*


























Thơ mỗi ngày

LOVE AT FIRST SIGHT

They're both convinced
that a sudden passion joined them.
Such certainty is beautiful,
but uncertainty is more beautiful still.

Since they'd never met before, they're sure
that there'd been nothing between them.
But what's the word from the streets, staircases, hallways –
perhaps they've passed by each other a million times? 

I want to ask them
if they don't remember -
a moment face to face
in some revolving door?
perhaps a "sorry" muttered in a crowd?
a curt "wrong number" caught in the receiver?
but I know the answer.
No, they don't remember.

They'd be amazed to hear
that Chance has been toying with them
now for years. 

Not quite ready yet
to become their Destiny,
it pushed them close, drove them apart,
it barred their path,
stifling a laugh,
and then leaped aside. 

There were signs and signals,
even if they couldn't read them yet.
Perhaps three years ago
or just last Tuesday
a certain leaf fluttered
from one shoulder to another?
Something was dropped and then picked up.
Who knows, maybe the ball that vanished
into childhood's thicket?

There were doorknobs and doorbells
where one touch had covered another
beforehand.
Suitcases checked and standing side by side.
One night, perhaps, the same dream,
grown hazy by morning. 

Every beginning
is only a sequel, after all,
and the book of events
is always open halfway through.

-Wislawa Szymborska:
View with a grain of sand

Note: Tình cờ vớ được bài này, post lên để độc giả TV thưởng lãm, và, nhân tiện, để tặng ông Tây mũi tẹt, đã từng đề nghị dịch "Tình Yêu như Trái Phá", qua tiếng Tẩy là "Cú Sét Đánh", và qua tiếng Hồng Mao, là, "Yêu từ cái nhìn đầu tiên"!

Bài thơ thật tuyệt, tặng ông ta, quá tuyệt, đúng cái ý:

Such certainty is beautiful,
but uncertainty is more beautiful still.
Dịch chắc như bắp như thế thì thật là đẹp
Nhưng dịch không chắc như bắp, thì còn đẹp hơn nhiều!
*

Yêu từ cái nhìn đầu tiên

Cả hai đều chắc như bắp
Đam mê bất thình đã dính họ vào nhau
Chắc như bắp như thế thì đẹp thật
Nhưng không chắc như bắp thì còn đẹp hơn nhiều 

Kể từ họ chưa từng gặp nhau trước đó, thành ra họ chắc mẩm là chẳng có gì giữa họ
Nhưng, biết đâu đây, một từ, từ đường phố, cầu thang, hành lang –
có thể họ đã từng trao cho nhau hàng triệu lần?
Lời nào em đã nói em/anh ơi?

Tôi muốn hỏi họ
nếu họ còn nhớ -
một thoáng đối mặt nhau,
tại một cánh cửa quay?
Hay một tiếng ‘so ghì’ mất tích giữa đám đông
Hay, “lộn số rồi”, cha nội?
Nhưng tôi biết câu trả lời
Không, họ đếch có nhớ!
Làm gì có chuyện đó! 

Họ hẳn là ngỡ ngàng
Rằng, Cơ May đã chơi trò hú tim với cả hai
trong bao nhiêu năm trời, cho đến giờ này!
Chưa có sẵn sàng đâu em ơi
Để biến thành Định Mệnh
[Vừa mới nghe tên, là đã hỏng cẳng, nữa là!]

Chính Định Mệnh đã kéo họ đến gần nhau, rồi lại đẩy họ ra xa
Nó chặn đường họ
cố nén một tiếng cười lớn
rồi nhảy qua một bên

Đã có những điềm, triệu
Ngay cả nếu như họ chưa đọc
Có thể ba năm trước đây
Hay đúng là Thứ Ba vừa rồi,
một chiếc lá lững lờ bay từ vai người này qua vai người kia?
Một cái gì đó [chiếc khăn tay chăng?] rớt, và rồi được nhặt lên
Ai mà biết được
Có thể là một trái banh,
biến mất vào trong một bụi cây của thời trẻ thơ ?

