|
SN_GCC_2017
@ Taipei Airport, lượt đi.
Cái kiếng, rớt mất tiêu, liền sau đó.
Lượt về mất hành lý
Weave a circle round him thrice
And close your eyes with holy dread,
For he on honey-dew hath fed,
And drunk the milk of Paradise.
"Samuel Taylor Coleridge, "Kubla Khan," lines 51-54.
[from "Borges Tám Bó"]
Vẽ 1 cái vòng tròn ba lần
Rồi nhắm cặp mắt lé của mi lại
Với nỗi sợ thiêng liêng
Bởi là vì mi, đã tới giờ húp
1 húp cháo lú
Và uống 1 ngụm sữa thiên đường
Nỗi sợ thiêng liêng!
Holy dread!
Chắc là của Coleridge?
Borges: Tôi nghĩ là dịch từ Latinh, từ những
gì mà người La Mã cảm nhận [felt].
Người La Mã, cũng giống như lũ Bắc Kít, coi
Lăng Bác Hồ là nơi chốn thiêng liêng. Chúng
nói thầm với nhau, có vị thần nằm ở trong đó,
there is a god inside.
May 29 at 10:32 PM
những dẫn nhập không số
tháng 6. hè. chưa một tiếng ve.
những nụ hoa vừa hé. rưng rưng trong mưa. tháng
6 dầm dề. ở những con đường lạ hoắc tên. man mác vị
thân quen. một trang web dừng lại. một hụt hẫng chưa kịp quen.
thời gian dừng lại ở đó. người đi qua thời gian? đã
tìm được câu trả lời cho một lần đã hỏi?
80 năm như một chớp mắt? hay 80 năm như một đằng
đẵng?
tại sao lại có những giới hạn trong cuộc
sống như vậy? một dừng lại. và là một dừng lại vĩnh
viễn. chỉ còn lại những con chữ đứng chờ. chờ người tìm
đến đọc lại nó. trong một bối cảnh khác? Và
ngòai trời lại mưa. mưa chậm. chầm chậm. một màn trăng
trắng giăng phủ. và nhìn ra những hình bóng.
rời bỏ cuộc sống thật này rồi sẽ đến đâu?
về đâu?
tựa lưng vào quá khứ. những lập
luận. kết nối uyên bác. một cái nhìn
khác. một cách nhận khác. được mở ra cho những
đọc. và còn gì nữa? trong cái viết
liên hoàn. trong chắp nối đông tây. chắn
sẽ còn nhiều nữa. tùy cái công lực của
người đọc nó.
vậy là chỉ còn một tháng.
cho tròn cái 80.
không đề
người về. bên ấy cuộc vui
có. người ở lại. ui ui. gàn gàn
đi xa. để cuộc vui. tàn
đi gần. ngẫm lại. một hàng lệ. xa
ừ thôi. thì có. phôi
pha
sao không. giữ lại phong ba. một thời
sao không. để lại lời. mời
DS
Tks
http://www.tanvien.net/Viet/Bolano_Trong_ngoac.html
BORGES AND THE RAVENS
I'm in Geneva and I'm looking
for the cemetery where Borges is buried. It's a cold autumn morning,
although to the east there's a glimpse of sun, a few rays that cheer
the citizens of Geneva, a stubborn people of great democratic tradition.
The Plainpalais, the cemetery where Borges is buried, is the perfect
cemetery: the kind of place to come every afternoon read a book, sitting
across from the grave of some government minister. It's really more like
a park than a cemetery, all extremely manicured park, every inch well-tended.
When I the keeper about Borges's grave, he looks down at the ground,
nods, and tells me how to find it, not a word wasted. There’s no way
to get lost. From what he says it's clear that visitors always coming
and going. But this morning the cemetery is literally empty. And when
I finally reach Borges's grave there’s no one nearby. I think about
Calderon, I think about the English and German Romantics, I think how
strange life is or, rather: I don't think anything at all. I just look
at the grave the stone inscribed with the name Jorge Luis Borges, the
date of his birth, the date of his death, and a line of Old English verse.
