds of things, but a poet doesn't. The fact of the matter
is that the difference between people involved in belles lettres
and those involved in prose is very great. In general, dividing
literature into prose and poetry began with the appearance of
prose, for only in prose could such a division be expressed. By its
nature, by its essence, art is hierarchical. The writer's consciousness
is also hierarchical, automatically, and in this hierarchy, poetry
stands above prose. If only because poetry is older. Poetry really
is a very strange thing, because it belongs to a troglodyte as well
as to a snob. It can be produced in the Stone Age and in the most modern
salon, whereas prose requires a developed society, a developed structure,
certain established classes, if you like. Here you could start reasoning
like a Marxist without even being wrong. The poet works from the voice,
from the sound. For him, content is not as important as is ordinarily
believed. For a poet, there is almost no difference between phonetics
and semantics. Therefore, only very rarely does the poet give any
thought to who in fact comprises his audience. That is, he does so
much more rarely than the prose writer.
Tsvetaeva once put it
marvelously: "Reading is complicity in creativity." This is
the remark of a poet. A prose writer would never say such a thing.
Tolstoy would never say it. Because knowledge is in fact complicity.
What is knowledge, that is, the solving of a crime? It is psychic
complicity, complicity of the imagination. Therefore the poet-I
don't want to start speaking in the name of poets ... "I am a poet"
... Robert Frost said, "To say I am a poet is to say I am a good
person."
Very rarely have I ever encountered people
of this profession who would give serious thought to whom they
were writing for. It's mainly poets who are asked whom they're
writing for, and depending on the answer, more or less trouble
ensues.
Volkov: Conversations with Joseph Brodsky
Note: Nhân đọc
Viết khóc hay viết cười
Cái nào dễ?
https://chuyenbangquo.wordpress.com/2016/11/15/viet-khoc-hay-viet-cuoi/
Khi làm
thơ, bạn nhắm thứ thính/khán/độc giả nào?
Bạn biết Stravinsky trả lời sao không?
Được Robert
Craft phỏng vấn, soạn
nhạc cho ai, ông ta trả lời, cho chính tôi
và tên thế thân giả dụ của tôi.
Gấu nhớ là, Nabokov cũng trả lời tương tự, trong
Bạo Miệng, Strong Opinions, độc gỉả là
cái thằng khốn kiếp sáng nào cũng nhìn
thấy nó, lúc đánh răng cạo râu,
hay là lũ thính giả khả ái ngồi đầy phòng,
tên nào cũng đeo mặt nạ, là tôi, trong
1 buổi ra mắt sách, thí dụ.
Thú thực, Gấu chưa từng bao giờ
phải đối diện với cái cú tự sướng, mi viết cho
ai, lạ thế.
Lần khám phá, trang
TV có 1 ngàn visits/1 ngày, Gấu "hốt" quá,
đúng là như vậy.
Coi lại, chỉ chừng 200 độc giả, ghé
thăm, 3, hoặc 4 lần, 1 ngày.
Thế cũng quá khủng rồi.
Thời gian chừng 30 visits/ngày, kéo
dài dài lắm. Mà cũng chẳng để ý.
Nhưng độc giả Tin Văn, không
phải thứ cười, hay khóc.
Họ đói tin.
Và, câu trả lời của Brodsky,
tuyệt hơn nhiều, khi viện đến câu của nữ sư phụ của ông:
Đọc là đồng lõa trong sáng
tạo
Thần sầu!
Borges, cực hào phóng, bạn
đọc 1 câu của Shakespeare, là, là Shakespeare.
Câu của Robert Frost mà không
tuyệt sao:
Là nhà thơ nghĩa là,
là 1 người tốt
Bạn hiểu, tại làm sao thơ văn Mít
lại... không tốt?
Viết để câm lặng
Tuyết rơi ư?
Câm lặng nói từ hồi Diễm
Xưa rồi
Chúng ta chưa quen
chào người chết
Chưa biết thưởng thức ghê rợn
Chưa biết áng chừng không
gian những nụ của chúng ta, cười.
NYRB Nov 24.
Gửi Xì Trum: Cơ may lịch sử
đấy.
Nắm ngay lấy, nếu không là
tội lỗi
Lâu lắm mới có được
1 bài thơ của AZ
Đây
là message của Charles Simic, về anh hề Xì Trum
Charles Simic writes,
"All of us who are familiar with rural areas and former industrial towns
in this country know the impoverishment and hopelessness of many men and
women who live there. Understandably, they are angry." Unfortunately "they
voted for a buffoon who doesn’t care whether they live or die."
These unfortunates, who’ve been cheated
and…
nybooks.com|By
Charles Simic
Thu
Toronto 2016, Oct, 16
Ngo Chi Lan
Vietnamese
15th century
AUTUMN
Sky full of autumn
earth like crystal
news arrives from a long way off following
one wild goose.
The fragrance gone from the ten-foot
lotus
by the Heavenly Well.
Beech leaves
fall through the night onto the cold
river,
fireflies drift by the bamboo fence.
Summer clothes are too thin.
Suddenly the distant flute stops
and I stand a long time waiting.
Where is Paradise
so that I can mount the phoenix and fly
there?
1968, translated with
Nguyen Ngoc Bich
THU
Trời đầy thu
Đất như pha lê
Tin xa về theo cánh vịt giời
Hương sen bên Giếng Trời
Bèn bỏ đi
Lá sồi
Nhân đêm xuống
Bèn tuồn vô sông lạnh
Đom đóm lập loè nơi giậu
tre
Aó hè mỏng quá
Bất thình lình tiếng sáo
xa ngưng
Gấu đợi, đợi mãi, thèm
nghe lại tiếng sáo
Thiên Đàng ở đâu?
Gấu gõ cửa và khóc
ròng
Làm sao mà có được
1 em phượng hoàng
Trèo lên em và bay
lên đó?
WINTER
Lighted brazier
small silver pot
cup of Lofu wine to break the cold of
the morning.
The snow
makes it feel colder inside the flimsy
screens.
Wind lays morsels of frost on the icy
pond.
Inside the curtains
inside her thoughts
a beautiful woman.
The cracks of doors and windows
all pasted over.
One shadowy wish to restore the spring
world:
a plum blossom already open on the hill.
1968, translated with
Nguyen Ngoc Bich
SN_GCC_2016
3.11.2016
Khu rừng thu kế nhà, mất
tiêu
POETRY
Francis Ponge
End of Autumn
Translated from French
by Joshua Corey and lean-Luc Garneau
In the end autumn is nothing more than
a cup of tea gone cold. Dead leaves of all species steep
together in the rain. No fermentation, no creation of spirits:
one must wait for spring for these to have any more effect than
putting a bandage on a wooden leg.
The vote count goes awry. All the doors
to the polling place slam open and closed. To the ballot boxes!
Nature rips up her manuscripts, demolishes her library, knocks
down in her rage the last remaining fruits.
Then she rises abruptly from her calculations
to her full, apparently immense height, disheveled, her head
lost in the haze. Arms slack, she sucks in the icy wind with
a delight that refreshes her ideas. The days are short, night falls
fast. The comedy club has lost its lease.
The earth floating in the air among other
heavenly bodies recovers its air of seriousness. Its lit part
narrows, infiltrated by valleys of shadow. Its shoes, like
a beggar's, fill with water and make music.
In the frogpond a salubrious amphibiguity
prevails. Things regain their strength, jump from stone to
stone and change meadows. The brooks and streams are multiplying.
A good housecleaner doesn't respect the
rules! She is dressed in her nudity and soaked to the bone.
This is goes on for a while; nothing
dries all at once. Three months pass in a state of wholesome
meditation, without inflammation, without so much as a bathrobe
or n loofah. But her strong constitution fights back.
So when the little buds start popping
up again, they know what's what. And if they’re slow to reveal
their stiff, ruddy faces it's because they know that the
jig is up.
But now another story begins. It depends,
maybe, on the odorless black ruler with which I score these
lines.
TLR
The Literature Review
Summer 2016: Heaven is some place
Bài sau đây, net
Valves of Sensation
(formerly le roseau
pensant)
7.12.08
End
of Autumn...Francis Ponge
http://patrickmfitzgerald.blogspot.ca/2008/12/end-of-autumnfrancis-ponge.html
A naked chestnut tree that I
saw this afternoon on a walk in Zalla.
It has been one of the wettest
autumns I can remember. Everyday it rains. I miss
the sunlight. And nothing moves me more than those sharp
sunny days of autumn with a light full of contrast and clarity.
I am posting here The end of autumn by Francis Ponge. He knew
how to approach the things of this world, disecting them and opening
them up into new configurations, making us see things afresh:
The End Of Autumn
All of autumn, in the end, is
nothing but a cold infusion. Dead leaves of every sort steep in the rain.
No fermentation, no production of alcohol: we’ll have to wait until
spring to judge the effects of a cold compress on a wooden leg.
Sorting the ballots is a disorderly
procedure. All the doors of the polling place slam
open and shut. Throw it out! Throw it all out! Nature rips
up her manuscripts, demolishes her bookshelves furiously clubs
down her last fruit.
Then she abruptly gets up from
her work table. She suddenly seems immense: hatless, head in the
fog. Swinging her arms, she rapturously breathes in the icy, intellectually
clarifying wind. Days are short, night falls fast;
there’s no time for comedy.
The earth, in the stratosphere
with the other heavenly bodies, looks serious again.
The lit up part is narrower, encroached on by valleys of shadow.
Its shoes, like tramp’s, soak up water and make music.
In this frog-farm, this salubrious
amphibiguity, everything regains strength, leaps from
stone to stone, changes pasture. Streams proliferate.
This is what’s called a good
clean-up, with no respect for convention! Dressed or
naked, soaked to the marrow.
And it doesn’t dry up right
away, it goes on and on. Three months of salutary reflection
with no bathrobe, or loofah, no vascular reaction. But its
sturdy constitution resists.
So, when the little buds begin
to jut out, they know what they’re doing, what it’s
all about. That’s why they come out so cautiously, red-faced,
benumbed, they know what lies ahead.
But thereby hangs another tale,
perhaps from the black rule, though it smells different, I’ll now
use to draw the line under this one.
Translated from French by C.K.
Williams in Francis Ponge – Selected
EMILY FRAGOS
The Sadness of Clothes
****
When someone dies, the clothes are
so sad. They have outlived
their usefulness and cannot
get warm and full.
You talk to the clothes and
explain that he is not coming back
as when he showed up immaculately
dressed in slacks and plaid jacket
and had that beautiful smile
on and you'd talk.
You'd go to get something and
come back and he'd be gone.
You explain death to the clothes
like that dream.
You tell them how much you
miss the spouse
and how much you miss the pet
with its little winter sweater.
You tell the worn raincoat
that if you talk about it,
you will finally let grief
out. The ancients etched the words
for battle and victory onto
their shields and then they went out
and fought to the last breath.
Words have that kind of power
you remind the clothes that
remain in the drawer, arms stubbornly
folded across the chest, or
slung across the backs of chairs,
or hanging inside the dark
closet. Do with us what you will,
they faintly sigh, as you close
the door on them.
He is gone and no one can tell
us where.
from Poem-a-Day
Thơ
Mỗi
Ngày
VI KHI NAO
Tarragon, Are You a Wild Boar?
Tarrargon, are you a wild boar?
My friend, lemon zest, has not been that
Thyme, Cognac,falooda glass noodle
These things prowl the night without cape
Gooseberries or bacalao
Tarragon, are you a wild boar?
Each time I eat you, I stop breathing
Little owl, where is your happiness?
Wake up + make people believe
In you, gastrique + steaklette
Is that chive embarrassed?
To be with the savoy cabbage?
Tarragon, are you a wild boar?
I was born female, hyper-focused
Let me trim your skirt, halibut
It's dragging salt against my oregano
Buttered by butter in no butter
Tarragon, are you a wild boar?
It's too bad the caper isn't wearing
A cape when the Peruvian potatoes
Are sitting on a bed of coals while
Floating down a river coconut
On the verge of falling off
A truffle, which is a
Shadow floating inside of a shadow
Cá Lưu Vong
Một kinh nghiệm riêng tư, gia đình
- mất một đứa con trong khi vượt biển- đẩy nó tới tầm
bi kịch Hy Lạp
Death Is a Costume We Wear
to War: a Conversation with Vi Khi Nao
Talking with the author
of the new novel, Fish in Exile
https://electricliterature.com/death-is-a-costume-we-wear-to-war-a-conversation-with-vi-khi-nao-7482bd666d2#.vxyywrql9
Rita Bullwinkel: In Fish in Exile the sea is an unrelenting,
evil god that devours everything that is fed to it. What is
your personal relationship to the ocean?
Vi Khi Nao: My family crossed
the sea by boat to escape from Vietnam. Our exit from it was dark, scandalous,
and private — very much like husband Ethos and wife Catholic’s relationship
to the ocean. Its unrelenting darkness and its strength pull us like weeds
from the ground up. My family spent three days and three nights inside of
a tiny boat with thirty other people. Feces and vomit and seawater were
up to my waist. Inside that boat, I smelled everything primal. Having shared
my young human body with the sea this way, inside of a vessel — I feel closest
to the sea — to what is very atomically very mortal — these seemingly immortal
liquid magnets ask me to return to Rhode Island frequently — to Providence — in
particular because the space is so close to the Atlantic. My intense feelings
for the ocean are like big gigantic clouds that hover over my heart and
any potential attraction for the earth. The more I try to erase the sea
from my existence, the more I miss her. The more I try to relax and let
it be, the more water in my consciousness opens the space to want her more.
With the ocean, I feel like I exist inside of a paradox and all I want to
do is to be inside her embrace.
Thơ
Mỗi
Ngày
Hôm ấy, trong vườn nhà tôi,
mấy người bạn nghe Chân Phương hát diệp khúc
ấy đều sững sờ thấy dịch như…
Note:
Gấu thấy không hay!
Dở!
Gấu đã từng dịch câu thơ
này rồi.
Ý thơ rất mạnh, lời Việt biến thành
yếu xìu.
Rồi đêm đến,
tiếng đồng hồ reo
Tháng ngày trôi, tôi
vẫn là tôi.
Đêm tới, giờ đổ
Ngày đi, ta ở!
Cũng không phải tiếng
đồng hồ reo, mà là tiếng chuông nhà
thờ. Đang đứng trên cầu, đồng hồ ở đâu ra?
Dịch dọt như thế mà khen loạn cả
lên!
NQT
THE MIRABEAU BRIDGE
Under the Mirabeau Bridge the
Seine
Flows and our love
Must I be reminded again
How joy came always after pain
Night
comes the hour is rung
The days go
I remain
Hands within hands we stand face
to face
While underneath
The bridge of our arms passes
The loose wave of our gazing which is
endless
Night comes the hour is rung
The days
go I remain
Love slips away like this water
flowing
Love slips away
How slow life is in its going
And hope is so violent a thing
Night comes the hour is rung
The days go I remain
The days pass the weeks pass
and are gone
Neither time that is gone
Nor love ever returns again
Under the Mirabeau Bridge Flows the Seine
Night
comes the hour is rung
The days go
I remain
1956
W.S Merwin
Cầu Mirabeau
Dưới cầu Mirabeau, sông
Seine chảy
Và tình đôi ta
Liệu anh phải nhớ
Niềm vui luôn tới, sau nỗi đau
Đêm tới, giờ đổ
Ngày đi, ta ở
Tay trong tay mặt nhìn
mặt
Dưới cầu đôi tay
Sóng uể oải lập đi lập lại
Nhân lên mãi mãi
Ánh mắt thiên thu hoài
hoài của đôi ta
Đêm tới, giờ đổ
Ngày đi, ta ở
Tình đi, như nước chảy
Tình đi
Ôi, đời sao chậm lụt
Hy vọng sao hung bạo đến như vầy
Đêm tới giờ đổ
Ngày đi, ta ở
Ngày đi, tháng
đi
Thời gian đi
Tình không bao giờ trở lại
Dưới cầu Mirabeau sông Seine chảy
Đêm tới, giờ đổ
Ngày đi, ta ở.
Nhờ bài thơ này, cũng
như CP, Gấu đi được 1 đường xưng tụng 1 bạn thơ
Trang thơ Dã Viên
Bên một dòng
thơ cổ xưa
sông khơi dòng trên
tấm toan thời xa
cây xanh lục hai bên bờ, thuyền
buồm giữa dòng,
cánh tay quăng lưới vào khoảng
không
đêm xóm cồn, trăng soi, cá
quẫy nước
những con người thời xưa, khăn áo lạ lẫm
chợ họp bến sông, ồn ã rạng
đông
sương còn lạnh áo người khua
tay chèo
trưa, theo gió nam, một tiếng ru
thời gần, nghe quen
nhắn người đi xa trở về, con ve kêu
mùa hạ
(rằng, biết mấy thu nguôi lòng)
tìm lại người chuyện trò,
cây già, quán cũ
cúi đầu dòng chữ hoen, trang
sách ố
có rủ nhau về, nhấp chén rượu bên bãi dâu,
trong gió mùa
vài lá thuyền gieo neo về
một bến vắng chưa xa..
Huế,
11.2011
Dã Viên
Tks. NQT
Câu thơ đầu
của bạn làm Gấu nhớ đến Borges, và đoạn vừa đọc, trong
Ngón Thơ, This Craft of Verse, và cũng đã
chôm 1 câu đưa lên Tin Văn.
Borges nhắc đến câu thơ của Tennyson,
trong 1 bài thơ làm khi mới 13, 14 tuổi, dục
bỏ, destroy, nhưng may sao còn 1 câu:
Thời gian trôi nửa đêm,
Time flowing in the middle of the night. Và Borges
khen cậu bé Tennyson chọn chữ cực khôn. Nửa đêm,
im ắng, người ngủ, tuy nhiên sông vưỡn trôi không
1 tiếng động...
Bữa
nay, lạ làm sao đọc lại, thì nó lại
bật ra dòng thơ của Apollinaire:
Đêm
tới, giờ đổ,
Ngày đi ta ở!
Vienne la nuit sonne l'heure
Les jours s'en vont je demeure
Cũng trong đoạn trên,
trong bài viết về "Ẩn dụ", Borges nhắc tới 1 cuốn tiểu thuyết, giản
dị có cái tên, Of Time
and the River [còn cái bài hát cùng
tên, thật tuyệt Gấu thật mê, khi mới lớn, Nat King Cole ca (1)
].
Thời gian, dòng sông, cả hai
cùng trôi…
Và tất nhiên, Borges bèn
lôi câu nổi tiếng của nhà thơ Hy Lạp:
Chẳng ai có thể tắm hai lần trong cùng dòng
sông, No man steps twice into the same river.
Nhưng đến đây, thì
Borges đổi giọng:
Ở đây, chúng ta
có cái khởi đầu của sự ghê rợn. Here we
have the beginning of terror.
Bởi là vì lúc thoạt
đầu, at first, chúng ta nghĩ đến dòng sông
trôi, những giọt nước khác nhau…
Và rồi chúng ta được làm
ra để mà nghĩ rằng, chúng ta
là con sông, và chúng ta cũng “phiêu”
như là con sông!
Tuyệt!
And we are made to feel that
we are the river, that we are as
fugitive as the river.
Hai dòng thơ của Apollinaire,
ngược hẳn lại:
Đêm tới, giờ đổ
Ngày đi, ta ở
Và rồi:
L'amour s'en va comme cette eau
courante
L'amour s'en va
Comme la vie est lente
Et comme l'Espérance est violente
Tình bỏ đi như nước sông
chảy
Tình bỏ đi
Đời sao chậm như rùa
Và hy vọng mới hung bạo làm
sao!
*
Về bài thơ của bạn, Gấu
mê mấy dòng cuối:
tìm lại
người chuyện trò, cây già, quán
cũ
cúi đầu
dòng chữ hoen, trang sách ố
có rủ nhau
về, nhấp chén rượu bên bãi dâu,
trong gió mùa
vài lá
thuyền gieo neo về một bến vắng chưa xa.
Tuyệt. Nhất là
dòng cuối, "gieo neo về", "bến vắng chưa xa".
Thơ bạn rất lạ, tuy cùng trong không
khí thơ Tàu.
Tks
NQT
Nhờ những lèm bèm
của Borges, về những dòng thơ khác, cùng
những viện dẫn của ông về Heraclites, khiến chúng ta
hiểu rõ thêm về bài thơ Cầu Mirabeau. Cái
ý “tôi vẫn là tôi”, nhảm, cực nhảm.
http://www.dutule.com/p111a7828/chi-dau-vuot-qua-bien-do-tinh-ca-cua-mai-hoai-thu
Note:
Vị này, là 1 cộng tác viên
thường trực của art2all.
Được DTL khám phá
ra, với cái giọng "vượt qua biên độ" cái
con mẹ gì đó, chắc là ngượng lắm!
http://www.art2all.net/tho/maihoaithu/trang_maihoaithu.htm
Chữ
nghĩa của bạn Cà, tức Lu Tử D, lạ lắm, và
ưa... lộn. Ngườì lộn "kinh điển" với "kinh nguyệt",
khiến cả 1 diễn đàn Bi Bì Xèo lộn theo.
Đấng “văn chương chỉ là đồ
chơi”, thì lầm “kinh điển” với “cổ điển”.
Nhà thơ LH thì ngày
“nhân tình” với ngày “tình nhân”
cũng xêm xêm như nhau. Thỉ cũng "đưa em về dưới
mưa, trấn em vô gốc dừa", như nhau.
Đám Mít “nưu vong”,
không biết tiếng Anh tới mức nhập vô được
dòng chính,
tiếng Mít cũng quên luôn.
À, mới đọc cái truyện
ngắn của PTH dịch qua tiếng Anh trên tờ TLS. Dở.
Thua xa cái essay, của Bắc Đảo, trên tờ Havard
Review, thực sự cũng 1 thứ truyện ngắn, hay ký, viết về
1 anh Tẫu về lại quê hương, y chang 1 chú cẩu, ngửi
hết chỗ này tới chỗ khác, cũng 1 cas nhớ bùn,
như trong 1 bài thơ của GCC, nhớ bùn cầu Thị Nghè.
Tin Văn sẽ đi bài bài này, “smells”. GCC nhớ
mùi bùn, cầu Thị Nghè, và từ đó,
nhớ mấy con hẻm bên kia cầu, nhớ mấy động ken, còn Bắc
Đảo nhớ bụi Bắc Kinh.
Đọc Bắc Đảo, thì lại tiếc cõi
văn bạn Khờ của GCC.
Bạn Khờ thừa sức viết, thứ, như
của Bắc Đảo, bằng tiếng Tẩy. Thay vì vậy, viết thứ
mì ăn liền!
Trường hợp bạn Khờ, Gấu giải ra
được rồi.
Tại độc giả của anh, chỉ đọc được
thứ dễ đọc, không phải do trình độ chỉ tới
thế, mà do lười.
Một cách nào đó,
Murakami cũng rứa bạn Khờ, chỉ viết được thứ mì
ăn liền! Cao hơn 1 tị!
Ông ta, ngoài đời,
cũng mê mì ăn liền!
Début et fin de la neige
« PREMIERE NEIGE ... »
Première neige tôt
ce matin. L' ocre, le vert
Se refugient sous les arbres.
Seconde, vers midi. Ne demeure
De la couleur
Que les aiguilles de pins
Qui tombent elles aussi plus dru parfois que la
neige.
Puis, vers le soir,
Le fléau de la lumière s'immobilise.
Les ombres et les rêves ont même poids.
Un peu de vent
Écrit du
bout du pied un mot hors du monde.
Beginning and End of the Snow
"FIRST SNOWFALL .. "
First snowfall, early this morning.
Ochre and green
Take refuge under the trees.
The second batch, toward noon.
No color's left
But the needles shed by pines,
Falling even thicker than the snow.
Then, toward evening,
Light's scale comes to rest.
Shadows and dreams weigh the same.
With a toe, a puff of wind
Writes a word outside the world.
Yves Bonnefoy. Second Simplicity: New Poetry and Prose, 1991-2011
Tuyết đầu
Tuyết đầu, sớm, sáng nay
Bông son, bông xanh
Trốn dưới lá
Thứ nhì, vào lúc
trưa
Chẳng để lại màu gì
Ngoài những cây kim, là những
chiếc lá thông
Chúng đôi khi rớt xuống dầy hơn tuyết
Rồi tới tối
Ánh sáng sững lại
Những cái bóng và những giấc
mộng nặng bằng nhau
Một tí gió
Lấy đầu ngón chân
Đi một chữ
Ở bên ngoài thế
giới
Tại sao mới?
Tại sao không Gấu
Cũ Thật Cũ?
All three of them knew.
She was Kafka's sweetheart.
Kafka had dreamed her.
All three of them knew.
He was Kafka's friend.
Kafka had dreamed him.
All three of them knew.
The woman said to the friend:
I want you to love me tonight.
All three of them knew.
The man replied: If we
sin,
Kafka will stop dreaming
us.
One of them knew.
There was no one else on
earth.
Kafka said to himself:
Now that those two are
gone, I'm left alone.
I shall stop dreaming myself.
-S.K.
EIN TRAUM
Cả
ba biết.
Người đàn bà là người yêu của Kafka.
Kafka mơ bà.
Anh ta bạn Kafka.
Kafka mơ anh ta
Cả ba biết.
Người đàn bà
nói với người bạn:
Tôi muốn anh yêu
tôi tối nay.
Cả ba biết.
Người đàn ông
trả lời: Nếu chúng ta phạm tội
Kafka sẽ ngừng mơ chúng
ta.
Một trong ba biết.
Chẳng còn ai trên
cõi đời này.
Kafka nói với mình:
Bây giờ hai người
đó đã đi rồi, còn lại mình
ta.
Ta sẽ ngưng mơ chính
mình.
POEM
Bài Thơ
OBVERSE
You were asleep. I wake
you.
The vast morning brings
the illusion of a beginning.
You had forgotten Virgil.
Here are the hexameters.
I bring you many things.
The four Greek elements:
earth, water, fire, air.
The single name of a woman.
The friendship of the moon.
The bright colors of the
atlas.
Forgetting, which purifies.
Memory, which chooses and
rediscovers.
The habits which help us
feel we are immortal.
The sphere and the hands
that measure elusive time.
The fragrance of sandalwood.
The doubts that we call,
not without some vanity,
metaphysics.
The curve of the walking
stick the hand anticipates.
The taste of grapes and
of honey.
Mặt Phải
Em ngủ. Anh đánh
thức em
Buổi sáng bao la
đem ảo tưởng khởi đầu
Em quên Virgil. Đây
là những bài thơ sáu tiết
Anh mang đến cho em nhiều
điều.
Bốn phần tử Hy Lạp: đất,
nước, lửa, khí trời.
Cái tên đơn
độc của một người đàn bà.
Tình bạn của mặt
trăng
Những màu sắc sáng
chói của những tấm bản đồ
Quên, nghĩa là
thanh tẩy
Hồi ức, chọn và
tái khám phá
Thói quen khiến
chúng ta nghĩ chúng ta bất tử
Trái cầu và
những bàn tay đo lường thời gian,
Như con lươn trơn tuột.
Mùi thơm của đôi
guốc.
Những hồ nghi mà
chúng ta - không phải là không
có tí cà chớn ở trỏng - gọi là
siêu hình học
Đường cong cây gậy
cầm trên tay đoán ra được
Vị nho và mật ong.
REVERSE
To wake someone from sleep
is a common day-to-day
act
that can set us trembling.
To wake someone from sleep
is to saddle some other
with the interminable
prison of the universe
of his time, with neither
sunset nor dawn.
It is to show him he is
someone or something
subject to a name that
lays claim to him
and an accumulation of
yesterdays.
It is to trouble his eternity,
to load him down with centuries
and stars,
to restore to time another
Lazarus
burdened with memory.
It is to desecrate the
waters of Lethe.
Mặt Trái
Làm một người nào
đó đang ngủ
Thức giấc,
Một hành động chuyện
thường ngày ở đời
Có thể làm
chúng ta phát run lên như 1 con
thằn lằn bị đứt đuôi
Làm 1 người đang
ngủ thức giấc
Là khiến ai đó
lên yên ngựa
Với,
Cuộc tù dằng dẵng
của vũ trụ
Của thời gian của người
này
Với,
Chẳng thể nào hoàng
hôn,
Chẳng thể nào rạng
đông.
Làm như thế, là
chỉ cho người đó
Rằng,
Mi là 1 kẻ nào
đó, hoặc 1 điều gì đó
Và là những
thu vén, hội tụ, chắt chiu, vun vén
Của những ngày hôm
qua.
Là làm cho
người đó khốn khổ khốn nạn với cái
vĩnh cửu của mình.
Là chất chứa vào
anh ta/chị ả với hằng hà thế kỷ, hằng hà
vì sao
Là tái tạo
vào trong thời gian 1 tên Lazarus khác
Còng lưng với hồi
nhớ
Là làm mất
linh, nước thánh Lethe.
-A.R.
J.L. Borges: Poems of
the Night
Nobel văn
chương 201
http://www.lrb.co.uk/v38/n20/sheila-fitzpatrick/vodka-plus-caesium
LRB
điểm hai cuốn của Nobel năm ngoái.
Cũng đâu phải.... văn chương?
TV sẽ scan & post và lai rai ba
sợi về hai cuốn này. Tuyệt lắm, đúng như vậy.
Thà rằng thứ này, còn hơn là thứ
âm nhạc phản chiến!
Hứng viết của Bà là
từ phim Lò Thiêu của Claude Lanzmann, có thể nói
như vậy
Svetlana
Alexievich won the Nobel Prize for Literature in 2015,
but some people still don’t think her books are literature. In
fact, they are collective oral histories, of similar genre, though
completely different in tone, to those of Studs Terkel in the United
States, whom she has probably never read. Her main influence as far
as genre is concerned was the Belorussian writer Ales Adamovich, who
in the 1970s (with Daniil Granin) collected the testimonies of wartime
Leningrad survivors in Blokadnaia kniga, but
that’s not very helpful in a Western context since nobody has heard
of him. Lately, Alexievich has taken to citing Claude Lanzmann’s
Shoah as an inspiration. Her first book, with methodology
already honed, was finished before Shoah was made, so that
obviously can’t be taken literally. But it’s a way of letting a Western
audience know that what she’s doing is exploring suffering and loss
through the voices of the sufferers.
Thơ
Mỗi
Ngày
http://www.newyorker.com/magazine/2016/10/31/attraction-charles-rafferty
Poems October 31, 2016 Issue
Attraction
By Charles Rafferty
She
collected men the way a light left on collected bugs.
It was an old story—money, gravity, the right amount of cleavage.
And yet the most successful root never stops fleeing the seed
where it began. The cars of two drunks decide to kiss, the lit
match gives in to the windy field. Here’s a lesson: When people
heard there was an albino deer in the woods behind our house, they
set out the apples and corn. That was twenty years ago. The shotgun
pellets stuck in our tree continue their slow ascent.
SECRETARIES
I am no more than
a secretary of the invisible thing
That is dictated
to me and a few others.
Secretaries, mutually
unknown, we walk the earth
Without much comprehension.
Beginning a phrase in the middle
Or ending it with
a comma. And how it all looks when completed
Is not up to us to
inquire, we won't read it anyway.
Berkeley, 1975
Czeslaw Milosz: Selected
Poems 1931-2004
Thư Ký
Tớ chỉ là
tên thư ký của điều vô hình
Nó, chính
nó, đọc điệc, phán phiếc, cho tớ và
1 dúm, trong có tớ.
Những tên thư
ký, không biết nhau, chúng tớ
lang thang trên mặt đất
Cũng chẳng cảm thông,
thông cảm gì nhau lắm đâu
Bắt đầu 1 câu,
ở khúc giữa
Hay chấm dứt nó,
với 1 cái dấu phết.
Có vẻ như
tất cả là như thế đó, khi hoàn
tất
Vả chăng, chúng
tớ đếch cần
Có tên
nào đọc đâu?
Bài thơ làm
nhớ tới giai thoại về 36 tên què gánh tội, hay,
"Người công chính tiềm ẩn":
Nhưng "juste", ở đây theo tôi,
còn muốn nhắc tới huyền thoại về một con người công
chính tiềm ẩn (the myth of the hidden just man)
của dân tộc Do-thái. Đây là một
huyền thoại được nhiều nhà văn sử dụng, như là một
biểu tượng để nói về phận người, (nhất là phận
người Do Thái, trong thế kỷ của Lò Thiêu),
thí dụ như trong truyện ngắn Cây Vĩ Cầm (Rothschild's
Fiddle) của Chekhov (đã giới thiệu trên Văn
Học Nghệ Thuật trên lưới do Phạm Chi Lan chủ biên,
Việt Báo online, và trên Hợp Lưu). Hoặc
trong cuốn tiểu thuyết "Người Công Chính Cuối Cùng",
(của André Schwarz-Bart, đã được giải thưởng văn
chương Pháp Goncourt năm 1959), theo đó, thế giới
ngự trị trên 36 kẻ công chính. Kẻ công
chính, le juste, hay "lamed-waf", người què gánh
tội (waf: with all faults). Tuy là "những cội rễ nhà
trời" (les racines du ciel, chữ của Romain Gary), nhưng bề ngoài,
họ chẳng khác gì những con người bình thường.
Giữa họ, cũng chẳng thể nhận ra nhau. Nhưng chỉ cần một, trong số
36 kẻ công chính thiếu đi, là nỗi đau khổ của con
người làm độc ngay cả đến tâm hồn của những trẻ thơ, và
nhân loại nghẹt thở vì tiếng khóc bi thương này.
Bởi vì "lamed-waf" là trái tim của thế gian,
nơi mọi đau khổ đều đổ xuống đó. Như thể nhân loại có
bao nhiêu khổ đau, là có bấy nhiêu truyền
thuyết về "người què gánh tội", bởi vì sự hiện
diện của họ là ở khắp nơi. Vào thế kỷ thứ 7, những người
Do Thái thuộc vùng Andalousie, Tây Ban Nha, đã
sùng bái một khối đá mang hình giọt nước
mắt, mà theo họ đây là linh hồn của một "lamed-waf".
[Liệu chúng ta có thể hiểu huyền thoại hòn vọng
phu, như là giọt nước mắt, linh hồn người đàn bà
suốt chiều dài dựng nước của dân tộc?]. Và khi một
kẻ công chính vô danh về trời, trái tim của
người đó giá lạnh đến nỗi Thượng Đế phải ấp ủ một ngàn
năm trong lòng bàn tay của Người, để sưởi ấm cho nó.
Và như người ta được biết, hầu hết trong số họ, trái
tim chẳng làm sao ấm lại được nữa. Thượng Đế cũng chịu thua.
Và Người thỉnh thoảng lại phải vặn nhanh lên ‘một phút’
chiếc đồng hồ báo Cuộc Phán Xét Cuối Cùng.
Bài
thơ sau đây, thì làm Gấu nhớ
tới ông anh và Quán Chùa,
và mấy tên bạn quí ngày nào.
CAFÉ
Of those at the table in the
café
where on winter noons
a garden of frost glittered on windowpanes
I alone survived.
I could go in there
if I wanted to
and drumming my fingers
in a chilly void
convoke shadows.
With disbelief I
touch the cold marble,
with disbelief I
touch my own hand.
It-is, and I-am in
ever novel becoming,
while they are locked
forever and ever
in their last word,
their last glance,
and as remote as
Emperor Valentinian
or the chiefs of
the Massagetes, about whom I know nothing,
though hardly one
year has passed, or two or three.
I may still cut trees
in the woods of the far north,
I may speak from
a platform or shoot a film
using techniques
they never heard of.
I may learn the taste
of fruits from ocean islands
and be photographed
in attire from the second half of the century.
But they are forever
like busts in frock coats and jabots
in some monstrous
encyclopedia.
Sometimes when the
evening aurora paints the roofs in a poor street
and I contemplate
the sky, I see in the white clouds
a table wobbling.
The waiter whirls with his tray
and they look at
me with a burst of laughter
for I still don't
know what it is to die at the hand of man,
they know-they know
it well.
Warsaw, 1944
CAFÉ
Về những tên đã
từng ngồi ở quán cà phê
Vào những buổi
trưa mùa đông, một khu vườn, băng giá
lấp lánh nơi cửa sổ
Chỉ mình tớ,
sống sót
Tớ có thể tới
đó, nếu muốn
Và lấy ngón
tay gõ gõ vào cái trống
không ớn lạnh
Triệu tập những cái
bóng.
Đếch tin tưởng tớ
sờ vô mặt bàn cẩm thạch
Đếch tin tưởng, tớ
sờ bàn tay của chính tớ!
Nó.. thì,
và tớ - là cái cuốn tỉu thiết
chẳng bao giờ viết ra được, chỉ mãi mãi khởi
đầu
Trong khi họ, bị khóa
chặt mãi mãi, luôn luôn,
hằng hằng
Trong lời nói
chót, cái nhìn chót
Xa ơi là xa,
từ thời Vua Hùng dựng nước, hẳn thế!
Ôi dào,
mới ngày nào còn ngồi mà,
Cái gì
gì,
Năm năm trời không
gặp….
khiem
Do commented on this.
Một khuya mới đây (tháng
8.2013, ngày tháng ở đây có
cái cớ rất vững chắc để mà hiện diện một cách
cần thiết), tôi vào Facebook trên di động
thì gặp một post của bạn Đặng Hiền. Đó là
một bài viết của anh Vũ Trọng Quang về số tạp chí
Văn cuối cùng tại miền Nam, đề ngày 26.03.1975.
Tôi lướt xem trên xe trong lúc vợ đang lái,
màn hình điện thoại thì bé, đến phần
cuối thì thấy một bài thơ vớ vẩn khá d...
...
Note:
Lời khuyên của MT, ngược hẳn Borges.
Nói
chuyện thơ ( Jorge Luis Borges)
Nhưng
sự khác biệt là như thế này:
Nếu bạn làm một bài thơ vần, bạn đã có
sẵn một vóc dáng, và người đọc
có thể tham dự vào vóc dáng
đó; trong lúc nếu bạn làm thơ tự do, mọi
chuyện là do bạn. Kỹ năng của bạn phải cao. Lẽ
dĩ nhiên, nếu bạn là Walt Whitman, nội lực thâm
hậu chỉ muốn bật ra thôi, bạn cứ làm thơ tự do,
và đây là một điều đáng làm.
Chuyện này đâu xẩy ra cho nhiều người trong
số chúng ta. Tôi đã gặp phải lỗi lầm
này, khi in tập thơ đầu. Tôi đọc Whitman, và
tưởng chuyện dễ. Bởi vậy lời khuyên của tôi
đối với những nhà thơ trẻ, là hãy bắt
đầu bằng những thể thơ cổ điển; chỉ sau đó, mới trở
thành cách mạng được. Tôi nhớ một nhận xét
của Oscar Wilde - một nhận xét đầy chất tiên tri.