Có những tiếng gõ cửa, tiếng chuông cửa reo
Nơi một cái đụng phủ lên một cái khác đã được chuẩn bị trước
Những chiếc va li đã được kiểm soát và để kế bên nhau
Một đêm, và, có thể, cùng một giấc mơ
đến sáng thì thành nhảm!

Mọi bắt đầu
Thì chỉ là tiếp nối, nói cho cùng
Và cuốn sách của những biến động
Thì luôn mở ra ở lưng chừng.
*

TRY TO PRAISE THE MUTILATED WORLD

 Try to praise the mutilated world.
Remember June's long days,
and wild strawberries, drops of rose wine.
The nettles that methodically overgrow
the abandoned homesteads of exiles.
You must praise the mutilated world.
You watched the stylish yachts and ships;
one of them had a long trip ahead of it,
while salty oblivion awaited others.
You've seen the refugees going nowhere,
you've heard the executioners sing joyfully.
You should praise the mutilated world.
Remember the moments when we were together
in a white room and the curtain fluttered.
Return in thought to the concert where music flared.
You gathered acorns in the park in autumn
and leaves eddied over the earth's scars.
Praise the mutilated world
and the gray feather a thrush lost,
and the gentle light that strays and vanishes and returns.

Hãy cố mà ca ngợi thế giới bị tùng xẻo
Hãy nhớ những ngày dài Tháng Sáu
và những trái dâu dại, những giọt rượu vang hồng
Những cây tầm ma mọc um tùm một cách có hệ thống
những trại ấp bỏ hoang của những người lưu vong.
Bạn phải ca ngợi thế giới bị tùng xẻo.
Bạn ngắm những chiếc du thuyền kiểu cách và những chiếc tầu
một trong chúng thì có một chuyến đi dài phía trước mặt,
trong khi sự lãng quên đẫm vị mặn của muối chờ đợi những chiếc còn lại.
Bạn đã nhìn thấy những người tị nạn chẳng có 1 nơi chốn nào để mà tới
Bạn đã nghe đám đao phủ hát một cách thật là sảng khoái.
Bạn nên ngợi ca thế giới bị tùng xẻo
Hãy nhớ khoảnh khắc mà chúng ra cùng bên nhau
Trong căn phòng trắng và tấm màn xốn xang.
Hãy để cái đầu của mình trở về buổi hòa tấu khi âm nhạc bừng lên.
Chúng ta nhặt trái sồi ở công viên vào mùa thu
và những chiếc lá xoay xoay ở bên trên những vết sẹo trên mặt đất.
Hãy ngợi ca thế giới bị tùng xẻo
Và chiếc lông xám của con chim hét đã mất
Và ánh sáng dịu dàng lang thang, biến mất, rồi trở lại.

Bài thơ “Hãy ca ngợi một thế giới bị tùng xẻo”, lần thứ nhất được đăng trên số báo “đen” hậu-11/9, của tờ Người Nữu Ước.

When I read it I was struck, first, by an awareness that, far from lecturing his reader, the speaker was speaking to himself; his use of "You" (a Zagajewski trademark) a welcome change from the self-important I-deology of so many contemporary poets. It struck me, then, that he had brilliantly obeyed his own imperatives - "Remember .... Remember .... Return .... Praise" - and had made me do the same. More generally, I was arrested by the authority of the voice, the courage and wisdom of a call to praise in a time (like any other) of mutilation: praise, a word with Christian associations, repeated with increasing urgency in the refrain, acquiring the force of a liturgical response, a prayer. Behind the distinctive new voice, one can hear a voice heard in Auden's "Musée des Beaux Arts" ("About suffering they were never wrong / The Old Masters"), juxtaposing "miraculous birth" with "dreadful martyrdom" in which "the torturer" plays a part.