And then I sit on a bench facing the grave and a raven says something in
a croak, a few steps from me. A raven! As if instead of being in Geneva I
were in a poem by Poe. Only then do I realize that the cemetery is full
of ravens, enormous black ravens that hop up on the gravestones or the
branches of the old trees or run through the clipped grass of the Plainpalais.
And then I feel like walking, looking at more graves, maybe if I'm lucky
I'll find Calvin's, and that's what I do, growing more and more uneasy,
with the ravens following me, always keeping within the bounds of the cemetery,
although I suppose that one occasionally flies off and goes to stand on
the banks of the Rhone or the shores of the lake to watch the swans and ducks,
somewhat disdainfully, of course.
Roberto Bolano:
Between parentheses
Note: Tay Bolano này,
đọc, thấy có cái gì đó, giống PCT, tếu
thế, nhưng một PCT thực, trong khi PCT Mít thì lại là
đồ dởm!
Có vẻ như nhà văn Mít, nói chung,
thì đều như thế.
Bi giờ thì mới thấm câu của Hoàng Ngọc
Hiến, cái nước mình nó thế!
GCC hình như cũng mới mê Bolano đây thôi,
có thể là từ lần đọc bài thơ của ông viết
về… BHD, hà hà!
Borges và những con quạ
Tôi ở Geneva và kiếm nghĩa địa Borges nằm nghỉ.
Đó là một buổi sáng mùa thu, trời lạnh,
mặc dù phía đông thấy có tí mặt
trời, và một vài tia nắng làm cư dân Geneva,
một giống dân ương ngạnh có truyền thống dân chủ,
sướng điên lên.
Plainpalais, nghĩa địa Borges nằm nghỉ dài hạn, thực
đúng là một công viên tuyệt hảo, thứ công
viên mà Gấu Cà Chớn cực mê, vì nó
làm nhớ tới công viên Tao Đàn ở Xề Gòn
(1), nơi, cứ xế trưa là người ta bèn tới đó, kiếm
1 chỗ để đọc sách, thí dụ, từ ngôi mộ của một đấng,
khi còn sống làm bộ trưởng nhà nước [Ngụy, tất nhiên].
Quả đúng là 1 công viên hơn là
một nghĩa địa, một công viên được tỉa tiếc tới chỉ, một
mẩu đất cũng được chăm sóc. Khi tôi hỏi người coi coi giữ
về ngôi mộ của Borges, người đó bèn ngó xuống
đất, gật gật cái đầu và chỉ dẫn, không một lời
thừa. Chẳng thể nào lạc. Từ những điều ông ta nói,
thì rõ là nghĩa địa có nhiều khách
thăm viếng. Nhưng buổi sáng hôm đó, quái làm
sao, trần mình tôi. Và khi tôi tới mộ Borges,
tất nhiên là chẳng có ai lảng vảng quanh đó.
Tôi bèn nghĩ về Calderón, nghĩ về những người Romantics
Hồng Mao và Đức. Tôi bèn nghĩ rằng là đời thì
lạ làm sao, hay, đúng hơn: Tôi đếch nghĩ cái
mẹ gì hết!
Tôi nhìn ngôi mộ, tôi nhìn
cái bia đá có tên Jorge Luis Borges, ngày
ông sinh ra, ngày ông mất, và 1 dòng
thơ tiếng Anh Cổ. Thế rồi tôi ngồi cái băng ghế đối diện
ngôi mộ và, một con quạ bèn nói một điều gì
đó, bằng thứ ngôn ngữ quoạc quoạc của nó, cách
tôi vài bước chân. Một con quạ!
Cứ như thể, thay vì ở Geneva, thì tôi
ở trong một bài thơ của Poe.