Ông nói: "Nếu không có thơ vần, chúng
ta đều trở thành thiên tài".
TTT, bắt đầu với thơ tự do. Chỉ
đến khi vô tù, ông mới trở lại với thơ
vần. Theo GCC, có thể, cái nhịp của thơ vần 1 cách
nào đó, là nhịp của lao động, của khổ sai,
biến thành 1 thứ hò, như hò leo núi,
hò kéo pháo.
TTT, chính ông, giải thích,
Mít nói làm thơ, không nói,
viết thơ...
NOTE TO THE SOUTH: YOU LOST
Tiểu chú cho Nam Kít:
Mi thua
The buzz of the flies
Almost was a lullaby
Rocking the dead
To a restful place
You couldn't hear the ants
Though they were
Clearly there
In the eyes the mouths
Any wound or soft
Tissue
The worms had come
Understanding those
Which were not
Trampled
Would have a great
Feast
The grasses had no
Choice but to drink
Down the blood
And bits of flesh
That were ground
Into them
In the future
It would be girls
Not field rats
Who would follow
The soldiers
Into the trenches
TEREZIN: WHERE THIRTY-FIVE THOUSAND
DIED
BUT IT WAS NOT A DEATH CAMP
Terezin: Nơi 35 ngàn
người chết nhưng không phải Trại Tử Thần
[Terezin là cái trại
mà Kundera nhắc tới, trong bài viết dưới
đây]
I don't want you
To watch me sleeping I don't want
you
To look worriedly
Over me
In some hospital bed
Tied up with tubes
Laboring over my breath
Until I take that last one
And release my energy
There was a deer
In the middle of Highway 81
She had been hit
And could not run
While waiting for some uninterested
trucker
She held up her head
And I
In cowardly concern
Turned away
There was
On a cold snowy night
Coming across the West Virginia
Turnpike
A rabbit which tried to cross
Four lanes of traffic
The head was hit
But hadn't yet told the legs
So they kept running
And I from fatigue
And helplessness drove
On
Slavery was not fun
The holocaust happened
People are not good
And yet we go on
Until we stop
And I think
The only bravery available
To us
Is to Remember
Srnell-
As we all know-
Is half the taste
FOR RUNAWAY SLAVES
Cho mấy người nô
lệ bỏ chạy
Here we stand
Negotiating
That space
Between I'm in love
With you
And let's be friends
This will not turn out well
I need a guitar
Or a good drunk
Or something ugly
To find
The song
In these blues
Let's get a twelve-string
Banjo
And sing a song .
For runaway slaves
MILONGA OF THE DEAD MAN
I dreamed it inside this house
in between walls and doors.
God allows man to dream
things that are surely true.
I dreamed it out at sea
among floating islands of ice.
May we be told the rest
by hospitals and tombs.
One of so many provinces
of the interior was his land.
(It is not worth our knowing
that people die in war.)
They took him out of the barracks,
put weapons in his hands
and then gave him the order
to die among his brothers.
He acted with great discretion,
he talked to himself at length.
At one and the same time
they gave him a gun and a cross.
He heard the vain harangues
of the vain generals.
He saw what he'd never seen,
blood on the sandy ground.
He heard the people shouting
Long live! and Let them die!
All he wanted to know
was whether or not he was brave.
He knew it the very instant
the bullet entered his body.
He said I wasn't afraid
as life abandoned him.
His death was a secret victory.
No one should be surprised
that I feel envy and sorrow
for that man's destiny.
- S.K.
L.B. Borges: Poems of the Night
Milonga của người chết
Tớ mơ nó trong cái
nhà này
Giữa những bức tường, những cửa
Thượng Đế cho phép con người
mơ
Những điều, thực là thực
Tớ mơ nó ngoài biển
Giữa những băng đảo nhấp nhô
Cầu cái phần còn
lại sau đó
Được kể ra
Ở nhà thương, bởi những
nấm mồ.
Một trong nhiều tỉnh lỵ, quận huyện,
Ở nội địa, ở bên trong
Là đất cát của anh
ta
(Cái sự hiểu biết của chúng
ta
Rằng, con người chết trong chiến
tranh,
Thì chẳng đáng biết
làm gì!)
Chúng lôi hắn ta ra
khỏi trại lính
Nhét khí giới vào
tay hắn
Và ban cho hắn 1 mệnh lệnh
Hãy chết giữa những đồng
chí, anh em của mi
Hắn hành động với hết sức
cẩn trọng
Hắn lèm bèm với hắn
dài dài
Và cùng lúc,
cùng thời gian
Chúng đưa cho hắn 1 cây
súng và 1 cây thập tự
Hắn nghe những bài diễn
thuyết rỗng tuếch
Của những viên tướng rỗng
tuếch
Hắn nhìn, cái mà
hắn chưa từng nhìn
Máu ở trên mặt đất
có cát
Hắn nghe người ta hô
Muôn năm! và Hãy
để cho chúng chết!
Tất cả những gì hắn muốn
biết
Hắn can đảm, hay không can
đảm
Hắn biết liền tù tì
điều này
Đúng ngay chóc,
Cái lúc mà
viên đạn
Ngọt 1 phát, đi vào
cơ thể hắn
Hắn phán, tớ đếch sợ
Khi đời từ bỏ hắn
Cái chết của hắn là
1 niềm vinh quang, sự thắng trận bí mật
Chẳng ai ngạc nhiên
Rằng, tớ thèm, và
buồn
Cho cái số phận của người
đàn ông đó.
Milonga, theo 1 tiểu
chú của Norman Thomas Di Giovanni, trong tập thơ
tuyển Borges, do ông biên tập và dịch thuật,
cùng những dịch giả khác,
là 1 điệu nhảy có
trước tango, dating from 1870s
Puppet Maker
In his fear of solitude, he
made us.
Fearing eternity, he gave us
time.
I hear his white cane thumping
Up and down the hall.
I expect neighbors to complain,
but no.
The little girl who sobbed
When her daddy crawled into
her bed
Is quiet now.
It's quarter to two.
On this street of darkened
pawnshops,
Welfare hotels and tenements,
One or two ragged puppets are
awake.
Lão Tặc
Thiên
Sợ cô đơn, Lão
bèn nặn ra lũ chúng ta
Sợ vĩnh cửu, bèn cho
chúng ta thời gian
[Đủ để làm đủ Tứ Khoái]
Tớ nghe tiếng ba toong của
Lão
Lên và xuống hành
lang
Tớ hy vọng lối xóm phàn
nàn, nhưng không
Cô bé khóc ư ử
Khi ông bố bò
vô giường
Bi giờ chắc là ngủ rồi
Cỡ hai giờ thiếu mười lăm.
Trên con phố với những
tiệm cầm đồ tối thui
Những khách sạn của
dân ăn tiền trợ cấp xã hội, và những
khu nhà tập thể
Hai hay ba con rối tã
tượi đã mở mắt
In That Big House
When she still knew how to make
shadows speak
By sitting with them a long
time,
They talked about her handsome
father,
His long absence, and how
the quiet
Would fill the house on snowy
evenings.
"Tell us, child, are you afraid?"
they'd ask,
While the girl listened for
steps in the hallway,
The long, dim one with a full-length
mirror
That's been going blind like
her grandmother
Who could no longer find or
thread a needle
As she sat in the parlor remembering
some actors
Her son brought to dinner
one night,
The one young woman who wandered
off by herself
And was found later, after
a long search,
Floating naked in the black
water of the pond.
Trong căn nhà lớn đó
Khi cô gái vưỡn
biết cách làm cho những cái bóng
lèm bèm
Bằng cách ngồi với
chúng một lúc thật là lâu
Chúng nói về
ông cụ của cô gái, rất bô trai
Sự vắng mặt dài của
ông, và, như thế nào
Sự yên tịnh thấm vô,
và làm đầy căn nhà
Vào những buổi chiều
tuyết
Hãy nói cho
chúng ta, cô bé, cô sợ ư?
Khi cô gái lắng
nghe tiếng chân người ở hành lang
Dài, lù tà
mù, với chiếc gương lớn
Cũng trở nên mù
như người bà của cô
Hết còn tìm
thấy, cây kim hay sợi chỉ
Trong khi cô gái
ngồi nơi phòng khách, nhớ tới vài
nghệ sĩ
Đứa con trai của cô
mang về nhà ăn, một buổi tối
Người đàn bà
trẻ bỏ ra ngoài đi lang thang
Và được kiếm thấy,
sau khi tìm đã đời
Trôi lều bều trong vùng
nước đen nơi cái hồ.
Keep This to Yourself
There are country roads now
that are empty.
They'll hold on to the light
of the day
A bit longer, mindful some boy
May be heading home after a
game.
Whoever he is, he'll have to
hurry.
This lovely moment won't last
long.
The road before him lies white
Here and there under the dark
trees,
As if some mad girl in the neighborhood
Had emptied her linen closet
And had been spreading her
things
Over the soft late summer
dust.
Nhím cho
riêng mi
Có
những con đường nhà quê bi giờ trống trơn
Chúng sẽ níu
kéo ánh sáng của ngày
Lâu hơn một tị, chắc
là có tí quan hoài tới 1
đứa bé nào đó
Có thể trên đường
về nhà, sau một trò chơi
Đứa nào thì đứa
nào, thằng bé phải vội vã
Chút khoảnh khắc rất
đỗi đáng yêu này chẳng thể kéo
dài
Con đường trải dài
trước thằng bé một màu trắng
Đây, đó, dưới
những cái cây sẫm đen
Như thể một cô gái
lối xóm
Soạn cái tủ đựng quần
áo của cô
Và bèn trải
ra những cái xú chiêng, những cái
xịp
Trên lớp bụi mờ của
một mùa hè, nhẹ, muộn.
Charles Simic
RICARDO REIS
I've heard that once, during
I don't know
What war of Persia,
When invaders rampaged through
the City
And the women screamed,
Two chess players kept on
playing
Their endless game.
In the shade of a leafy tree
they stared
At the old chessboard,
And next to each player was
a mug of wine,
Solemnly ready
To quench his thirst in the
moments when,
Having made his move,
He could sit back and relax,
waiting
On his opponent.
Houses were burning, walls
were torn down
And coffers plundered;
Women were raped and propped
against
The crumbling walls;
Children, pierced by spears,
were so much
Blood in the streets ...
But the two chess players
stayed where they were,
Close to the city
And far from its clamor,
and kept on playing
Their game of chess
Even if, in the bleak wind's
messages,
They heard the screams
And, upon reflection, knew
in their hearts
That surely their women
And their tender daughters
were being raped
In the nearby distance,
Even if, in the moment they
thought this,
A fleeting shadow
Passed over their hazy, oblivious
brows,
Soon their calm eyes
Returned with confident attention
To the old chessboard.
When the ivory king's in
danger, who cares
About the flesh and blood
Of sisters and mothers and
little children?
When the rook can't cover
The retreat of the white
queen, what
Does pillaging matter?
And when with sure hand the
opponent's king
Is placed in check,
It hardly concerns one's
soul that children
Are dying in the distance.
Even if the infuriated face
Of an invading warrior
Should suddenly peer over
the wall and cause
The solemn chess player
To fall right there in a
bloody heap,
The moment before that
Was still devoted to the
favorite game
Of the supremely indifferent.
Let cities fall and people
suffer,
Let life and freedom
Perish, let secure, ancestral
properties
Be burned and uprooted,
But when war interrupts the
game, make sure
The king's not in check
And the most advanced of
the ivory pawns
Is ready to redeem the rook.
My brothers in loving Epicurus
And in understanding him
More in accord with our view
than with his,
Let's learn from the story
Of the impassive chess players
how
To spend our lives.
Let serious things scarcely
matter to us
And grave things weigh little,
And let the natural drive
of instincts yield
To the futile pleasure
(In the peaceful shade of
the trees)
Of playing a good game.
Whatever we take from this
useless life,
Be it glory or fame,
Love, science, or life itself,
It's worth no more
Than the memory of a well-played
game
And a match won
Against a better player.
Glory weighs like an overlarge
burden
And fame like a fever,
Love wearies, for it ardently
searches,
Science never finds,
And life grieves, for it
knows it is passing ...
The game of chess
Completely absorbs one's
heart but weighs little
When lost, for it's nothing.
Ah, in the shade that unconsciously
loves us
And with a mug of wine
At our side, intent only
on the useless
Effort of the chess game,
Even if the game is only
a dream
And we have no partner,
Let's do as the Persians
of this story:
Wherever out there,
Near or faraway, war and
our country
And life are calling us,
Let them call in vain, while
we dream
In the friendly shade
Of our partners, and the
chess game dreams
Of its indifference.
1 JUNE 1916
FERNANDO PESSOA: A
LITTLE LARGER THAN THE ENTIRE UNIVERSE
Cao Thủ Cờ Tướng
Tôi nghe nói,
trong 1 cuộc chiến ở Persia,
cuộc chiến nào tôi
không rõ,
khi những kẻ xâm lăng
tàn phá Thành Phố,
đàn bà la thét,
hai cao thủ cờ tướng,
tiếp tục cuộc cờ không
chấm dứt của họ,
ở dưới bóng cây,
họ cắm mắt cắm mũi vào một cái bàn
cờ cũ,
và bên cạnh
là một vại cuốc lủi,
thật trịnh trọng, và
luôn luôn sẵn sàng
làm dịu cơn khát
của hai cao thủ, sau một nước cờ,
bèn ngửa người ra
phía sau, tu một đường, chờ đối thủ đi nước cờ
của anh ta.
Nhà cháy, tường
đổ, của cải bị ăn cướp
Đàn bà bị hiếp,
bị trấn vô tường, để tiếp tục hiếp,
trẻ con bị đâm, chém,
đường phố đầy máu…
Nhưng hai cao thủ vẫn bình
chân như vại, ngay dưới chân thành
phố,
tiếp tục chơi cờ, trong tiếng
la hét từ phiá xa vọng tới.
Ngay cả khi, trong tiếng
gió thoảng, có tiếng la thét,
và họ,
trong thâm tâm,
thoáng có nghĩ tới, những người đàn
bà của họ,
những đứa con gái
ngoan ngoãn của họ, đang bị hiếp,
chắc cũng không quá
xa nơi họ đang chơi cờ,
và lông mày,
lông mi của họ có thoáng âm
u,
tâm tư của họ có
nhầu nát, tí ti, thoáng 1 tí,
và họ lại chú
mục vào cuộc chơi không chấm dứt,
trở về một cách
thật là vững tâm với cái bàn
cờ cũ của họ.
Khi ông vua bằng ngà
trên bàn cờ cũ bị nguy hiểm, thì ai
để ý làm gì tới
thịt rơi, máu đổ,
ở trên đường phố,
biển máu biển miếc,
bà mẹ, người vợ, đứa chị, con em
bị, hay được… giải phóng
?
Giải phóng hay ăn
cướp thì có ăn thua gì tới
một đường thối của Bạch Hoàng
Hậu?
Và một khi đi được
một nước vừa ý, đặt ông vua vào
đúng vị trí,
thì những đứa trẻ
đang chết ở xa xa kia, là cái chó
gì mà phải quan tâm?
Milosz
JULIA
HARTWIG 1921-
Expectation
of an imminent calamity. Many people have lived through
such a moment, but they haven't left poems about it. Yet those
moments are an integral part of history, of many cities and
countries.
Ngửi thấy mùi thảm họa. Nhiều
người Mít đã trải qua một khoảnh khắc như
thế, nhưng họ quên để lại 1 bài thơ.
Tuy nhiên, những khoảnh khắc
này là 1 phần toàn thể của lịch sử,
của nhiều thành phố và xứ sở.
ABOVE US
Boys
kicking a ball on a vast square beneath an obelisk
and the apocalyptic sky at sunset
to the rear
Why the sudden menace in this view
as if someone wished to turn it all
to red dust
The sun already knows
And the sky knows it too
And the water in the river knows
Music bursts from the loudspeakers
like wild laughter
Only a star high above us
stands lost in thought with a finger
to its lips
Translated
from the Polish by Stanislaw Baranczak and Clare Cavanagh
Czeslaw
Milosz giới thiệu, trong A Book of Luminous Things
Ở bên trên chúng
ta
Trẻ con chơi đá banh ở một
công viên rộng lớn
bên dưới Đài Kỷ Niệm Điện
Biên
và bầu trời tận thế thì
đỏ mọng,
‘không gian bỗng đỏ rực, rồi
đêm xuống trùm lên tất cả’
Tại sao cái sự hăm dọa bất thần
như thế
Như thể có 1 người nào
đó ao ước biến tất cả thành bụi đỏ
[Có phải đốt sạch Trường Sơn,
thì cũng đốt]
Mặt trời biết điều đó
Bầu trời cũng biết điều đó
Nước sông Sài Gòn
cũng biết luôn
Nhạc “Như có Bác H trong
ngày vui như thế này”,
bỗng ré lên như 1 tiếng
cười man rợ
từ chiếc loa của Ban Thông Tin
Phường Bến Nghé
Chỉ có 1 ngôi sao ở thật
cao trên đầu chúng ta,
thì vẫn như lạc lõng
trong suy tư,
với ngón tay đặt lên
đôi môi (1)
Thơ
Mỗi
Ngày
THE RAIN
When my older brother
came back from war
he had on his forehead a
little silver star...
See More
THE RAIN
When my older brother
came back from war
he had on his forehead a
little silver star
and under the star
an abyss
a splinter of shrapnel
hit him at Verdun
or perhaps at Grunwald
(he'd forgotten the details)
He used to talk
much
In many languages
But he liked most of all
The language of history
until losing breath
he commanded his dead pals
to run
Roland Kowalski Hannibal
he shouted
that this was the last crusade
that Carthage soon would
fall
and then sobbing confessed
that Napoleon did not like
him
we looked at him
getting paler and paler
abandoned by his senses
he turned slowly into a
monument
into musical shells
of ears
entered a stone forest
and the skin of his face
was secured
with the blind dry
buttons of eyes
nothing was left
him
but touch
what stories
he told with his hands
in the right he had romances
in the left soldier's memories
they took my brother
and carried him out of town
he returns every fall
slim and very quiet
he does not want to come
in
he knocks at the window
for me
we walk together
in the streets
and he recites to me
improbable tales
touching my face
with blind fingers of rain
Zbigniew Herbert:
The Collected Poems 1956-1998
Mưa
Khi ông anh
của tớ từ mặt trận trở về
Trán của anh có
1 ngôi sao bạc nho nhỏ
Và bên dưới
ngôi sao
Một vực thẳm
Một mảnh bom
Đụng anh ở Plê Ku
Hay, có lẽ, ở Củ
Chi
(Anh quên những chi
tiết)
Anh trở thành
nói nhiều
Trong nhiều ngôn ngữ
Nhưng anh thích nhất
trong tất cả
Ngôn ngữ lịch sử
Đến hụt hơi,
Anh ra lệnh đồng ngũ đã
chết, chạy
Nào anh Núp,
Nào anh Trỗi.
Anh la lớn
Trận đánh này
sẽ là trận chiến thần thánh chót
[Mỹ Kút, Ngụy Nhào,
còn kẻ thù nào nữa đâu?]
Rằng Xề Gòn sẽ vấp
ngã,
Sẽ biến thành Biển
Máu
Và rồi, xụt xùi,
anh thú nhận
Bác Hồ, lũ VC Bắc
Kít đếch ưa anh.
[Hà, hà!]
Chúng tôi
nhìn anh
Ngày càng
xanh mướt, tái nhợt
Cảm giác bỏ chạy
anh
Và anh lần lần trở
thành 1 đài tưởng niệm liệt sĩ
Trở thành
những cái vỏ sò âm nhạc của những
cái tai
Đi vô khu rừng đá
Và da mặt anh
Thì được bảo đảm
bằng những cái núm mắt khô, mù
Anh chẳng còn
gì
Ngoại trừ xúc giác
Những câu
chuyện gì, anh kể
Với những bàn tay
của mình.
Bên phải, những câu
chuyện tình
Bên trái, hồi
ức Anh Phỏng Giái
Chúng mang
ông anh của tớ đi
Đưa ra khỏi thành
phố
Mỗi mùa thu anh trở
về
Ngày càng ốm
nhom, mỏng dính
Anh không muốn vô
nhà
Và đến cửa sổ phòng
tớ gõ
Hai anh em đi bộ
trong những con phố Xề Gòn
Và anh kể cho tớ
nghe
Những câu chuyện chẳng
đâu vào đâu
Và sờ mặt thằng em
trai của anh
Với những ngón tay
mù,
Của mưa
The Moment
Poetry
feeds on the remembrance of our perceptions
that are no more, since they belong to a moment in the
past. That past may be of a year or of a minute; we do not
write of what is presently happening, but always of something
at a remove, albeit even the shortest. Remembrance of the things
that are past allows for a dispassionate description: "Distance
is the soul of beauty"
(Simone
Weil).
A moment
is like a frame of film. Some poems attempt to catch
and fix a moment, and thus to stop the· film of
time, to glance attentively at one of its frames. Probably
modern poetry has been influenced by film in this respect.
After all, a frame is a unit of space-time; i.e., a moment
is not an abstraction, but is filled with what is seen
by the eye. Time is not "an element" stretching infinitely,
in a linear way, backwards and forwards; it always offers
itself to the eye as saturated with a fragment of space,
as in a film frame. This has been expressed in a famous passage
of St. Augustine's Confessions: "So what is time? If no one
asks me, I know: if I want to explain it to a person who asks,
I do not know anymore and yet I affirm with certainty that, had
nothing passed, there would not be past time-had nothing happened
there would not be future time, had nothing existed, there would
not be present time."
Some poems
describe a moment placed far back in time; some create
an illusion of the present-for instance, Walt Whitman's
short poems, scenes of the Civil War, that resemble illustrations
drawn for a magazine. When one approaches a poem it
is interesting to ask where-how far away in time-a described
moment resides. It makes a reader more attentive-and
reading a poem is, after all, always an exercise in attention.
Thơ, biểu
chúng ta, còn gì nữa đâu,
và giả như còn, thì chúng
thuộc về quá khứ, và quá khứ thì
có thể là 1 năm, hay 1 phút, chúng
ta không viết cái gì hiện đang xẩy ra,
mà luôn luôn về một điều gì đang
trên đường chực bỏ chúng ta mà đi, mặc
dù phù du, mặc dù ngắn ngủi, cỡ nào.
Nhớ nhung
những gì đã qua cho phép chúng
ta đi 1 đường miêu tả “cũng theo hư không
mà đi”: “Khoảng cách là linh hồn
của cái đẹp” (Simone Weil)
Khoảnh khắc
thì giống như cái khung 1 tấm phim.
Vài bài thơ toan tính tóm
bắt khoảnh khắc, bắt thời gian ngưng lại, “phán
1 phát”, rồi đóng chặt vĩnh viễn vào
trong cái khung 1 của 1 tấm phim. Có lẽ thơ
ca hiện đại có chôm chĩa chi đó, từ phim
ảnh, theo kiểu này.
Nói
cho cùng, khung là đơn vị không
gian - thời gian, nghĩa là, khoảnh khắc không
trừu tượng, mà là được chất chứa trong
nó, cái gì, điều gì…. được
con mắt nhìn thấy.
Thời gian
không phải là 1 phần tử cứ thế duỗi mãi
ra tới vô cùng theo đường tuyến tính,
tới hoặc lui, nó luôn luôn tự dâng
hiến cho con mắt nhìn đến no nê, với 1 khoảnh
không gian, như trong khung của 1 tấm phim.
Điều này
được diễn tả tuyệt vời bởi St. Augustine, trong
Confessions: Như thế thời gian là
gì? Nếu không ai hỏi, thì tôi
biết: nếu có người hỏi, là tôi đếch còn
biết!
EAMON
GRENNAN
1941-
Human windows
and everything that occurs behind them. The curiosity
of a passerby, but also a voyeur, or a poet, a fairy-tale
teller, a novelist, composing all biography and tales
from a detail seen through a window. It may last just
an instant, sometimes, as in this poem by an Irish poet, probably
a little longer.
Czeslaw
Milosz: A Book of Luminous Things
WOMAN AT LIT WINDOW
Perhaps
if she stood for an hour like that
and I could
stand to stand in the dark
just looking,
I might get it right, every
fine line
in place: the veins of the hand
reaching
up to the blind-cord, etch
of the neck
in profile, the white
and violet
shell of the ear
in its whorl
of light, that neatly
circled
strain against a black
cotton sweater.
For a few seconds
she is staring
through me
where I
stand wondering what I'll do
if she starts
on that
stage of light
taking her
clothes off. But she only
frowns out
at nothing or herself
in the glass,
and I think I could,
if we stood
for an hour like this,
get some
of the real details down. But
already,
even as she lowers the blind,
she's turning
away, leaving a blank
ivory square
of brightness
to float
alone in the dark, the faint
grey outline
of the house
around it.
Newly risen, the half moon cast
my shadow
on the path
skinned
with grainy radiance
as I make
my way back
to my own
place
among the
trees, a host of fireflies
in fragrant
silence and native ease
pricking
the dark around me
with their
pulse of light.
Thơ
Mỗi
Ngày
WONDERS OF THE INVISIBLE WORLD
Wine had bloodied your lips
and tongue,
When you whispered your tale
Of how young witches
Used to ride married men
Through the sky on a night like
this.
The stars were like lit candles
That had wandered off on their
own,
And the misty woods
Were full of floating nightgowns.
It seemed only yesterday
Old Scratch tucked us into a
bed of dead leaves.
You turned into a black cat
And I ran after you on all fours
Into a church where a dog chased
us
And the congregation sat
With their grave faces looking
on.
Charles
Simic: That Little Something
Những điều thần tiên của thế
giới vô hình
Hồng đào nhuộm đỏ như
máu, môi và lưỡi em,
Khi em thầm thì,
Như thế nào mấy cô
bé phù thuỷ
Thường cưỡi mấy đấng có
vợ
Băng qua bầu trời vào
một đêm như đêm nay
Những ngôi sao thì
như những cây đèn cầy
Tự chúng muốn, chẳng
ai bắt
Đi lang thang
Và những khu rừng, đầm
đìa sương mù,
Thì đầm đìa những
chiếc áo ngủ đàn bà, trôi
lềnh bềnh
Hình như mới chỉ hôm
qua
Con Quỉ Già lùa
chúng mình vô 1 cái giuờng
đầy lá chết
Em biến thành một con
mèo đen
Và anh bò bốn
chân rượt đuổi
Vô một ngôi nhà
thờ
Nơi con chó rượt đuổi
cả đôi ta
Và giáo đoàn,
ngồi
Mặt người nào người nấy
coi bộ thật trầm trọng
Theo dõi trò hú
tim.
Alexander Blok
Russian
1880-1921
TO ZINAIDA GIPPIUS
Those born in backwater
years
forget their own way. Russia
gave birth to us in her years
of anguish
and we can forget nothing.
Years of holocaust, do you
herald madness, or the advent
of hope?
Days of war, days of freedom,
have stained our faces with
bloody light.
We are speechless. The bells'
alarms sealed our lips. Where
there was
a burning in our hearts once
there is nothing now, fixed,
like a death.
Over the bed where we are dying
let the hoarse ravens sail-
may others, more worthy, Oh
God, Oh God,
gaze on Thy kingdom!
1968, translated with Olga
Carlisle
W.S. Merwin: Selected
Translations
Alexander Blok (1885-1922)
Alexander Alexandrovich
Blok was born in St Petersburg. His father was a professor
of law in Warsaw, his mother a literary translator and his
maternal grandfather the rector of St Petersburg University.
His parents separated soon after his birth and he spent much of
his childhood at Shakhmatovo, his maternal grandfather's estate
near Moscow. There he discovered the religious philosopher Vladimir
Solovyov and the poetry of Tyutchev and Fet, both of whom were still
surprisingly little known. Shakhmatovo would remain for Blok the image
of a lost paradise.
In 1903 Blok married
Lyubov Mendeleyeva, the daughter of Dmitry Mendeleyev,
the chemist who created the periodic table. It was to Lyubov
he dedicated his poem-cycle Verses about the beautiful
Lady (1904). For well over a year, however, the marriage
remained unconsummated. Eventually, Lyubov seduced him, but this
did not help; Blok appears to have felt that sex was humiliating
to women. The couple remained together, but their marriage
was largely asexual; both had affairs with others.
The idealism of
Blok's first book yielded to a recognition of the tension
between this idealism and reality - and the Beautiful Lady yielded
her place to the more louche figure of the Stranger. 'The Stranger',
written when Lyubov was close to leaving Blok for his fellow-poet
Andrey Bely, is one of Blok's most famous poems. Here we present
it in two translations: English and Scots. As well as some of
his best-known love poems, and poems about the Muse, we include
two poems in free verse, both imbued with a warmth and a gentle
humor not generally associated with Blok.
The greatest of
Blok's later poems are meditations on Russia's destiny.
'The Twelve' (I918) is an ambiguous welcome to the October
Revolution. In staccato rhythms and colloquial language the poem
evokes a winter blizzard in revolutionary Petrograd; twelve Red
Guards marching through the streets seem like Christ's Twelve Apostles.
Many of Blok's fellow-writers hated this poem for its apparent acceptance
of the Revolution. Most Bolsheviks, on the other hand, disliked the
poem for its mysticism.
Blok's biographer
Avril Pyman writes, 'Blok had spent two months prior to
his composition of "The Twelve" walking the streets, and the
snatches of conversation written into the poem, the almost cinematic,
angled glimpses of hurrying figures slipping and sliding over
or behind drifts or standing rooted in indecision as the storm
rages around them work as in a brilliantly cut documentary film.
[ ... ] Musically, the different rhythms are unified by the wind
[ ... ] stilled only in the last line.'!"
Towards the end of his life Blok's chronic depression deepened. For
nearly two years between 1916 and 1918 he wrote nothing. After writing
'The Twelve' and one other poem in less than two days - and noting,
'A great roaring sound within and around me. Today, I am a genius'
- he sank into a still longer silence. 'All sounds have stopped,' he
told Korney Chukovsky. 'Can't you hear that there are no longer any
sounds?' During his last three years Blok wrote several prose articles,
but only one poem, 'To Pushkin House', an invocation of Pushkin's joy
and 'secret freedom'.
Boris Pasternak
tells how Mayakovsky once suggested they go together to
defend Blok at a public event where he was likely to be criticized:
'By the time we got [there] ... Blok had been told a pile
of monstrous things and they had not been ashamed to tell him that
he had outlived his time and was inwardly dead - a fact with which
he calmly agreed. '
In spring 1921
Blok did indeed fall ill, with asthma and heart problems.
His doctors wanted him to receive medical treatment abroad,
but he was not allowed to leave the country, in spite of the pleas
of Maxim Gorky. Blok died on 7 August 1921.
Blok was idolized
in his day and is still considered one of Russia's greatest
poets, but there have always been doubting voices. In his
memoir Petersburg Winters Georgy Ivanov recounts
a conversation between himself and his mentor Nikolay Gumilyov.
In reply to Ivanov's claim that, however blasphemous it may be,
'The Twelve' is a work of genius, Gumilyov replies, 'So much the
worse if it is! The worse both for poetry and for Blok himself.
Don't forget that the Devil is a genius too - so much the worse both
for the Devil and for us all." D. S. Mirsky writes, 'But great though
he is, Blok is also most certainly an unhealthy and morbid poet, the
greatest and most typical of a generation whose best sons were stricken
with despair and incapable of overcoming their pessimism except by
losing themselves in a dangerous and ambiguous mysticism or by intoxicating
them- selves in a passionate whirlwind." Only four years earlier, Mirsky
had said that if he had to choose between 'The Twelve' and all the
rest of Russian literature put together, he would hesitate." Few poems
can have had such power to polarize opinion - let alone the opinions
of a single person.
Akhmatova famously referred to Blok as 'the tragic tenor
of the epoch'. And in 'To the Muse' Blok wrote:
And I knew a destructive pleasure in
trampling what's sacred and good,
a delirium exceeding all measure
-this absinthe that poisons my blood!
(trans. Stephen Capus)
from The Twelve
From street to street
with sovereign stride ...
- Who's there? Don't try to hide!
But it's only the wind playing
with the red banner ahead.
Cold, cold, cold drifts of snow.
- Who's there? No hiding now!
But it's only a starving hound
limping along behind.
Get lost, you mangy cur -
or we'll tickle you with our bayonets.
This is the last of you, old world
-
soon we'll smash you to bits.
The mongrel wolf is baring his fangs
-
it's hard to scare him away.
He's drooping his tail, the bastard
waif ...
- Hey, you there, show your face!
Who is it waving our red banner?
Wherever I look - it's dark as pitch!
Who is it flitting from corner to
corner
always out of our reach? [ ... ]
Crack-crack-crack! And the only answer
is echoes from house to house.
Only the whirlwind’s long laughter
criss-crossing the snows.
Crack -crack -crack!
Crack -crack -crack!
From street to street with sovereign
stride,
a hungry cur behind them ...
While bearing a blood-stained banner,
blizzard - invisible,
bullet-untouchable,
tenderly treading through snow-swirls,
hung with threads of snow-pearls,
crowned with white haloes of roses
-
who,
who else
but Jesus Christr"
(I918)
Robert Chandler
The Penguin Book
of Russian Poetry
The Dream
Is
it sweet to have unearthly dream?
[Có giấc mơ siêu phàm
có ngọt ngào chăng?] A. Blok (1)
Was mine a prophetic dream or wasn't
it?
[Còn của tôi, thì
là tiên tri, hay không phải, hay ngược
lại?]
Akhmatova
(1) Năm 1918, Blok xuất bản trường
thi 12 Vệ Binh Đỏ, thô bạo và hung dữ,
chỉ với một ước muốn trả thù tụi trưởng giả, đi giữa cơn
bão tuyết trên đường phố Petrograd, cướp và
giết, được dẫn dắt bởi một sức mạnh vô hình. Ở đoạn
thơ cuối, bóng dáng Jesus Christ xuất hiện trong bộ
đồ trắng dẫn đầu đám người hung bạo. Blok coi việc Bôn-sê-vích
nắm quyền, được "chúc phúc" bởi Chúa. Nhưng
ông là người đầu tiên gục ngã vì
thất vọng, chết năm 1921, vì "cơn suyễn tinh thần", chữ
của Andrei Bely.
Nơi Người Chết
Mỉm Cười
Con Bọ, nói cho cùng,
chính là hậu quả, lật ngược, của giấc đại
mộng, "giấc mơ siêu phàm", chữ của Blok, của
Miền Bắc.
Cái đồng bằng Bắc Bộ, nhiều
bờ hơn ruộng, cái con đê ngăn chặn lũ lụt sông
Hồng, ngăn chặn, không chỉ mầu mỡ, phù sa cho
mảnh đất, mà luôn cả mầu mỡ phù sa cho tâm hồn con người. Những làng
xóm, sau lũy tre xanh, xưa vốn là những
đơn vị chiến đấu, kibbutz, chống phương bắc, sau biến thành
nhà tù, với những luật lệ khắc nghiệt, những ông
lý, ông tiên chỉ, ông trưởng họ, ông
bố khắc nghiệt, những ông con trai coi gái làng
như của riêng, trai làng bên đụng vô,
là đánh cho tới chết... Trong tình
cảnh khốn khổ khốn nạn như thế, người và đất nhìn
về Miền Nam như là vị cứu tinh của nó, và chủ
nghĩa Cộng Sản chính là "thiên sứ", kẻ đem tin
mừng đến cho họ.
Trong một bài viết về bài
thơ Điện Biên, của Tố Hữu, Gấu này đã
muờng tượng ra điều trên: Cảnh Tố Hữu mô tả, nhà
nhà đỏ đèn đỏ lửa, là có thật,
không phải nhà thơ phịa ra, như chính ông
tự thú khi về già.
Là thi sĩ, là một tay
CS thứ thiệt, khi còn trẻ, ông nhìn
ra ngày hội, " trong tương lai," ["chỉ có điều
mình phịa như thực", qua trí óc non nớt
của ông], do chủ nghĩa CS, bắt đầu bằng chiến thắng Điện
Biên, mang lại.
Nhưng, không ai nhìn
ra được con bọ. Không ai nhìn ra được giấc
mơ tiên tri của Akhmatova. Nữ thi sĩ người Nga này,
được coi là một nàng Cassandra (1), Bà
Đồng, người 'đọc ra điều dữ', mà chẳng ai thèm
tin.
(1) Cassandra. In
Greek mythology, Cassandra ("she who entangles men") (also known as Alexandra)
was a daughter of King Priam of Troy and his queen Hecuba,
who captured the eye of Apollo and was granted the gift of
prophecy. However, when she did not return his love, Apollo
placed a curse on her so that no one would ever believe her predictions.
(net)
Chân Dung và Đối thoại
của Trần Đăng Khoa
Có những bút danh do tình
cờ mà thành, lại có khi do sự viết sai, mà nên.
Thí dụ như Trần Đăng Khoa chẳng hạn. Vốn là Trần Giang Khoa
(em gái của Khoa tên Giang) nhưng vì mới đi học nên
anh viết (trật) là Trần Dang Khoa, đến khi (có bài)
đăng báo, tòa soạn sửa lại thành Trần Đăng Khoa.
(Trích Chuyện vãn về
bút danh, tác giả Ngô Vĩnh Bình,
báo Sài Gòn Giải Phóng, qua báo
Nhân Dân trên Internet).
I
Đây
là một cuốn sách đã và đang
gây chấn động ở trong nước. Nghe kể lại, đã in
tới lần thứ tám hoặc chín, được bán kèm
với gần như tất cả những vật dụng cần thiết cho đời sống hàng
ngày của người dân trong nước: tờ giấy số, nhật báo,
hay gói mì ăn liền... Hiện tượng, một tác phẩm
"văn học" đi vào cuộc sống mỗi ngày, là một chuyện
khó hiểu. Đừng coi đây như hiện tượng best-sellers
ở Tây-phương. Có lẽ chỉ có thể giải thích
bằng lời phẩm bình của nữ thi sĩ Nga, Akhmatova: Chỉ người
nào có sống ở Nga, và nghe radio (la-dô,
đài) mỗi ngày, mới hiểu chủ nghĩa Cộng-sản là
gì. (Only someone who lives in Russia and listens to the radio
every day can understand what communism is, trích dẫn từ Chuyện
trò với Joseph Brodsky, của Solomon Volkov, nhà xb The
Free Press, 1998).
Cuốn
sách cũng đang gây "chấn động" ở hải ngoại.
Tờ này, tờ nọ chọn đăng lại. Người viết, khi nghe nói
về nó, liên hệ tới chuyện "đói thông
tin" ở trong nước, nghĩ: chắc nó cũng giống hiện tượng Đêm
Giữa Ban Ngày đối với độc giả hải ngoại. Người ta đọc trước
tiên vì tò mò, khoan nói tới mong
ước, có trong tay "Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovich"
(Solzhenitsyn).