Khi đọc bài thơ “Hãy cố ngợi ca thế giới bị tùng xẻo”, tôi bị chấn động, thứ nhất, từ nỗi quan hoài, thay vì đọc lên giọng ‘mấy lời’ với độc giả thì nhà thơ lại nói với chính mình; cách sử dụng đại từ “You”, "Bạn", một thương hiệu của Zagajieski, quả là một sự chuyển đổi thật tuyệt, tách ra khỏi cái thói tự quan trọng mình của rất nhiều nhà thơ đương thời. Rồi tôi còn bị chấn động bởi sự kiện, nhà thơ thật thông minh, thật duyên dáng tuân theo những mệnh lệnh của chính mình - Hãy nhớ... Hãy nhớ... Hãy trở lại.... Hãy ngợi ca – và tôi cũng làm như vậy.
Nói chung là, tôi còn bị chấn động hơn thế nữa, bởi giọng quyền uy, sự can đảm và tính minh triết của một lời kêu gọi, hãy ngợi ca vào 1 thời [như bất cứ mọi thời] của sự tùng xẻo: ca ngợi, praise, một từ với những gia nghĩa mang tính Ky tô giáo, được lập đi lập lại với cường độ của sự khẩn thiết cứ thế tăng dần, ở điệp khúc, đòi hỏi một sức mạnh của 1 đáp ứng mang tính tế lễ, một lời cầu nguyện, khẩn cầu, cầu xin, a prayer.
Đằng sau giọng thơ mới mẻ một cách thật rành rẽ, phân biệt này, chúng ta nghe ra một giọng thơ cũ, của một bậc thầy, của Auden, trong "Viện Bảo Tàng Nghệ Thuật:: "Về đau khổ họ chẳng hề bao giờ lầm/Những Vị Thầy Cũ", và, chồng lên, sự “ra đời thần kỳ, giống như là 1 phép lạ”, là, sự "tuẫn nạn đáng sợ, chết chóc” trong đó, “tên đao phủ, kẻ tra tấn, tên hành hạ”, cũng có phần đóng góp của nó, vai trò của nó....

JON STALLWORTHY đọc Eternal Enemies: Light in the grime [Bụi Sáng]
TLS  Dec 4 2009

SQUARE D'ORLEANS

A place where pain and beauty
mingled once-two substances
that have long been acquainted.
A bank now occupies this space;
dapper gentlemen enter and exit,
each one slim as a new banknote.

Chopin lived here once.
His fingers struck the keyboard, matter, in a rage.
Impassioned poetry once lived here.
Peace and quiet now prevail, while nearby
insurance agents flourish, and the doctor
receives his patients at appointed hours.

Dusk falls; apartment houses stand
like worried herons on the century's rubble
(the distant whistle of the city sounds).
In the center of the square a little fountain
shyly raises up two braids of water,
reminding us of what life really is.
We sit on the steps as nothing happens.
It's also impossible to say
that we feel anything like sorrow.
Anxiety and frenzy (two
younger nations) have given way
to classical restraint.
The September evening slowly darkens,
a gentle wind traverses Paris
like an elderly Kabuki actor
playing the ingénue's part.
If anything upsets us-but nothing
does-it's only emptiness.

Zagajewski

Without End
*

Chắc bạn còn nhớ dòng thơ của Brodsky:
Bao thơ tôi, ít nhiều chi, là về cùng một điều - về Thời Gian. Về thời gian làm gì con người.
"All my poems are more or less about the same thing – about Time. About what time does to Man." 

Đây là câu trả lời của Adam Zagajewski:
"Only in marriage do love and time, eternal enemies, join forces".
"love sets us free, time kills us".

Chỉ trong hôn phối, hai kẻ thù thiên thu, nối vòng  tay lớn: tình yêu và thời gian
Thời gian giết chúng ta.
Tình yêu khiến chúng ta tự do
*

Món quà tặng tuyệt vời của “Ông Giời” dành cho GNV, lúc về già, chờ đi, là cuộc gặp lại cô bạn nơi Xứ Lạnh, và từ đó, làm được 1 dúm thơ, và thừa thắng xông lên, mê thơ, và…dịch thơ!
Nhiều lúc Gấu này không làm sao hiểu nổi chính Gấu nữa!
Một thằng cù lần như mi, mà cũng bầy đặt làm thơ, dịch thơ!

Ui chao lại nhớ ông anh nhà thơ.
Ông ngạc nhiên đến sững người, khi nghe Gấu đề nghị, sẽ viết về thơ của ông, cho số báo đặc biệt về ông, của tờ Văn. Và rồi ông bật cười, phán:
-Ừ, thì viết đi!
Đúng 1 buổi sáng tại Quán Chùa!
*

Kafka viết cho bạn là Oskar Pollak, vào năm 1904: "Tôi nghĩ chúng ta chỉ nên đọc những cuốn sách ngoạm, hoặc đâm chúng ta. Nếu cuốn sách mà chúng ta đọc không lay động chúng ta tỉnh hẳn người, giống như bị ai đó giáng một cú vào sọ, thì ích chi đâu mà đọc nó? Sách làm cho chúng ta hạnh phúc? Cám ơn Trời, chúng ta hạnh phúc biết bao nếu chẳng sách gì hết. Những cuốn sách làm chúng ta hạnh phúc, chúng ta có thể tự viết lấy. Sách mà chúng ta cần, chúng đập chúng ta giống như gặp một chuyện bất hạnh đau đớn nhất, như cái chết của một người thật thân thiết mà chúng ta yêu hơn cả yêu chúng ta, nó làm chúng ta cảm thấy như bị tống xuất tới một nơi rừng rậm, hẻo lánh, xa hẳn con người, giống như tự tử. Cuốn sách phải giống như cái rìu phá cái biển đóng băng ở bên trong chúng ta. Tôi tin như vậy."
(Alberto Manguel trích dẫn, trong cuốn A History of Reading, nhà xb Alfred A. Knopf Canada, 1996)

“Anh Cu Gấu” phản biện Kafka:
Chẳng cần tới 1 cuốn sách, mà chỉ cần 1 câu, có khi cũng đủ!

Vào cái thời ông Tây mũi tẹt dịch Camus, như máy, khi ngồi tại quán Les Deux Magots, có thể, ở Paris, thì Gấu, tiếng Tây ăn đong, đọc Camus, đọc Sartre theo kiểu học đánh vần hồi mới học thuộc bảng chữ cái, và, vớ được hai câu sau đây, sướng điên lên được, và có thể nói, cả 1 cõi viết của GNV, sau này, là từ hai câu phán kinh hồn bạt viá đó, 1 của Sartre, và 1 của Camus.

Vào mỗi thời đại, con người lọc ra mình, khi đối diện tha nhân, tình yêu, và cái chết. (1)
(1)
A chaque époque l'homme se choisit en face d'autrui, de l'amour et de la mort.
Sartre, Situations.


Còn câu sau đây, của Camus, GNV không làm sao tìm ra được, nó nằm ở đâu, trong những tác phẩm của ông.
Thế rồi GNV lần mò tìm lại hồi ức của mình, và tự hỏi, hay là mi đọc qua 1 tác giả khác, khi ông ta trích dẫn Camus ?
Và, nếu như thế, thì có thể, GNV đọc câu của Camus, qua Tam Ích :

Tôi lớn lên cùng những người của thế hệ của tôi, trong tiếng trống trận Đệ Nhất Thế Chiến, và lịch sử, từ đó, chỉ là sát nhân, bất công và bạo lực.

Còn câu nữa, của Sartre, cũng làm Gấu yên tâm, và, bắt đầu viết.

Tại sao tôi lại sợ hãi 1 thế giới bình thường, giản dị, và đều đặn như thế này ?
Và tôi cảm thấy tôi hết bịnh.
Câu trên, trong La Nausée. (2)

Thành thử GNV nghĩ, bạn không cần đọc nhiều, mà chỉ ở trong 1 cái thế hàm mô công, và chờ con mồi [ở đây, là 1 câu văn], xuất hiện, và chụp ngay lấy nó !
Thế là thành nhà văn, nhà thơ !