Mới đây được đọc, và thấy
có phần đúng. Nhưng không giản dị như
vậy.
Riêng
phần dữ kiện, nó hé cho thấy không chỉ
đằng sau một chế độ, mà còn đằng sau một con người,
nhiều con người. Nhiều cõi nhân sinh, quan điểm
nghệ thuật, có thể đồng ý, hoặc phản bác, hoặc
dựa vào đó, để công kích, để "chống Cộng"....
Bài quan trọng nhất, theo tôi,
là chân dung tự họa của Trần Đăng Khoa. Đây
là điểm qui chiếu của tác phẩm. Cũng có
thể coi chi tiết "viết sai tên, Giang thành Dang"
ở trên như là một ẩn dụ làm nền cho cái
đọc Chân Dung và Đối thoại... của chúng
ta.
Bởi vì tất cả những chân
dung sau đó, đều là những "phó bản"
của tự họa.
Người viết có "tham vọng" đọc
từng bài, rồi "tản mạn" về từng bài. Như một
cách "giao lưu văn hóa."
Trước tiên là bài
viết, về Tố Hữu, và nhân đó, về Nguyễn
Tuân.
Một chuyên gia về biếm văn, sau
khi trích đoạn viết về Tố Hữu, đã cho rằng: những
dòng thơ "phịa", về chiến thắng Điện Biên (chỉ ngồi
nhà nghe hóng, rồi viết), vậy mà đã xúi
bao nhiêu con người lao vào chỗ chết.
Nhận xét này theo tôi
đã phần nào nói lên cái
được, cái mất của tác phẩm: chính Trần
Đăng Khoa, khi phê bình Nguyễn Tuân cũng mắc
đúng một khuyết điểm như vậy.
Những nhận xét văn học của Trần
Đăng Khoa, phần lớn đã lấy thước đo, là đời
sống, là cái "hiện thực". Trong khi nghệ thuật,
nó "đếch cần" cuộc đời.
"Nói theo" nhà thơ Nga
Joseph Brodsky: nghệ thuật không bắt chước, nhưng
nó "làm độc" đời sống. (1)
Thơ rất độc, tẩm vào người nỗi
chết (2)
Trần Đăng Khoa hỏi, về xuất xứ bài
Hoan hô Chiến sĩ Điện Biên,
Tố Hữu cho biết:
"Chịu không thể nhớ được (...)
Hồi đó, mình là trưởng ban tuyên
truyền. Suốt ngày chỉ hong hóng chờ tin tức từ
chỗ anh Trường Chinh, hoặc chạy qua bên Bộ Tổng, Quân
Uỷ Trung Ương, chỗ anh Văn (Võ Nguyên Giáp)
hỏi xem có đánh nhau ở đâu để viết bài
tuyên truyền (...)
-Vậy tin toàn thắng đến với
anh vào lúc nào?
-Lúc ấy khoảng 5 rưỡi hay 6 giờ
chiều ngày 7-5. Rừng nhá nhem tối mới có điện từ anh
Trường Chinh xuống. Mình mừng quá. Cái chuyện 'Hỏa tốc,
hỏa tốc - Ngựa bay lên dốc' ấy là có thật (...) chứ làm
gì có 'Đuốc chạy sáng rừng', với 'Làng bản đỏ
đèn đỏ lửa' (...) Thực tế lúc ấy, nhìn ra xung quanh,
rừng tối mù mù (...) Vậy thì loa với ai, thế mà
vẫn loa kêu từng cửa (...) Làng bản đỏ đèn đỏ lửa (...).
Này xem ra không thể tin cánh văn nghệ được đâu
hỉ. Phịa, toàn chuyện phịa. Chỉ có điều mình phịa như
thật, nên người ta tha cho.
Phịa như thật (thật nào?). Tại
sao lại tha cho ?
Nhưng chi tiết liền sau đó,
mới thật "lạ":
Rồi Tố Hữu lại cười. Nụ cười thật hiền
hậu. Trông ông lúc này có
dáng vẻ một ông Phật.
Có thể Trần Đăng Khoa đã
quên mất mấy chữ "phịa như thật", nên đã
mượn "ma", để "chê" Nguyễn Tuân.
Bàn về văn Nguyễn Tuân
"Ma" nói:
"Quả ông cụ viết khá nhiều
về món ăn... Nhưng đưa các món ăn lên
thành những áng văn chương, thành văn
hóa ẩm thực, trước tiên phải kể đến Vũ Bằng với
Thương Nhớ Mười Hai, Miếng Ngon Hà Nội, Món Lạ Miền
Nam.... những kiệt tác về ăn uống... nó là
hồn vía của cả một vùng đất. Văn chương của cụ Nguyễn
chưa đạt đến độ ấy. Đôi khi ngay trong chuyện ăn uống này,
ông cụ cũng lại đùa."
Viết về hai nhà văn tiền bối
như vậy, là không đúng, bởi vì
người được khen cũng không cảm thấy hãnh diện.
Chưa kể chuyện, vì cũng là món ăn, cho
nên có người ưa món ăn "Nguyễn Tuân",
có người ưa món ăn "Vũ Bằng". Có người ưa
cả hai, chẳng chịu bỏ món nào! Tuy "tham ăn", người
viết có thể đưa những lý do, để nói ngược lại
(văn của cụ Vũ chưa đạt tới độ ấy), nhưng không dám,
vì quá vô lễ, cảm thấy nình nếu làm
vậy thì cũng giống như một trong "nhiều người tò mò,
lặn lội hàng trăm cây số bom đạn, tìm đến nhà
y, chỉ cốt xem y như xem... ma quỉ hiện hình. Có người
còn bắt y xòe tay nom đường chỉ, vạch tóc ngó
xoáy đầu, rồi lặng lẽ ra đi với gương mặt thật là bí
hiểm" (Chân dung tự họa).
Có thể họ Trần sẽ nói:
đây là những việc thực, người thực, nhưng
khi làm văn chương "nguyên con" như vậy, nó
lại lòi ra bản chất của người viết.
Bởi vì nghệ thuật không
bắt chước cuộc đời. Nó tẩm độc cuộc đời. Độc ở đâu
ra?
Độc là cần thiết trong văn chương,
theo tôi. Không độc không trượng phu, mà
lị! Nó làm tác phẩm trở thành
một tác phẩm, hay một thảm họa, là tùy
người viết.
Cũng vì cố bám chặt vào
"hiện thực", cho nên họ Trần đã không
thấy nét đẹp của Chém Treo Ngành, của
những ngôi sao đánh dấu con đuờng từ giếng trời về
trần trong Những chiếc ấm đất. Phê bình Chém
treo ngành, ông viết: "Đưa việc chém người
lên thành nghệ thuật và tả đường đao, mũi đao
với kẻ khoái cảm như một dạng thưởng thức nghệ thuật thì
chỉ ở cõi người mới có nhà phê bình
viết bài tán dương, chứ ma thì con xin vái
cụ". Ở đây, họ Trần lại mâu thuẫn với chính
ông khi chê Nguyễn Tuân không đưa việc ăn
uống lên thành nghệ thuật. Nhưng ngay câu tiếp
theo cho thấy tại sao:
"Ngay cả kẻ bị chém là
lũ tà đạo, lũ cướp đường, tả thế cũng không
ổn, huống hồ đó là quân khởi nghĩa,
những người xả thân vì đại nghĩa cả. Nhà văn
lớn ai lại làm thế."
"Balzac mô tả cái nón,
là bởi vì có người đang đội nó"
(3).
Đằng sau những loa dậy đất, đèn
đuốc đỏ rực bản làng, có một giấc mơ - cái
thật trong tương lai - mà cả một miền đất muốn vươn
tới, muốn sở hữu. Chúng ta phải hiểu như vậy, thì
mới giải thích được, dù chỉ một người ngã
xuống ở mảnh đất Điện Biên.
Như chúng ta đều biết, giấc mơ
đã không trở thành hiện thực, và đó là
những cay đắng giấu kín đằng sau nụ cười hiền như Phật của Tố Hữu.
---------------
Chú thích:
(1):... art doesn't imitate life but
infects it. (On Grief and Reason, J. Brodsky).
(2) Mô phỏng thơ Thanh Tâm
Tuyền:
Khi anh đi, anh đi vào
sương đen,
Sương rất độc tẩm vào người
nỗi chết.
(3) G. Steiner, trong bài giới
thiệu "Chủ nghĩa hiện thực trong thời đại của chúng
ta", của G. Lukacs.
Note: Hai câu thơ,
Gấu chôm từ 1 bài thơ,
dán
trên tường, nơi bàn làm việc của TTT,
lần ông vắng nhà, theo bạn Chất vô phòng
ông, thời gian ông sắp sửa trình diện nhập
ngũ.
Post lên Tin Văn, bị ăn cắp, y
chang hai câu thơ của Joseph Huỳnh Văn được ngài
thi sĩ bên tách cà phê chôm.
Người phán, đọc đâu
đó trên Thời Tập của Viên
Linh
Joseph Huỳnh Văn, khi còn
sống, không đăng thơ ở bất cứ báo nào,
ngoài tờ Tập San Văn Chương, do bạn bè
của anh cùng chủ trương, với anh là
Tổng Thư Ký
Bướm [Đêm]Đen
Không bao giờ xo ri
Nàng không hề xo ri
Không biết làm
sao chấm dứt [cài số dze]
Không biết làm sao
"nhớ ơi là nhớ"!
Note: Nhân ngày
phụ nữ "vùng lên/nằm trên/ em lên
anh nhé"!
Nhưng bảnh nhất,
Nàng không hề
xo ri
Vì biết iêu
tới đáy, iêu cạn láng
Và mần chàng tới
chỉ
Khiến chẳng đứa nào
còn biết
Đâu là chàng,
đâu là nàng!
WONDERS OF THE INVISIBLE WORLD
Wine had bloodied your lips
and tongue,
When you whispered your tale
Of how young witches
Used to ride married men
Through the sky on a night like this.
The stars were like lit candles
That had wandered off on their own,
And the misty woods
Were full of floating nightgowns.
It seemed only yesterday
Old Scratch tucked us into a bed of
dead leaves.
You turned into a black cat
And I ran after you on all fours
Into a church where a dog chased us
And the congregation sat
With their grave faces looking on.
Charles
Simic: That Little Something
Những điều thần tiên của thế
giới vô hình
Hồng đào nhuộm đỏ như máu,
môi và lưỡi em,
Khi em thầm thì,
Như thế nào mấy cô bé
phù thuỷ
Thường cưỡi mấy đấng có vợ
Băng qua bầu trời vào một đêm
như đêm nay
Những ngôi sao thì như
những cây đèn cầy
Tự chúng muốn, chẳng ai bắt
Đi lang thang
Và những khu rừng, đầm đìa
sương mù,
Thì đầm đìa những chiếc
áo ngủ đàn bà, trôi lềnh bềnh
Hình như mới chỉ hôm qua
Con Quỉ Già lùa chúng
mình vô 1 cái giuờng đầy lá chết
Em biến thành một con mèo
đen
Và anh bò bốn chân
rượt đuổi
Vô một ngôi nhà thờ
Nơi con chó rượt đuổi cả đôi
ta
Và giáo đoàn, ngồi
Mặt người nào người nấy coi bộ
thật trầm trọng
Theo dõi trò hú
tim.
The Lunatic
The Dictionary
Maybe there is a word in it somewhere
to describe the world this morning,
a word for the way the early light
takes delight in chasing the darkness
out of store windows and doorways
Another word for the way it lingers
over a pair of wire-rimmed glasses
someone let drop on the sidewalk
last night and staggered off blindly
talking to himself or breaking into
song.
Từ điển
Có thể có một
từ, đâu đó, trong đó
diễn tả thế giới sáng nay
một từ, theo đó, tia sáng
sớm sủa,
sướng điên lên, khi truy
đuổi bóng tối,
ra khỏi những khung cửa sổ, những lối
ra vô, nơi cửa tiệm, kho hàng.
Một từ khác, qua đó,
nó nấn ná, bịn rịn, với cặp kiếng, gọng bằng
dây,
mà một người nào đó,
bỏ rơi trên lối đi, đêm qua,
lảo đảo như 1 anh mù, lèm
bèm với chính mình, hay bật thành
bài ca.
Note: Trên The New Yorker số mới nhất, July 1st,
2013.
Gấu chưa mua tờ này, nhưng thấy
trên Blog NL nên bê về đây.
Nay, có trong The Lunatic
W H. Auden
1907-1973
Wystan
Hugh Auden was born in York, brought up in Birmingham,
where his father was a physician, and educated at Gresham's
School, Holt, and Christ Church, Oxford. His student
contemporaries included poets Cecil Day Lewis, Louis MacNeice
and Stephen Spender. After graduating in 1929, he spent several
months in Berlin, often in the company of Christopher Isherwood,
his future collaborator. His first book, Poems, was published
in 1930 by T. S. Eliot at Faber and Faber and he later became
associated with Rupert Doone's Group Theatre, for which he wrote
several plays, sometimes in collaboration with Isherwood.
In January 1939 the two of them left England for the United States,
where Auden became a citizen in 1946. His later works include The
Age of Anxiety, Nones, The Shield of Achilles and Homage to Clio,
and he also wrote texts for works by Benjamin Britten and (with Chester
Kallman) the libretto for Stravinsky's opera The Rake's Progress.
Elected Professor of Poetry at Oxford in 1956, he died in Vienna
in 1973.
On This Island
Look, stranger, on this island
now
The leaping light for your
delight discovers,
Stand stable here
And silent be,
That through the channels
of the ear
May wander like a river
The swaying sound of the sea.
Here at a small field's ending
pause
Where the chalk wall falls
to the foam and its tall ledges
Oppose the pluck
And knock of the tide,
And the shingle scrambles
after the suck-
-ing surf, and a gull lodges
A moment on its sheer side.
Far off like floating seeds
the ships
Diverge on urgent voluntary
errands,
And this full view
Indeed may enter
And move in memory as now
these clouds do,
That pass the harbour mirror
And all the summer through
the water saunter.
Nobody in the thirties was
quite sure what war would be like, whether there would
be gas, for instance, or aerial bombardment. There's a stock
and rather a silly question: 'Why was there no poetry written
in the Second World War?' One answer is that there was, but
it was written in the ten years before the war started. Auden was
a landscape poet, though of a rather particular kind. The son of
a doctor, he was born in York in 1907 but brought up in Solihull in
the heart of the industrial Midlands. Not the landscape of conventional
poetic inspiration but, for Auden, magical:
from Letter to Lord Byron
But let me say before it has
to go, It's the most lovely country that I know;
Clearer than Scafell Pike,
my heart has stamped on The view from Birmingham to Wolverhampton.
Long, long ago, when I was
only four, Going towards my grandmother, the line
Passed through a coal-field.
From the corridor
I watched it pass with envy,
thought 'How fine! Oh how I wish that situation mine.'
Tramlines and slagheaps, pieces
of machinery, That was, and still is, my ideal scenery.
Note: Hai bài thơ trên
1 cách nào đó, là để trả
lời, hoặc, có mắc mớ tới, 1 số vấn nạn, mà Nobel văn chương
năm nay làm lộ ra.
Mẽo đếch có văn chương,
thứ đau nỗi đau của thế kỷ [Lò Thiêu, Lò
Cải Tạo, Cái Ác Nazi, Cái Ác
Á Châu].
Cả châu Mẽo, chỉ là
1 hòn đảo.
Nghệ Thuật tự nó nên
thoát ra khỏi thời gian
'Why was there no poetry written
in the Second World War?' One answer is that there was,
but it was written in the ten years before the war started.
Có 1 câu hỏi thật
là cà chớn: Tại sao không có
thơ viết về Đệ Nhị Chiến?
Có rồi, nhưng viết
sớm hơn 10 năm.
Auden là nhà
thơ Anh.
Nhưng nhờ đến Hòn Đảo,
mà thơ ông đổi hẳn.
Auden, là Thầy của Brodsky.
Nhờ Auden, Brodsky ngộ ra số
phận của ông, như là 1 nhà thơ
Nga: Một tên
du mục, đi 1 lèo không hề ngoái lại,
không hề trở về.
Ông tởm nhất, cái
trò lũ Mít lưu vong, mê nhất: Bò về khóc lóc,
lạy lục, đi khách [làm tua văn hóa,
gặp gỡ nhà văn nhà veo Vẹm...]
Ngay từ năm 1972, khi Joseph
Brodsky chiều theo lời yêu cầu của nhà
nước, rời khỏi nước Nga, vì tội danh thành
phần ký sinh, nhà thơ ăn bám, ông
vẫn luôn luôn bị hỏi về nước Nga và nhất
là khi nào thì trở về quê hương. Ông
thường trả lời đại để: "Tôi thấy thật khó mà
tưởng tượng tôi như là một du khách, một
diễn viên đi trình diễn ở một nơi mà tôi
đã sinh ra, đã trưởng thành... Kẻ sát
nhân còn có thể luyến tiếc phạm trường,
nhưng thật là vô duyên khi mầy mò diễn
lại một màn yêu đương. Tôi có thể về đó
như là một cá thể rất riêng tư và gặp
gỡ một vài bạn bè, nhưng về để cười cười nói nói,
nhận những lời chúc tụng, tôi thấy thật là khó
chịu".
Nước Nga hết còn hiện
hữu. Nó trở thành ngôn từ đối
với ông. "Tôi hết còn tin tưởng ở
xứ sở đó. Tôi không quan tâm (đến
chuyện này). Tôi đang viết bằng tiếng nước tôi,
và tôi thích tiếng nước tôi. Tôi
thực sự không biết giải thích thế nào cho
ông thấy. Xứ sở là... những người của nó. Tôi
là một trong những người đó, và tôi thấy
quá đủ hoặc quá thiếu về tôi rồi... Khi Thomas
Mann từ Đức đến California, người ta hỏi ông về văn chương Đức,
ông trả lời: “Văn chương Đức là nơi tôi đang ở”
(German literature is where I am). Nếu một người Đức dám chấp
nhận điều này, tôi cũng dám chấp nhận. Bây
giờ tôi sửa soạn để chết tại đây. Cũng chẳng quan trọng
chi chuyện đó. Vả chăng tôi cũng không biết chốn
nào khá hơn. Mà nếu có biết, tôi
cũng chưa kịp sửa soạn để đổi đời."
Nhà
thơ nổi loạn
Joseph Brodsky: Người hùng Virgil:
Đi để mà đừng bao giờ trở về.
[A Virgilian Hero, Doomed Never
to Return Home].
Bao thơ tôi, ít nhiều
chi, là về cùng một điều - về Thời Gian. Về thời gian làm
gì con người.
"All my poems are more or
less about the same thing – about Time. About what time
does to Man."
Joseph Brodsky.
Nhân Nobel, Tin Văn bèn viết về Brodsky,
về sư phụ của ông, về đi là đừng bao giờ trở về....
Không chỉ Brodsky: Có
thể nói, lịch sử nước Nga ban cho từng nhà
văn nhà thơ của nó, mỗi người mỗi số phận.
Số phận của Osip là để chết ở trong Trại Tù.
Pasternak, cũng 1 kẻ tuẫn đạo.
Rồi nữ thần thi ca sầu muộn,
Akhmatova. Khác hẳn lũ tinh anh Bắc Kít.
Số phận của chúng, là đầu hàng trước
Tố Hữu, không phải trước Đảng CS.
Akhmatova: Kinh
Cầu
Chẳng có ai người cười
nổi, những ngày đó
Ngoại trừ những người chết,
sau cùng tìm thấy sự bình an
Như 1 cánh tay thừa thãi,
1 sức nặng vô d...
See More
Akhmatova: Kinh Cầu
Chẳng có ai người cười nổi, những ngày
đó
Ngoại trừ những người chết,
sau cùng tìm thấy sự bình an
Như 1 cánh tay thừa thãi,
1 sức nặng vô dụng
Hà Nội đong đưa quanh
Hỏa Lò
Hàng theo hàng,
đám Ngụy diễu [không phải diễn] hành,
Khùng vì đau,
nhắm nỗi bất hạnh của họ
Bài ca vĩnh biệt, sắc,
gọn
Tiếng còi tầu chở súc
vật rú lên
Ngôi sao thần chết đứng
sững trên nền trời Hà Nội
Và xứ Bắc Kít,
ngây thơ vô tội,
Quằn quại dưới gót giầy
máu
Dưới bánh xe chở tù.
Không phải tôi.
Ai đó đau khổ
Tôi làm sao chịu
nổi nỗi đau đó
Hãy choàng nó
bằng vải liệm đen
Và mang đèn đi
chỗ khác
Đêm rồi!
Akhamatova, có vẻ như được sửa soạn để
đóng cái vai của bà, hơn hầu hết
những nhà thơ cùng thời. Ngoài ra,
vào lúc xẩy ra Cách Mạng, bà
28 tuổi , không quá trẻ để tin hay không
tin, và cũng không quá già để biện
minh cho nó. Sau đó, là 1 người đàn
bà, trong vai “gái” [“cái” cũng được] thì
cũng khó mà thổi Cách Mạng, hay kết án
nó. Bà cũng không quyết định thay đổi trật tự
xã hội….
Đọc bài viết của Brodsky
về Akhmatova, nữ thần thơ bi ai Nga, thì Gấu ngộ
ra điều, tại sao mà GCC này chịu không
nổi, phải nói, tởm, cái giọng của đám VC
ly khai, thứ ngôn ngữ nhơ bẩn, “máu què”,
thí dụ, cũng như cái giọng gà mái
gáy của Sến, vẫn thí dụ.
Nhà thơ chỉ phán
một câu thôi: Bà nhận ra nỗi đau,
she recognized grief.
Trước đó, Brodsky giải thích:
Bà không vứt Cách
Mạng vào thùng rác. Một dáng
đứng thách đố cũng đếch hợp với bà. Bà
giản dị coi nó như là nó có, và
chấp nhận nó, như là nó xẩy ra: cơn đau
của cả nước, đau chừng nào, nỗi đau của mỗi cá nhân,
đau theo chừng đó.
The poet is a born democrat
not thanks to the precariousness of his position only
but because he caters to the entire nation and employs its
language: Nhà thơ sinh ra, và bèn dân
chủ, không phải chỉ vì cái bấp bênh
của dáng đứng, vị trí của mình, mà
còn bởi cái sự mua vui cho đời, cho cả nước,
và sử dụng cái ngôn ngữ của nó.
Cũng thế, là bi kịch.
Đâu có phải cứ
đụng tới chữ nghĩa, tới văn chương, tới thơ ca, là
vãi nước đái ra, hoặc văng tục, hoặc gáy?
Bearing
the Burden of Witness:
Requiem
Requiem was born of an event that was personally
shattering and at the same time horrifically common:
the unjust arrest and threatened death of a loved one.
It is thus a work with both a private and a public dimension,
a lyric and an epic poem. As befits a lyric poem, it is a first-person
work arising from an individual's experiences and perceptions.
Yet there is always a recognition, stated or unstated, that while
the narrator's sufferings are individual they are anything but
unique: as befits an epic poet, she speaks of the experience
of a nation.
The
Word That Causes Death’s Defeat
Cái
từ đuổi Thần Chết chạy có cờ
Kinh Cầu đẻ ra từ một sự kiện, nỗi đau cá
nhân xé ruột xé gan, và
cùng lúc, nó lại rất là
của chung của cả nước, một cách cực kỳ ghê rợn:
cái sự bắt bớ khốn kiếp của nhà nước và
cái chết đe dọa người thân thương ruột thịt. Bởi thế
mà nó có 1 kích thước vừa rất đỗi riêng
tư vừa rất ư mọi người, rất ư công chúng, một bài
thơ trữ tình và cùng lúc, sử thi. Nó
là tác phẩm của ngôi thứ nhất, thoát
ra từ kinh nghiệm, cảm nhận cá nhân. Tuy nhiên,
trong lúc chỉ là 1 cá nhân đau đớn rên
rỉ như thế, thì nó lại là độc nhất: như sử thi,
bài thơ nói lên kinh nghiệm toàn quốc
gia….
Đáp ứng, của Akhmatova,
khi Nikolai Gumuilyov, chồng bà, 35 tuổi, thi
sĩ, nhà ngữ văn, trong danh sách 61 người, bị
xử bắn không cần bản án, vì tội âm
mưu, phản cách mạng, cho thấy quyết tâm của bà,
vinh danh người chết và gìn giữ hồi ức của họ giữa
người sống, the determination to honor the dead, and to preserve
their memory among the living….
Alexander Blok
Russian
1880-1921
TO ZINAIDA GIPPIUS
Those born in backwater
years
forget their own way. Russia
gave birth to us in her years of anguish
and we can forget nothing.
Years of holocaust, do you
herald madness, or the advent of hope?
Days of war, days of freedom,
have stained our faces with bloody
light.
We are speechless. The bells'
alarms sealed our lips. Where there
was
a burning in our hearts once
there is nothing now, fixed, like a
death.
Over the bed where we are dying
let the hoarse ravens sail-
may others, more worthy, Oh God, Oh
God,
gaze on Thy kingdom!
1968, translated with Olga Carlisle
W.S. Merwin: Selected
Translations
Rilke: After the Fire
Early
autumn morning hesitated,
Shying at newness, an emptiness
behind
Scorched linden trees still
crowding in around
The moorland house, now just
one more wallstead
Where youngsters gathered up
from god knows where
Hunted and yelled and ran wild
in a pack.
Yet all of them fell silent when
he appeared,
The son of the place, and with
a long forked stick
Dragged an out-of-shape old can
or kettle
From under hot, half burnt-away
house-beams;
And then, like one with a doubtful
tale to tell,
Turned to the others present,
at great pains
To make them realize what had
stood so.
For now that it was gone, it
all seemed
Far stranger: more fantastical
than Pharaoh.
And he was changed: a foreigner
among them.
Seamus Heany: District and Circle
DELMORE SCHWARTZ
He heard God coughing
in the next apartment,
his life a hospital,
he moved from bed to bed
with us and Baudelaire,
except he always had
Finnegans Wake tucked
in his pajamas,
which must mean, sure
as chance,
the human race is God's
phlegm. Penitent,
I say a prayer in God's
throat:
"Mister, whose larynx
we congest,
spit us into the Atlantic
or Hudson ...
let us be dropped into
the mouth of the first fish
that survived by eating
its young-
drink hot tea and honey
Your mother brings You
till You are rid of Your
catarrh, well again.
Let us swim back to our
handiwork."
Far from the world of
Howth Castle, Delmore died
in a bed-bugged hotel,
unclaimed for three days.
A week before, by chance,
I saw him
at a drugstore counter,
doubled over a coffee,
he moaned, "Faithful
are the wounds of a friend,
deceitful enemy kisses."
He held my hand too tight,
too long .'
Melancholy Eros flew
to my shoulder,
spoke in Greek, Yiddish,
and English:
"Wear his sandals, his
dirty underwear,
his coat of many colors
that did not keep him warm.'"
-Stanley
Moss
NYRB Oct
13, 2016
What the Goddess Can Do
(The Odyssey, Book Ten)
Maybe it was the way she held
her head
or her voice, which was
too high, or her braids,
which reminded me of
a girl I used to know,
but I sat on a tall chair
like a god
drinking a bowl of honey
mulled with wine
and getting drowsy, counting
my good fortune,
so that she could transform
me into a pig
squealing for acorns,
grunting and bristling
in a sty, snouting the
ground with other swine.
Later, our leader convinced
her to reverse
the spell, setting our
animal bodies free...
I have been many things
in this life-
a husband, a warrior,
a seer-but I cannot forget
what the goddess can
do to me, if she desires.
Edward Hirsch: The
Living Fire
Tổ Sư
Ngụy Trang
Streets Paved
with Gold
A row of palatial madhouses,
Each with a well-tended lawn,
A sprinkler and a barbecue
pit
Smoking in the backyard,
And someone in a tree swing
After the sun has gone down,
Too old to be swinging
And to be wearing no clothes,
Blowing random notes on a toy
trumpet
At the converging darkness,
And the one little white cloud
Dilly-dallying in the evening
sky.
What I hate are short winter days,
Cold and snowless afternoons,
The dark night in a hurry to
fall
After the last school bus passes.
I dislike a woman who won't
light
But one lamp in the house,
Who keeps the heat way down
And wears three sweaters and
a shawl.
What drives me to despair are
meals
Eaten in silence with the TV
on,
The recital of the day's horrors
Followed by a grim weather
report.
It breaks my heart to go to
bed
Every night in a room without
heat
With the one who still has
strength
To pray to God for our salvation.
Sự Cứu
Chuộc Của Chúng Ta
Tớ ghét những ngày đông,
ngắn ngũn,
cụt thun lủn.
Những buổi chiều lạnh,
đếch có tuyết.
Đêm chỉ chờ,
xổng ra,
là chụp xuống,
ngay sau khi chuyến
xe buýt sau cùng,
chở học sinh,
vừa đi qua.
Tớ đếch khoái mấy mụ đàn
bà,
chẳng thèm
thắp đèn đóm trong nhà.
Ấy chết, xin lỗi,
chỉ 1 ngọn.
Rồi mặc ba bốn cái
áo ấm,
và còn
thêm chiếc khăn choàng !
Điều
làm tớ chán nhất,
là những bữa
ăn tối,
trong câm lặng,
trước màn hình.
Cái mặt vuông
khốn kiếp,
[mượn chữ của ông
tiên chỉ VP]
đang lèm bèm,
theo kiểu biên
niên,
về những điều ghê
rợn,
xẩy ra trong ngày.
Chấm dứt bằng bản
tin thời tiết,
cũng khốn kiếp!
Trái
tim tớ như vỡ ra,
khi kéo
lê thân mình
tới cái
giường.
Đêm
nào thì cũng vậy.
Trong
căn phòng không có máy
sưởi ấm.
Với cái
người vưỡn còn đủ sức lực,
để cầu
nguyện Thượng Đế,
cho sự
cứu chuộc của đôi ta!
Solitude
The only home you and I ever had.
No bigger than a matchbox-
Or else as vast as
the sky full of stars-
With you as the sole
tenant
Grateful for a flea
bite to scratch
As you sit recalling
the night
Someone knocked on
your door.
You were afraid to
open, but when you did,
There she was asking
to borrow a candle.
You told her you didn't
have one.
The two of you stood
face to face
Between two dark apartments
Unable to think of
anything else to say
Before turning your
backs on each other.
Cô
Đơn
Nhà độc nhất
em và anh từng có
Không lớn hơn
bao quẹt
Hay, rộng như cả 1
bầu trời đầy sao
Có em như là
người cư ngụ độc nhất
Rất ư là biết
ơn một con rận
Nhờ nó đợp một
phát
Và em có
việc làm là, gãi gãi.
Và em ngồi một
mình suy tư
Và nhớ đêm
Và có
tiếng gõ cửa
Em ngại mở, và
mở
Cô ta đứng đó,
hỏi mượn cây đèn cầy
Em nói tui làm
gì có
Hai người đứng đối
diện
Giữa hai căn phòng
Chẳng biết làm
sao, nói thế nào, nói cái
gì
Trước khi quay đít
vô nhau.
Charles Simic: Master
of Disguises
Thơ
Mỗi
Ngày
Bob Dylan: Nobel văn chương
2016
Bob Dylan wins Nobel prize
in literature 2016 – live
The 2016 Nobel prize in
literature will be announced today at 1pm CET (that’s
midday in the UK). Follow the build up and all the reaction
after the announcement here
Guardian Live
8m ago 12:01
And the winner is...
Bob Dylan “for having
created new poetic expressions within the great American
song tradition”.
Như vậy là Mẽo được Nobel,
nhưng đếch phải nhà văn, mà là 1 nhạc sĩ
https://www.theguardian.com/books/2016/oct/13/bob-dylan-wins-2016-nobel-prize-in-literature
Bob
Dylan was named the surprise winner of the Nobel
prize for literature in Stockholm today “for having created
new poetic expressions within the great American song tradition”.
Speaking to reporters after
the announcement, the permanent secretary of the Swedish
Academy Sara Danius said she “hoped” the Academy would not
be criticised for its choice.
“The times they are a’changing,
perhaps”, she said, comparing the songs of the American
songwriter, who had yet to be informed of his win, to the
works of Homer and Sappho.
“Of course he deserves it
– he’s got it,” she said. “He’s a great poet – a great
poet in the English speaking tradition. For 54 years he’s
been at it, reinventing himself constantly, creating a new identity.”
Danius said the choice of
Dylan may appear surprising, “but if you look far back,
5000 years, you discover Homer and Sappho. They wrote poetic
texts which were meant to be performed, and it’s the same
way for Bob Dylan. We still read Homer and Sappho, and we enjoy
it. We can and should read him.”
The winner of the Nobel prize
for literature is chosen by the 18 members of the Swedish
Academy, who are looking for “the person who shall have produced
in the field of literature the most outstanding work in an
ideal direction”, according to Alfred Nobel’s will. The award itself
admits on its website that “Alfred Nobel’s prescriptions for the
literature prize were quite vague”, adding that “in fact, the history
of the literature prize appears as a series of attempts to interpret
an imprecisely worded will”.
Major writers believed to
have been in the running for the award included the
Kenyan Ngugi wa Thiong’o, the American Don DeLillo and the
Japanese Haruki Murakami.
Danius advised those unfamiliar
with the work of Dylan to start with the 1966 album Blonde
on Blonde. “It’s an extraordinary example of his brilliant
way of rhyming, putting together refrains, and his pictorial way
of thinking,” she said. When she was young, she admitted, she was
“not really” a Dylan fan, preferring the works of David Bowie. “Perhaps
it’s a question of my generation – today I’m a fan of Bob Dylan,” she
said.
Dylan becomes the first American
to win the Nobel prize for literature since Toni Morrison
took the prize in 1993. His triumph follows comments in
2008 from Horace Engdahl, then permanent secretary of the Nobel
prize jury, that “the US is too isolated, too insular. They
don’t translate enough and don’t really participate in the big
dialogue of literature ... That ignorance is restraining.”
Today, a jury now headed
by his successor has obviously changed their mind.
Hy vọng Nobel năm nay không
bị chỉ trích.
Lẽ tất nhiên xứng đáng.
Ông ta là nhà thơ lớn, trong dòng
tiếng Anh. Có thể có tí ngạc nhiên,
nhưng nhìn lại coi, 5 ngàn năm trước, có
Homer, có Sappho.
Người Mẽo đầu tiên
được Nobel, sau Toni Morrison, 1993. Mẽo quá
cô lập, một hòn đảo, đâu phải 1 đại lục,
đếch chịu dịch dọt, đếch thèm tham dự vào
những cuộc lèm bèm lớn lao về văn học, viên
thư ký thường trực Horace Engdahl chẳng đã dè
bỉu, nhưng uỷ ban Nobel sau ông có thể đã
thay đổi cái đầu.
Thay đổi cái đầu,
có, nhưng vưỡn đếch cho nhà văn Mẽo!
The choice of Dylan follows
speculation about disagreement amongst the judging panel.
The prize was expected to be announced last week, in the same
week as the science medals, and the Academy’s Per Wästberg
said the different date was a matter of logistics. But Bjorn Wiman,
cultural pages editor at Sweden’s Dagens Nyheter, told the South
China Morning Post that “if you ask me, it’s absolutely not a ‘calendar’
issue. This is a sign there’s a disagreement in the process to
select a winner.”
Major writers believed to
have been in the running for the award included the
Kenyan Ngugi wa Thiong’o, the American Don DeLillo and the
Japanese Haruki Murakami. At Ladbrokes, where the singer
was at 16/1 from 50/1 when betting was suspended, spokesman
Alex Donohue said that “a lot of people scoffed when his
odds came in to 10/1 from 100/1 in 2011. Looks like there
was something blowin’ in the wind after all.”
Danius advised those unfamiliar
with the work of Dylan to start with the 1966 album
Blonde on Blonde. “It’s an extraordinary example of his brilliant
way of rhyming, putting together refrains, and his pictorial
way of thinking,” she said. When she was young, she admitted, she was
“not really” a Dylan fan, preferring the works of David Bowie. “Perhaps
it’s a question of generation – today I’m a lover of Bob Dylan,” she
said.
Đúng ra Nobel văn học
được công bố tuần trước, nhưng có 1 sự không
đồng thuận giữa mấy ông Hàn.
Sara Danius, nữ thư ký
thường trực cho biết, hồi còn trẻ, bà
không thích ông này, nhưng già
thì lại mê. Trong nước, tờ VHTT net phán,
cho Bob Dylan, vì là 1 Einstein của quần chúng.
Đây là 1 ví von, khi anh ca sỡi được Ô Bá Mà vinh danh,
không mắc mớ đến Nobel. Thứ nào thứ đó. Vòng
hoa Nobel là vòng hoa Nobel, “for having created
new poetic expressions within the great American song tradition”,
đã sáng tạo
ra những cách diễn tả mới trong truyền thống lớn lao của
dòng ca nhạc Mẽo.
Nhảm
http://www.dw.com/en/the-einstein-of-pop-music-bob-dylan-at-75/a-19278557
Culture
"The Einstein of pop music:"
Bob Dylan at 75
As Bob Dylan's birthday is
widely noted, music experts wonder whether there could
ever be a worthy successor to him as poet, musician and cult
figure.
Bob Dylan has two honorary doctorates and was awarded
the Pulitzer Prize in 2008 in recognition of his enormous
influence on pop culture. In 2012, US President Barack Obama
awarded him the country's highest civil distinction: the Presidential
Medal of Freedom. Now he is also a Nobel Prize laureate.
Note:
Để an ủi, FB post lại bài diễn văn Nobel của
Kertesz
Heureka!
Nó đây rồi!
Diễn văn Nobel 2002
Imre Kertész
... See More
Tôi
phải bắt đầu bằng một lời thú nhận. Một lời thú nhận lạ kỳ,
có thể, nhưng mà là chân thiệt. Từ lúc
bước lên phi cơ làm chuyến đi tới đây,
Stockholm, để nhận giải Nobel văn chương năm này,
tôi có cảm giác, một cái nhìn
đăm đăm, bình thản, bám chặt ở sau lưng. Ngay
cả vào giây phút trang trọng như lúc
này, ở nơi nhĩ mục quan chiêm, tôi cảm
thấy mình gần gụi với người chứng điềm tĩnh đó,
hơn là với người văn mà tác phẩm đột nhiên
được đọc trong cõi năm châu bốn bể. Và tôi
chỉ mong rằng, biết đâu, nhờ dịp này, qua bài
nói chuyện mà tôi có vinh dự đọc
lên, sẽ giúp tôi rũ khỏi tình trạng
nhập nhằng, và nhập được cả hai con người nói trên,
vào làm một.
Merwin
Khong Lo
Vietnamese
medieval, Ly dynasty
died 1119
The Ideal Retreat
I will choose a place where
the snakes feel safe.
All day I will
love that remote country.
At times I will
climb the peak of its lonely mountain
to stay and whistle
until the sky grows cold.
1967, translated with
Nguyen Ngoc Bich
Nơi thần
sầu để rút dù
Tớ sẽ chọn một nơi mà
rắn [độc hay không độc] cảm thấy an toàn
Cả ngày
tớ sẽ mê cái “lost domain” xa xôi
đó
Tớ sẽ leo lên
cái đỉnh núi trơ cu lơ của nó
Đếch thèm
tìm bản chúc thư [của MT], hay xác
con gấu, hay con cáo gì gì đó
[của Hemingway]
Mà để hét
lên 1 tiếng lạnh hư không!
Ngo Chi Lan
Vietnamese
15th century
AUTUMN
Sky full of autumn
earth like crystal
news arrives from
a long way off following one wild goose.
The fragrance gone
from the ten-foot lotus
by the Heavenly
Well.
Beech leaves
fall through the
night onto the cold river,
fireflies drift
by the bamboo fence.
Summer clothes
are too thin.
Suddenly the distant
flute stops
and I stand a long
time waiting.
Where is Paradise
so that I can mount
the phoenix and fly there?
1968, translated
with
Nguyen Ngoc Bich
Yosa Buson
Japanese
1716-1783
AN OLD DOG
Okinamaro
are you still keeping
watch
without sleep through
the short summer nights
Washing my
feet in a basin
I see that
the basin leaks
water running
out like the last of spring
A fish in an old
well
leaps at mosquitoes
a sound of darkness
AT A PLACE CALLED KAYA IN TANGO
REGION
This is happiness
crossing the stream
in summer
carrying my straw
sandals
The cut duckweed
along the road
goes on flowering
in the evening
rain
Ten wagonloads
of sake barrel
sway along slowly
through the summer
woods
All the way
I have come
all the way
I am going
here in this
summer field
Mountain streams
flow down
into each other
giving up their
sounds
Fragrance
of a sachet
the gesture
of a young woman
who is mute
In the flash of
lightning
I hear the dewdrops
rolling
down the bamboo
leaves
A wild boar
lies down
on the valerian
dew gathers
on the broken stems
The autumn chill
becomes part of me
in the bedroom
I step on a comb
that belonged to
my dead wife
Under the
harvest moon
a servant
is on his way
to abandon
a puppy
Memories of my
father and mother
come to me all
by themselves
late in the autumn
An autumn evening
sandpipers
too
stand looking
away
One step outside
the gate
and I too am a
traveller
on an evening
in autumn
Some pilgrim
drew eyes and nose
on a gourd
and went away
Beside the road
buckwheat flowers
flow over my hand
How I love hearing
the small birds
up in the eaves
UPON MARYUNA'S REQUEST FOR A VERSE
TO GO ON HIS PAINTING
OF A BLACK DOG
His bark comes
out of the darkness
inside him
deep in the autumn
night
It is autumn
in me
but tomorrow
will come
and I will
miss tonight
A bagworm hangs
snug and comfortable
in the first winter
rain
In silence
the winter rain
soaks the
roots
of the camphor
tree
Is it a winter
shower
or a mouse running
over the koto strings
Old quick
which shall
I cover
my head or
my feet
PUTTING ON MY STRAW HAT AND
SANDALS FOR A JOURNEY
Since Basho went
not a single year
has lived up to
its promise
1990-2010, haiku
translated with
Takako Lento
Iosip Brodsky
Russian
1940-1996
THE BLIND MUSICIANS
The
blind go their way
by night.
It's easier to cross
the squares
at night.
The blind live
feeling their way,
brushing the world with
their hands,
knowing neither shadow
nor light,
and their hands drift
over the stones
built into walls
of men, women,
children,
money,
walls that cannot be broken,
better
to follow along them.
Against them the music
hurls itself
and the stones soak it
up.
In them the music dies
under the hands.
It's hard dying at night,
hard
to die feeling your way.
The way of the blind
is
simpler, the blind
cross the empty squares.
1967, translated with
Wladimir Weidlé
Mùa
thu, những di dân
Di dân
là "số" phần, (a matter of arithmetic),
theo Kundera.
Độc và Đẹp
Thu 2014
L'adieu
Apollinaire
(1880-1918)
J'ai cueilli
ce brin de bruyère
L'automne est
morte souviens-t'en
Nous ne nous
verrons plus sur terre
Odeur du temps
brin de bruyère
Et souviens-toi
que je t'attends
Lời vĩnh biệt
(1)
Ta đã
hái nhành lá cây thạch
thảo
Em nhớ cho,
mùa thu đã chết rồi
Chúng
ta sẽ không tao phùng được nữa
Mộng trùng
lai không có ở trên đời
Hương thời gian
mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ
nhé ta đợi chờ em đó ...
(2)
Ðã
hái nhành kia một buổi nào
Ngậm ngùi
thạch thảo chết từ bao
Thu còn
sống sót đâu chăng nữa
Người sẽ xa
nhau suốt điệu chào
Anh nhớ em quên
và em cũng
Quên rồi
khoảnh khắc rộng xuân xanh
Thời gian đất
nhạt mờ năm tháng
Tuế nguyệt hoa
đà nhị hoán tam
(3)
Mùa thu
chiết liễu nhớ chăng em ?
Ðã
chết xuân xanh suốt bóng thềm
Ðất lạnh
qui hồi thôi hết dịp
Chờ nhau trong
Vĩnh Viễn Nguôi Quên
Thấp thoáng
thiều quang mỏng mảnh dường
Nhành
hoang thạch thảo ngậm mùi vương
Chờ nhau chín
kiếp tam sinh tại
Thạch thượng
khuê đầu nguyệt diểu mang
Xa nhau trùng
điệp quan san
Một lần ly biệt
nhuộm vàng cỏ cây
Mùi hương
tuế nguyệt bên ngày
Phù du
như mộng liễu dài như mơ
Nét mi
sầu tỏa hai bờ
Ai về cố quận
ai ngờ ai đi
Tôi hồi
tưởng lại thanh kỳ
Tuổi thơ giọt
nước lương thì ngủ yên
Bùi Giáng
(1925-1998) dịch
(Ði vào
cõi thơ, tr 80-82, Ca Dao xuất bản, Sàigon,
Việt Nam)
Nguồn net
GUILLAME APOLLINAIRE
(1880-1918)
The Farewell
I picked this
fragile sprig of heather
Autumn has died
long since remember
Never again
shall we see one another
Odor of time
sprig of heather
Remember I await
our time together
Translated from
the French by Roger Shattuck
[in Time
of Grief]
Thơ Mỗi Ngày
HAIKU
The endless night
is now nothing
more
than a scent.
Is it or isn't
it
the dream I forgot
before dawn?
The sword at rest
dreams of its
battles.
My dream is something
else.
The man has died.
His beard doesn't
know.
His nails keep
growing.
Under the moon
the lengthening
shadow
is all one shadow
.
•
The old hand
goes on setting
down lines
for oblivion.
-S.K.
J.J. Borges: Poems
of the Night
Haiku
Đêm vô
tận
Còn chăng,
Thì là
một mùi
Cái gì
gì, tàn hôn lên môi
Tàn quên
trong tay
Có, hay không
Giấc mộng Gấu quên
Trước rạng đông
Cái gì
gì, đêm không sao qua
Mà trời sao
lại sáng?
Cây kiếm ngơi
Mơ hoài những
trận chém giết cũ
Giấc mơ của Gấu
Là một điều
gì khác
Thẳng chả ngỏm
Râu đếch biết
Móng tay
dài mãi ra
Dưới ánh
trăng
Cái bóng
của Gấu
Dài mãi
ra
Vẫn chỉ là
bóng của Gấu!
Bàn tay già
Tiếp tục lần
Những dòng
Dành cho
quên lãng
Borges Golem
THE GIFT
In a page of Pliny we read
that in all the
world no two faces are alike.
A woman gave a blind
man
the image of her
face,
without a doubt
unique.
She chose the photo
among many;
rejected all but
one and got it right.
The act had meaning
for her
as it does for him.
She knew he could
not see her gift
and knew it was
a present.
An invisible gift
is an act of magic.
To give a blind
man an image
is to give something
so tenuous it can be infinite
something so vague
it can be the universe.
The useless hand
touches
and does not recognize
the unreachable
face.
J. L. Borges: Poems of the Night
Quà
tặng
Trong một trang của Pliny, chúng
ta đọc thấy điều này,
Trong cả 1 lũ người
như thế đó, không làm sao có
hai khuôn mặt giống nhau y chang
Một người đàn
bà cho 1 anh mù bức hình khuôn
mặt bà.
Bà chọn tấm
hình trong rất nhiều;
vứt đi tất cả, chỉ
giữ lại một, và chọn đúng tấm cần chọn.
Cái hành
động đó, thì thật có nghĩa,
đối với bà
Và luôn
cả với người đàn ông mù.
Bà biết anh
mù không thể nhìn thấy quà
tặng của bà
Và biết,
đó là 1 quà tặng
Một món quà
vô hình là 1 hành động
huyền diệu
Cho 1 người mù
một hình ảnh
Thì cũng
như cho một điều gì tinh tế, giản dị, như “cúi
xuống là đất”, như Cô Tư phán.
Chính vì
thế mà nó trở thành vô
cùng
Một điều gì
đó mơ hồ như là vũ trụ
Bàn tay vô
dụng, sờ
Và không
nhận ra
Khuôn mặt
không làm sao với tới được.
PARADISO XXXI, 108
Diodorus
Siculus narrates the story of a dismembered and
sundered god, who, as he walks in the twilight or traces
a date in his past, never senses that something infinite
has been lost.
Mankind has lost a face, an irretrievable face,
and everyone would like to be that pilgrim (dreamed of
in the empyrean, under the Rose) who sees Veronica's handkerchief
in Rome and murmurs with faith: Jesus
Christ, My Lord, True God, this, then, was Your Face?
There is a stone face on a certain road and an
inscription which reads: The true Portrait
of the Holy Face of the God of Jaén, If we really knew the likeness,
we would have the key to the parables and
would know if the son of the carpenter was also the
Son of God.
Paul saw it in the guise of a light which hurled
him to the ground; John, as the sun shining in full
force; Teresa of Jesus, oftentimes, as if bathed in a
tranquil light, but she was never able to specify the color
of the eyes.
We lost those features, in the way a magical
number may be lost, a number made up of customary figures;
in the same way as an image in a kaleidoscope is lost
forever. We may see them, and not know it. The profile of
a Jew in the subway may be that of Christ; the hands which give
us some coins at a change-window may recall those which some
soldiers once nailed to the Cross.
Perhaps some feature of the Crucified Face lurks
in every mirror; perhaps the Face died, was effaced, so
that God might become everyone.
Who knows whether we may not see it tonight in
the labyrinths of dreams and remember nothing tomorrow.
- Translated
by ANTHONY KERRIGAN
Diodorus
Siculus tells the story of a god who had been
cut into pieces and then scattered; which of us, strolling
at dusk or recollecting a day from the past, has never
felt that something of infinite importance has been lost?
Mankind has lost a face, an irretrievable face.
At one time everyone wanted to be the pilgrim who was
dreamed up in the Empyrean under the sign of the
Rose, the one who sees the Veronica in Rome and fervently
mutters: "Christ Jesus, my God, truly God: so this is
what your face was like?"
There is a stone face by a road and an inscription
that reads: ''Authentic Portrait of the Holy Face
of the Christ of Jaén," If we really knew what that
face had been like, we would possess the key to the parables
and we would know whether the son of the carpenter was also the
Son of God.
Paul saw it as a light that knocked him to the
ground. John saw it as the sun shining with all its
strength. Teresa of Avila often saw it bathed in a serene
light, but she could never quite make out the color of
the eyes.
These features have been lost to us the way a
kaleidoscope design is lost forever, or a magic number
composed of everyday figures. We can be looking at them
and still not know them. The profile of a Jewish man
in the subway may well be the same as Christ's; the hands
that make change for us at the ticket window could be identical
to the hands that soldiers one day nailed to the cross.
Some feature of the crucified face may lurk in
every mirror. Maybe the face died and faded away so
that God could be everyman.
Who knows?
We might see it tonight in the labyrinths of sleep
and remember nothing in the morning.
-K.K.
Penguin
ed
Diodorus Siculus kể câu
chuyện một vị thần bị chém, chặt, xẻ thành
từng mẩu rồi quăng tứ lung tung, ai trong số chúng
ta, lang thang trong hoàng hôn, hay, lượm lặt
một ngày từ quá khứ, chẳng hề cảm nhận rằng
thì là, một điều cực kỳ thiên thu bất diệt, cực kỳ
quan trọng,
đã mất?
Nhân loại
mất mẹ cái bộ mặt, một bộ mặt không làm
sao thu gom, nhặt nhạnh lại được, và, mọi người,
người người, ai cũng thèm là vị hành
giả kia, mơ hoài một Thiên Cung, dưới dấu hiệu
BHD, kẻ đã từng chiêm ngưỡng cái khăn tay
của Thánh Nữ, một bữa ở… Chợ Lớn, và lẩm bẩm,
với Niềm Tin: Thánh Nữ ơi, phải chăng, đây đúng
là Khuôn Mặt của Người?
Đó là
khuôn mặt của một hòn đá bên
vệ đường, và một hàng chữ, Khuôn
mặt thực của Chúa Jaén. Nếu chúng
ta thực sự hiểu ra sự tương đồng, tương ứng, chúng
ta sẽ có được cái chìa khoá của
ẩn ngữ, và chúng ta, biết, đấng con trai, là
con của ông thợ mộc, hay là Con của Chúa.
Paul chứng kiến
phép lạ, và nó quất cho anh
đánh rầm 1 phát xuống mặt đất. John nhìn
thấy nó, như là 1 cú mặt trời với
tất cả sức mạnh của nó. Teresa of Avila thường nhìn
thấy nó, tắm trong 1 thứ ánh sáng
thanh thản, nhưng bà không làm
sao nhận ra màu của mắt.
Những cảnh tượng
này, đã mất đối với chúng ta,
theo cái cách mà kính vạn
hoa vĩnh viễn mất, hay con số thần kỳ gồm những hình tượng mọi
ngày. Chúng ta có thể nhìn, nhưng
đâu thấy, chúng. Cái bóng dáng
của 1 tên Mít đang lang thang 1 ngày đẹp
trời ở 1 thành phố Canada, hay đang chờ xe điện ngầm ở
1 subway station ở Toronto, thí dụ, biết đâu đấy, thì
cũng là bóng của Christ, và cái bàn
tay đang đưa cái vé xe điện ngầm ở quầy, biết đâu
đấy, là 1 trong những bàn tay của 1 tên VC đóng đinh Chúa.
Một cảnh sắc nào
đó, của khuôn mặt bị đóng
đinh thập giá, có thể lấp ló trong
mọi tấm gương.
Có thể
bộ mặt chết, và nhạt nhòa trong mưa,
theo dòng thời gian và nếu thế, Chúa
có thể là bất cứ một người, mọi người.
Who knows?
GCC có
thể thấy nó, đêm nay, trong những mê
cung của giấc ngủ, và sáng mai, mải
nhớ BHD, bèn
quên mẹ nó
mất!
Legend
Cain and Abel
came upon each other after Abel's death. They were
through the desert, and they recognized each other from
afar, since men were very tall. The two brothers sat on
the ground, made a fire, and ate. They sat silently, as weary
people do when dusk begins to fall. In the sky, a star glimmered,
though it had not yet been given a name. In the light of fire,
Cain saw that Abel's forehead bore the mark of the stone, and
dropped the bread he was about to carry to his mouth and asked
his brother to forgive him. "Was it you that killed me, or did
I kill you?" Abel answered. "I don't remember anymore; here we are,
together, like before."
"Now I know
that you have truly forgiven me;' Cain said, "because
forgetting is forgiving. I, too, will try to forget."
"Yes;' said
Abel slowly. “So long as remorse lasts, guilt lasts."
Penguin ed
Note: Tình cờ lướt net,
thấy đã được dịch:
http://www.tienve.org/home/activities/viewTopics.do?action=viewArtwork&artworkId=1035
Iosip Brodsky
Russian
1940-1996
THE
BLIND MUSICIANS
The
blind go their way
by night.
It's easier to cross
the squares
at night.
The blind live
feeling their way,
brushing the world with their
hands,
knowing neither shadow nor
light,
and their hands drift over
the stones
built into walls
of men, women,
children,
money,
walls that cannot be broken,
better
to follow along them.
Against them the music
hurls itself
and the stones soak it up.
In them the music dies
under the hands.
It's hard dying at night, hard
to die feeling your way.
The way of the blind is
simpler, the blind
cross the empty squares.
1967, translated with
Wladimir Weidlé
Cuốn sách về Brodsky này,
như lời Bạt cho thấy, có cùng tuổi [hải ngoại] của Gấu, 1997,
hay đúng hơn, kém Gấu ba tuổi.
Gấu làm quen
Brodsky thời gian này, nhân đọc Coetzee
viết về những tiểu luận của ông, trên tờ NYRB;
bài tưởng niệm khi ông mất, của Tolstaya...
Trong cuốn này,
có nhắc tới bài viết, Gấu chôm,
xen với những kỷ niệm về Joseph Huỳnh Văn, trong bài
“Ai cho phép mi là thi sĩ”
Post ở đây,
rảnh rang lèm bèm sau.
Thú nhất câu:
"Hãy nhớ Gấu, và quên số mệnh
cà chớn của Gấu"!
"Remember me, but
ah! Forget my fate!"
Nghĩa địa Do Thái
ở Leningrad
Nghĩa địa" như bài thơ
được gọi, trong bài viết, thì chẳng
hay ho gì, không chỉ ở cái giọng
kể lể, mà còn cả ở cái chất thơ xuôi
của nó. Khổ đầu thì còn có vần
điệu, nhưng sau biến thành thơ tự do.
Ngoài nó ra, không còn bài
nào như thế, trong số tác phẩm của Joseph... nhưng
khi được 1 tay xb hỏi, có cho nó vô 1 tuyển
tập Những tiếng nói ở bên
trong [chiếc thuyền] Noé: Những nhà thơ Do Thái
Hiện Đại, do anh ta xb, hay là không [Anthony
Rudolf, co-editor of the international anthology
Voices Within the Ark: The Modern Jewish Poets
(1980) tells me that when asked if he would be willing to be included
in the book], Brodsky nghiêm giọng phán, ta "muốn"
có nó, trong đó!
Hay, thí
dụ, trong lần trả lời báo chí Tháng
Chạp, 1987, ở Stockholm, khi tới đó lấy cái
Nobel, “Tớ thấy tớ như 1 tên… Ngụy,
dù chưa từng biết truyền thống Ngụy nó
ra làm sao”, và nói thêm,
“Về ngôn ngữ của riêng tớ, thì đúng
là của 1 tên… Mít”!
Là 1 tên
Ngụy, thì giống như 1 tên lưu vong,
có tí lợi; nó đẩy tên đó
ra bên lề, thay vì ở trung tâm xã
hội. Lũ Ngụy có thói quen choàng cho
chúng 1 màu của chung lũ chúng, ở loanh
quanh chúng. Lịch sử Ngụy ban cho từng cá nhân
Ngụy 1 thứ văn hóa, và đây là nguồn
sức mạnh của chúng, nhưng vưỡn không làm
sao giấu được nhược điểm, là ở bất cứ đâu, bất
cứ lúc nào, nó cảm thấy chẳng ra cái
chó gì cả, hắn đếch thuộc về ai, về đâu, đại
khái thế!
The Word That Causes Death’s Defeat
Cái từ đuổi Thần Chết chạy
có cờ
Kinh Cầu đẻ ra từ một sự kiện, nỗi đau
cá nhân xé ruột xé
gan, và cùng lúc, nó
lại rất là của chung của cả nước, một cách
cực kỳ ghê rợn: cái sự bắt bớ khốn kiếp của nhà
nước và cái chết đe dọa người thân thương
ruột thịt. Bởi thế mà nó có 1 kích
thước vừa rất đỗi riêng tư vừa rất ư mọi người, rất ư
công chúng, một bài thơ trữ tình và
cùng lúc, sử thi. Nó là tác
phẩm của ngôi thứ nhất, thoát ra từ kinh nghiệm, cảm
nhận cá nhân. Tuy nhiên, trong lúc
chỉ là 1 cá nhân đau đớn rên rỉ như
thế, thì nó lại là độc nhất: như sử thi,
bài thơ nói lên kinh nghiệm toàn
quốc gia….
Đáp ứng, của Akhmatova,
khi Nikolai Gumuilyov, chồng bà, 35 tuổi,
thi sĩ, nhà ngữ văn, trong danh sách 61
người, bị xử bắn không cần bản án, vì
tội âm mưu, phản cách mạng, cho thấy quyết tâm
của bà, vinh danh người chết và gìn
giữ hồi ức của họ giữa người sống, the determination to honor
the dead, and to preserve their memory among the living….
Trong 1 bài
viết trên talawas, đại thi sĩ Kinh Bắc biện hộ
cho cái sự ông ngồi nắn nón viết tự kiểm
theo lệnh Tố Hữu, để được tha về nhà tiếp tục làm
thơ, và tìm lá diêu bông,
rằng, cái âm điệu thơ Kinh [quá] Bắc [Kít]
của ông, buồn rầu, bi thương, đủ chửi bố Cách
Mạng của VC rồi.
Theo sự hiểu biết cá
nhân của Gấu, thì chỉ hai nhà thơ, sống thật đời của
mình, không 1 vết nhơ, không khi nào phải “edit”
cái phẩm hạnh của mình, là Brodsky và ông
anh nhà thơ của GCC.
Chẳng thế mà
Milosz rất thèm 1 cuộc đời như của Brodsky,
hay nói như 1 người dân bình thường
Nga, tớ rất thèm có 1 cuộc đời riêng
tư như của Brodsky, như trong bài viết của Tolstaya
cho thấy.
Bảnh như Osip Mandelstam mà
cũng phải sống cuộc đời kép, trong thế
giới khốn nạn đó. Để sống sót,
Mandelstam cũng đã
từng phải làm thơ thổi Xì, như bà vợ ông
kể lại, và khi những người quen xúi bà,
đừng bao giờ nhắc tới nó, bà đã không
làm như vậy:
Nadezhda Mandelstam recalled
how her husband Osip Mandelstam had done what
was necessary to survive:
To be sure, M. also, at the
very last moment, did what was required of him and wrote a hymn of praise
to Stalin, but the "Ode" did not achieve its purpose of saving his life.
It is possible, though, that without it I should not have survived either.
. . . By surviving I was able to save his poetry.... When we left Voronezh,
M. asked Natasha to destroy the "Ode." Many people now advise me not to speak
of it at all, as thou it had never existed. But I cannot agree to this, because
the truth would then be incomplete: leading a double life was an absolute
fact of our age and nobody was exempt. The only difference was that while
others wrote their odes in their apartments and country villas and were rewarded
for them, M wrote his with a rope around his neck. Akhmatova did the same,
as they drew-the noose tighter around the neck of her son. Who can blame
either her or M.
Roberta Reeder:
Akhmatova, nhà thơ, nhà tiên
tri
Trong khi lũ nhà văn
nhà thơ Liên Xô làm thơ ca ngợi Xì và
được bổng lộc, thì M làm thơ ca ngợi Xì với cái
thòng lọng ở cổ, và bài thơ “Ode” đó cũng chẳng
cứu được mạng của ông. Người ta xúi tôi, đừng nhắc tới
nó, nhưng tôi nghĩ không được, vì như thế sự thực
không đầy đủ: sống cuộc đời kép là sự thực tuyệt đối
của thời chúng ta.
Tuyệt.
Chỉ có hai nhà
thơ sống sự thực tuyệt đối của thời chúng
ta, bằng cuộc đời “đơn” của họ, là Brodsky và
TTT!
Etkind relates how this trial
pitted two traditional foes against each other,
the bureaucracy and the intelligentsia. Brodsky represented
Russian poetry.
http://tanvien.net/new_daily_poetry/Haiku_Buson.html
mi no aki ya
koyoi o shinobu
asu mo ari
Autumn weighs upon me
but tomorrow will come
and I will miss tonight
Thu đè lên Gấu
Nhưng ngày mai sẽ tới
Và Gấu sẽ nhớ đêm
nay
Since Basho went
not a single year
has lived up to its promise
Kể từ Basho đi xa,
Không có năm
nào vươn tới chỉ,
Như nó hứa hẹn với
ông!
A woman is gathering
the ashes of someone she loves
a violet flowering close to
her
Một người đàn bà
thu gom tro than của một người thân thương của
bà
Một bông hoa nở tím,
ngay kế bên bà.
Collected Haiku of Yosa Buson
Translated
by W.S. Merwin & Takako Lento
Note: Bài thơ haiku,
trên, làm GCC nhớ tới bài thơ của Thích Nhất Hạnh,
rất nổi tiếng, trong thời chiến tranh Mít, và hình như
đã từng được PD phổ nhạc, dưới đây.
Lạ, là khi đặt hai
bài thơ song song, thì 1 hình ảnh
mới, bật ra, với GCC, và nó lại làm
GCC nhớ đến cái lần, thằng em trai, vô nhà
bảo sanh thăm thằng con trai lớn của Gấu, mới sinh, rồi đi
luôn:
Liệu cái bông
hoa màu tím, mớ tro than thu gom, là
một?
Peace
They woke me this morning
To tell me my brother had
been killed in battle.
Yet in the garden, uncurling
moist petals,
A new rose blooms on the bush.
And I am alive, can still
breathe the fragrance of roses and
dung.
Eat, pray, and sleep.
But when can I break my long
silence?
When can I speak the unuttered
words that are choking me?
-Nhat Hanh
Hòa
Bường
Người ta đánh thức tôi
Để báo tin thằng em
tôi tử trận
Ngoài vườn, một bông
hoa mới nở....
At Suma Temple
The waves too draw closer
to the notes of a flute
at Suma in the autumn
Sóng
Cũng mon men tới gần
Tiếng sáo thu
Ở Suma
Suma Temple houses as its treasure the
famed flute played by Atsumori, the youthful nobleman-warrior
who was killed in a battle on
the shore of Suma.
Both Basho and Buson visited
this temple.
Is
there a woman here somewhere
who would steal the elixir of
life
in the hazy spring moonlight
In Chinese legend, a man was
given the elixir of life. His wife stole and drank it.
This turned her into a supernatural
being, and she flew away and became the spirit of the moon.
Borges Golem
Six
Poets Hardy to Larkin
The Moon
THE LIMIT
The silent friendship of the
moon
(I misquote Virgil) has kept
you company
since that one night or evening
now lost in time, when your
restless
eyes first made her out for
always
in a patio or a garden since
gone todust,
For always? I know that someday
someone
will find a way of telling
you this truth:
"You'll never see the moon
aglow again.
You've now attained the limit
set for you
by destiny. No use opening
every window
throughout the world. Too
late. You'll never find her."
Our life is spent discovering
and forgetting,
that gentle habit of the
night.
Take a good look. It could
be the last.
-A.S.T.
J.L. Borges
[Penguin ed]
Giới hạn
Tình bạn lặng lẽ của
trăng
[Tớ trích lộn Virgil]
là bạn đồng hành của bạn
Kể từ chiều hay đêm
đó đó
Bi giờ mất mẹ nó rồi
theo thời gian
Khi mắt bạn lần đầu mải miết
theo dõi nàng
Nơi sân, hoặc vườn
Nếu còn chăng, chỉ
là bụi mà thôi
Mải miết?
Tớ biết, một ngày nào
đó, một người nào đó
Sẽ tìm ra cách
để nói cho bạn biết sự thực này:
Bạn sẽ chẳng bao giờ được
nhìn thấy trăng sáng ngời nữa.
Bạn đã tới giới hạn
của bạn rồi
Số mệnh phán như thế
nào thì phải chịu thế nấy
Vô ích, cái
chuyện bạn lăm le mở cửa sổ
Mọi cửa sổ mở ra thế giới.
No way. No use!
Trễ quá rồi, bạn ơi!
Bạn sẽ chẳng bao giờ tìm
được nàng
[Đời của mi đâu rồi,
sao bữa nay không đón mi?]
Đời của chúng ta được
xài vào cái việc khám phá
và quên lãng
Cái thói quen
dịu dàng của đêm
Hãy nhìn 1 phát
Có thể phát
cuối cùng
SUJI KWOCK KIM
Return
of the Native
for Kang,
born in Sonchon, North
Korea
Better not to
have been born
than to survive everyone
you loved.
There's no one
left of those who lived here once,
no one to accuse you,
no one to forgive you-
only beggar boys
or black-market wives
haggling over croakers
and cuttlefish,
hawking scrap-iron and
copper-pipes stripped from factories
in the shadow of the
statue of the Great Leader.
Only streets
emptied of the villagers you knew,
only the sound of steps
of those no longer living,
ghosts grown
old, grim shadows of what they had once been:
some in handcuffs, some
in hoods taken away at midnight,
some roped and
dragged into Soviet Tsir trucks
driven to the labor camps
that "don't exist."
Every absence
has a name, a face, a fate:
but who, besides you,
remembers they were ever alive?
You don't know
why you were spared,
why you breathe walk
drink eat laugh weep-
never speaking
of those who had been killed,
as if they had never
existed, as if the act of surviving them
had murdered them.
Forget, forget!
But they want to be remembered.
Better people than you
were shot:
do you think your life
is enough for them?
For the silence
is never silent: it says
We hate you
because you survived.
No. We hate you
because you escaped.
from Ploughshares
Sự trở về của 1 tên Mít
Thà đừng
sinh ra
Còn hơn sống dai
hơn mọi người bạn yêu thương
Chẳng còn
ai, những người đã từng có thời sống
ở đây
Không ai buộc tội,
không ai tha thứ bạn
Chỉ đám
trẻ hành khất, những bà vợ chợ đen
Tranh giành, mặc
cả những con cá, con mực
Ống đồng, sắt
vụn lởm chởm từ những xưởng thợ, nhà máy
Trong bóng dâm
của pho tượng Bác Hồ Vĩ Đại
Những đường phố vắng
bặt những dân làng bạn biết
Chỉ là tiếng chân
của những người không còn sống
Những hồn ma
trở nên già, những cái bóng dữ dằn của những gì
một thời họ đã từng
Một số còn mang
cùm, một số khác đầu bị chùm, bị dẫn đi đâu mất vào
lúc nửa đêm
Soviet Stir
Một số bị trói,
kéo, đẩy lên những chiếc xe tải Soviet
Tsir
Tới những trại lao động
cải tạo “không hiện hữu"
Mọi vắng mặt
thì đều có 1 cái tên, một bộ mặt, một số phận:
Nhưng ai, ngoài
bạn ra, còn nhớ họ đã từng có
thời, còn sống?
Bạn không
biết làm sao mà bạn lại được chừa
ra
Tại sao bạn hít
thở, đi lại, tản bộ, ăn uống, cười cợt, khóc
lóc –
Chẳng bao giờ
nói tới những người đã bị giết
Như thể họ chưa hề hiện
hữu,
Như thể cái
hành động sống sót họ,
Đã sát
hại họ
Quên,
quên!
Nhưng họ muốn, nhớ, tưởng
nhớ, đừng quên họ
Những con người
tốt hơn là bạn bị bắn:
Bạn có nghĩ là
đời của bạn là đủ cho họ?
Bởi là
vì im lặng không bao giờ là
im lặng:
Nó nói,
Chúng tớ ghét bạn
Bởi là vì
bạn sống sót.
Không,
không phải vậy.
Chúng
tớ ghét bạn
Bởi vì bạn bỏ
chạy
Không chỉ
bỏ chạy
Mà còn
bợ đít VC!
A YELLOW ROSE
The illustrious
Giambattista Marino, whom the unanimous mouths of
Fame-to use an image dear to him-proclaimed the new Homer
and the new Dante, did not die that afternoon or the next.
And yet, the immutable and tacit event that happened then was
in effect the last event of his life.
Laden with years
and glory, the man lay dying in a vast Spanish bed
with carved bedposts. It takes no effort to imagine a
lordly balcony, facing west, a few steps away, and, further
down, the sight of marble and laurels and a garden whose stone
steps are duplicated in a rectangle of water. A woman has placed
a yellow rose in a vase. The man murmurs the inevitable verses
which-to tell the truth-have begun to weary him a little:
Blood of the garden,
pomp of the walk,
gem of spring,
April's eye ...
Then came the revelation. Marino saw the rose as Adam
might have seen it in Paradise. And he sensed that it
existed in its eternity and not in his words, and that we
may make mention or allusion of a thing but never express
it at all; and that the tall proud tomes that cast a golden
penumbra in an angle of the drawing room were not-as he had dreamed
in his vanity-a mirror of the world, but simply one more thing
added to the universe.
This illumination came to Marino on the eve of his
death, and, perhaps, it had come to Homer and Dante too.
-Translated
by ANTHONY KERRIGAN
A YELLOW ROSE
It
happened neither on that afternoon nor on the next,
but when the renowned Giambattista Marino died-the
man whom the many mouths of Fame (to use an image that
was dear- to him) proclaimed the new Homer and the new Dante-the
silent inner event that had occurred was, essentially,
the last of his life. Burdened with years and glory, the man lay
dying in a broad Spanish bed with tall carved corner posts.
It is easy to picture a quiet balcony a few steps away, looking
toward the sunset, and farther below marble statuary and laurel
trees and a garden whose terraces are reflected in a rectangle
of water. A woman has placed a yellow rose in a vase; the man murmurs
the inevitable verses of which he himself, to speak truthfully,
is rather weary:
Deep purple oi the garden, pride
oi the lawn,
Springtime's
jewel, fair April's eye ..
Then the revelation came to him. Marino saw the
rose as Adam first saw it in Paradise, and he felt
that it lived in an eternity of its own and not in his
words, and that we may men- tion or allude to a thing but not
express it, and that the tall proud volumes casting a golden
haze there in a corner of the room were not (as his vanity
dreamed) a mirror of the world but only one thing more added
to the world.
This illumination came to Marino on the eve of
his death, as perhaps before him it had come to Homer and
to Dante as well.
Norman
Thomas Di Giovanni ed
BHD
GCC – người nổi tiếng được
rất nhiều cái miệng Danh Vọng thổi, đây
là Tân Homer, Tân Dante – không
chết chiều hôm đó, hay chiều hôm kế đó.
Tuy nhiên,
sự kiện không làm sao thay đổi, một thỏa
thuận ngầm, đã xẩy ra, và thực sự là
sự kiện cuối cùng trong đời của ông ta.
Nặng chĩu năm
tháng và hào quang, người đàn
ông nằm chết trong cái giường Tây
Bán Nhà, rộng, với những cái cột
giường cao khảm, khắc, trạm.
Đâu có
khăn gì, khi, tưởng tượng ra 1 cái
bao lơn vương giả, nhìn về phiá Tây,
và vài bước quá chút,
là cẩm thạch, vòng nguyệt quế và
1 cảnh vườn, và hồ nước long lanh.
Một vì
phụ nữ đặt bông hồng vàng vào
1 cái bình.
Người đàn
ông lẩm bẩm đọc những câu thơ, không
thể tránh được, chúng làm ông
có chút sao xuyến:
Tím
sẫm vườn, hãnh diện lối đi
Ngọc mùa
xuân, mắt Tháng Tư…
Rồi thì
là mặc khải.
GCC nhìn
thấy bông hồng đúng như Adam nhìn
thấy nó ở Thiên Đàng.
Thằng khốn cảm
thấy BHD hiện hữu trong cái thiên thu
bất diệt, không phải trong những vần thơ, chữ nghĩa
nhảm nhí của hắn, và, thường nhân
mắt trắng dã, là chúng ta chỉ có thể me mé, xa
xa nói tới... phép lạ, nhưng chẳng
thể nào diễn tả được cái chó gì
hết…
Mặc khải tới với
Gấu Nhà Văn, đúng vào buổi Eve
của cái chết của hắn, y chang đã từng tới
với Homer, với Dante!
ON A ROSE
To Tadeusz Chrzanowski
1
Sweetness
bears a flower's name-
Spherical
gardens tremble
suspended over the earth
a sigh turns its head away
I wind's face
at the fence
grass is spread
out below
the season
of anticipation
the coming
will snuff out
odors it will
open colors
the trees
build a cupola
of green tranquility
the rose is
calling you
a blown butterfly
pines
after you
threads burst
instant follows
instant
O rosebud
green larva
unfold
Sweetness
bears the name: rose
an explosion-
purple's standardbearers
emerge from
the interior
and the countless
ranks
trumpeters
of fragrance
on a long
butterfly-horns
proclaim the
fulfillment
2
The intricate
coronations
cloister gardens
orisons
gold-packed
ceremonies
and flaming
candlesticks
triple towers
of silence
light rays
broken on high
the depths-
O source of
heaven on earth
O constellations
of petals
….
do not ask
what a rose is A bird may render it to you
fragrance
kills thought a light brushing erases a face
O color of
desire
O color of
weeping lids
heavy round
sweetness
redness torn
to the heart
3
a rose bows
its head
as if it had
shoulders
leans against
the wind
the wind goes
off alone
it cannot
speak the word
it cannot
speak the word
the more the
rose dies
the harder
to say: rose
Zbigniew Herbert:
The Collected Poems 1956-1998
Note:
Tập thơ này Cô Xì làm
từ thiện không còn, có mấy từ hình
như sai, đành thua.
V/v “rose”.
Herbert có 1
câu hay được trích dẫn, không thì
giờ khóc bông hồng khi cả khu rừng rực cháy:
No time to grieve for roses when the forests are burning.
Bài thơ sau đây,
Tin Văn đã từng giới thiệu, cũng có
sạn, K đã nhặt ra:
Once in a garden there grew
a rose. A wind fell in love with her. They
were completely different, he - light and fair; she - immobile
and heavy as blood.
There came a
man in wooden clogs and with his thick hands he plucked the rose.
The wind leapt after him, but the man slammed the door
in his face.
- O that I might
turn to stone - wept the unlucky one - I was able to
go round the whole world, I was able to stay away for years
at a time, but I knew she was always there waiting.
The wind understood
that, in order to really suffer, one has to be faithful.
Borges Golem
Six
Poets Hardy to Larkin
The Moon
Anna
nửa thế kỷ
Prayer
Give
me illness for years on end,
Shortness
of breath, insomnia, fever.
Take
away my child and friend,
The
gift of song, my last believer.
I pray
according to Your rite,
After
many wearisome days,-
That
the storm cloud over Russia might
Turn
white and bask in a glory of rays.
1915
Anna
Akhmatova
Prayer
Grant me years
of sickness and fever;
make me sleepless
for months at a time.
Take away my
child and my lover
and the mysterious
gift of rhyme.
As the air
grows ever more sultry,
this is the
prayer I recite:
and may the
storm cloud over my country
be shot through
with rays of light.