Cả một cõi thơ của GNV, là từ câu thơ của cô bạn:

Hồn Đông Phương, thất lạc, Buồn Tây Phương

(2)
Cái tình cảnh xui khiến Gấu "dám" cầm cây viết, và ti toe viết, y chang anh chàng Roquentin, ở ngay đầu cuốn La Nausée, [đoạn khép lại những trang không ghi ngày tháng, và sau đó, Nhật Ký bắt đầu]. Lúc đó là 10.30 tối. Anh chàng đang trong cơn "khủng hoảng hiện sinh", và, thế rồi, ông ta đây rồi, anh chàng nghe tiếng chân ông Rouen bước lên cầu thang, cảm thấy an tâm, và tự hỏi, cớ làm sao mà lại sợ hãi một thế giới đều đặn như thế? Anh chàng cảm thấy khỏi bịnh, và bắt đầu viết La Nausée.
[Le voilà. Eh bien, quand je l'ai entendu monter l'escalier, ca m'a donné un petit coup au coeur, tant c'était rassurant: qu'y-a-t-il à craindre d'un monde si régulier?
Je crois que je suis guéri.]
NKTV

Thơ mỗi ngày

SQUARE D'ORLEANS

A place where pain and beauty
mingled once-two substances
that have long been acquainted.
A bank now occupies this space;
dapper gentlemen enter and exit,
each one slim as a new banknote.

Chopin lived here once.
His fingers struck the keyboard, matter, in a rage.
Impassioned poetry once lived here.
Peace and quiet now prevail, while nearby
insurance agents flourish, and the doctor
receives his patients at appointed hours.

Dusk falls; apartment houses stand
like worried herons on the century's rubble
(the distant whistle of the city sounds).
In the center of the square a little fountain
shyly raises up two braids of water,
reminding us of what life really is.
We sit on the steps as nothing happens.
It's also impossible to say
that we feel anything like sorrow.
Anxiety and frenzy (two
younger nations) have given way
to classical restraint.
The September evening slowly darkens,
a gentle wind traverses Paris
like an elderly Kabuki actor
playing the ingénue's part.
If anything upsets us-but nothing
does-it's only emptiness.
*

Quảng trường Orleans

Một nơi chốn, nơi đau và đẹp,
trước có thời là hai, nay trộn vào nhau,
Một ngân hàng bây giờ chiếm chỗ đó,
những bậc phong nhã lanh lẹ ra vô,
ông nào thì cũng mảnh mai như tờ ngân phiếu mới.

Chopin đã một thời sống ở đây.
Những ngón tay của ông giận dữ gõ lên phím đàn
Thơ tha thiết thiết tha đã từng sống ở đây,
bình an, trầm lặng bây giờ là tất cả, trong khi gần đó,
những nhân viên bảo hiểm nở rộ,
và vị bác sĩ nhận bịnh nhân vào những giờ có hẹn trước.

Hoàng hôn, những căn phòng, những căn nhà đứng sững,

như là những con diệc buồn phiền lo lắng trên đống gạch vụn của thế kỷ

(có những tiếng huýt sáo của thành phố từ xa).
Ở giữa quảng trường có một cái vòi nước nhỏ,
e thẹn vọt ra hai dải nước, nhắc nhở chúng ta, đời sống thực sự là gì
Chúng ta ngồi ở những cái bực, như thể chẳng có gì xẩy ra.
Thật cũng khó mà nói,
 rằng chúng ta cảm thấy một điều gì đó,
có tên là buồn phiền.
Xao xuyến và cuồng điên (hai đất nước non trẻ hơn)
đã xô dạt đi cái thói kiềm chế,
thắt lưng buộc bụng cổ điển.
Buổi chiều Tháng Chín dần dà tối đậm,
một cơn gió dịu dàng, lịch sự thổi qua Paris
như là một nghệ sĩ Kabuki già
chơi cái phần thơ ngây của vở kịch
Cứ giả như có điều gì làm chúng ta bực –
làm chó gì có cái thứ chó đó –
thì đó, tất nhiên, là, sự trống rỗng.

Zagajewski

Without End

TRY TO PRAISE THE MUTILATED WORLD

 Try to praise the mutilated world.
Remember June's long days,
and wild strawberries, drops of rose wine.
The nettles that methodically overgrow
the abandoned homesteads of exiles.
You must praise the mutilated world.
You watched the stylish yachts and ships;
one of them had a long trip ahead of it,
while salty oblivion awaited others.
You've seen the refugees going nowhere,
you've heard the executioners sing joyfully.
You should praise the mutilated world.
Remember the moments when we were together
in a white room and the curtain fluttered.
Return in thought to the concert where music flared.
You gathered acorns in the park in autumn
and leaves eddied over the earth's scars.
Praise the mutilated world
and the gray feather a thrush lost,
and the gentle light that strays and vanishes and returns.