(11 May 1915,
Day of the Holy Spirit, St Petersburg)
Robert Chandler
The Penguin
Book of Russian Poetry
Cầu nguyện
Hãy
cho ta bịnh tật dài dài cho tới chết
Hơi
thở đứt đoạn, cụt lủn, mất ngủ, nóng sốt
Lấy
đi con của ta, bạn của ta
Tài
ca hát, tín đồ cuối cùng của
ta.
Ta cầu
nguyện, theo như luật của Ngài
Sau
nhiều ngày ngán ngẩm, mệt mỏi
Một
trận mây bão phủ lên nền trời Nga
Xô
Trở
thành trắng và sưởi ấm
Trong
cái huy hoàng của những sợi nắng
Voronezh
for Osip Mandelstam
All the town's
gripped in an icy fist.
Trees and walls
and snow are set in glass.
I pick my timid
way across the crystal.
Unsteadily
the painted sledges pass.
Flocks of crows
above St Peter's, wheeling.
The dome amongst
the poplars, green and pale in
subdued and
dusty winter sunlight, and
echoes of ancient
battles that come stealing
out across
the proud, victorious land.
All of a sudden,
overhead, the poplars
rattle, like
glasses ringing in a toast,
as if a thousand
guests were raising tumblers
to celebrate
the marriage of their host.
But in the
exiled poet's hideaway
the muse and
terror fight their endless fight
throughout
the night.
So dark a night
will never see the day.
(1936)
Peter Oram
(To Osip Mandelstam)
The city is
caught in the grip of ice-
Trees, walls,
snow, are as under glass.
Over crystals,
I and the patterned sleighs
Go our separate,
unsteady ways.
And above St.
Peter's steeple--crows,
And poplars-a
light-green vault that glows-
Blurred, lackluster,
in the sunny dust.
The triumphant
landscape blows into thought
This is where
Kulikovo was fought.
And the poplars
like wineglasses raised in a toast
Suddenly ring
out more clearly above us.
As though at
a wedding the assembled host
Were drinking
our union to show how they love us.
But Fear and
the Muse in turn guard the place
Where the banished
poet has gone.
And the night
that comes with quickened pace
Is ignorant
of dawn.
1936
[Lyn Coffin]
Osip Mandelstam:
1891-1939, noted Russian poet, arrested twice, died
in prison.
Kulikovo: great
battle against the Tartars, 1378.
Anna Akhmatova
Voronezh: After Mandelstam attempted suicide,
his sentence was commuted to banishment from Russia's
largest cities. Mandelstam and his wife settled in
Voronezh.
OSIP MANDELSTAM
I
AND LOZINSKY'S2
DEATH SOMEHOW broke the thread of my reminiscences.
I no longer dare to recall things that he cannot corroborate
(about the Poets' Guild, Acmeism, the journal
The Hyperborean, and so forth). In recent years
we rarely saw each other because of his illness and I didn't get
a chance to have a real talk with him about some important
matters or to read him my poems from the 1930s (Requiem).
Probably that accounts for the fact that he continued to think
of me to some degree as the same poet he had known long ago
in Tsarskoe Selo. This became clear when we were both reading
the proofs of my collection From Six Books in
1940.
* * *
Something similar
happened with Mandelstam, who of course knew all
my poems, but in a different way. He did not know how
to reminiscence rather it was a different sort of process
for him that I don't have a name for now, but something doubtless
akin to creativity. (For example, Petersburg in
The Noise of Time seen through the bright eyes of a five-year-old
boy.)
Mandelstam was one of the most brilliant conversationalists.
He didn't just listen to himself and answer himself,
which is what almost everyone does nowadays. In conversation
he was polite, quick to react, and always original. I
never heard him repeat himself or "play the same old record."
He learned foreign languages with unusual ease. He could recite
pages of The Divine Comedy in Italian."
Shortly before his death he asked Nadya" to teach him English,
which he didn't know at all. The way he spoke about poetry
was stunning: he was passionate and sometimes monstrously unfair,
about Blok, for instance." He said of Pasternak: "I think about
him so much that it makes me tired" and "I'm sure he hasn't
read a single line of mine."? And about Marina: "I am anti-Tsvetaeva".
Osip was at home with music and this is a very rare
trait. What he feared most was becoming mute, he called
it asphyxia," He was horror-struck when it seized him
and he would think up absurd reasons to explain the disaster."
A second and frequent disappointment was his readers.
He always thought that the wrong kind of reader liked his
poetry. He knew and remembered other people's poetry well, would
often become fascinated by a single line, and easily memorized
what was read to him.
The white garment
of Brother Snow
Falls onto
the mud, still hot from the horses' hooves.
I remember this only as he read it. Whose
is it?"
He liked to talk about his so-called "dumbness."
Sometimes he would tell silly stories to amuse me. For
example, when he was still a young boy he had supposedly
translated the Mallarme line "La jeune mère
allaitait son enfant" as: "And the young mother was
feeding from dream.'. We used to make each other laugh so hard
that we would fall off the couch with the singing springs at
Tuchkov Lane," and we giggled until we almost fainted, like the
confectionary girls in Joyce's Ulysses.
I met Osip Mandelstam at Vyacheslav Ivanov's Tower
in the spring of 1911. He was a wiry boy then, with a lily
of the valley in his lapel, his head thrown way back, with
fiery eyes and lashes that reached almost halfway down his cheeks.
The second time I saw him was at the Tolstoys" on Old Nevsky.
He didn't recognize me, and Alexei Nikolayevich [Tolstoy] began
to ask him what Gumilyov's wife looked like. Mandelstam gestured
with his hands to show what a big hat I wore. I got frightened that
something irreparable would happen and introduced myself.
That was my first Mandelstam, the author of the
green Stone (published by Acme)
with the inscription: "To Anna Akhmatova-flashes of
consciousness in the forgetfulness of days. Respectfully,
the Author."
Note: V/v Bài
Ode mà Mandelstam
phải làm để vinh danh Xì, hy vọng thoát
chết, và sau đó, bà vợ góa
của ông được khuyên bỏ đi, đừng đưa vô
cuốn Hồi Ký Hy Vọng Chống Lại Hy Vọng, nhưng bà
lắc đầu, trong cuốn
The Penguin Book of Russian Poetry, đưa ra 1 cái nhìn
khác, thuyết phục hơn, và thú vị hơn:
Six months
later Mandelstam was arrested. Instead of being shot,
he was exiled to the northern Urals; the probable reason
for this relative leniency is that Stalin, concerned about
his own place in the history of Russian literature, took
a personal inter- est in Mandelstam's case. After Mandelstam
attempted suicide, his sentence was commuted to banishment
from Russia's largest cities. Mandelstam and his wife
settled in Voronezh. There, sensing he did not have long
to live, Mandelstam wrote the poems that make up the three
Voronezh Notebooks. Dense with wordplay yet
intensely lyrical, these are hard to translate. A leit- motif of
the second notebook is the syllable 'os'. This means either 'axis'
or 'of wasps' - and it is the first syllable of both Mandelstam's
and Stalin's first names ('Osip' and 'Iosif' are, to a Russian
ear, just different spellings of a single name). In
the hope of saving his own life, Mandelstam was then composing
an Ode to Stalin;" he evidently imagined an axis connecting
himself - the great poet - and Stalin - the great leader.
Tố Hữu, khi
làm thơ khóc Xì, theo GCC, là
cũng ý đó. Ông nghĩ, ông
xứng đáng đứng kế bên Xì, như 1 nhà
thơ vĩ đại & nhà độc tài vĩ đại. Tố Hữu
đầy đọa đám Nhân Văn, là cũng theo
nghĩa này, đám Nhân Văn thực sự đâu sợ Đảng mà là
sợ Tố Hữu! Hoàng Cầm nắn nót viết Tự Kiểm, như ông
kể lại [bài viết của ông
trên talawas] là theo lệnh Tố Hữu,
khi được tin, ông được quốc tế can thiệp, và Tố Hữu phán,
nếu thế, cho nó tù thêm vài tháng
nữa!
Lạ, hiếm, phong trần, tã:
Vớ được tại tiệm sách cũ.
PROSE PIECES FROM EL HACEDOR
One of the celebrated
aspects of Borges' style has been his frequent blurring
or abolishment of the boundaries between the short story
and essay forms. "The Approach to al-Mu'tasim" is read as
a review in one of his books and as a story in another, and
among the miniature essays of The Book
of Imaginary Beings are a number of wholly made-up pieces.
Similarly, Borges draws no great distinction between his poems
and a number of his short prose pieces, often disclaiming any essential
difference between poetry and prose at all and saying he writes
the one or the other merely to suit private needs or moods. "The
Dagger," printed in this volume as a poem, appears with only minor
typographical modifications as Chapter IX in his book on Evaristo
Carriego. Twice- in
El hacedor (The Maker) and in Elogio de La
sombra (In Praise of Darkness)-Borges has collected poems and
short prose works together. In this light, five pieces from
El hacedor have been chosen for inclusion here. These poems
in prose were all written in the late 1950's. The original texts are
printed following the English versions.
Một trong
những nét thần sầu của văn phong của Borges,
là ông thường làm mờ, hoặc xóa
bỏ biên cương giữa truyện ngắn và những hình
thức tiểu luận. "The Approach to al-Mu'tasim" được đọc như là 1 bài
điểm sách, trong một trong những cuốn sách
của ông, và như 1 câu chuyện, trong 1 cuốn
khác, và những tiểu phẩm, trong Những sinh
vật tưởng tượng, là một số những mẩu được xây
dựng một cách trọn vẹn, toàn thể, wholly made-up
pieces.
Borges cũng ít
chú ý đến sự phân biệt, giữa
thơ và tản văn, và thường thoái thác,
khi được yêu cầu chỉ rõ sự khác
biệt có tính yếu tính, essential
difference, giữa thơ và văn xuôi, và
phán cho xong chuyện, tớ viết cái này,
thơ, hay cái kia, tản văn xuôi là để thoả
mãn, to suit, tính khí hoặc nhu cầu riêng
tư, thèm ăn phở thì lên xóm, thèm cơm thì về nhà, đại khái thế.
Tin Văn giới thiệu
song song, những mẩu mi nhon, của Borges, và
của Walser, để trình cho quí độc giả, sự
khác biệt giữa sáng tác, bất cứ
thứ gì, của tụi mũi lõ, so với của Mít mũi tẹt.
Đã ăn cắp,
còn khoe nhặng cả lên, không biết
xấu hổ!
Có được cái
bằng triết Mít, tưởng ghê gớm lắm,
cả đời vẫn trên răng dưới dế!
Thực sự Gấu hết còn
mong, có cái gọi là sáng
tác, ở lũ Mít chúng ta, ở trong lẫn
ngoài nước!
Hà, hà!
Hà, hà!
THE MAKER
Until then, he had
never dwelled on the pleasures of memory. Impressions
had always washed over him, fleeting and vivid. A potter's
design in vermilion; the vault of heaven clustered with
stars that were also gods; the moon, from which a lion had
fallen; the smoothness of marble under one's lingering fingertips;
the taste of boar meat, which he liked to strip with quick flashing
bites; a Phoenician word; the black shadow cast by a spear on yellow
sand; the nearness of the sea or of women; the heavy wine whose
roughness he cut with honey-any of these could wholly encompass
the range of his mind. He was acquainted with fear as well as with
anger and courage, and once he was the first to scale an enemy wall.
Eager, curious, unquestioning, following no other law than to enjoy
things and forget them, he wandered over many lands and, on one side
or the other of the sea, looked on the cities of men and their palaces.
In bustling marketplaces or at the foot of a mountain whose hidden peak
may have sheltered satyrs, he had heard entangled stories, which he accepted
as he accepted reality, without attempting to find out whether they
were true or imaginary.
Little by little, the beautiful world began to leave
him; a persistent mist erased the lines of his hand, the
night lost its multitude of stars, the ground became uncertain
beneath his steps. Everything grew distant and blurred. When
he knew he was going blind, he cried out; stoic fortitude had not
yet been invented, and Hector could flee from Achilles without
dishonor. I shall no longer look upon the sky and its mythological
dread (he felt), nor this face which the years will transform.
Days and nights passed over these fears of his body, but one morning
he awoke, looked (with- out astonishment now) at the dim things around
him, and
unexplainably
felt-the way one recognizes a strain of music or voice-that
all this had already happened to him and that he had faced
it with fear, but also with joy, hope, and curiosity. Then
he went deep into his past, which seemed to him bottomless, and
managed to draw out of that dizzying descent the lost memory that
now shone like a coin under the rain, maybe because he had
never recalled it before except in some dream.
This was the memory. Another boy had wronged him
and he had gone to his father and told him the story. His
father, letting him speak, appeared not to listen or understand,
and took down from the wall a bronze dagger, beautiful and
charged with power, which in secret the boy had coveted. Now
it lay in his hands and the suddenness of possession wiped out
the injury he had suffered, but his father's voice was telling
him, "Let them know you're a man," and in that voice was a command.
Night blinded the paths. Clasping the dagger, in which he
felt a magic power, he scrambled down the steep hillside that
surrounded the house and ran to the edge of the sea, thinking
of himself as Ajax and Perseus and peopling with wounds and battles
the dark salt air. The exact taste of that moment was what he
now sought. The rest mattered little to him-the insults leading
to the challenge, the clumsy fight, the way home with the blade
dripping blood.
Another memory, also involving night and an expectation
of adventure, sprang out of that one. A woman, the first
to be given him by the gods, had waited for him in the shadow
of a crypt until he reached her through galleries that were
like nets of stone and down slopes that sank into darkness. Why
did these memories come back to him and why without bitterness,
as if foretelling of things about to happen?
With slow amazement he understood. In this nighttime
of his mortal eyes into which he was now descending,
love and danger were also in wait for him-Ares and Aphrodite-because
he al- ready divined (because he was already ringed in
by) a rumor of hexameters and glory, a rumor of men defending
a shrine which the gods would not save and of black ships roaming
the seas in search of a loved island, the rumor of the Odysseys
and the Iliads it was his destiny to sing and to leave resounding
forever in mankind's hollow memory. These things we know, but
not what he felt when he went down into his final darkness.
A YELLOW ROSE
It happened neither
on that afternoon nor on the next, but when the renowned
Giambattista Marino died-the man whom the many mouths
of Fame (to use an image that was dear- to him) proclaimed
the new Homer and the new Dante-the silent inner event
that had occurred was, essentially, the last of his life.
Burdened with years and glory, the man lay dying in a broad
Spanish bed with tall carved corner posts. It is easy to picture
a quiet balcony a few steps away, looking toward the sunset,
and farther below marble statuary and laurel trees and a garden
whose terraces are reflected in a rectangle of water. A woman has
placed a yellow rose in a vase; the man murmurs the inevitable verses
of which he himself, to speak truthfully, is rather weary:
Deep
purple oi the garden, pride oi the lawn,
Springtime's jewel,
fair April's eye ..
Then the revelation came to him. Marino saw the rose
as Adam first saw it in Paradise, and he felt that it lived
in an eternity of its own and not in his words, and that we
may men- tion or allude to a thing but not express it, and that
the tall proud volumes casting a golden haze there in a corner
of the room were not (as his vanity dreamed) a mirror of the world
but only one thing more added to the world.
This illumination came to Marino on the eve of his
death, as perhaps before him it had come to Homer and to Dante
as well.
manhhai
VIETNAM 1950s
- Vịnh Hạ Long 1953
www.bjp-online.com/2015/07/raymond-cauchetiers-nouvelle-v...
Vietnam
ANNÉES 50 © Raymond Cauchetier
https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/29483714603/in/album-72157671322727073/
Haruki Murakami named 4/1 favourite
to win 2016 Nobel prize in literature
Thơ Mỗi Ngày
MÙA THU Ở ĐÂY ĐẸP NÃO
NÙNG
Hát ở đâu đâu...
Ngoảnh nhìn lại quãng
nửa nhà nửa chợ
Nỗi buồn vạch một
nét dài (1)
Không phải tiếc cuộc đời đã
sống
Mà một đời
bỏ lỡ
Nhớ hoài.
Đêm mở ra giấc mộng
cũ
Chỉ có tôi,
tôi, và tôi
Cô bạn thân
ơi, nẻo về tuyệt lối
Hồn tôi điên
cuồng réo gọi.
Mùa thu ở đây đẹp não
nùng
Rừng dưng không
đỏ rực
Lá rũ rượi
Rủ nhau cùng
chết
Sực nhớ chữ: Chiêu
như thanh ty
Mộ thành
tuyết
Giấc mộng cũ vậy là giấc mộng
cuối
Hát ở đâu
đâu...
Cô bạn thân ơi, những ngày
tháng đó
Chạy xe như điên
trên đường phố
Cho kịp giờ giới
nghiêm
Suốt Chợlớn-Sàigòn
Chỉ mong kịp chuyện
trò cùng những hồn ma Mậu Thân
Trong nhà
xe Đài Phát Thanh
Người lính
Dù dùng làm nơi chất thây
những người chết
Những hồn ma từ
đó thức dậy
Quẳng bỏ súng
Vẫy tay cho tôi
đi
Trong vương quốc của những người đã
chết
Tôi vẫn thường
thơ thẩn đi về...
Hát ở đâu đâu giấc
mộng cuối (2)
(1)...
that lonely halfway house which we call life
André Malraux
(Anti-Memoirs)
(2) thơ Thanh Tâm
Tuyền
Vợ chồng Gấu tới Canada đúng
Mùa Đông, cc 1994. Năm đó lạnh
khủng khiếp.
Đến 1 phát, là
nhân viên lo tiếp đón đưa đi liền
tới 1 shop để lãnh quần áo lạnh, sau đó
đưa tới shelter.
Ui chao bão tố tuyết
đầy trời. Sáng hôm sau, mới sáng
sớm, là đã ra khỏi shelter, ngửi, liếm,
tuyết và đi trong tuyết ngập tới đầu gối, kiếm phở.
Phở phải gần trưa mới mở
cửa. Về, không vô được. Phải chờ ngoài
tuyết, tới cỡ 9 giờ, mới có người mở cho vô!
Rồi gặp lại cô bạn.
Nhờ gặp lại cô bạn, làm được thơ.
Mấy bài thơ đầu,
là về mùa đông đầu tiên
này, và cái câu thơ sau đây,
là khi nghe cô bạn cho biết mùa thu ở đây
đẹp khủng khiếp, và lá đổi mầu từng giờ, từng phút,
nên những người giầu có, vào mùa này,
thường lấy máy bay, đuổi theo mầu lá:
Mùa Đông
Con chó đen đùa
với bãi tuyết
Người đàn ông
đi hết mùa Đông
Cây khắc nét
khô vào nền trời xám
Nghe nói mùa
Thu ở đây đẹp lắm
Tụi mình chạy xe
đuổi theo lá đổi mầu
Trên xa lộ
Trong thơ Nguyễn Du
Trong hạnh ngộ.
Lạnh,
Hai vợ chồng ôm cặp
Đứng đợi xe
Ở đầu ngã tư
Cuối cuộc đời
Học giùm mấy đứa
con còn kẹt lại
Tuổi năm mươi gấp sách
lại đứng nghe
Đi trong gió
Nỗi nhớ Sài-gòn
buốt trên đầu ngón tay
Bài thơ “mùa
thu ở đây đẹp não nùng”, là
về mùa thu đầu tiên.
Thơ Mỗi Ngày
The Attic
Her brain is an attic where
things
were stored over the years.
From time to time her face
appears
in the little windows near
the top of the house.
The sad face of someone
who has been locked up
and forgotten about.
Gác
Xép
Não của nàng
thì là cái gác xép
Nơi lưu cữu từ bao đời,
đồ này vật nọ
Lâu lâu khuôn
mặt của nàng hiện ra nơi khung cửa nhỏ gần
chỏm nhà
Bộ mặt buồn bã của
1 người bị khoá, nhốt, và quên
bỏ, từ đời nảo đời nào
Kafka’s Watch
from a letter
I have a job with a tiny
salary of 80 crowns, and
an infinite eight to nine
hours of work.
I devour the time outside
the office like a wild beast.
Someday I hope to sit in
a chair in another
country, looking out the
window at fields of sugarcane
or Mohammedan cemeteries.
I don't complain about the
work so much as about
the sluggishness of swampy
time. The office hours
cannot be divided up! I
feel the pressure
of the full eight or nine
hours even in the last
halfhour of the day. It's
like a train ride
lasting night and day. In
the end you're totally
crushed.You no longer think
about the straining
of the engine, or about
the hills or
flat countryside, but ascribe
all that's happening
to your watch alone. The
watch which you continually hold
in the palm of your hand.
Then shake. And bring slowly
to your ear in disbelief.
The Lightning
Speed of the Past
The corpse
fosters anxiety in men who believe
in the Last Judgment, and
those who don't.
- ANDRE MALRAUX
He buried his wife, who'd
died in
misery. In misery, he
took to his porch, where
he watched
the sun set and the moon
rise.
The days seemed to pass,
only to return
again. Like a dream in which
one thinks,
I've already dreamt that.
Nothing, having arrived,
will stay.
With his knife he cut the
skin
from an apple. The white
pulp, body
of the apple, darkened
and turned brown, then black,
before his eyes. The worn-out
face of death!
The lightning speed of the
past.
http://www.tanvien.net/Portrait/Ray.html
http://www.tanvien.net/tgtp_02/Raymond_Carver.html
http://tanvien.net/new_daily_poetry/Carver_Page.html
Raymond
Carver
Carver: Poems
Carver by Rushdie
Enright on Carver
Ray
AUTUMN
This yardful of the landlord's
used cars
does not intrude. The landlord
himself, does not intrude.
He hunches
all day over a swage,
or else is enveloped in
the blue flame
of the arc-welding device.
He takes note of me though,
often stopping work to grin
and nod at me through the
window. He even
apologizes for parking his
logging gear
in my living room.
But we remain friends.
Slowly the days thin, and
we
move together towards spring,
towards high water, the
jack-salmon,
the sea-run cutthroat.
AUTOMNE
Ce jardin plein des voitures
usagées du proprio
ne me dérange pas.
Le proprio
lui-même n'est pas
dérangeant. II reste courbé
toute la journée
au-dessus d'un porte-pièces,
ou bien enveloppé
par la flamme bleue
de la lampe à souder.
II fait attention à
moi pourtant,
s'arrêtant souvent
de travailler pour m'adresser
un sourire ou un signe de
tête à travers le carreau.
[Il s' excuse
même d'avoir remisé
sa tronconneuse
dans ma salle de séjour.
Mais nous restons amis.
Lentement les jours s'allongent,
et nous
avancons ensemble vers le
printernps,
vers la montée des
eaux, le frai des saumons
et la truite anadrome.
Nguyễn
Quốc Trụ
MÙA THU Ở ĐÂY ĐẸP NÃO
NÙNG
Autumn
The wind wakes,
sweeps the thoughts
from my mind
and hangs me
in a light that
smiles for no one:
what random beauty!
Autumn: between
your cold hands
the world flames.
1933
Octavio Paz: First Poems (1931-1940)
Mùa Thu
Gió thức dậy
Quét những
ý nghĩ ra khỏi cái đầu của anh
Và treo anh
Trong ánh
sáng mỉm cười cho chẳng ai
Cái đẹp mới
dưng không, tình cờ làm sao?
Mùa thu:
giữa lòng bàn tay lạnh của em
Tình anh
sưởi ấm
[nguyên văn,
thế giới bập bùng ngọn lửa]
~~oOo~~
Here
My footsteps in this street
echo
in another street
where
I hear my footsteps
passing in this
street
where
Only the mist is real
[1958-1961]
Đây
Tiếng bước chân của
tôi
trong con phố này
vọng lên
trong một con phố khác
nơi
tôi nghe những bước chân của mình
qua con phố này
nơi
Chỉ sương mù
là có thực
~~oOo~~
Apollinaire: Alcools
Mùa thu bịnh
Mùa thu bịnh và
đáng mê làm sao
Mi sẽ chết khi bão
thổi qua những vườn hồng
Khi tuyết xuống
Trong những vườn
cây
Mùa thu đáng
thương, tội nghiệp
Chết trong cái
màu trắng, trong cái giầu sang
Của tuyết và
của trái chín
Ở nơi cuối trời
Những cánh
chim bồ cắt bay lượn
Bên trên
những thuỷ thần già, tóc xanh và
lùn
chẳng bao giờ yêu
Ở nơi bìa rừng
Những con hươu thèm
nhau, rền rĩ
Ui chao, mùa thu,
mùa, tôi mới yêu làm sao
Những tiếng thì
thầm của nó
Những trái
cây rụng xuống, không ai hái
Gió và
rừng đều thi nhau khóc
Tất cả những giọt
nước mắt, mùa thu, lệ thu, từng chiếc, từng
chiếc
Những chiếc lá
con người dẫm lên
Một con tàu
chạy
Và đời cứ
thế mà trôi đi.
~~oOo~~
Automne
Dans le brouillard s'en vont un paysan cagneux
Et son bœuf lentement
dans le brouillard d'automne
Qui cache les hameaux
pauvres et vergogneux
Et s'en allant là-bas le paysan chantonne
Une chanson d'amour
et d'infidélité
Qui parle d'une
bague et d'un cœur que l'on brise
Oh! l'automne l'automne a fait mourir l'été
Dans le brouillard
s'en vont deux silhouettes grises
Apollinaire
Mùa
Thu
Trong sương mù, một người nhà
quê đi, chân liềng khiềng
Và con bò
của anh ta lừng khừng đi trong sương mù mùa
thu
Lấp ló trong
lớp sương mù là những thôn xóm
nghèo nàn và xấu hổ
Và trong khi đi như thế, anh nhà
quê ư ử hát
Một bài tình
ca và sự không trung thuỷ
Nói về một
cái nhẫn và một trái tim mà
người ta làm tan nát
Ôi
mùa thu, mùa thu làm
chết đi mùa hè
Trong sương mù cập kè
hai cái bóng xám
Nguyễn Quốc
Trụ dịch
(Nguồn : Tin Văn
www.tanvien.net )
trang nguyễn quốc trụ
art2all.net
Tượng Nữ hoàng Elizabeth
ở trung tâm thủ đô Ottawa dưới cơn mưa cuối
mùa thu.
GOSSIP
IN THE VILLAGE
I told no one,
but the snows came, anyway.
They weren't even
serious about it, at first.
Then, they seemed
to say, if nothing happened,...
http://www.newyorker.com/magazine/2014/05/05/gossip-in-the-village
GOSSIP
IN THE VILLAGE
I told no one,
but the snows came, anyway.
They weren't even
serious about it, at first.
Then, they seemed
to say, if nothing happened,
Snow could say that,
& almost perfectly.
The village slept
in the gunmetal of its evening.
And there, through
a thin dress once, I touched
A body so alive
& eager I thought it must be
Someone else's soul.
And though I was mistaken,
And though we parted,
& the roads kept thawing between snows
In the first spring
sun, &itwas all, like spring,
Irrevocable, irony
has made me thinner. Someday, weeks
From now, I will
wake alone. My fate, I will think,
Will be to have
no fate. I will feel suddenly hungry.
The morning will
be bright, & wrong.
- Larry Levis
The New Yorker,
April 5, 2014
Buôn chuyện làng
Tớ đếch nói
với ai, nhưng, dù sao, tuyết tới.
Lúc thoạt
đầu, họ chẳng thèm ngay cả tỏ ra nghiêm
trọng, về chuyện đó.
Rồi có vẻ
như là họ muốn nói, nếu chẳng có
gì xẩy ra,
Tuyết có
thể nói điều đó & hầu như tuyệt
hảo
Ngôi làng
ngủ, trong màu đồng đỏ, của những buổi chiều
của nó.
Và ở đó,
qua cái áo dài mỏng, một lần,
tôi sờ vô
Một cơ thể sống
ơi là sống & hăm hở, tôi nghĩ
Hẳn là linh
hồn một người nào đó.
Và, tôi
đã lầm.
Và chúng
tôi lên đường & những con lộ băng
tan giữa tuyết
Trong mặt trời đầu
tiên của mùa xuân & tất cả,
như mùa xuân
Vô phương
huỷ bỏ, cái tếu táo, buồn cười làm
tôi càng thêm ốm tong teo.
Vài ngày,
vài tuần, kể từ bây giờ
Tôi sẽ thức
giấc một mình.
Số phần của tôi,
tôi nghĩ,
Là đếch có
số phần.
Bất thình
lình, tôi cảm
thấy đói.
Buổi sáng
thì sẽ sáng ngời & lầm lẫn.
Sáu Thi Sĩ, Hardy
to Larkin
Tập thơ này, mua xon, chỉ vì
cái tên người dịch và viết
Tựa: Auden.
Auden được coi là sư
phụ của Brodsky. Khi bị đày qua Tây Phương,
ông được sư phụ chờ đón ở.... sân
ga. Đúng ra là phi trường, nhưng giá
như chờ ở sân ga, tuyệt hơn, “trong khi chờ tầu hỏa",
là 1 hình ảnh hợp với Brodsky, và cùng
với ông,
là nước Nga. Bài “editô” của
số báo Văn Học Tẩy, về văn chương Nga, dùng
cái tít này: En attendant le train!
Trong Khi Chờ Tầu Hỏa!
Nhân đọc mẩu viết về “tầu
hoả”, tức “xe lửa”, trên Blog NL, bèn
nhớ tới số báo này.
Bài "édito"
thật tuyệt.
Cái tít
làm nhớ đến Beckett, Trong Khi Chờ Godot, và
đây là dụng ý của tay viết.
Và của Gấu!
EN ATTENDANT LE TRAIN
MÉDITANT SUR TOLSTOI
ET DOSTOIEVSKI au fil d'un magistral essai (1), George Steiner ouvre une
brève parenthèse pour souligner le role stratégique
des quais de gare chez ces deux auteurs. Leurs trajectoires, si souvent opposées
et dont Steiner s'applique à minorer
les divergences, se trouvent ainsi réunies,
en attendant le train, II ne faudrait pas toutefois
en conclure que le roman russe s'apparente à l'indicateur
Chaix et encore moins à une littérature
de gare, encore que lire Guerre
et Paix dans le Transsibérien demeure un projet
séduisant. Et cohérent. Les héros
de Tolstoi comme ceux de Dostoievski aiment voyager par
le train, Que l'on songe à l'ouverture de
L'ldiot, quand le prince Muichkine et Rogojine
approchent de Saint-Pétersbourg par le train de Varsovie.
Ou encore à la tragédie d'Anna Karénine
qui commence, comme elle finira, sur un quai de gare.
Vronsky, on le sait, part pour la guerre. II existe
d'autres destinations plus enviables. D'autant que le roman
russe profite de l'immensité de l'espace pour
pousser ses héros vers de lointaines et mythiques frontières,
là où campent les Cosaques, les tribus
du Caucase, les vieux-croyants du Don et de la Volga. Le héros
tolstoien s'évade volontiers à la campagne,
et ce retour à la terre s'accompagne d'une résurrection
de l'âme. Le héros dostoievskien, pour sa
part, cherche son salut dans le royaume de Dieu, improbable
destination que l'auteur des Possédés
conseillait ironiquement de choisir plutôt en juin.
Quand, rompus de fatigue, les héros restent
à quai, c'est l'auteur qui part. Ainsi Tolstoi, abandonnant
au soir de sa vie de domicile conjugal pour retrouver
les lieux de sa jeunesse, fuyant vers le Caucase comme s'il
voulait semer la mort qui est à ses trousses. «
Je m'en vais dans la solitude», écrit-il dans
ses Carnets. Pour terminus, une
petite gare, à Astapovo, où il mourra en laissant
sur sa table de chevet deux livres, ultimes compagnons de voyage:
Les Frères Karamazov et les
Essais de Montaigne.
La Russie et l'Europe sont les deux patries des auteurs
russes. Tolstoi admirait Stendhal. De son coté,
Dostoievski avait lu avec passion Sand, Dickens, Balzac,
Sue, Restif... Reconnaissant sa dette envers la culture
européenne, il faisait dire à Ivan Karamazov:
« Je veux voyager en Europe, Aliocha; je veux sortir
d'ici. Et pourtant, je sais que je ne trouverai qu'un cimetière
un très précieux cimetière, voilà
ce que c'est! » Quant à Gogol, il trouva sa Russie
alors qu'il pérégrinait à Paris, Rome ou
Vevey.
Indifférente à tant de transports,
l'Europe à longtemps consideré avec froideur
et réticence les auteurs russes, On leur reprocha
une débauche de pathos, l'absence de contraintes
esthétiques, trop de vie, trop de pages. Comment faire
face aces « grands monstres informes », selon
la redoutable expression d'Henry James? Tolstoi a écrit
pas moins de quatre-vingt-dix volumes et, jamais en mal
d'inspiration, il se risqua à bâtir une pièce
de théatre en six actes. Voulant rivaliser avec l'infinité,
il faisait en sorte que le dernier chapitre de chaque roman
ménage un prélude à l'oeuvre prochaine. II
refusait de mettre un point final, et en mit même trois
pour éviter de tout à faire conclure
Guerre et Paix. Voilà l'un des miracles
de la littérature russe : les trains
qui la traversent ne s'arrêtent jamais.+
(1) George Steiner, Tolstoi ou Dostoievski, traduit de l'anglais par Rose Celli,
réed, 10/18, 2004.
Trở lại với tập thơ.
Tuyệt. Đi liền 1 bài
Foreword
Gunnar Bkelof was born in 1907 in Stockholm.
His father was a wealthy stockbroker who caught
syphilis, became insane and died while Bkelof was
still a child; his mother was a member of the petty nobility
and does not seem to have shown him much affection. Consequently,
he had to find such happiness as he could in a private dream
world of his own. Of this early time he wrote:
My own childhood environment
was well-to-do but so far beyond the normal
and so unrealistic that there was good room for
peculiar kinds of want .... I had books, music, beautiful
furniture around me, but they forced me to go long roundabout
ways before I could feel I had a legitimate right to them.
As Ekelof grew up,
he became engrossed in Oriental mysticism:
I learned to hate Europe and Christianity
and during the morning prayer at school I began
to mumble Om mani padme hum as
a form of protest ...
In the Royal Library he discovered
Tarjúmán el-Ashwáq by Ibn el-Arabi which for a long
time was his favorite book and from which, he tells us, he first learned
what is meant by Symbolism and Surrealism. With the idea of emigrating to
India, he went to London to study at the School of Oriental Languages, but
abandoned this scheme and returned to Sweden to study Persian at the University
of Uppsala. However, a long illness prevented him from completing his studies.
It was at this time that he wrote his first poem:
One night
I had an experience that I would have to characterize
as a form of ecstasy. It came over me as a shower of
shooting stars, and I remember staggering a bit on my way
home. As often on such occasions, I had had the usual orchestra
playing somewhere behind me, and I myself joined in with
one instrument after the other. Then it became a poem, my first
fairly original one.
Ekelof's second great and lasting passion was music
and, in the 1920s, he went to Paris to study it, but soon
became absorbed by the problems of poetic language:
I placed one word beside another
and finally with a great deal of effort managed
to construct a whole sentence - naturally not one that'
meant something' but one that was composed of word-nuances.
It was the hidden meaning that I was seeking - a kind of
Alchemie du verbe. One word has
its meaning and another word has its own, but when they are
brought together something strange happens to them: they have
an in-between connotation at the same time as they retain their
original individual meanings . .. poetry is this very tension-filled
relationship between the words, between the lines, between the
meanings
It was in Paris, it would seem, that
he wrote many of the poems which appeared in
his first book, Sent pa Jorden (Late
on the Earth), which was published in I932. This he
later described as a 'suicidal book":
I literally used to walk around
with a revolver in my pocket. Illegally, for that
matter. In my general despair I did everything possible
to remain in my dream-world - or to be quickly removed
from it. I began to gamble and I lost my money, which made
my temporary return to Sweden quite definite.
Late on the Earth attracted
little critical attention, but by the time of the publication of Farjesang
(Ferry Song) in I941, he had become recognized as one of Sweden's leading
poets.
The translations in this Penguin volume are of two
late works, Diurdn over Fursten av Emgión (Diwan
over the Prince of Emgión), 1965, and Sagan
om Fatumeh (The Tale of Fatumeh), 1966. His last volume,
Vagvisare till underjorden (Guide to
the Underworld) was published in 1967. In 1968 he died of
cancer of the throat.
The Prince of Emgión had appeared
in two earlier poems. Bkelof relates that,
during a spiritualist seance in Stockholm during
the thirties, he had asked where his spiritual “I” was
to be found. The oracle, a drinking-glass placed upside down,
replied: 'In Persia and his name is the Prince of Emgión.'
Later, Ekelof came to believe that this Prince was of Armenian-Kurdish
stock, half a Christian and half a Gnostic.
Diwan was begun in Constantinople
in 1965, and most or all of the poems were written within
a period of four weeks. , 'Dwan,' Ekelof
wrote to a friend, 'is my greatest poem of love and passion.
I cannot touch it nor see it because I grow ill when I see
this blind and tortured man .... As far as I can understand,
someone has written the poems with me as a medium .... Really,
I have never had such an experience, or not one as complete.'
The character he here refers to is not the Prince,
but Digenis Acritas, the hero of an eleventh-century Byzantine
epic romance. Digenís was the son of an Arab father
and a Byzantine mother. Captured in battle, he was incarcerated
in the prison of Vlacherne, where he was tortured and
blinded. In his suffering his principal consolation is the
Virgin, to whom he addresses passionate hymns. Though there
are references to what are obviously Christian icons, this figure
is not the Christian Madonna, but rather the Earth Mother, the Goddess
known to us through St Paul as the 'Diana of the Ephesians'. In
Diwan another female figure appears
who is human, not divine, perhaps a wife, perhaps a sister or daughter.
The Tale of Fatumeh is an equally
sad story. It tells of a generous, loving girl who becomes
first a courtesan and then the beloved of a prince, whose
child she bears; she is apparently deserted by him and brought
to the Harem at Erechtheion, but she is eventually thrown
out of the Harem and spends a miserable old age, selling herself
to keep alive. Like Digenís, Patumeh is sustained
by her visions. Whatever has happened and may happen, no disaster
shall degrade her soul.
Like the Greek poet Constantine Cavafy, Bkelof sets
these poems in a bygone age. Different in sensibility
as they are - Cavafy is ironic and detached, Ekelof passionate
and involved - neither chooses the past as an escape:
for both it is a means for illuminating and criticizing the
present. Although Ekelof was fascinated by Byzantium, he
never idealized it. 'Why,' he wrote in a letter, 'have I become
interested in the Byzantine, the Greek life? Because Byzantine
life, traditionally and according to deep-rooted custom, is like
the political life in our cities and states. I am intensely interested
in it because I hate it. I hate what is Greek. I hate what is Byzantine
.... Diwan is a symbol of the political decadence
we see around us. Fatumeh is a symbol of the degradation,
the coldness between persons, which is equally obvious.'
Ekelof had a special numerological theory and considered
life an odd number and death an even number. His numerological
preoccupation is expressed in his division of
The Tale of Fatumeh into a
nazm, a string of beads, and a
tesbih; a rosary, each consisting of twenty-nine
numbered poems. This plan regrettably had to be abandoned
for this version. Some textual emendations have also been made
whenever Bkelof''s manuscripts have warranted such action.
W. H. AUDEN
LEIF SJOBERG
Penguin Modem European Poets
Advisory Editor: A. Alvarez
Selected Poems: Gunnar Ekelof
Gunnar Ekelof
was born in Stockholm in 1907. Intending to become
a pianist, he studied music in Paris, and then took up
Oriental studies in London and U ppsala. His verse was from
the first a highly individual mixture of esoteric, even
cryptic allusions and simple, homely confessions. His first
book, Late on the Earth (1932),
he called' a suicidal book'. It reflects an outlook fundamentally
divided, in which subject and object move unrelated as in a
trance. It was regarded by sonie as inspired by French Surrealism,
a charge Ekelof denied. Nevertheless it brought radical innovation
to the forms of Swedish poetry. Ferry Song
(1941) and Non Serviam (1945) oscillate between mysticism
and intellectualism. In Strountes (1955),
Opus Incertum (1959) and A Night
in Otolac (1961), he fashioned a poetry patently anti-aesthetic.
In A Moelna Elegy (1960) he dwells
on the plurality of times past and future, and of death in life.
The remarkable Byzantine triptych Diwan
Fatumeh, Vagvisare (1965-7), was dedicated to love
absorbed by mystical identification, In addition to his own fifteen
books of verse Ekelof translated many foreign poets into Swedish,
amongst them Eliot.joyce, Auden, Baudelaire and Rimbaud. By the time
he last visited Asia Minor in 1965 he was acknowledged by many as the
greatest lyric poet Sweden has produced. He died of cancer in 1968
and his ashes rest at the ancient city of Sardis.
You have the
face of a dwarf-woman
With blue eyes,
evil eyes
You are ugly
and deformed
But what shall
a man do
If not amuse
himself?
The child you
will bring forth
Between your
stunted legs
will not live
Because I shall
disown it
Angel! Forgive
him and me
Who to satisfy
my hunger
Must love at
any price
Even the lowest.
Em có khuôn mặt của một
người đàn bà lùn tịt
Mắt xanh, mắt
quỉ, mắt ma
Em xấu xí,
méo mó
Nhưng 1 thằng
đàn ông Bắc Kít như anh, thì
biết làm gì nếu không....
tự sướng?
Đứa con trai
mà em mang tới cõi đời này, từ
cái cặp giò còi cọc của mình
Sẽ không sống
Anh sẽ không
nhận nó là con
Thiên Sứ
ơi! Hãy tha thứ cho nó và tôi
Kẻ, để thoả mãn
cơn đói của mình
Phải yêu
với bất cứ giá nào
Ngay cả kẻ thấp
kém, tồi tệ nhất.
Đọc, thì bỗng nhớ đến
tên Bắc Kít, óc bị thiến 1 mẩu,
chê Jolie, xấu, ngu, miệng như cái gạt tàn!
Hay tên
Lăng Băm!
Trăng
THE MOON
for Maria Kodama
There is such
loneliness in that gold.
The moon of the
nights is not the moon
Which the first
Adam saw. The long centuries
Of human vigil have
filled her
With ancient lament.
Look at her. She is your mirror.
[Trans. Willis Barnstone]
Trăng
Có nỗi cô tịch như
thế, ở trong khối vàng đó.
Trăng đêm
không phải trăng Adam, thuỷ tổ giống người,
nhìn.
Những thế kỷ dài
ăn chay cầu nguyện của con người
Đã tẩm vào
nàng nỗi sầu vạn cổ.
Hãy nhìn
nàng kìa.
Nàng là
tấm gương của em đó.
JORGE LUIS BORGES
Pythagoras, an old tradition holds,
used to write
his verse in blood on a mirror.
Men looked to
its reflection in the moon's
hoping thus to
make his meaning clearer.
[Bản
Penguin]
Pythagoras (according to one
tradition)
used blood to write upon a mirror,
and men read it by reflection
in that other mirror called the moon.
-Translated
by EDWIN HONIG
Pythagore thường làm
thơ bằng cách
Rỏ máu đầu
ngón tay lên một tấm gương
Người đời sau nhìn
phản chiếu trong trăng
Hy vọng nghĩa của
nó trong sáng hơn
[Dịch
sái đi, theo
cách hiểu THNM của GCC]
The Moon
The story goes
that in those far-off times
when every sort
of thing was taking place-
things real, imaginary,
dubious things-
a man thought
up a plan that would embrace
the universe entire
in just one book.
Relentlessly spurred
on by this vast notion,
he brought off
the ambitious manuscript,
polishing the
final verse with deep emotion.
All set to offer
thanks to his good fortune,
he happened to
look up and, none too soon,
beheld a glowing
disk in the upper air,
the one thing
he'd left out-the moon.
The story I have
told, although made up,
could very well
symbolize the plight
of those of us
who cultivate the craft
of turning our
lives into the words we write.
The essential
thing is what we always miss.
From this law
no one will be immune
nor will this
account be an exception,
of my protracted
dealings with the moon.
Where I saw it
first I do not know,
whether in the
other sky that, the Greeks tell,
preceded ours,
or one fading afternoon
in the patio,
above the fig-tree and the well.
As is well known,
this changing life of ours
may incidentally
seem ever so fair,
and so it was
on evenings spent with her
when the moon
was ours alone to share.
More than moons
of the night, there come to mind
moons I have found
in verse: the weirdly haunting
dragon moon that
chills us in the ballad
and Quevedo's
blood-stained moon, fully as daunting.
In the book he
wrote full of all the wildest
wonders and atrocious
jubilation,
John tells of
a bloody scarlet moon.
There are other
silver moons for consolation.
Pythagoras, an
old tradition holds,
used to write
his verse in blood on a mirror.
Men looked to
its reflection in the moon's
hoping thus to
make his meaning clearer.
In a certain ironclad
wood is said to dwell
a giant wolf whose
fate will be to slay
the moon, once
he has knocked it from the sky
in the red dawning
of the final day.
(This is well
known throughout the prophetic North
as also that on
that day, as all hope fails,
the seas of all
the world will be infested
by a ship built
solely out of dead men's nails.)
When in Geneva
or Zurich the fates decreed
that I should
be a poet, one of the few,
I set myself a
secret obligation
to define the
moon, as would-be poets do.
Working away with
studious resolve,
I ran through
my modest variations,
terrified that
my moonstruck friend Lugones
would leave no
sand or amber for my creations.
The moons that
shed their silver on my lines
were moons of
ivory, smokiness, or snow.
Needless to say,
no typesetter ever saw
the faintest trace
of their transcendent glow.
I was convinced
that like the red-hot Adam
of Paradise, the
poet alone may claim
to bestow on everything
within his reach
its uniquely fitting,
never-yet-heard-of name.
Ariosto holds
that in the fickle moon
dwell dreams that
slither through our fingers here,
all time that's
lost, all things that might have been
or might not have-no
difference, it would appear.
Apollodorus let
me glimpse the threefold shape
Diana's magic
shadow may assume.
Hugo gave me that
reaper's golden sickle
and an Irishman
his pitch-black tragic moon.
And as I dug down
deep into that mine
of mythic moons,
my still unquiet eye
happened to catch,
shining around the corner,
the familiar nightly
moon of our own sky.
To evoke our satellite
there spring to mind
all those lunar
cliches like croon and
June.
The trick, however,
is mastering the use
of a single modest
word: that word is moon.
My daring fails.
How can I continue
to thrust vain
images in that pure face?
The moon, both
unknowable and familiar,
disdains my claims
to literary grace.
The moon I know
or the letters of its name
were created as
a puzzle or a pun
for the human
need to underscore in writing
our untold strangenesses,
many or one.
Include it then
with symbols that fate or chance
bestow on humankind
against the day-
sublimely glorious
or plain agonic-
when at last we
write its name the one true way.
-A.S.T.
Penguin ed
Sáu Thi Sĩ, Hardy to
Larkin
Otober 3, 2016 Issue
South
In the cold, clear
winter air
of Andalusia, I walked
a trail up through pig grass
toward a distant abandoned
farmhouse. No one could live here,
I said aloud, the land is baked clay,
the long summers are withering.
Yet someone did. The one wall
left intact bore the handprint
of a child, the fingers splayed
out to form half a message
in the lost language of childhood.
It said, “You won’t find me!”
Then the wind woke from its nesting
in the weeds and the tall grass
to blow the childish words away.
Almost noon, the distant sun
rode straight above us like a god
aware of everything and like
a god utterly silent. What
could ever grow from this ground
to feed anyone? And who bore
the mysterious child who spoke
in riddles? If we climbed
the hill’s crest we’d find
a higher hill and then another
hill until we reached an ocean
or gave up and turned back
to where the land descends step
by slow step to bring us exactly
here, where we began, stunned
by raw sunlight yet in the dark.
—Philip Levine (1928-2015)
Philip Levine began contributing poems to the
magazine in 1958, and was awarded the Pulitzer
Prize for poetry in 1995 for his collection “The Simple
Truth.” He died in 2015, at the age of eighty-seven.
Nam
Trong cái không
khí mùa đông sáng
sủa, lạnh giá của Andalusia
Tôi đi 1 đường tản bộ lên một vùng
cỏ heo tới một trang trại xa vắng, hoang tàn.
Không ai có thể sống ở đây,
tôi nói lớn,
Đất thì là thứ đất nện bị nung
Những mùa hè dài héo
hắt
Vậy mà
có người!
Tường còn nguyên dấu tay của 1 đứa
bé, nguệch ngoạc 1 thứ ngôn ngữ con
nít đã mất.
Nó phán, đố mi kiếm được ta, hà,
hà!
Rồi gió nổi lên, từ những túi,
ổ cỏ dại, và vùng cỏ cao
Xóa sạch những con chữ con nít
Trưa, hầu như trưa.
Cái ông mặt trời xa xa kia, ở trên
đầu chúng ta, như 1 vị thần,
biết hiết, và như 1 vị thần, bèn
lặng thinh.
Cái thứ gì mọc lên từ mặt
đất này, để nuôi dưỡng một ai kia, một
ai đó, bất cứ một ai?
Và ai là cha mẹ của đứa bé
bí ẩn nói ra lời bí ẩn?
Nếu bò lên con đồi, thì sẽ
kiếm ra 1 con đồi cao hơn, và rồi một ngọn
đồi cho tới khi chúng ta đụng biển
Hay chịu thua và đi ngược trở lại tới
miền đất cứ thế thấp dần từng bậc, từng bậc và
mang chúng ta tới đúng nơi đây
Nơi chúng ta bắt đầu, chói lòa
bởi 1 thứ ánh nắng nguyên sơ, tuy
tối mù.
FOREWORD
First and foremost,
I think of myself as a reader, then as a poet,
then as a prose writer. The initial part of this
statement calls for no explanation; the other two should
be qualified. They do not mean- they emphatically do not
mean-that I am fonder of my verse than of my prose, or that
I judge it as technically better, For all I know, the opposite
may be true. I suspect that poetry differs from prose not,
as many have claimed, through their dissimilar word patterns,
but by the fact that each is read in a different way. A passage
read as though addressed to the reason is prose; read as
though addressed to the imagination, it might be poetry.
I cannot say whether my work is poetry or not; I can only say
that my appeal is to the imagination. I am not a thinker.
I am merely a man who has tried to explore the literary possibilities
of metaphysics and of religion.
My stories are, in
a sense, outside of me. I dream them, shape
them, and set them down; after that, once sent out
into the world, they belong to others. All that is personal
to me, all that my friends good-naturedly tolerate
in me-my likes and dislikes, my hobbies, my habits-are
to be found in my verse. In the long run, perhaps, I shall
stand or fall by my poems.
Goethe, who is not
one of my heroes, thought that all poetry
is occasional poetry (Gelegenheitsdichtung). I have
forgotten the context, but I suppose his statement
is open to at least two interpretations: he may
have been apologizing for the all-too-plentiful verses
he contributed to albums, or he may have implied that
true poetry springs from what a particular man feels at
a particular time. In my case, I can fairly claim that every
piece in this book had its origin in a particular mood, in a
necessity of its own, and was not meant to illustrate a theory
or to fill out a volume. I have never thought of my poems, in
fact, in terms of publication.
When this book was
begun, some three years ago in Cambridge, it
was the first time I had ever taken a direct hand in
the translation 'of any of my own work. Di Giovanni and
I have gone very thoroughly over each piece, each line,
and each word; the fact that I am not only a collaborator
but also the writer has given us greater freedom, since
we are less tied to verbal precision than to inner meanings and
intentions. I should like to thank the outstanding British
and American poets who, by their skill and generosity, have
made English poems of my Spanish originals and so given
them this new life.
JORGE LUIS BORGES
Salt Lake City, March 31, 1971
Trước hết và trên hết,
tôi nghĩ về tôi như là
1 độc giả, rồi như một thi sĩ, và rồi
thì là, một nhà văn xuôi.
Phần đầu của câu phán,
tớ là độc giả, thì đếch cần
giải thích. Hai phần sau, có lẽ nên
định giá. Chúng không
có nghĩa, tôi khoái thơ vần hơn
thơ xuôi. Ngược lại, có lẽ thú
hơn, xuôi hơn vần.
Tôi ngờ rằng, mỗi cách
có cách đọc riêng của
nó. Môt đoạn, đọc, mà nghĩ, nó
viện tới lý lẽ, thì là
văn xuôi, cái viện tới trí
tưởng tượng, thì là thơ. Tôi cũng
khó nói về cái viết của tôi,
thì thơ, hay đếch thơ. Tôi chỉ có
thể nói, tôi cố với/vời tới trí
tưởng tượng, khi viết chúng.
Tôi không phải là
1 suy nghĩ gia. Tôi, giản dị mà
nói, là 1 người cố phát triển,
khai phá, những khả hữu văn chương của siêu
hình học và của tôn giáo.
Những câu chuyện của tôi, theo 1 nghĩa,
ở ngoài tôi. Tôi mơ chúng,
tạo hình hài vóc dáng
chúng, và viết chúng ra; sau đó,
một khi được vào đời, chúng thuộc người
khác. Tất cả những gì cá nhân
riêng tư, tất cả những gì mà bạn quí
của tôi chịu đựng, tha thứ cho tôi, những cái
tôi thích hay không thích, những
hóp bi của tôi, những thói quen tật
xấu của tôi, thì đều được kiếm thấy trong thơ
của tôi. Trên đường dài, tôi coi
thơ của tôi, là tôi.
Goethe, không phải 1
trong số những heroes của tôi, phán,
tất cả thơ thì đều có tính
làm xàm, bá láp, tôi
không nhớ rõ nội dung, nhưng câu phán
của ông mở ra hai cú cắt nghĩa, ông
có thể xin lỗi người đọc về những câu thơ
đầy ơi là đầy, làm đầy những tập album
của ông, hay là ông có thể hàm
ngụ rằng, thơ phọt ra từ 1 con người đặc thù cảm thấy
như thế ở một thời điểm đặc thù như thế, cái gì
như Mít nói, tức cảnh sinh tình, hẳn
thế. Trong trường hợp của tôi, tôi có thể
đảm bảo điều này, mọi mẩu trong tập thơ này, thì
đều có nỗi uyên nguyên của nó, ở
1 trạng thái
đặc thù, trong cái cần thiết của riêng nó,
và điều này không có nghĩa, nó tính
hoành dương 1 lý thuyết, hay để làm đầy
1 cuốn sách. Tôi không hề làm thơ để
được mong in ra thành sách, thành tuyển tập
Cuốn này,
do Anthony biên tập và viết
Tựa, cũng có 1 bản dịch bài Golem.
Post
ở đây, vả sẽ có bản tiếng Việt liền sau.
THE GOLEM
THE PLOT
To make his
horror complete, Caesar, pursued to the base of
a statue by the relentless daggers of his friends,
discovers among the faces 'and blades the face of Marcus
Junius Brutus, his favorite, his son perhaps, and he ceases
to defend himself to exclaim: "You too, my son!" Shakespeare
and Quevedo echo the pathetic cry. Fate takes pleasure in
repetitions, variants, symmetries.
Nineteen
centuries later, in the south of Buenos Aires province,
a gaucho is assaulted by other gauchos, and, as he falls,
recognizes a godson and with gentle reproach and gradual
surprise exclaims (these words must be heard, not read):
"But che!" He is killed and never knows he dies so that a scene
may be re-enacted.
-Translated
by ELAINE KERRIGAN
Để cho nỗi
kinh hoàng ghê rợn, được trọn vẹn, Sáu
Dân, bị rượt đuổi bởi những đấng bạn quí
Bắc Kít, đấng nào cũng lăm lăm 1 cây
dao găm, nhận ra rằng, trong số đó, có cả đứa
con nuôi của mình, đứa mà ông quí
nhất, là Tà Lọt, Ô Sin, ông bèn
ngưng chống cự, và la lên, "Con đó ư,
Bố, Sáu Dân nè!"
[Cả con nữa
ư, Osin!]
Shakespeare
và Quevedo
lập lại tiếng kêu thống thiết.
Số mệnh -
Cái Ác Bắc Kít thì cũng
được - khám phá ra cái thú
vui sa đích của nó, trong lập lại, ứng tác,
đối xứng
Note: Bài
viết ngắn của Borges, cũng là 1 sự lập lại.
Đoạn sau, đúng như trên, là câu
chuyện Tà Lọt & Sáu Dân: 19 thế kỷ
qua đi, tại thành phố Xề Gòn.... Những từ này,
phải nghe bằng tiếng Nam Kít, không đọc
được...
THE GIFTS
Let no one debase
with pity or reprove
This declaration
of God's mastery
Who with magnificent
irony
Gave me at
once books and the night.
Of this city
of books he made two
Lightless eyes
the owners, eyes that can
Read only in
the library of dreams
Those senseless
paragraphs that surrender
The dawns to
their desire. In vain the day
Lavishes on
them its infinite books,
Arduous as
those arduous manuscripts
That were destroyed
in Alexandria.
Of hunger and
thirst (a Greek story has it)
A king dies
amid fountains and gardens;
I drudge aimlessly
about the limits
Of this enormous
library of my blindness.
Encyclopedias,
atlases, the East
And the West,
centuries, dynasties,
Symbols, cosmos,
and cosmogonies
Entice from
the walls, but uselessly.
Within my darkness
I slowly explore
The hollow
half light with hesitant cane,
I who always
imagined Paradise
To be a sort
of library.
Something,
which certainly is not named
By the word
chance, governs these things;
Some other
already received on other faded
Afternoons
the many books and the dark.
Wandering through
the heavy galleries,
I often feel
with sacred vague horror
That I am that
other, the dead one, who will
Have walked
here too and on these very days.
Which of us
is writing this poem
With plural
I and a single darkness?
What difference
the word that names me
If the curse
is undivided and single?
Groussac or
Borges, I look at this dear
World which
collapses and goes out
In a pale indefinite
ash
That resembles
both the dream and oblivion.
-Translated
by IRVING FELDMAN
THE MOON
History tells
us that in such time past
when so many
real, imaginary
and doubtful
things took place,
one m~n conceived
the unwieldy
Plan of ciphering
the universe
in one book
and, infinitely rash,
built his high
and mighty manuscript,
shaping and
declaiming the final line.
But when about
to praise his luck,
he lifted up
his eyes, and saw
a burnished
disk upon the air; startled,
he realized
he'd left out the moon.
Though contrived,
this little story
might well
exemplify the mischief
that involves
us all who take on
the job of
turning real life into words.
Always the
essential thing gets lost. That's
one rule holds
true of every inspiration.
Nor will this
resume of my long
association
with the moon escape it.
I don't know
when I saw it first-
if in the sky
prior to the doctrine
of the Greek,
or in the evening darkening over
the patio with
the fig tree and the well.
As they say,
this unpredictable life
can be, among
other things, quite beautiful.
That's how
it was the evening we looked
at you, she
and I--oh, shared moon!
Better than
real nighttime moons, I can
recall the
moons of poetry: the bewitched
dragon moon that thrills one in the
ballad,
and, of course,
Quevedo's bloody moon.
Then there
was that other blood-red moon
John wrote
of in his book of dreadful
prodigies and
terrifying jubilees;
still other
moons are clearer, silvery.
Pythagoras
(according to one tradition)
used blood
to write upon a mirror,
and men read
it by reflection
in that other
mirror called the moon.
There's an
iron forest where a huge wolf
lives whose
strange fate is
to knock the
moon down and murder it
when the last
dawn reddens the sea.
(This is well
known in the prophetic North;
also, that
on that day the ship made out
of all the
fingernails of the dead will spread
a poison on
the world's wide-open seas.)
When in Geneva
or in Zurich once, luck
had it I too
should become a poet,
it imposed
on me, as on the rest, the secret
duty to define
the moon.
By dint of
scrupulous study,
I rang all
the modest changes
under the lively
apprehension that Lugones
might have
used my amber or my sand.
As for exotic
marble, smoke, cold snow-
these were
for moons that lit up verses
never destined,
in truth, to attain
the difficult
distinction of typography.
I thought the
poet such a man
as red Adam
was in Paradise-
he gave everything
its true,
precise, still
unknown name.
Ariosto taught
me that living in
the doubtful
moon are all dreams,
the unattainable,
lost time, all possibles
or impossibles
(they're pretty much the same).
Apollodorus
showed me the magic
shadow of triform
Diana;
Hugo disclosed
its golden sickle;
an Irishman
his tragic moon of black.
So, while I
was poking in this mine
of moons out
of mythologies,
along it came,
around the corner:
the celestial
moon of every day.
Among the words,
I know there's only
one for remembering
or imagining it.
For me the
secret is to use the word
humbly. And
the word is-moon.
Now I don't
dare stain its immaculate
appearance
with one vain image.
I see it as
indecipherable, daily
and apart from
all my writing.
I know the
moon, or the word moon,
is a: character
created for
the complex
inditing of the rare
thing we all
are, multiple and unique.
It's one of
the symbols which fate
or chance gave
man so that
one day in
a glorious blaze, or agony,
he'd learn
to write his own true name.
-Translated
by EDWIN HONIG
Trăng
( Đặng Lệ Khánh)
TRĂNG
Em bước ra vườn,
trăng chảy tràn trên vai
Vườn rất im
không một tiếng thở dài
Chỉ có
con dế quen cất giọng chào đêm tới
Và nước
trong hồ gờn gợn cá gọi mời
Em ngước nhìn
trời, trăng thật sáng, thật trong
Lành
lạnh khuya dâng, mình ôm mình
vào lòng
Trăng cứ lăn
hoài làm sao trăng còn nhớ
Những câu
thề theo trăng rồi tan vào hư không
Em nói
với trăng dù biết trăng rất xa
Những lời dịu
êm em dành cho người ta
Chỉ có
con dế quen và em và đêm biết
Trăng nhẹ nhàng
theo em vào giấc ngủ thêu hoa
Năm rồi năm
đi qua trăng vẫn còn lăn hoài
Trời vẫn rất
trong và đêm vẫn miệt mài
Con dế quen
thôi không còn cất tiếng
Em ôm
vai mình dỗ tròn cơn mộng dài
Thế giới quay
cuồng, đất và trời chuyển rung
Có rất
nhiều tiếng cười, và tiếng khóc chập
chùng
Em vẫn nằm co
người đếm trừu chờ giấc ngủ
Níu một
vầng trăng đã lạnh tuổi thu đông
Đặng Lệ Khánh
The
Charles Eliot Norton Lectures 1967-1968
Trong
bài viết Ẩn Dụ, trong cuốn This
Craft of Verse, Borges có nhắc tới 1
câu thơ, "phản bác" trăng - đây cũng
là ý nghĩa bài thơ Tặng Phẩm, theo GCC,
vì trao cho cả thư viện sách, cùng lúc
trao cho món quà, mù - mà
ông nghĩ là của Plato:
Tớ mong tớ là
đêm để có thể ngắm em của tớ ngủ, với cả ngàn con
mắt!
I wish I were
the night so that I might watch your sleep with a
thousand eyes
Hardy never said much about
writing or the difficulties of it, or the moral difficulties
of it. Kafka said that a writer was doing the devil's work,
writing a wholly inadequate response to the brutishness of
the world, and Hardy increasingly felt this. It's not that
it's an immoral activity or an amoral one; it's just that
the act of creation is something to which the ordinary standards
of human behavior do not apply. Hardy never liked to be touched.
He always walked in the road to avoid brushing against people,
and servants were told never to help him on with his coat and just
to drop the shawl around his shoulders and not tuck him in. The pen
had been his weapon in his struggle for life - and it had been a struggle.
The next poem is a dialogue with
the moon.
Hardy chẳng hề lầu
bầu về viết, hay những khó khăn về viết, hay
khó khăn đạo đức của nó. Kafka phán
nhà văn làm, việc của quỉ, viết trọn một phúc
đáp không thoả đáng về tính
thú vật của thế giới, và Hardy càng ngày
càng cảm thấy đúng như thế.
Không
phải đạo đức, hay không đạo đức, hành động sáng
tạo có 1 điều gì, lũ chó, hay phường mắt
trắng dã, không hiểu được, hay, không áp
dụng được.
Hardy đếch khoái
ai đụng vô ông ta. Cây viết là
vũ khí của ông ta, trong cuộc chiến đấu với
đời – và quả có cuộc chiến đấu đó thực.
Bài thơ sau
đây là 1 cuộc lèm bèm
với trăng.
I Looked Up from My Writing
I looked up from my writing,
And gave a start
to see,
As if rapt in my
inditing,
The moon's full gaze
on me.
Her meditative misty
head
Was spectral in its
air,
And I involuntarily
said,
'What are you doing
there?'
'Oh, I've been scanning
pond and hole
And waterway hereabout
For the body of one
with a sunken soul
Who has put his life-light
out.
'Did you hear his
frenzied tattle?
It was sorrow for
his son
Who is slain in brutish
battle,
Though he has injured
none.
'And now I am curious
to look
Into the blinkered
mind
Of one who wants
to write a book
In a world of such
a kind.'
Her temper overwrought
me,
And I edged to shun
her view,
For I felt assured
she thought me
One who should drown
him too.
Tớ nhìn lên từ trang
viết của mình
Tớ nhìn lên
từ trang viết
Và rất ư hài
lòng vì
cái viết của mình
Và bèn ngắm trăng
Và trăng bèn
dành trọn cái nhìn, đáp
lại tớ
Cái đầu mù
sương mù suy tư của nàng
Thì mới ma mị làm
sao trong cái "air" của nó
Và tớ bèn
vô tình phán,
Em đang làm gì ở trên
ấy?
Ôi, ta đang soi
ao, và hố
Và sông hồ
đâu đây
Để kiếm tìm một
cái xác
Của một kẻ, với linh hồn đắm chìm
Đã trút
cạn ánh sáng cuộc đời của nó
Mi có nghe hắn
lèm bèm khùng điên?
Về nỗi đau buồn đứa con
trai
Chết trong 1 trận đánh
tàn bạo
Dù thằng con chẳng
gây thương tích cho ai
Và bây giờ
ta tò mò muốn nhìn vào
cái đầu mù của mi
Kẻ muốn viết 1 cuốn sách
Trong 1 thế giới khốn
kiếp như thế đó!
Tính khí
của nàng làm tôi mệt nhoài
Và tôi tránh
cái nhìn của nàng
Bởi là vì
tôi cảm thấy
Nàng nghĩ
Tôi cũng là 1 trong số những người
đẩy anh ta tự trầm
JEFFREY HARRISON
Afterword
The maple limb severed
by a December storm
still blossoms in May
where it lies on the ground,
its red tassels a message
from the other side,
like a letter arriving
after its writer has died.
from The New York Times Magazine
Bạt
Bão Tháng Chạp làm cành
thông khô queo
Vậy mà vưỡn cố nở hoa vào Tháng
Năm
Khi nằm trơ cu lơ trên mặt đất
Màu đỏ của hoa đi 1 đường "message"
Từ phía bên kia
Như một lá thư đến muộn
Khi người viết đã ngỏm củ tỏi
Thơ
Joseph Huỳnh Văn, đăng độc nhất
1 lần, khi anh còn sống, trên
tờ báo do anh và bè bạn chủ
trương, và không hề bất cứ 1 nơi nào
khác.
Số báo này, nhờ thi sĩ Hà
Tuệ, tức Nguyễn Tân Văn mà có
lại được. Anh là người lưu giữ thủ bút
mấy bài thơ của Joseph Huỳnh Văn post trên
TV. Joseph ở đây, là tên thánh,
như Joseph Brodsky
Nhã Tập là số Tập San Văn Chương
đầu tiên, khi chưa có tên
Tập San Văn Chương.
Do Joseph Huỳnh Văn là tổng thư ký
toà soạn, nên vì anh mà
Gấu gia nhập & viết cho báo này.
Bài viết về cuốn Bếp Lửa là
để kỷ niệm tình bạn giữa anh và
Gấu, không phải vì ông anh
mà viết, và, một cách nào
đó, là để đưa ra 1 cách đọc khác,
so với cách đọc của Huỳnh Phan Anh, trong lời bạt
cho cuốn sách. Chính TTT yêu cầu HPA viết
lời bạt, như là tiếng nói của người Miền Nam,
Gấu thêm vô, 1 tiếng nói Bắc Kít cho
nó.
Imaginary Beings
Book
The Golem
There
can be nothing accidental in a book dictated
by a divine intelligence, not even the number
of its words or the order of their letters; this was the belief
of the kabbalists, who in their zeal to penetrate God's
arcana devoted themselves to counting, combining, and permuting
the letters of Holy Writ. In the thirteenth century,
Dante declared that every passage of the Bible had a fourfold
meaning: the literal, the allegorical, the moral, and
the anagogical. John Scotus Erigena had already affirmed
that the meanings of the Scripture, more consistent with
the idea of divinity, were infinite, like the colors of the
peacock's tail.
The kabbalists would have approved
of that verdict: one of the secrets they sought
within the divine text was how to create living beings.
It was said of demons that they could shape large, solid
creatures like the camel, but not finely wrought, delicate
ones, and Rabbi Eliezer denied them the ability to produce
anything smaller than a grain of barley. "Golem" was the name
given the man created out of a combination of letters; the
word literally means" an amorphous or lifeless substance."
In the Talmud (Sanhedrin, 65b), we read:
If the righteous desired
it, they could be creators, for it is written that ... [by means
of the Sefer Yetsirah, Book of Creation *], Rabbah created a man,
and sent him to Rab Zera. Rab Zera spoke to him, but received no
answer. Therefore he said unto him: "Thou
art a creature of the magicians. Return to thy dust."
R. Hanina and R. Oshaia spent
every Sabbath eve in studying the "Laws of Creation,"
by means of which they created a third-grown calf,
(a) and ate it. (b)
We owe the fame of the Golem in the West to the
Austrian novelist Gustav Meyrink, who wrote the
following words in the fifth chapter of his dreamlike
work Der Golem:
The original story harks
back, so they say, to the seventeenth century.
With the help of an ancient formula, a rabbi is
said to have put together an automatic man and used
it to help ring the bells in the Synagogue and for all kinds
of other menial work. But he hadn't made it into a proper
man; it was more like a kind of animated vegetable, really.
What life it had, too, so the story runs, only derived from
a magic prescription placed behind his teeth each day, that
drew down to itself what was known as "the free sidereal strength
of the universe." And as, one evening, before evening prayers,
the rabbi forgot to take the prescription out of the Golem's mouth,
the figure fell into a frenzy, and went raging through the
streets like a roaring lion, seeking whom it might devour.
At last the rabbi was able to secure it, and he then destroyed the
formula. The figure fell to pieces. The only record left of it was
the miniature clay figure that was shown to the people within the
old Synagogue.
Eleazar of Worms has preserved
the formula for making a Golem. The details of
the enterprise require twenty-three columns in folio
and demand that the maker know" the alphabets of the
two hundred twenty-one gates" that must be repeated over
each of the Golem's organs. On its forehead one must tattoo
the word "EMET" which means "truth." In order to destroy
the creature, one would efface the first letter, leaving the
word "MET," which means "death."
* "By means of mystic combinations of the Divine
Name [Talmudic note].
(a) I.e., a calf that has reached one-third of
its full growth; others interpret: (i) in its
third year;
(b) Similarly, Schopenhauer writes: "On page 325
of the first volume of his Zauberbibliothek Horst
summarizes in the following way the doctrine of
the English visionary Jane Leade: 'Whosoever possesses magical
power may, at his will, rule and renew the mineral, plant, and
animal kingdoms; thus, if a few wizards came to an agreement,
all Creation might return to its paradisal state.'" (On the
Will in Nature, VII)
Đọc/Viết
mỗi ngày
A Critic at Large October 10,
2016 Issue
Karl
Marx, Yesterday and Today
The nineteenth-century philosopher’s
ideas may help us to understand the economic and political
inequality of our time.
Mác,
Hôm Qua và Hôm Nay
Xừ lủy vưỡn chưa lầm,
vưỡn còn đúng, và có thể giúp chúng ta
làm thịt lũ con hoang của xừ lủy, là lũ
Mít Bắc Kít!
By Louis Menand
http://www.newyorker.com/magazine/2016/10/10/karl-marx-yesterday-and-today
He is not
wrong yet.
The Charles
Eliot Norton Lectures 1967-1968
http://tanvien.net/new_daily_poetry/5.html
Fernando PESSOA & Co.
TO TRAVEL!
TO CHANGE COUNTRIES
To travel! To change countries!
To be
forever someone else,
With a
soul that has no roots,
Living
only off what it sees!
To belong not even to me!
To go
forward, to follow after
The absence
of any goal
And any
desire to achieve it!
This is what I call travel.
But there's
nothing in it of me
Besides
my dream of the journey.
The rest
is just land and sky.
20 SEPTEMBER 1933
Du
lịch!
Thay đổi
xứ sở
Du lịch! Thay đổi xứ sở
Là
1 kẻ nào đó, mãi mãi,
suốt đời.
Với một
linh hồn không gốc rễ
Nhìn
thấy gì, sống thế đó.
Đếch thuộc về, ngay cả tôi
Tới, tới
tới mãi
Hoặc theo
sau
Cái
vắng bóng của bất cứ mục tiêu,
Hay bất
cứ ước mong, để mà
Hoàn
tất, thành tựu.
Đó, tôi gọi du
lịch.
Nhưng
chẳng có cái chó gì ở
bên trong tôi
Ngoài
giấc mộng về chuyến đi
Cái
còn lại, là đất và trời.
THE CHILD THAT LAUGHS
IN THE STREET
The child that laughs in the
street,
The song
one hears by chance,
The absurd
picture, the naked statue,
Kindness
without any limit –
All this exceeds the logic
Imposed
on things by reason,
And it
has something of love,
Even if
this love can’t speak
4 OCTOBER 1934
Đứa trẻ cười ngoài phố
Đứa trẻ cười ngoài phố
Bản nhạc
tình cờ nghe
Bức hình
phi lý, pho tượng khỏa thân
Tất cả
những cái này thì vượt quá
lô gíc -
Thứ khốn đó đặt để lên
sự vật bằng lý trí
Và
còn điều này:
Nó
có cái gì đó của tình
yêu
Dù
tình yêu câm,
Đếch nói
ra được.
ALMOST ANONYMOUS
YOU SMILE
Almost anonymous you smile
And the
sun gilds your hair
Why is
that, to be happy
We cannot
know we are?
Hầu như vô danh,
em mỉm
cười.
Hầu như vô danh, em mỉm cười.
Và
mặt trời rát vàng tóc em.
Phải vậy
không, để được hạnh phúc,
Chúng
ta không thể biết, chúng ta là?
23 SEPT 1932
SOME MUSIC
Some music, any music at all
As long
as it cures my soul
Of this
uncertainty that longs
For some
kind, any kind of calm
Some music – a guitar, fiddle,
Accordion
or hurdy-gurdy…
A quick,
improvised melody…
A dream
without ant riddle…
Something life has no part in
it
Fado,
bolero, the frenzy
Of the
dance that just ended…
Anything
not to feel the heart!
Auden
thought of poetry as dual: poetry as song,
poetry as truth. It's perhaps this that, in his poem
Their Lonely Betters', written in 1950, made him sceptical
of birds who sing without feeling and with no regard for truth.
Auden nghĩ
thơ thì lưỡng, kép, có đôi:
thơ như bài hát, bài ca;thơ như
sự thực.
Có
lẽ vì thế, mà trong bài thơ dưới
đây, cho thấy, ông hoài nghi chim chóc,
chúng hát, mà không có
"feeling" cái con mẹ gì, và cũng đếch
thèm để ý đến sự thực!
Their Lonely Betters
As I listened
from a beach-chair in the shade
To all the
noises that my garden made,
I t seemed
to me only proper that words
Should be
withheld from vegetables and birds.
A robin with
no Christian name ran through
The Robin-Anthem
which was all it knew,
And rustling
flowers for some third party waited
To.say which
pairs, if any, should get mated.
Not one of
them was capable of lying,
There was
not one which knew that it was dying
Or could have
with a rhythm or a rhyme
Assumed responsibility
for time.
Let them leave
language to their lonely betters
Who count
some days and long for certain letters;
We, too, make
noises when we laugh or weep:
Words are
for those with promises to keep.
Auden died
in Vienna in 1973, when he was only sixty-six, but it
would be hard to say his work was not finished. His output
had been prodigious, and he went on working right until
the end in a routine that was every bit as rigid as that of
Housman, whom he so briskly diagnosed when he was a young
man (,Deliberately he chose the dry-as-dust, / Kept tears
like dirty postcards in a drawer'). But you're no more likely
to find consistency in a writer than you would in a normal
human being. Besides, as Auden himself said: 'At thirty I tried
to vex my elders. Past sixty it's the young whom I hope to bother.'
I would be hard put to say what a great poet is, but part of it,
in Auden's case, is the obscurity with which I started. If his life
has to be divided into two parts, there are great poems in both.
Perhaps he was too clever for the English. Bossy
and not entirely
likeable, when he died his death occasioned less
regret than that of Larkin or Betjeman, though he was the
greater poet. This would not have concerned him as he
was not vain: criticism seldom bothered him nor did he covet
praise or money. And though he would have quite liked the
Nobel Prize, all he demanded at the finish was punctuality.
I'll end with the final part of the poem Auden wrote in
memory of
another poet, W. B. Yeats, who died in January 1939.
The last two lines are inscribed on Auden's memorial in
Westminster Abbey.
Hai dòng
thơ chót bài thơ tưởng niệm Yeats
được khắc trên mộ bia của Auden.