Hãy cố mà ca ngợi thế giới bị tùng xẻo
Hãy nhớ những ngày dài Tháng Sáu
và những trái dâu dại, những giọt rượu vang hồng
Những cây tầm ma mọc um tùm một cách có hệ thống
những trại ấp bỏ hoang của những người lưu vong.
Bạn phải ca ngợi thế giới bị tùng xẻo.
Bạn ngắm những chiếc du thuyền, những chiếc tầu
kiểu cách
một trong chúng thì có một chuyến đi dài phía trước mặt,
trong khi sự lãng quên đẫm vị mặn của muối chờ đợi những chiếc còn lại.
Bạn đã nhìn thấy những người tị nạn chẳng có 1 nơi chốn nào để mà tới
Bạn đã nghe đám đao phủ hát một cách thật là sảng khoái.
Bạn nên ngợi ca thế giới bị tùng xẻo
Hãy nhớ khoảnh khắc mà chúng ra cùng bên nhau
Trong căn phòng trắng và tấm màn xốn xang.
Hãy để cái đầu của mình trở về buổi hòa tấu khi âm nhạc bừng lên.
Chúng ta nhặt trái sồi ở công viên vào mùa thu
và những chiếc lá xoay xoay ở bên trên những vết sẹo trên mặt đất.
Hãy ngợi ca thế giới bị tùng xẻo
Và chiếc lông xám con chim hét đã mất
Và ánh sáng dịu dàng lang thang, biến mất, rồi trở lại.

Bài thơ “Hãy ca ngợi một thế giới bị tùng xẻo”, lần thứ nhất được đăng trên số báo “đen” hậu-11/9, của tờ Người Nữu Ước.

When I read it I was struck, first, by an awareness that, far from lecturing his reader, the speaker was speaking to himself; his use of "You" (a Zagajewski trademark) a welcome change from the self-important I-deology of so many contemporary poets. It struck me, then, that he had brilliantly obeyed his own imperatives - "Remember .... Remember .... Return .... Praise" - and had made me do the same. More generally, I was arrested by the authority of the voice, the courage and wisdom of a call to praise in a time (like any other) of mutilation: praise, a word with Christian associations, repeated with increasing urgency in the refrain, acquiring the force of a liturgical response, a prayer. Behind the distinctive new voice, one can hear a voice heard in Auden's "Musée des Beaux Arts" ("About suffering they were never wrong / The Old Masters"), juxtaposing "miraculous birth" with "dreadful martyrdom" in which "the torturer" plays a part. At some level, Zagajewski remembers this as well as his own love, a fluttering curtain (in a window Auden had opened), and a "mutilated world" where "the executioners sing joyfully". Surely, too, Auden's "expensive delicate ship" must be one of Zagajewski's "stylish ships" - perhaps one heading for the "salty oblivion" that awaits Icarus in the Bruegel painting on which Auden's poem is based.

Khi đọc bài thơ “Hãy cố ngợi ca thế giới bị tùng xẻo”, tôi bị chấn động, thứ nhất, từ nỗi quan hoài, thay vì lên giọng với độc giả thì nhà thơ lại nói với chính mình; cách sử dụng đại từ “You”, "Bạn", một thương hiệu của Zagajewski, quả là một sự chuyển đổi thật tuyệt, tách ra khỏi cái thói tự quan trọng mình của rất nhiều nhà thơ đương thời. Rồi tôi còn bị chấn động bởi sự kiện, nhà thơ thật thông minh, thật duyên dáng tuân theo những mệnh lệnh của chính mình - Hãy nhớ... Hãy nhớ... Hãy trở lại.... Hãy ngợi ca – và tôi cũng làm như vậy.
Nói chung là, tôi còn bị chấn động hơn thế nữa, bởi giọng quyền uy, sự can đảm và tính minh triết của một lời kêu gọi, hãy ngợi ca vào 1 thời [như bất cứ mọi thời] của sự tùng xẻo: ca ngợi, praise, một từ với những gia nghĩa mang tính Ky tô giáo, được lập đi lập lại với cường độ của sự khẩn thiết cứ thế tăng dần, ở điệp khúc, đòi hỏi một sức mạnh của 1 đáp ứng mang tính tế lễ, một lời cầu nguyện, khẩn cầu, cầu xin, a prayer.
Đằng sau giọng thơ mới mẻ một cách thật rành rẽ, phân biệt này, chúng ta nghe ra một giọng thơ cũ, của một bậc thầy, của Auden, trong "Viện Bảo Tàng Nghệ Thuật:: "Về đau khổ họ chẳng hề bao giờ lầm/Những Vị Thầy Cũ", và, chồng lên, sự “ra đời thần kỳ, giống như là 1 phép lạ”, là, sự "tuẫn nạn đáng sợ, chết chóc” trong đó, “tên đao phủ, kẻ tra tấn, tên hành hạ”, cũng có phần đóng góp của nó, vai trò của nó.
Ở một mức độ nào đó, Zagajewski nhớ rõ điều này như tình yêu của riêng ông, bức màn xốn xang (nơi cửa sổ Auden mở), và một ‘thế giới bị tùng xẻo’, nơi “những tên đao phủ hát hớn hở”. Cũng chắc chắn, “con tầu sang trọng, lịch lãm” của Auden phải là một trong những con tầu kiểu cách “stylish ships” của Zagajewski – có lẽ là con tầu hướng về "biển mặn, biển nhớ, biển chờ, biển lãng quên".. TCS, ấy chết.... Icarus, trong bức họa của Brugel mà bài thơ của Auden dựa trên nó.
*

Nhờ bài điểm trên TLS mà chúng ta nắm được phần nào ý nghĩa bài thơ hũ nút trên, nhưng câu thơ “and the gray feather a thrush lost”, Gấu chẳng hiểu nó nói về cái quái gì. Cầu cứu sư phụ, sư phụ cũng chịu thua:

V. không biết dịch sao cho đúng , nhất là bài thơ ấy là một bài thơ dịch từ tiếng Ba Lan qua tiếng Anh . Nhưng V. tìm được bài thơ sau đây mà V. thấy cũng có chút gì liên quan . Bài thơ được viết vào mùa đông giữa hai thế kỷ 19 và 20 (1900) , với giọng bi quan . Giữa trời đất xám buồn áo não, chợt nghe tiếng hót ngập tràn hạnh phúc của một con chim già nhỏ bé tả tơi   :

The Darkling Thrush  
by Thomas Hardy

I leant upon a coppice gate
     When Frost was spectre-gray,
And Winter's dregs made desolate
     The weakening eye of day.
The tangled bine-stems scored the sky
     Like strings of broken lyres,
And all mankind that haunted nigh
     Had sought their household fires.
The land's sharp features seemed to be
     The Century's corpse outleant,
His crypt the cloudy canopy,
     The wind his death-lament.
The ancient pulse of germ and birth
     Was shrunken hard and dry,
And every spirit upon earth
     Seemed fervourless as I.
At once a voice arose among
     The bleak twigs overhead
In a full-hearted evensong
     Of joy illimited;
An aged thrush, frail, gaunt, and small,
     In blast-beruffled plume,
Had chosen thus to fling his soul
     Upon the growing gloom.
So little cause for carolings
     Of such ecstatic sound
Was written on terrestrial things
     Afar or nigh around,
That I could think there trembled through
     His happy good-night air
Some blessed Hope, whereof he knew
     And I was unaware.

“Ngày dài tháng Sáu”, thì chắc là nhiều người biết, nếu ai đã từng coi Ngày Dài Nhất, thì lại càng biết.
Ui chao lại nhớ Sài Gòn! Gấu đã từng dịch Ngày Dài Nhất, cho ông Nhàn, nhà xb Vàng Son, nhưng do đúng lúc đó, Sài Gòn đang chiếu Ngày Dài Nhất, nên ăn theo cái tít, bởi vì thực sự cuốn Gấu dịch là Cuộc Đổ Bộ [Normandie].