In
the prison of his days
Teach the
free man how to praise.
Bài thơ thần sầu
này mở ra cõi thơ của Brodsky, như David Remnick viết:
Hai đoạn thơ sau đây của
Auden đã làm ông "ngộ"
ra:
Time that is intolerant
Of the brave
and innocent,
And indifferent
in a week
To a beautiful
physique,
Worships language and forgives
Everyone
by whom it lives;
Pardons cowardice,
conceit,
Lays its
honor at their feet.
Thời gian vốn không khoan
dung
Đối với những
con người can đảm và thơ ngây,
Và
dửng dưng trong vòng một tuần lễ
Trước cõi
trần xinh đẹp,
Thờ phụng ngôn ngữ và
tha thứ
Cho những
ai kia, nhờ họ, mà nó sống;
Tha thứ sự
hèn nhát và trí trá,
Để vinh quang
của nó dưới chân chúng.
Auden
Ông bị xúc động
không hẳn bởi cách mà
Auden truyền đi sự khôn ngoan - làm
bật nó ra như trong dân ca - nhưng bởi
ngay chính sự khôn ngoan, ý nghĩa này:
Ngôn ngữ là trên hết, xa xưa lưu tồn
dai dẳng hơn tất cả mọi điều khác, ngay cả thời gian
cũng phải cúi mình trước nó. Brodsky
coi đây là đề tài cơ bản, trấn ngự của
thi ca của ông, và là nguyên lý
trung tâm của thơ xuôi và sự giảng dạy
của ông. Trong cõi lưu đầy như thế đó,
ông không thể tưởng tượng hai mươi năm sau, khăn
đóng, áo choàng, ông bước lên
bục cao nơi Hàn lâm viện Thụy-điển nhận giải Nobel
văn chương, nói về tính độc đáo của văn
chương không như một trò giải trí, một dụng
cụ, mà là sự trang trọng, bề thế xoáy vào
tinh thần đạo đức của nhân loại. Nếu tác phẩm của ông
là một thông điệp đơn giản, đó là điều
ông học từ đoạn thơ của Auden: "Sự chán chường, mỉa
mai, dửng dưng mà văn chương bày tỏ trước nhà
nước, tự bản chất phải hiểu như là phản ứng của cái thường
hằng - cái vô cùng - chống lại cái nhất
thời, sự hữu hạn. Một cách ngắn gọn, một khi mà nhà
nước còn tự cho phép can dự vào những công
việc của văn chương, khi đó văn chương có quyền can thiệp
vào những vấn đề của nhà nước. Một hệ thống chính
trị, như bất cứ hệ thống nào nói chung, do định nghĩa,
đều là một hình thức của thời quá khứ muốn áp
đặt chính nó lên hiện tại, và nhiều khi
luôn cả tương lai..."
from In Memory of W B. Yeats
(d. Jan. /939)
Earth, receive
an honoured guest:
William Yeats
is laid to rest.
Let the Irish
vessel lie
Emptied of
its poetry.
Time that
is intolerant
Of the brave
and innocent,
And indifferent
in a week
To a beautiful
physique,
Worships language
and forgives
Everyone by
whom it lives;
Pardons cowardice,
conceit,
Lays its honours
at their feet.
Time that
with this strange excuse
Pardoned Kipling
and his views,
And will pardon
Paul Claudel,
Pardons him
for writing well.
In the nightmare
of the dark
All the dogs
of Europe bark,
And the living
nations wait,
Each sequestered
in its hate;
Intellectual
disgrace
Stares from
every human face,
And the seas
of pity lie
Locked and
frozen in each eye.
Follow, poet,
follow right
To the bottom
of the night,
With your
unconstraining voice
Still persuade
us to rejoice;
With the farming
of a verse
Make a vineyard
of the curse,
Sing of human
unsuccess
In a rapture
of distress;
In the deserts
of the heart
Let the healing
fountain start,
In the prison
of his days
Teach the
free man how to praise.
http://tanvien.net/Dayly_Poems/Auden.html
Tưởng niệm Yeats
I
Nhà
thơ biến mất vào cái chết mùa
đông
Những con
suối đóng băng, những phi trường gần như bỏ
hoang
Và
tuyết huỷ hoại những pho tượng công cộng
Thời tiết
chìm vào trong miệng của ngày
chết
Ôi,
tất cả những công cụ thì đều đồng ý
Ngày
nhà thơ mất đi là một ngày lạnh
giá, âm u.
Thật xa sự
bịnh hoạn của ông
Những con
chó sói băng qua những khu rừng xanh
rờn
Con sông
nơi quê mùa chẳng bị cám dỗ bởi
những bến cảng sang trọng
Bằng những
giọng tiếc thương
Cái
chết của thi sĩ được tách ra khỏi những bài
thơ của ông.
Nhưng với
ông, thì đây là buổi chiều
cuối cùng, như chính ông
Một buổi chiều
với những nữ y tá và những tiếng xầm
xì;
Những địa
phận trong cơ thể ông nổi loạn
Những quảng
trường trong tâm trí ông thì
trống rỗng
Sự im lặng
xâm lăng vùng ngoại vi
Dòng
cảm nghĩ của ông thất bại: ông trở thành
những người hâm mộ ông
Bây
giờ thì ông phân tán ra
giữa hàng trăm đô thị
Với trọn một
mớ cảm xúc khác thường;
Tìm
hạnh phúc của ông ở trong một cảnh rừng
khác
Bị trừng phạt
bởi một luật lệ ngoại về lương tâm.
Nhưng trong
cái quan trọng và tiếng ồn của ngày
mai
Khi đám
brokers gầm rú như những con thú ở
sàn Chứng Khoán,
Và
những người nghèo đau khổ như đã từng
quen với đau khổ,
Và
mỗi kẻ, trong thâm tâm của chính
kẻ đó, thì hầu như đều tin tưởng ở sự
tự do của nhà thơ;
Và
chừng vài ngàn người sẽ nghĩ về ngày
này
Như 1 kẻ nghĩ
về một ngày khi một kẻ nào đó
làm một điều không giống ai, khác
lệ thường
Ôi,
bao nhiêu công cụ thì đều đồng
ý
Ngày
nhà thơ ra đi thì là một ngày
âm u, giá lạnh
II
Bạn thì
cũng cà chớn như chúng tớ: Tài
năng thiên bẩm của bạn sẽ sống sót điều
đó, sau cùng;
Nào
cao đường minh kính của những mụ giầu có,
sự hóa lão của cơ thể.
Chính
bạn; Ái Nhĩ Lan khùng đâm bạn
vào thơ
Bây
giờ thì Ái Nhĩ Lan có cơn khùng
của nó, và thời tiết của ẻn thì
vưỡn thế
Bởi là
vì thơ đếch làm cho cái chó
gì xẩy ra: nó sống sót
Ở trong thung
lũng của điều nó nói, khi những tên
thừa hành sẽ chẳng bao giờ muốn lục lọi; nó
xuôi về nam,
Từ những trang
trại riêng lẻ và những đau buồn bận
rộn
Những thành
phố nguyên sơ mà chúng ta tin
tưởng, và chết ở trong đó; nó sống sót,
Như một cách
ở đời, một cái miệng.
III
Đất, nhận
một vị khách thật là bảnh
William Yeats
bèn nằm yên nghỉ
Hãy
để cho những con tầu Ái nhĩ lan nằm nghỉ
Cạn sạch thơ
của nó
[Irish vessel,
dòng kinh nguyệt Ái nhĩ lan, theo nghĩa
của Trăng Huyết của Minh Ngọc]
Thời gian
vốn không khoan dung
Đối với những
con người can đảm và thơ ngây,
Và
dửng dưng trong vòng một tuần lễ
Trước cõi
trần xinh đẹp,
Thờ phụng
ngôn ngữ và tha thứ
Cho những
ai kia, nhờ họ, mà nó sống;
Tha thứ sự
hèn nhát và trí trá,
Để vinh quang
của nó dưới chân chúng.
Thời gian
với nó là lời bào chữa lạ kỳ
Tha thứ cho
Kipling và những quan điểm của ông ta
Và
sẽ tha thứ cho… Gấu Cà Chớn
Tha thứ cho
nó, vì nó viết bảnh quá!
Trong ác
mộng của bóng tối
Tất cả lũ
chó Âu Châu sủa
Và
những quốc gia đang sống, đợi,
Mỗi quốc gia
bị cầm tù bởi sự thù hận của nó;
Nỗi ô
nhục tinh thần
Lộ ra từ mỗi
khuôn mặt
Và
cả 1 biển thương hại nằm,
Bị khoá
cứng, đông lạnh
Ở trong mỗi
con mắt
Hãy
đi thẳng, bạn thơ ơi,
Tới tận cùng
của đêm đen
Với giọng
thơ không kìm kẹp của bạn
Vẫn năn nỉ
chúng ta cùng tham dự cuộc chơi
Với cả 1 trại
thơ
Làm
1 thứ rượu vang của trù eỏ
Hát
sự không thành công của con người
Trong niềm
hoan lạc chán chường
Trong sa mạc
của con tim
Hãy
để cho con suối chữa thương bắt đầu
Trong nhà
tù của những ngày của anh ta
Hãy
dạy con người tự do làm thế nào ca tụng.
NGUYỄN LƯƠNG VỴ
PHỐ CŨ DƯƠNG CẦM THU
Lá vàng rơi thương
tưởng Dương Cầm Thu
Phố ươm
nắng vàng câm. Âm biếc nắng
Bờ bến
gọi. Thức tròn mùa xa vắng
Em đi
đâu?! Dương cầm réo sông xa
Dương Cầm Thu ngấm men rượu Hoàng
Hoa
Phố
thầm nhắc một mái lầu phong nguyệt
Màu
cổ điển. Rằm phơi âm bất tuyệt
Em đi
đâu?! Cỏ ướt khúc tình sầu
Dương Cầm Thu tóc xõa
Dương Cầm Nâu
Phố khuya
hát ngàn sông. Rêu nhớm
rễ
Âm
níu Nhạc. Ngàn sông bay nắng xế
Để ngàn
khuya tan theo Dương Cầm Thu
Muốt tay em mềm hết dấu sương mù
Phố điêu
khắc. Dương Cầm Thu chín đỏ
Lá
say hết âm vang chìm đáy mộ
Nắng vàng
câm. Âm biếc nắng nhớ nhau
Nắng vàng câm. Vang
bóng đến ngàn sau
Phố ngực
nõn dậy thì trăng ướt mượt
Phím
chất ngất. Dương Cầm Thu hẹn ước
Trăng
gọi nước xuôi ngàn. Đàn vang bước
em đi…
8/2005
Quả là một khúc thần
sầu. Chất viril [chất đực], chất eros [chất
huê tình], chất sauvage [dã
man, tàn bạo]... nhưng cũng thật thơ mộng:
Em đi đâu, cỏ ướt khúc
tình sầu.
Thơ NLV
âm vang thơ của những bậc đi trước ông.
Rõ
nhất, là Joseph Huỳnh Văn, rồi tới Bùi
Giáng, rồi tới Thanh Tâm Tuyền [chất
đàn ông, hung bạo mà cả hai đấng
kia không hề có].
Có
lần, Gấu thú thực, chưa tìm ra chìa
khoá vô cõi thơ NLV. Có
NTN, lần anh viếng thăm Mẽo, và nhà thơ
này gật gù, đúng, mỗi cõi
thơ là mỗi chìa khoá. Thơ của tôi,
chìa khoá nằm ở mãi cõi Thơ
Đường.
Nói
chung, thơ của mấy ông này, chìa
khóa thì đều nằm trong Cõi Điên
cả. (2)
Nhã Tập
Thơ
Joseph Huỳnh Văn, đăng độc nhất 1 lần, khi anh
còn sống, trên tờ báo do anh
và bè bạn chủ trương, và không
hề bất cứ 1 nơi nào
khác.
Số báo này,
nhờ thi sĩ Hà Tuệ, tức Nguyễn Tân
Văn mà có lại được. Anh là người lưu
giữ thủ bút mấy bài thơ của Joseph Huỳnh Văn
post trên TV. Joseph ở đây, là tên
thánh, như Joseph Brodsky
Những tóc hoài
trên đồi
Áo chàm
xưa vắng dấu sương mờ
Một ngày
trót thương nhau không nắng
suối hiền mơ
Nuôi xanh
mãi vầng trăng
mưa trầm lắng
kết tóc
hoài trên đồi
chiều đạm bạc xa
nhau không biết nói
nhớ người
dõi núi
thuở tàn trăng
Joseph Huỳnh Văn
Tưởng Niệm Joseph Huỳnh Văn
Joseph HV-Đỗ Long Vân
Lần Giỗ Thứ Muời, 2005
Joseph
Huỳnh Văn là một thi sĩ. Chúng tôi
quen nhau những ngày làm Tập san Văn
chương. Có Nguyễn Tử Lộc, đã chết vì
bệnh tại Sài-gòn ít lâu sau
75. Phạm Hoán, Phạm Kiều Tùng, Nguyễn Đạt,
Nguyễn Tường Giang... Huỳnh Văn là Thư ký Tòa
soạn. Không có Phạm Kiều Tùng, tập san
không có một ấn loát tuyệt hảo. Nguyễn Đông
Ngạc khi còn sống vẫn tự hào về cuốn Những Truyện
Ngắn Hay Nhất Của Quê Hương Chúng Ta (Hai Mươi Năm
Văn Học Miền Nam) do anh xuất bản, Phạm Kiều Tùng, Phạm Hoán
lo in ấn, trình bày. Bạn lấy đầu một cây
kim chấm một đầu trang. Dấu chấm đó sẽ xuyên suốt
mọi đầu trang thường của cuốn sách. Không có
Nguyễn Tường Giang thì không đào đâu
ra tiền và mối thiện cảm, độc giả, thân hữu quảng cáo
dành cho tập san. Những bài khảo luận của Nguyễn Tử
Lộc và sở học của anh chiết ra từ những dòng thác
ngầm của nhân loại - dòng văn chương Anglo-Saxon - làm
ngỡ ngàng đám chúng tôi, những đứa
chỉ mê đọc sách Tây, một căn bệnh ấu trĩ nhằm
tỏ sự khó chịu vì sự có mặt của những quân
nhân Hoa-kỳ tại Miền Nam.
Huỳnh Văn với lối nói
mi mi tau tau là chất keo mà một người Thư ký Tòa
soạn cần để kết hợp anh em. Bây giờ nghĩ lại chính thơ anh mới
là tinh thần Tập San Văn Chương. Đó là nơi xuất hiện
Cầm Dương Xanh , những bài thơ đầu mà có lẽ cũng là
cuối của anh. Bởi vì sau đó, anh không đăng thơ nữa,
tuy chắc chắn vẫn làm thơ, hoặc tìm thấy thơ trên những
vân gỗ, khi anh làm nghề thợ mộc, những ngày sau 75,
thay cho nghề bán cháo phổi, những ngày trước đó.
"Mỗi thời đại, con
người tự chọn mình khi đứng trước tha nhân,
tình yêu, và cái chết."
(Sartre, Situations). Trong thơ Nguyễn Bắc Sơn, tha
nhân là những người ở bên kia bờ địa ngục,
và chiến tranh chỉ là một cuộc rong chơi. Nguyễn
Đức Sơn tìm thấy Cửa Thiền ở một nơi khác, ở Đêm
Nguyệt Động chẳng hạn. Thanh Tâm Tuyền muốn trút
cơn đau của thơ vào thiên nhiên:
Mùa này
gió biển thổi điên lên lục
địa...
Còn Huỳnh Văn,
có vẻ như anh chẳng màng chi đến
cuộc chiến, hoặc cuộc chiến tránh né
anh. Tinh thần mắt bão của thiên nhiên
thời tiết, hay tinh thần mắt nghe, l'oeil qui écoute,
của Maurice Blanchot?
Ôi khúc
Cầm Dương sầu quí phái
Đàn ai xanh ngát Trời
Tây Phương.
Thơ anh là một ngạc nhiên,
hồi đó.
Và tôi vẫn còn ngạc
nhiên, bây giờ, khi được tin anh mất. (1)
Khi liên tưởng đến câu thơ
của một người bạn:
Hồn Đông Phương thất lạc buồn
Phương Tây
(thơ TKA)
Tôi không biết có
phải Trời Tây Phương của anh lấy từ ý
thơ cổ:
Vọng Mỹ Nhân hề, thiên
nhất phương
(Có thể mượn ý niệm "con
người hoàn toàn" (l'homme total),
hay giấc đại mộng của Marx, làm nhịp cầu liên
tưởng, để thấy rằng những Mỹ Nhân, Đấng Quân
Vương, Thánh Chúa... trong thi ca Đông
Phương không hẳn chỉ là những giấc mộng điên
cuồng của thi sĩ):
Vọng Mỹ nhân
hề, thiên nhất phương
Vọng Mỹ nhân hề, vị lai
Đọc trong nước, có
vẻ như Thơ đang trên đường đi tìm
một Mỹ nhân cho cả ngôn ngữ lẫn cuộc đời.
Và Buồn Phương
Tây, có thể từ ý thơ Quang
Dũng:
Mắt em dìu dịu buồn Tây
Phương
(Tây Phương trong thơ Quang Dũng
là Tây Phương Cực Lạc của một cõi
Chùa Thầy, Sơn Tây, và cũng còn
là vẻ đẹp của các cô thiếu nữ vùng
này).
Hay Tây Phương
là cõi lưu đầy của lũ chúng
tôi mà Joseph Huỳnh Văn đã nhìn
thấy từ bao năm trước:
Khuya nức nở những cõi
lòng không ngủ
Đợi vì sao dậy sớm tiễn người
đi.
-Tau đây này. Nhớ mi
quá!
Nguyễn Quốc Trụ
(1) Joseph Huỳnh Văn
Hiến mất ngày 20/2/1995 tại Sài
Gòn.
Thi sĩ ngồi bên ly cà phê
chôm hai câu thơ của Joseph, ở đây.
Không hiểu sao hai câu
thơ của Joseph Huỳnh Văn trích dẫn
trên lại cứ lởn vởn trong đầu óc Nguyễn tôi những
ngày gần đây. Có phải giờ này
gió mùa đang thổi trên khắp quê
nhà, gợi lại những chuyến đi? Hay ngọn gió
Santa Ana đang thổi suốt dọc giải đất Cali, làm dậy
lên tiếng những chiếc phong linh bằng đất nung khua chạm
vào nhau? Le vent se lève… Gió đã
lên… Gió đã lên rồi… hãy thử
sống xem sao?...
Vậy đó, hai câu
thơ gợi những âm vang. Kẻ viết những dòng
này đã đọc khá nhiều thơ của
Joseph Huỳnh Văn -những bài thơ nửa tượng trưng nửa
siêu thực, những bài cầm dương xanh sầu quý
phái- nhưng không hiểu sao hai câu
thơ bình dị nói trên bỗng dưng lại có
mê lực đưa lòng mình vào tưởng
nhớ mông lung. Hai câu thơ thật giản dị nhưng khơi
gợi nhiều quá. Phải chăng nó đã động phải
những tầng sâu thẳm nào đó tận dưới đáy
hồn -và đáy thời gian.
Nhưng thôi hãy
gượm. Trước khi nói về thơ, xin hãy
nói về người. Con người đó là
Joseph Huỳnh Văn. Nguyễn được đọc và nghe tên anh
từ hồi tạp chí Thời Tập của Viên Linh. Joseph
Huỳnh Văn. Cái tên lạ, nửa Tây nửa Ta,
nhưng rồi cũng trở nên quen thuộc.
NXT
-Tau đây này. Nhớ mi quá!
NQT
Thơ Mỗi Ngày
Chúc vui, khỏe, và
thanh thản trong mùa lễ cuối năm
. (1)
Và
gởi bài thơ cho GNV :
Đọc giữa hai hàng chữ
Hình như lúc em
được tượng hình
Thượng
Đế đang ngồi nhìn mông mênh
Lỡ tay
đánh vỡ đôi mắt ngọc
Đành
nhặt sương đôi hạt rơi quanh
Mắt em từ đó chẳng bao
giờ
Nhìn
cho thật rõ với người ta
Trần gian
bỗng trở thành thi vị
Những
hình, những bóng nhẹ nhàng qua
Thuở bé mẹ dắt tay cổ
tích
Trong
vườn đâu thấy những gai đâm
Đâu
thấy sâu nằm trong tơ kén
Chỉ thấy
hoa và bướm bâng khuâng
Anh cứ viết mực màu đen
mướt
Chữ kẽm
gai trên giấy đỏ tươi
Cứ việc
nhắc những ngày lạnh buốt
Qua mắt
em chỉ thấy mặt trời.
K
Tks. NQT
(1)
Note: Giáng Sinh 2011
TREATISE ON EMPTINESS
In a bookstore I accidentally
ended up at the section on Tao, or
more precisely,
by the Treatise on Emptiness.
I rejoiced,
since that day I was perfectly empty.
What an
unexpected meeting-the patient finds the doctor,
the doctor
doesn't speak.
Adam Zagajewski
Luận về Lủng
Trong một tiệm sách,
vào lúc tính chuồn, tôi thấy mình ở khu
Tao, hay
chính
xác hơn, vớ được cuốn Luận về Lủng.
Tôi
sướng điên lên, thế là
từ này mình hoàn toàn
trống rỗng.
Đúng
là 1 cuộc gặp gỡ không chờ đợi –
Bịnh
nhân kiếm thấy bác sĩ,
Bác
sĩ đếch thèm phán cái
chó gì cả
AGAINST WHATEVER IT IS THAT'S
ENCROACHING
Best of all is to be idle,
And especially
on a Thursday,
And to
sip wine while studying the light:
The way
it ages, yellows, turns ashen
And then
hesitates forever
On the
threshold of the night
That could
be bringing the first frost.
It's good to have a woman around
just then.
And two
is even better.
Let them
whisper to each other
And eye
you with a smirk.
Let them
roll up their sleeves and unbutton their shirts a
bit
As this
fine old twilight deserves.
And the small schoolboy
Who has
come home to a room almost dark
And now
watches wide-eyed
The grown-ups
raise their glasses to him.
The giddy-headed,
red-haired woman
With eyes
tightly shut.
As if
she were about to cry or sing.
Chống lại bất cứ cái chi đang xâm
lấn
Bảnh nhất trong tất cả, là
ườn ra, đếch làm cái chó
gì
Và
đặc biệt là vào bữa Thứ Năm
Nhâm
nhi ly rượu chát trong khi ngâm kíu
ánh sáng:
Cách
mà nó già đi, trở nên
vàng, rồi xám tro, và sau đó,
ngần ngừ
hoài ở ngưỡng đêm
Điệu này
là thể nào cũng có đợt sương
mù đầu mùa.
Tốt, là có 1 em
quanh quẩn bên Gấu
Hai em
thì còn gì bằng.
Để cho
họ thì thầm giữa họ mí nhau
Và
nhìn Gấu, điệu ơi là điệu!
Hãy
để cho hai em cuốn tay áo, buông lơi
một, hai cái nút
Như buổi
chạng vạng tuyệt vời này xứng đáng được
chiêm ngưỡng.
Cậu học trò nhỏ tuổi
Trở về
nhà, vô căn phòng hầu như đã
tối
Và,
trố mắt nhìn
Những
kẻ lõi đời nâng ly mời chú
Và
người đàn bà tóc đỏ, đầu lảo
đảo,
Với cặp
mắt nhắm tít,
Như thể
em sắp khóc, hoặc, hát.
Mit Critic
Ông cũng không phải
là
nhà phê bình văn học
như ông Cuốc Kức thì
làm sao mà đòi đào
mả tên tuổi các ông
bà nhà văn nhà thơ hải
ngoại.
LB
Tất cả
những nhà văn nhà thơ hải ngoại, do GCC lưu
vong trễ, vừa ra được 1 phát là đều tìm
cách làm quen, như đã kể, nhiều
lần.
Diễn đàn
nào Gấu cũng đều có mặt, có
thể nói, nào talawas, nào hậu
vệ, nào cánh én, nào gió
đông...
Chỉ đến
khi cả 1 bầy chó xúm lại tính
làm thịt con sói cô đơn, Gấu mới
đành phải bò về núi Tản Viên.
Nhưng, vấn
đề ở đây, là, cái gì làm
cho lũ khốn này khốn nạn như thế?
Đạo hạnh,
đúng như Brodsky chỉ ra.
Đạo hạnh
liên quan đến đẳng cấp, đến sống sót,
đến Cái Đẹp Cứu Chuộc Thế Giới.
Một khi
bạn viết ra hay đọc được bản văn, 1 bài thơ, cực
bảnh là bạn
biết rằng cái giờ phán quyết cuối
cùng đã được vặn lui đi 1 phút
phù du!
Đó
là ý nghĩa bài thơ Bài
Thơ Chống Lại Tận Thế của Szymborska
Wislawa Szymborska's "Vermeer"
A poem against the apocalypse
Một bài
thơ chống lại Tận Thế
Aug 27th 2010, 16:53 by More Intelligent
Life, A.R. | NEW YORK
I HAPPENED upon this poem on
the New York Review of Books's website, and
was startled by how beautifully Wislawa Szymborska
captures the dance between motion and stillness in Vermeer's
"The Milkmaid"—a moment frozen yet continually happening.
Vermeer
So long as that woman from the Rijksmuseum
in painted
quiet and concentration
keeps pouring
milk day after day
from the
pitcher to the bowl
the World
hasn’t earned
the world’s
end.
I love the shape of the poem—it thins
like a stream of milk, pouring itself out.
I also love the tension she sets up between the "W"
and the "w", which appears hierarchical but is also slippery.
"Vermeer", Wislawa Szymborska, translated
from the Polish by Clare Cavanagh and Stanislaw
Baranczak
Note: Bài thơ này, TV
đã post, nay chỉ post thêm lời bình của tay Prospero.
Bản tiếng
Việt, của TV, cũng phân biệt ra hai từ "W", và
"w".
GNV cũng
đọc nó trên tờ NYRB, như Prospero.
Thế mới
thú chứ!
Một khi mà người đàn
bà ở trong bức tranh ở viện bảo tàng
Rijksmuseum
vẫn trầm
lắng và chú tâm
rót
sữa mỗi ngày từ cái bình ra
cái bát,
thì
Thế Giới vưỡn chưa có được cái sự tận
cùng của thế giới.
Source
I love the shape
of the poem—it thins like a stream of milk,
pouring itself out. I also love the tension she sets up
between the "W" and the "w", which appears hierarchical
but is also slippery.
Tôi
mê cái dáng của bài
thơ - mỏng như sợi sữa, tự nó đổ nó ra,
chẳng cần tới ai. Tôi cũng mê sức căng mà
thi sĩ tạo ra, giữa W và w, nó làm
lộ ra đẳng cấp nhưng cũng còn làm lộ ra sự trơn
trượt.
Có
thể nói, như trường hợp NXT trên đây,
nhà văn nhà thơ hải ngoại nào,
Gấu cũng mặt dày tìm cách làm
quen trước!
Cái
băng đảng văn học đầu tiên, ra hải ngoại Gấu
mặt dày làm quen, là băng đảng ở Montreal.
Gấu đang sinh hoạt VHNT
lé, lác
xệch, trợn ngược cả mắt lên, vì nền
VHNT hải ngoại!
To be a litterateur
is to live under the sign of mere intellect, just as
prostitution is to live under the sign of mere sex.
[W. Benjamin: Schriften
II, 179].
Just as a prostitute
betrays love, a litterateur betrays the mind.
Hannah Arendt: Tựa,
cho cuốn Illuminations của Walter Benjamin.
[Nhà văn sống
với chữ, thì cũng giống như bướm sống với cái
số ta.
Và nếu như thế,
bướm phản bội tình yêu, cũng như nhà
văn phản bội cái đầu của mình].
Hồi mới
qua, nhân đám này xuống Toronto
chơi, ăn uống ở nhà 1 người bạn, dân địa
phương, Nguyễn Tiến Văn kéo Gấu tới, Gấu cũng
ngại, anh nói, ngại cái gì, phải thế
thì mới "dấn thân, kíu nước Mít....
" được chứ, Gấu nghe có lý, bèn
tới, và ngay lần gặp đầu tiên như thế, Gấu hỏi thẳng,
có phải tờ báo của các anh là của
Mặt Trận. Một anh trong bọn, nhận liền. Cảm động vì sự
chân thực của anh, Gấu bèn viết cho tờ báo
này, thay vì tờ LV ở Toronto.
Bài
điểm cuốn Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo
Ninh, đăng lần đầu ở
Nắng Mới, của băng đảng này.
Rồi mấy
bài thơ. Rồi nhận làm MC quảng cáo
sách, thơ của băng này.
Nhớ, lần
Hoàng Ngọc Hiến đi Mẽo nhận tiền Xịa "vẽ bộ mặt
lưu vong" của Mít, trong lần về Hà Nội,
Gấu được ông tặng copy bài viết, cảm tình
tri ngộ, Gấu cho đăng, trên Tin Văn và cùng
lúc trên Việt Báo.
Đấng Song
Thao, thuộc băng này, vì được HNH xoa
đầu tới quá, bèn lôi về trang
của anh ta, nhưng thanh minh thanh nga, [chắc là
vì
sợ bị lũ chống cộng điên cuồng xin tí huyết,
vì
dám quen VC ?],
tôi không có quen ông này,
nhưng thấy bài này đăng ở Việt Báo nên
lôi về.
Anh ta biết
rõ ràng, từ nguồn Tin Văn, nhưng vờ.
Đạo hạnh
như thế, làm sao…. mỹ?
Đấng ST, chuyên
viết phiếm, đọc ba chớp ba nhoáng báo
lá cải của mũi lõ, rồi phăng ra, nghe nói
đã sản xuất, vài ba tá, tác phẩm.
Bạn của ông,
là Du Tử Cà gọi, đây là
võ công Ba Tư, Càn Khôn Đại
Nã Di cái con mẹ gì đó, kinh thế!
Canada còn
1 ông nữa, cũng chuyên viết kiểu này,
và giữ 1 mục tạp ghi cho 1 tờ báo ở Mẽo.
Một bữa, gấp quá, không kịp sào nấu,
phăng phiếc, ông
chơi đại 1 bài viết của 1 nữ tác giả.
Bà này,
bạn cho biết, bèn la lên, và giải thích,
tôi đâu có muốn la, nhưng ông
ta có cả 1 lố tác phẩm, nếu không
la lên, thì người ta lại nghĩ, tôi mới
là kẻ cắp!
Thú
nhất, là, ông này, viết thư xin
lỗi, và thú thực, đúng như GCC vừa
kể lại!
Cái
kiểu viết này, vào thời internet,
viết hoài còn hoài. Đừng nghĩ là
GCC phán, cả 1 lũ ăn cắp, nhưng mà thời nào văn
chương đó!
Trang TV thì
cũng làm thế, nhưng ghi rõ nguyên
tác, nguồn.
Ông
Trùm của thứ tạp ghi kiểu này, mà không hề
ăn cắp, là Robert Walser.
Cái
tay tác giả bài Bạt cho cuốn GCC mới
mua, vừa mới ra lò, 2016, cho biết, Walser cũng
sống bằng nghề ký sự gia, viết phiếm, nhưng phiếm của
ông khủng lắm, từ từ Tin Văn giới thiệu vài bài!
Gấu, nhà văn
Notes About Brodsky
Trong một tiểu luận, Brodsky
gọi Mandelstam là một thi sĩ của văn
hóa. Brodsky chính ông, cũng
là 1 thi sĩ của văn hóa, và hẳn là
vì lý do này, ông tạo sự hài
hòa với dòng sâu thẳm của thế kỷ,
trong đó con người, bị đe dọa mất mẹ cái giống
người, khám phá ra quá khứ như là
một mê cung chẳng hề có tận cùng. Lặn sâu
vô mê cung, chúng ta khám phá
ra cái gì sống sót quá khứ là
kết quả của nguyên lý phân biệt dựa trên
đẳng cấp. Mandelstam, ở trong Gulag, điên khùng bới
đống rác tìm đồ ăn, [ui chao lại nhớ Giàng Búi],
là thực tại về độc tài bạo chúa và sự
băng hoại thoái hoá bị kết án phải tuyệt diệt.
Mandelstam đọc thơ cho vài bạn tù là khoảnh
khoắc thần tiên còn hoài hoài
Một con người
đàng hoàng, 1 nhà văn có
tí đạo hạnh, thì phải cho biết nguồn
gốc, thơ văn trích dẫn.
Câu thơ
của Joseph Huỳnh Văn, tên thi sĩ ngồi bên
tách cà phê đọc trên Tin Văn,
vậy mà phịa ra là, hình như đọc trên
Thời Tập của Viên Linh.
Đấng “Vua Phiếm”,
biết rõ nguồn bài viết của HNH, là
từ Tin Văn, vì GCC cho đăng cùng lúc
trên Tin Văn và Việt Báo, chính
GCC là người "type" bài viết, và cho
đăng trên Việt
Báo.
Hắn không biết ơn thì
chớ, còn vờ luôn nguồn.
Nguyễn
Du nói, tâm bằng ba tài.
Brodsky, trong
diễn văn Nobel, mỹ là mẹ của đạo hạnh (1).
Kafka, kỹ thuật
là “hữu thể”, [être], của văn
chương.
Có vẻ
như mấy ông này ăn nói ngược ngạo,
giữa họ, nhưng, theo Gấu, cả ba, “tâm” “kỹ thuật”,
“mỹ” đều liên quan tới, chỉ một câu hỏi, ‘viết thế
nào’, [comment écrire].
Chính vì thế mà
Brodsky mới nói tiếp, ‘bad style’ [viết
dở], là do cái tâm khốn nạn,
cái tà ma ác quỉ gây ra!
(1) In his Nobel Prize lecture, Brodsky
sketches out an aesthetic on the basis of which
an ethical public life might be built. Aesthetics,
he says, is the mother of ethics, in the sense that
making fine aesthetic discriminations teaches one to make
fine ethical discriminations. Good art is thus on the side
of the good. Evil, on the other hand, "especially political
evil, is always a bad stylist" (On Grief, p.49).
Coetzee: Joseph
Brodsky
“Trong diễn từ Nobel, Brodsky vạch
ra một mỹ tín mà cuộc sống đạo
đức của dân chúng sẽ được xây
dựng trên nền tảng đó. Mỹ học như ông
nói, là mẹ của đạo đức, theo nghĩa, con người
càng trọng mỹ tới đâu thì sàng
lọc ra cái vô đạo tới đó. Và
nếu như vậy, nghệ thuật tốt sẽ ở về phía của cái
tốt. Cái ác, cái tà ma, về mặt
còn lại, ‘đặc biệt là cái ác chính
trị, luôn luôn là một thứ văn phong tồi
tệ”
Nguồn
Thơ Mỗi Ngày
Hardy
never said much about writing or the difficulties
of it, or the moral difficulties of it. Kafka said that
a writer was doing the devil's work, writing a wholly inadequate
response to the brutishness of the world, and Hardy increasingly
felt this. It's not that it's an immoral activity or an
amoral one; it's just that the act of creation is something
to which the ordinary standards of human behavior do not apply.
Hardy never liked to be touched. He always walked in the road
to avoid brushing against people, and servants were told never
to help him on with his coat and just to drop the shawl around
his shoulders and not tuck him in. The pen had been his weapon
in his struggle for life - and it had been a struggle.
The next poem is a dialogue with
the moon.
Hardy chẳng hề lầu
bầu về viết, hay những khó khăn về viết, hay
khó khăn đạo đức của nó. Kafka phán
nhà văn làm, việc của quỉ, viết trọn một phúc
đáp không thoả đáng về tính thú
vật của thế giới, và Hardy càng ngày càng
cảm thấy đúng như thế. Nó không phải là
1 hành động đạo đức, hay không đạo đức, mà
cái hành động sáng tạo có 1 điều
gì mà lũ chó, hay phường mắt trắng dã,
không hiểu được, hay, không áp dụng được.
Hardy đếch khoái
ai đụng vô ông ta. Cây viết là
vũ khí của ông ta, trong cuộc chiến đấu với
đời – và quả có cuộc chiến đấu đó thực.
Bài thơ sau
đây là 1 cuộc lèm bèm với
trăng.
I Looked Up from My Writing
I looked up from my writing,
And gave a start to
see,
As if rapt in my inditing,
The moon's full gaze
on me.
Her meditative misty
head
Was spectral in its
air,
And I involuntarily
said,
'What are you doing
there?'
'Oh, I've been scanning
pond and hole
And waterway hereabout
For the body of one
with a sunken soul
Who has put his life-light
out.
'Did you hear his
frenzied tattle?
It was sorrow for
his son
Who is slain in brutish
battle,
Though he has injured
none.
'And now I am curious
to look
Into the blinkered
mind
Of one who wants to
write a book
In a world of such
a kind.'
Her temper overwrought
me,
And I edged to shun
her view,
For I felt assured
she thought me
One who should drown
him too.
Nostalgia for the
Present
At that very
instant:
Oh, what I
would not give for the joy
of being at
your side in Iceland
inside the
great unmoving daytime
and of sharing
this now
the way one
shares music
or the taste
of fruit.
At that very
instant
the man was
at her side in Iceland.
-A.S.T.
J.L. Borges:
Collected Poems [Penguin ed]
Hoài nhớ Hiện tại
Ôi, khoảnh
khắc rất khoảnh khắc
Giá
mà được ngồi kế bên em ở tiệm cà
phê túi, hủ tíu Chợ Đũi, nhỉ!
Trong cái
ban ngày ban mặt, không chuyển động,
lớn lao, của Saigon trước 1975
Và chia
sẻ nó lúc này
Cái
kiểu mà
đám Ngụy nghe nhạc sến,
Cái
gì gì, đường vào tình
yêu có trăm lần vui có vạn lần buồn
Vào
cái khoảnh khắc rất khoảnh khắc
Anh Cu Gấu
ngồi kế bên
BHD ở quán cà phê Tầu, khu
Chợ Đũi!
Thu 2014
What I Overheard
In summer's idle time,
When trees
grow heavy with leaves
And spread
shade everywhere
That is a
delight to lie in
Alone
Or in the
company of a dear friend,
Dreaming or having a quiet talk
Without looking
at each other,
Until she
feels drowsy
As if after
too much wine,
And you draw
close for a kiss
On her cheek,
and instead
Stay with
lips pursed, listening
To a bee make its rounds lazily,
And a far-off
rooster crow
On the edge
of sleep with the leaves hushed
Or rustling,
ever so softly,
About something
or other on their mind.
Charles Simic
Điều Gấu thoáng nghe
Mùa hạ, lúc rảnh
rỗi
Khi cây
nặng trĩu lá
Trải bóng
lên mọi nơi
Sướng làm
sao, nằm
Một mình
Hay với một
em thật thân, là Em, tất nhiên,
hà hà!
Lơ tơ mơ, hay đi 1 đường chuyện
vãn êm ả
Đếch thèm
nhìn nhau
Cho tới khi
Em uể oải, thờ thẫn
Như thể uống
nhiều rượu chát
Và
Gấu bèn đi 1 đường nằm sát vô Em
Tính
xin 1 cú hôn
Lên
má, và, thay vì vậy
Thì
bèn cứ nằm yên, môi mím
lại, lắng nghe
Một con ong lười biếng lượn vài
đường
Hay con quạ,
xa hơn con gà trống
Ở ven bờ
giấc mộng, cùng đám lá lặng thinh
Hay rì
rào nhẹ ơi là nhẹ
Về một điều,
hay một điều gì khác, trong hồn.
Anonymous
Egyptian
zoth century
B.C.
Death is before me today
like health
to the sick
like leaving
the bedroom after sickness.
Death is before me today
like the
odor of myrrh
like sitting
under a cloth on a day of wind.
Death is before me today
like the
odor of lotus
like sitting
down on the shore of drunkenness.
Death is before me today
like the
end of the rain
like a man's
homecoming after the wars abroad.
Death is before me today
like the
sky when it clears
like a man's
wish to see home after numberless years of captivity.
1960
Vô danh,
Ai Cập 20th
century B.C.
Cái chết trước mặt tớ
bữa nay
Như khỏe
trước bịnh
Như rời phòng
ngủ sau cơn bịnh
Cái chết trước mặt tớ
bữa nay
Như mùi
dầu myrrh
Như ngồi
dưới mảnh vải trong một ngày có gió
Cái chết trước mặt tớ
bữa nay
Như mùi
hoa sen
Như ngồi
ở bờ bãi say sưa
Cái chết trước mặt tớ
bữa nay
Như chấm
dứt một trận mưa
Như người
đàn ông trở về sau nhiều trận chiến ở
thật xa nhà, ở hải ngoại.
Cái chết trước mặt tớ
bữa nay
Như bầu trời,
khi trong sáng
Như ước mong
của một người đàn ông nhìn thấy
nhà của mình
Sau bao nhiêu
năm tù dài dằng dặc
1960
Thơ Mỗi Ngày
Khong Lo
Vietnamese
medieval,
Ly dynasty
died 1119
The Ideal Retreat
I will choose a place where the
snakes feel safe.
All day I
will love that remote country.
At times
I will climb the peak of its lonely mountain
to stay and
whistle until the sky grows cold.
1967, translated with
Nguyen Ngoc
Bich
Trong bài tưởng niệm NTN
trên Hậu Vệ, Nguyễn Đạt viết:
Nhà thơ Nguyễn Đăng Thường
thấy thơ Nhan trong Thánh Ca “có
tí hương vị Rimbaud, một Rimbaud không
vô thần”, thì tôi cho rằng, trong
bản chất thi sĩ của hai người, Nhan và Rimbaud, ít
nhiều có chỗ giống nhau. Tôi biết rõ,
Nhan không đọc một dòng thơ nào của Rimbaud,
không một dòng thơ dòng văn nào
của bất cứ nhà thơ nhà văn nhà triết
học nào của phương Tây. Và tôi
lại thấy Nhan, trong Thánh Ca, có nhiều hương vị
Phạm Công Thiện. Và tôi hiểu, cả hai, Nhan
và Phạm Công Thiện: ngôn ngữ của thi sĩ, sản
sinh từ cùng một ly nước, một ly nước có chất cà
phê hay men rượu mà cả hai đã uống.
Source
Theo Gấu,
thơ NTN chẳng có tí Rimbaud, mà
cũng chẳng có tí PCT, nhưng rõ ràng
là có chất Thiền, một thứ Thiền của Việt
Nam.
Trước 1975, tình cờ GNV
có đọc một bài thơ của anh, viết về một nhà sư Việt Nam,
sư Không Lộ, hình như vậy, trên Thời Tập,
và như còn nhớ được, chất Thiền mạnh lắm.
Theo như trí
nhớ tồi tệ của GCC, bài thơ của Nguyễn Tôn
Nhan, về Không Lộ, có cái ý
“thét lên 1 tiếng lạnh hư không”,
chắc là bài thơ trên, được W.S. Merwin
và Nguyễn Ngọc Bích chuyển qua tiếng Mẽo.
Nơi thần sầu
để rút dù
Tớ sẽ chọn một nơi mà
rắn [độc hay không độc] cảm thấy an toàn
Cả ngày
tớ sẽ mê cái “lost domain” xa xôi
đó
Tớ sẽ leo
lên cái đỉnh núi trơ cu lơ của
nó
Đếch thèm
tìm bản chúc thư [của MT], hay xác
con gấu, hay con cáo gì gì đó
[của Hemingway]
Mà
để hét lên 1 tiếng lạnh hư không!
THE YOUNG NIGHT
And now the lustral waters of
night absolve me
from the
many colors and the many forms.
In the garden,
birds and stars exalt
the longed-for
return of the ancient norms
of sleep
and shadow. Darkness is sealing
the mirrors
which copy the fiction of things.
Goethe said
it best: everything near becomes
far.
Those four
words capture the entire twilight.
In the garden,
roses cease to be roses;
they wish
to be the Rose.
-C.M.
J.L. Borges: Poems of the Night. Waiting For The Night (1978-1985)
Note:
p. 137. The Young Night: Borges discussed the line
by Goethe quoted in the poem: "Alles Nahe werde fern, everything
near becomes far. Goethe was referring to
the evening twilight. Everything near becomes
far. It is true. At nightfall, the closest to us seems
to move away from our eyes. So the visible world has moved
away from my eyes, perhaps forever. Goethe could be referring
not only to twilight but to life. All things go off, leaving
us. Old age is probably the supreme solitude-except that
the supreme solitude is death. And 'everything near becomes far'
also refers to the slow process of blindness which is not a complete
misfortune. It is one more instrument among the many-all of them
strange- that fate or chance provide," "Blindness," Selected Non-Fictions
(edited by Eliot Weinberger), New York, Penguin, 1999, p. 483.
Đêm trẻ
Và bây giờ nước
thanh tẩy của đêm
Xóa
cho tôi rất nhiều màu sắc và
hình thể.
Trong vườn,
chim và sao tán tụng sự trở về hằng
mong mỏi
Những tiêu
chuẩn xa xưa về ngủ và bóng
Đêm
đen sẽ đóng khằn những tấm gương
Chúng
lập lại giả tưởng của sự vật
Về cú
này, Goethe phán bảnh nhất, mọi vật
gần thì bèn xa,
[Cái
gì gì ôm em trong tay mà
đã nhớ em những ngày sắp tới ?]
Chỉ mấy
từ tóm trọn chạng vạng
Trong vườn
những bông hồng ngưng là những bông
hồng
Chúng
trở thành BHD.
FOREWORD
First and
foremost, I think of myself as a reader, then as
a poet, then as a prose writer. The initial part of
this statement calls for no explanation; the other two should
be qualified. They do not mean- they emphatically do not
mean-that I am fonder of my verse than of my prose, or that
I judge it as technically better, For all I know, the opposite
may be true. I suspect that poetry differs from prose not,
as many have claimed, through their dissimilar word patterns,
but by the fact that each is read in a different way. A passage read
as though addressed to the reason is prose; read as though addressed
to the imagination, it might be poetry. I cannot say whether my
work is poetry or not; I can only say that my appeal is to the imagination.
I am not a thinker. I am merely a man who has tried to explore the
literary possibilities of metaphysics and of religion.
My stories are, in a sense, outside of me. I dream
them, shape them, and set them down; after that, once
sent out into the world, they belong to others. All that is
personal to me, all that my friends good-naturedly tolerate
in me-my likes and dislikes, my hobbies, my habits-are to
be found in my verse. In the long run, perhaps, I shall stand
or fall by my poems.
Goethe, who is not one of my heroes, thought that
all poetry is occasional poetry (Gelegenheitsdichtung).
I have forgotten the context, but I suppose his statement
is open to at least two interpretations: he may have
been apologizing for the all-too-plentiful verses he contributed
to albums, or he may have implied that true poetry springs from
what a particular man feels at a particular time. In my case, I
can fairly claim that every piece in this book had its origin in
a particular mood, in a necessity of its own, and was not meant to
illustrate a theory or to fill out a volume. I have never thought
of my poems, in fact, in terms of publication.
When this book was begun, some three years ago
in Cambridge, it was the first time I had ever taken a
direct hand in the translation 'of any of my own work. Di
Giovanni and I have gone very thoroughly over each piece, each
line, and each word; the fact that I am not only a collaborator
but also the writer has given us greater freedom, since we
are less tied to verbal precision than to inner meanings and intentions.
I should like to thank the outstanding British and American
poets who, by their skill and generosity, have made English poems
of my Spanish originals and so given them this new life.
JORGE LUIS
BORGES
Salt Lake
City, March 31, 1971
Trước hết
và trên hết, tôi nghĩ về tôi
như là 1 độc giả, rồi như một thi sĩ, và
rồi thì là, một nhà văn xuôi.
Phần đầu của
câu phán, tớ là độc giả, thì
đếch cần giải thích [trừ đám Mít
triết, chúng chỉ thích làm phê
bình gia, khi chửi Gấu, mi đâu phải phê
bình gia, vì mi đâu có bằng
cử nhân triết của Thầy Nguyễn Văn Trung ban cho mi,
hà, hà!]. Hai phần sau, có lẽ nên
định giá. Chúng không có nghĩa,
tôi khoái thơ vần hơn thơ xuôi. Ngược lại,
có lẽ thú hơn, xuôi hơn vần.
Tôi
ngờ rằng, mỗi cách có cách đọc
riêng của nó. Môt đoạn, đọc, mà
nghĩ, nó viện tới lý lẽ, thì là
văn xuôi, cái viện tới trí tưởng tượng,
thì là thơ. Tôi cũng khó nói
về cái viết của tôi, thì thơ, hay đếch
thơ. Tôi chỉ có thể nói, tôi cố
với/vời tới trí tưởng tượng, khi viết chúng.
Tôi
không phải là 1 suy nghĩ gia. Tôi,
giản dị mà nói, là 1 người cố phát
triển, khai phá, những khả hữu văn chương của
siêu hình học và của tôn giáo.
Cafe Trieste: San Francisco
To L.G.
To this corner of Grant and Vallejo
I've returned like an echo
to the lips that preferred
then a kiss to a word.
Nothing has changed here. Neither
the furniture nor the weather.
Things, in one's absence, gain
permanence, stain by stain.
Cold, through the large steamed windows
I watch the gesturing weirdos,
the bloated breams that warm
up their aquarium.
Evolving backward, a river
becomes a tear, the real
becomes memory which
can, like fingertips, pinch
just the tail of a lizard
vanishing in the desert
which was eager to fix
a traveler with a sphinx.
Your golden mane! Your riddle!
The lilac skirt, the brittle
ankles! The perfect ear
rendering “read” as “dear”
Under what cloud's pallor
now throbs the tricolor
of your future, your past
and present, swaying the mast?
Upon what linen waters
do you drift bravely toward
new shores, clutching your beads
to meet the savage needs?
Still, if sins are forgiven,
That is, if souls break even
with flesh elsewhere, this-joint,
too, must be enjoyed
as afterlife's sweet parlor
where, in the clouded squalor,
saints and the ain'ts take five,
where I was first to arrive .
[1980]
Joseph Brosky: To Urania
Như
người xưa, đánh rớt cây
gươm xuống lòng sông
Bèn ghi dấu nơi mạn thuyền
Chàng trở lại quán xưa
Tìm dấu hài ghi trên lớp bụi
Và tiếng cười của nàng vẫn còn
văng vẳng đâu đây
Tôi trở về đây, với con đường xưa
Với góc đời này
Như một tiếng vang
Tới cặp môi
Vốn thèm một nụ hôn
Thay vì [Đừng yêu lính
bằng] một lời!
Chẳng có gì thay đổi
Bàn ghế không
Khí hậu cũng không
Sự vật, khi vắng bóng một ai đó
Tích tụ dần cái trường tồn, từng tí,
từng tí
Thơ Mỗi Ngày
Bringing alive Seamus Heaney’s spirit
Hats off to Heaney
Aó thụng, ngả
nón vái Thầy!
Thấy
bài này, trên tờ “The Intel”,
bèn bệ về, nhẩn nha dịch hầu độc giả TV
HIGH-VOLTAGE HEANEY
Thi
sĩ điện cao thế Heaney
Notes on a Voice: Christina Patterson
tunes into the poet who made English sing
From
INTELLIGENT LIFE magazine, January/February 2014
In
a poem in "Electric Light", Seamus Heaney talked
of "language that can still knock language sideways".
This is what he did. He took ordinary words like "sod" and
"drain" and "rot" and turned them to gold.
When
he won the Nobel prize, in 1995, he was praised
for "works of lyrical beauty and ethical depths which
exalt everyday miracles and the living past". Heaney, who
died in August aged 74, never called his poems "miracles",
but he did talk about falling in love with the "voltage" of language.
He wanted, he said, to write with "a musically satisfying
order of sounds", and more than almost any poet of the past
50 years, he made English sing.
Famous
Seamus, as he came to be known, scooped most of
the big prizes for poetry, and sold more books than
most of his peers combined. But if he seemed to retain the
common touch in the way he wrote and spoke, this was only because
he hid the art.
GOLDEN
RULE
"Don’t
have the veins bulging in your biro." These words,
from Heaney’s poem "Fosterage" (1975), echo the advice
of his mentor, the novelist Michael McLaverty, to whom
it was dedicated. Don't, in other words, show off. Make it
look easy, even if it never is.
KEY
DECISIONS
To
keep his poetry largely rooted in the landscape
of his childhood, and to bring it so vividly to life
that you can almost touch and smell it. Heaney used the sounds
and smells and sights of the Northern Irish countryside to
talk about family, history and myth. Most famously, in his poem
"Digging", in his first collection, "Death of a Naturalist"
(1966), he used them to talk about his vocation. He describes the
"cold smell of potato mould, the squelch and slap" of the "soggy
peat" his father and grandfather would dig, but says that he'll
dig with his "squat pen".
STRONG
POINTS
Heaney
is a storyteller. He takes the familiar and makes
it strange. He does this partly by using verbs as nouns
and nouns as verbs. He writes of "a sense...of glimpse
and dapple" and of birds that "cuckoo your name across the fields".
He also loves to stick words together—"wheat-straw", "dark-streaked",
"white-pronged"—and to make them up. The word "enemy", he
says in his poem "England's Difficulty", had "the toothed efficiency
of the mowing machine". The poem, like so many of Heaney's,
uses a real childhood memory to touch on politics and history,
but it does so obliquely. His voice, he once said in a documentary,
was given to him "by division". It was "a stealthy voice, a
voice that spoke in codes". So you can read a Heaney poem a hundred
times, and still find more in it.
FAVOURITE
TRICK
To
plunge you straight into the visceral detail of
an early memory, then suddenly take you to a place that
almost feels—though it's not a word he’d rush to use—transcendent.
In "Personal Helicon", he talks of "the smells/Of waterweed,
fungus and dank moss", "soft mulch" and "slime" and then, in
the last sentence of the last stanza, he pulls us away from that
childhood, to what it's all about: "I rhyme," he writes, "To
see myself, to set the darkness echoing."
ROLE
MODELS
Heaney
cited Yeats, Wordsworth and Hopkins as influences,
as well as Americans like Lowell and Bishop. His poetry
is like nobody else's, but you can see shades of Lowell
in some of the stories, and of Yeats in the singing line.
TYPICAL
SENTENCE "All year the flax-dam festered in the
heart/Of the townland; green and heavy headed/Flax
had rotted there, weighted down by huge sods." (The opening
lines of "Death of a Naturalist".)
Christina
Patterson has written for the Observer and the Spectator and is a former
Independent columnist
Illustration
Kathryn Rathke
Trong một bài thơ, trong
“Ánh Điện”, Seamus Heaney nói về “ngôn
ngữ vưỡn có thể khện me mé ngôn
ngữ”. Đó là điều ông đã làm.
Ông lấy những từ bình thường như “sod”,
“drain”, và “rot” và biến chúng thành
vàng.
Khi được Nobel, năm 1995, ông
được ca ngợi, “tác phẩm của ông có
vẻ đẹp trữ tình và những chiều sâu
đạo hạnh, chúng tôn vinh những phép
lạ của mọi/mỗi ngày và quá khứ sống
động”. Heaney mất tháng Tám, thọ 74 tuổi, chẳng
bao giờ gọi những bài thơ của mình là những
“phép lạ”, nhưng có nói, ông tương tư
tính “điện cao thế” của ngôn ngữ. Ông nói,
ông muốn viết, với “một trật tự từ thỏa mãn như tiếng
nhạc”, và bảnh hơn bất cứ một nhà thơ nào trong
50 năm qua, ông làm cho tiếng Anh hát.
Ở những ngôi nhà này
không còn gì
cả
ngoài những mảnh vụn ký
ức
Những người đã từng trò
chuyện với tôi
không một ai sót
lại
Nhưng trong trái tim tôi
Không một thánh
giá của ai rơi mất
Trái tim tôi
một trú xứ thống
khổ tràn đầy. (*)
Tháng 12/2013
(*) Thơ Giuseppe Ungaretti (1888-1970),
San Martino Del Carso:
Of these houses /nothing/ but/fragments
of memory /Of all who/would talk with me/ not one
remains.
But in my heart/no one’s cross
is missing/My heart is/the most tormented country
of all.
Bài thơ này, Gấu
Cà Chớn mạn phép dịch giả thêm
vô, một…. “phóng
bút":
Về mái
ấm gia đình
Chẳng còn
Nếu còn chăng,
Thì là
những mảnh vụn
Về những con người
Đã từng lèm
bèm với GCC
Ai cũng bỏ GCC cả!
Nhưng trong trái
tim của GCC
Không cây
thánh giá nào
của một ai
bị mất mát,
bỏ quên, thiếu nhớ.
Trái tim GCC là
cái xứ sở bị hành hạ khủng nhất trong
tất cả!
Hà hà!
Charles Simic
Seeing Things
I came here in my youth,
A wind toy on a
string.
Saw a street in
hell and one in paradise.
Saw a room with
a light in it so ailing
It could’ve been
leaning on a cane.
Saw an old man
in a tailor shop
Kneel before a
bride with pins between his lips.
Saw the President
swear on the Bible
while snow fell
around him.
Saw a pair of lovers
kiss in an empty church
And a naked man
run out of a building
waving a gun and
sobbing.
Saw kids wearing
Halloween masks
Jump from one roof
to another at sunset.
Saw a van full
of stray dogs look back at me.
Saw a homeless
woman berating God
And a blind man
with a guitar singing:
“Oh Lord remember
me,
When these chains
are broken set my body free.”
Nhìn sự vật
Tớ tới đây hồi
trẻ
Cái chong chóng trên sợi
dây
[Cái diều trên sợi
dây]
Nhìn con phố, địa
ngục
Nhìn con khác, thiên đàng
Nhìn căn phòng với 1 tia sáng
ở trong đó, èo uột làm
sao
Nó có thể tựa lên 1 cái
gậy
Nhìn ông già trong tiệm may
Khoá môi bằng đinh ghim
Quì trước cô dâu
Nhìn Tông Tông thề bồi với
cuốn Kinh Thánh
Trong khi tuyết rơi quanh Xừ Luỷ
Nhìn cặp tình nhân hôn
nhau trong ngôi nhà thờ rỗng
Và 1 người đàn ông trần truồng
chạy ra khỏi 1 toà biu đing
Tay cầm súng vẩy vẩy, miệng sụt sùi
khóc
Nhìn con nít đeo mặt nạ
Halloween
Nhảy từ mái nhà này qua mái
nhà khác vào lúc
hoàng hôn
Nhìn 1 chiếc xe van đầy chó hoang
ngoái nhìn lại tớ
Nhìn 1 bà không nhà
riếc móc Chúa
Và 1 anh mù với chiếc đàn
ghi ta, và hát:
"Ôi Chúa, hãy nhớ tới con
Khi những chiếc ghế này gãy, giải
thoát thân thể con"
[Khi những sợi xiềng này
gãy, giải thoát thân thể con]
Erratas: wind
toy, ở đây, là con diều, đi với
cái tít là seeing
things.
Câu chót, chains, những
sợi sên, xiềng, không phải những chiếc
ghế.
Sorry. NQT
Trăng
Vậy
thì có phải đêm dày bỏ
đi đâu hay là,
màn
đêm đen sâu thẳm chưa tràn vào
phải không?
Không,
không phải là tôi. Tôi
chính là ánh nắng,
chỉ
là đôi khi bị phủ che bởi màn
đêm.
Nhưng
mà nàng đẹp - yay, tôi biết là
anh hiểu -
Không
có gì đang che lấp, không có
ánh sáng triền miên.
Moon
by Annie
Finch
Then
are you the dense everywhere that moves,
the
dark matter they haven't yet walked through?
No,
I’m not. I’m just the shining sun,
sometimes
covered up by the darkness.
But
in your beauty—yes, I know you see—
there
is no covering, no constant light.
Nguồn:
Gió - O
http://www.gio-o.com/LyOcBR/LyOcBRTDBuoiSangNay.htm
Theo
GCC, You, Em, ở đây, là Trăng
Và
bài thơ như vậy:
Như
vậy em là cái đậm đặc khắp nơi,
chuyển động
Cái
đen thui thì chưa bước qua ?
Không,
không phải thế. Em là nắng chói
Đôi
khi bị bóng tối bao phủ
Nhưng
trong cái đẹp của em – đúng rồi, như
em thấy đó –
Làm
gì có bao phủ, làm gì
có ánh sáng hoài hoài
*
“nàng”,
là ai, “anh” là ai, ở câu
cuối?
Borges
có mấy bài về trăng, nhưng bài
sau đây, ông làm tặng cô
bạn của ông, và, quái làm sao,
khi GCC dịch, cũng nghĩ đến cô bạn của GCC.
Có
thể là vì bài thơ, nói
lên cùng cái cảm giác
như thế, về trăng & cô bạn.
Mỗi
lần nhớ cô quá, là Gấu lại lôi
bài thơ ra.
Nỗi
cô tịch của em, là, cái dáng
đi tất tả của em, khi kiếm cho được 1 cái
bàn cho tên già, và sau
đó, tất tả đi mua cà phê.... ?
Trong
trăng của Annie Finch, có cái đậm đặc,
the dense, chuyển động, trong khi cái đen thui, the dark matter, chưa tới.
Trong
trăng của Borges có cái cô tịch,
nỗi sầu vạn cổ, của con người tẩm vào trăng.
Liệu,
cái
đậm dặc, chính là cái
nỗi sầu thiên cổ mà con người đem đến
cho trăng?
THE MOON
for Maria Kodama
There is such loneliness
in that gold.
The
moon of the nights is not the moon
Which
the first Adam saw. The long centuries
Of
human vigil have filled her
With
ancient lament. Look at her. She is your mirror.
[Trans. Willis Barnstone]
Trăng nữ
Có nỗi cô tịch
như thế, ở trong khối vàng đó.
Trăng
đêm không phải trăng Adam, thuỷ tổ giống
người, nhìn.
Những
thế kỷ dài ăn chay cầu nguyện của con người
Đã
tẩm vào nàng nỗi sầu vạn cổ.
Hãy
nhìn nàng kìa.
Nàng
là tấm gương của em đó.
The Moon
for Maria Kodama
There is such loneliness in
that gold.
The
moon of the nights is not the moon
Whom
the first Adam saw. The long centuries
Of human
vigil have filled her
With
ancient lament. Look at her. She is your mirror.
-W.B.
Trăng
Có cái
cô đơn khủng khiếp như thế đó
ở trong mảnh trăng vàng.
Trăng
của đêm không phải trăng Adam đầu tiên
nhìn thấy
Những
thế kỷ dài của những lời khẩn cầu của con
người
Đã
tẩm vào nàng lời than van xưa, cũ.
Hãy
nhìn nàng kìa.
Nàng
là tấm gương của em đó.
Liệu bạn có thể tưởng
tượng cuốn sách khổng
lồ, là Bách Khoa Toàn
Thư Tin Văn Toàn Tập, và cuộc gặp
gỡ trên, là giữa GCC và… độc
giả TV, trong 1 buổi ra mắt sách ở Tiểu Sài
Gòn?
Yes, sure, why not?
Re: Editing and publishing...
Today at 4:54 PM
It's exactly right! Why
not? Hooray...
Happy New Year, Gau
Nha Van.
H/A
Tks
Take Care
Sách
&
Báo
Mới
SOMETHING ABOUT WRITING
IF
I'M not mistaken, Balzac, for example,
wrote novels nonstop until the moment that pulled
him out of the practice of his profession. Let us just
try and roughly imagine the extent of such a faculty for fantasizing.
For Dostoyevsky, as I believe I should know, it may have
been the same. After publishing a string of comparatively
very worthwhile novellas, Gottfried Keller entered the
civil service, which for the next fifteen years kept him from
any further continuous literary work. Adalbert Stifter, who
possessed a lively talent for narrative like an effervescent
spring upon which he drew to his heart's content, held a civil
service post in education. Goethe, this giant, as his life
history displays, poeticized himself into, as it were, a courrlike,
that is, administrative position through works that soared into the
ranks of the imperishable. The existence of a writer is determined
by neither success nor acclaim, but rather depends on his desire
or power to tabulate anew again and again. Balzac apparently did
this constantly, Keller not, and undoubtedly there were reasons
why he didn't. I believe the causes as to why some continue to write
on and on and others at times cease their poetic endeavors are, under
certain circumstances, too subtle to be easily defined. External
events are capable of giving a career a certain direction; for example,
the character or incidents in the region of the heart may be worthy
of serious consideration. Some writers present their best work at
the beginning of their strivings only to succumb afterwards to
their proclivity, bit by bit, to flatten out, while we know of quite
a few others who strike us as curious because they happen to start
inconspicuously or uncertainly, but nevertheless precisely for
this reason acquire in the course of time more certitude, superior
vision, etc. To which type one gives preference is left to necessity.
Every writer is an aggregate of two people, the citizen and the
artist, to which he, more or less fortunately, resigns himself.
(1930)
Note:
Bài Bạt tuyệt lắm. Tin Văn sẽ đi liền. Tác giả bài
viết, Tom Whalen nhìn ra 1 Walser
khác hẳn với cách nhìn
chung, coi ông cùng dòng với Musil,
Broch hay Thomas Mann, thí dụ.
LI-YOUNG
LEE
Folding a Five-Cornered Star
So
the Corners Meet
This
sadness I feel tonight is not my sadness.
Maybe
it's my father's.
For
having never been prized by his father.
For
having never profited by his son.
This
loneliness is Nobody's. Nobody's lonely
because
Nobody was never born
and
will never die.
This
gloom is Someone Else's.
Someone
Else is gloomy
because
he's always someone else.
For
so many years, I answered to a name,
and
I can't say who answered.
Mister
Know Nothing? Brother Inconsolable?
Sister
Every Secret Thing? Anybody? Somebody?
Somebody
thinks:
With death for a bedfellow,
how
could thinking be anything but restless?
Somebody
thinks: God, I turn my hand face down
and
You are You and I am me.
I turn my hand face up
and
You are the I
and
I am your Thee.
What happens when you turn your hand?
Lord,
remember me.
I was
born in the City of Victory,
on
a street called Jalan Industri, where
each
morning, the man selling rice cakes went by
pushing
his cart, its little steamer whistling,
while
at his waist, at the end of a red string,
a little
brass bell
shivered
into a fine, steady seizure.
This
sleeplessness is not my sleeplessness.
It
must be the stars' insomnia.
And
I am their earthbound descendant.
Someone,
Anyone, No one, me, and Someone Else.
Five
in a bed, and none of us can sleep.
Five
in one body, begotten, not made.
And
the sorrow we bear together is none of ours.
Maybe
it's Yours, God.
For
living so near to your creatures.
For
suffering so many incarnations unknown to Yourself.
For
remaining strange to lovers and friends,
and
then outliving them and all of their names for You.
For
living sometimes for years without a name.
And
all of Your spring times disheveled.
And
all of Your winters one winter.
from
Image
SUJI KWOCK
KIM
Return of the Native
****
for Kang,
born in
Sonchon, North Korea
Better
not to have been born
than to
survive everyone you loved.
There's
no one left of those who lived here once,
no one
to accuse you, no one to forgive you-
only beggar
boys or black-market wives
haggling
over croakers and cuttlefish,
hawking
scrap-iron and copper-pipes stripped from factories
in the
shadow of the statue of the Great Leader.
Only streets
emptied of the villagers you knew,
only the
sound of steps of those no longer living,
ghosts
grown old, grim shadows of what they had once been:
some in
handcuffs, some in hoods taken away at midnight,
some roped
and dragged into Soviet Tsir trucks
driven
to the labor camps that "don't exist."
Every absence
has a name, a face, a fate:
but who,
besides you, remembers they were ever alive?
You don't
know why you were spared,
why you
breathe walk drink eat laugh weep-
never speaking
of those who had been killed,
as if they
had never existed, as if the act of surviving them
had murdered
them.
Forget,jorget!
But they want to be remembered.
Better
people than you were shot:
do you
think your life is enough for them?
For the
silence
is never
silent: it says We hate you
because
you survived. No. We hate you
because
you escaped.
from Ploughshares
Imaginary Beings
Book
The Sphinx
The Sphinx found on Egyptian monuments
(called "Androsphinx" by Herodotus,
to distinguish it from the Greek creature)
is a recumbent lion with the head of a man;
it is believed to represent the authority of
the pharaoh, and it guarded the tombs and temples
of that land. Other Sphinxes, on the avenues of
Karnak, have the head of a lamb, the animal sacred
to Amon. Bearded and crowned Sphinxes are found on
monuments in Assyria, and it is a common image
on Persian jewelry. Pliny includes Sphinxes in his
catalog of Ethiopian animals, but the only description
he offers is that it has "brown hair and two mammae
on the breast."
The Greek Sphinx
has the head and breasts of a woman,
the wings of a bird, and the body and legs of
a lion. Others give it the body of a dog and the
tail of a serpent. Legend recounts that it devastated
the countryside of Thebes by demanding that travelers
on the roads solve riddles that it put to them
(it had a human voice); it devoured those who
could not answer. This was the famous question it put
to Oedipus, son of Jocasta: "What has four feet, two feet,
or three feet, and the more feet it has, the weaker
it is?" (1)
Oedipus answered
that it was man, who crawls on four
legs as a child, walks upon two legs as a
man, and leans upon a stick in old age. The
Sphinx, its riddle solved, leapt to its death
from a mountaintop.
In 1849 Thomas De
Quincey suggested a second interpretation,
which might complement the traditional
one. The answer to the riddle, according
to De Quincey, is less man in general than
Oedipus himself, a helpless orphan in his morning,
alone in the fullness of his manhood, and leaning
upon Antigone in his blind and hopeless old
age.
(1)
This is apparently the oldest version
of the riddle. The years have added
the metaphor of the life of man as a single
day, so that we now know the following version
of it: "What animal walks on four legs in the morning,
two legs at midday, and three in the evening?"
Đọc/Viết
mỗi ngày
Borges
Conversations
You Only Need To Be Alive:
Art Should Free Itself from Time
OSVALDO FERRARI. Today we will
talk about beauty. But before we do so, we will
transcribe your views about the place of art and
literature in our times as discussed in an earlier conversation.
JORGE LUIS
BORGES. Art and literature ... should try and free
themselves from time. Often, I have been told that art
depends on politics or on history. I think that's untrue.
It escapes, in some way, from the organized causality of
history. Whether art happens or doesn't, either depend on the
artist.
FERRARI. Another
matter not usually talked or thought about, apart
from the spiritual life, is beauty. It's odd that, these
days, artists or writers do not talk about what is supposedly
always their inspiration or objective, that is, beauty.
BORGES. Perhaps
the word has been worn out but not the concept- because
what purpose does art have other than beauty? Perhaps
the word 'beauty' is not beautiful though the fact is, of
course.
FERRARI. Certainly,
but in your writing, your poems, your stories ...
BORGES. I try
to avoid what's called 'ugly art'- sounds horrible,
doesn't it? But there have been so many literary movements
with horrible names. In Mexico, for example, there was
a literary movement frighteningly called Stridentism.
It finally shut up, which was the best thing it could
do. To aspire to be strident-how awkward, isn't it!
My friend Manuel
Maples Arce led that movement against the great
poet Ramon Lopez Velarde. I remember his first book-without
any hint of beauty, it was called 'Inner Scaffolding'.
That's very awkward isn't it? (Laughs) To possess
inner scaffolding? I remember one line of a poem, if it
was a poem at all: 'A man with tuberculosis has committed
suicide in all the newspapers'. It's the only line I recall.
Perhaps my forgetfulness is kind-if that was the best line
in the book, on shouldn't expect much from the rest of it. I
saw him many years later in Japan. I think he was the Mexican ambassador
there and that had made him forget not only literature but his literature.
But he has remained in the histories of literature, which collects
everything, as the founder of the Stridentist movement (both laugh). Wanting to be strident-one of the most
awkward of literary desires.
FERRARI. As
we are talking about beauty, I would like to consult
you about something that has caught my attention. Plato
said that of all the archetypal and supernatural entities,
the only visible one on earth the only manifest one,
is beauty.
BORGES. Yes,
made manifest through other things.
FERRARI. Caught
by our senses.
BORGES. I'm
not sure about that.
FERRARI. That's
what Plato said.
BORGES. Well,
of course, I suppose that the beauty of a poem has
to appeal to our ears and the beauty of a sculpture has
to pass through touch and sight. But these are mediums and nothing
more. I don't know if we see beauty or if beauty reaches us
through forms which could be verbal or sensual or, as in the
case of music, auditory. Walter Pater said that all the arts
aspire to the condition of music. I think that is because form
and content fuse in music. That is, one can tell the plot of a story,
perhaps even give it away, or that of a novel, but one cannot tell
the story of a melody, however straightforward it may be. Stevenson
said, though I think he was mistaken, that a literary character
is nothing but a string of words. Well, it is true, but at the
same time it's necessary that we perceive it as more than a string
of words. We must believe
in it.
FERRARI. It
must, in some way, be real.
BORGES. Yes.
Because if we sense that a character is only a string
of words, then that character has not been well created.
For example, reading a novel, we must believe that its characters
live beyond what the author tells us about them. If we think
about any character in a novel or a play, we have to think that
this character, in the moment that we see him, sleeps, dreams
and carries out diverse functions. Because if we don't, then he would
be completely unreal.
FERRARI. Yes.
There's a sentence by Dostoyevsky that caught my eye
as much as one by Plato. About beauty, he said, 'In beauty,
God and the devil fight and the battlefield is man's heart.'
BORGES. That's
very similar to one by Ibsen, 'That life is a battle
with the devil in the grottoes and caverns of the brain
and that poetry is the fact of celebrating the final judgment
about oneself.' It's quite similar, isn't it?
FERRARI. It
is. Plato attributes beauty to a destiny, a mission.
And among us, Murena has said that he considers beauty
capable of transmitting an other-worldly truth.
BORGES. If
it's not transmitted, if we do not receive it as a
revelation beyond what's given by our senses, then it's
useless. I believe that feeling is common. I have noticed
that people are constantly capable of uttering poetic
phrases they do not appreciate. For example, my mother commented
on the death of a very young cousin to our cook from Cordoba.
And the cook said, quite unaware that it was literary, 'But Senora,
in order to die, you only need to be alive.' You only need to
be alive! She was unaware that she had uttered a memorable sentence.
I used it later in a story: 'You only need to be alive'-you do not require
any other conditions to die, that's the sole one. I think people are
always uttering memorable phrases without realizing it. Perhaps the
artist's role is to gather such phrases and retain them. George Bernard
Shaw says that all his clever expressions are the ones he had
casually overheard. But that could be another clever feature of Shaw's
modesty.
FERRARI. A
writer would be, in that case, a great coordinator
of other people's wit.
BORGES. Yes,
let's say, everyone's secretary-a secretary for so
many masters that perhaps what matters is to be a secretary
and not the inventor of the sayings.
FERRARI. An
individual memory of a collective.
BORGES. Yes,
exactly that.
Bạn chỉ cần còn sống,
và nếu may mắn hơn Y Uyên, bạn
sẽ đụng 1 cuộc chiến khác, khủng khiếp cũng
chẳng kém: Văn Chương.
Bạn chỉ cần, chỉ cần,
chỉ cần.... còn sống!
Đám tinh
anh Ngụy chết vì câu này. Chúng
chỉ cần còn sống, và tìm đủ mọi
cách để.... bỏ chạy cuộc chiến.
Lũ Triết Mít,
sở dĩ chúng chọn Triết, vì cứ học thuộc
lòng cours của Thầy, là đậu, là được
hoãn dịch, là thoát chết.
Rõ ràng
là, đám này không viết
được 1 cái gì cho ra hồn, là do phần
đạo hạnh của chúng có 1 vết chàm to
tổ bố, làm sao viết?
Mỹ là
Mẹ của Đạo Hạnh. Đạo Hạnh có vết chàm
làm sao có Mỹ?
Rồi đám
bỏ cuộc chiến bằng con đường du học, cũng Mắm Sốt Kít!
Ferrari: Dos
phán, trong cái đẹp Chúa và Quỉ uýnh
lộn và chiến trường là trái
tim của con người
Borges. Giống
câu của Ibsen, Đời là cuộc chiến với
quỉ, ở hang cùng ngõ hẻm của cục não
của con người và thơ là sự lên ngôi
của Phán Quyết Chót của 1 con người về chính
nó.
Đúng thế.
Plato gán cái đẹp, cho số phần, cho
nhiệm vụ. Và giữa chúng ta, Murena phán,
cái đẹp có thể chuyên chở một sự
thực “khác”
Trong
cuốn tiểu luận nho nhỏ trên, đa
số là những phê bình, nhận định,
điểm sách, có hai bài viết về tuổi
thơ, phải nói là tuyệt cú mèo.
Tin Văn sẽ post, và lai rai ba sợi về chúng.
Bài “Tuổi thơ đã mất”,
The Lost Childhood, viết về những cuốn sách
mà chúng ta đọc khi còn
con nít. “Gánh nặng tuổi thơ”, theo
Gấu, tuyệt hơn, phản ứng của con người, ở đây,
là ba nhà văn hách xì
xằng, về thời thơ ấu khốn khổ khốn nạn của họ, và
bằng cách nào, họ hất bỏ gánh nặng
này.
Khi Gấu trở về lại Đất Bắc, Gấu thấy mình
giống như một kẻ đi tìm gặp một thằng
Gấu còn ở lại Đất Bắc, và, tìm
hiểu, bằng cách nào thằng Gấu đó
hất bỏ được gánh nặng tuổi thơ…
|