Chỉ tới lúc đó tôi nhận ra, nghĩa địa
đầy quạ, những con quạ đen khổng lồ, lò cò giữa những
ngôi mộ đá, trên cành cổ thụ, hay chạy trên
những thảm cỏ. Và tôi cảm thấy mình như đang lang
thang tản bộ, nhìn thêm nhiều ngôi mộ, và, nếu
may mắn, tôi có thể thấy ngôi mộ của Calvin, và
đúng là điều tôi đang làm, mỗi lúc
một thêm bừng bực, vì đàn quạ lẵng nhẵng theo sau,
luôn giữ giới hạn, như trong nghĩa địa, và, như tôi
giả dụ, thi thoảng, có vài đấng, bỏ cuộc vui, bèn
làm 1 chuyến bay tới đậu ở bờ sông Rhone, hay những bờ hồ,
để ngắm thiên nga, vịt, với cái vẻ dè bỉu, khinh khi,
tất nhiên!
(1)
Khi về, cô tha thẩn giữa những hàng cây
nơi vườn Tao Đàn. Mùa Thu theo chiếc lá nhẹ nhàng
đậu trên vai cô bé đang mơ mộng, đang trở thành
người lớn.
Lần Cuối Sàigòn
Không phải “vô tư” mà Bolano vinh danh
Borges, qua hình ảnh những con quạ.
Borges thú nhận, lần đầu đọc Poe, bài thơ con
quạ, ông không mê, nhưng sau đó, đọc 1 tay
viết về bài thơ này - Rossetti, ông choáng
người, và ngộ ra 1 điều về cái từ Everness. Thần sầu. Bảnh
hơn nhiều, nếu phải so với từ “vĩnh cửu”, eternity. Bảnh hơn nũa, ông
cũng tiện thể, nhớ BHD, giùm GCC, qua những dòng thơ sau
đây
As to the verses of Edgar Allan Poe, I know some of them
by heart, and I think them lovely, and others are not so good. For
example, I will begin by verses I learned:
Was it not Fate that, on this July midnight-
Was it not Fate (whose name is also Sorrow)
That bade me pause before the garden-gate,
To breathe the incense of those slumbering roses?
( Ah, bear in mind this garden was enchanted! ) *
Số phận chăng cái nửa đêm tháng Bảy
Định mệnh chăng ( Sầu Rầu thì cũng nó)
Nó biểu tôi, nè, hãy dừng chân,
trước cổng vườn
Để mà hít hà hương thơm của những bông
hồng đang thiu thiu ngủ
(Nè, hãy nhớ hoài điều này, đây
là khu vườn thần tiên)
And also this very strange line from his first book, Al
Aaraaf. I am not sure. My erudition is but dim:
The eternal voice of God is passing by
And the red winds are withering in the sky! +
Và tiếng cười của nàng vẫn còn văng vẳng
đâu đây
Và gót hài của nàng thì
vưỡn còn in trên lớp bụi ngày nào
[Lần trở lại Quán Xưa]
And at the same time, when I think of the raven, I think
of it as a stuffed raven. I cannot take it seriously! When the raven
speaks, "Quoth the Raven 'Nevermore,' " that seems to me to be ineffective.
Rossetti, who had read "The Raven" of course, did it better. He was
inspired by Poe, but he wrote thus:
Look in my face; my name is Might-have-been;
I am also called No-More, Too-late, Farewell .... **
Hãy nhìn vào mặt ta.
Tên ta là GCC
Còn là Might-have-been
Còn là Hết rồi còn chi đâu Em ơi!
Quá Muộn!
Vĩnh Biệt BHD!
Hà, hà!
There is also that wonderful word invented by Bishop Wilkins
in the seventeenth century, a word so fine that no poet has ever dared
to use it. He invented two words. One, everness, and I was bold enough
to use that as the title for a sonnet of mine, "Everness." Because everness
is better than eternity. It goes with the German Ewigkeit. Then another
word like doom, a word far better than that line I like so much in Dante:
Lasciate ogni speranza voi cb'entrate "Abandon all hope you who enter
here." That single word invented, given to the English language by Bishop
Wilkins and never used because all those poets have stood in fear of it,
that terrible, that beautiful, word is neverness. That could be done into
German perhaps as Nimmerkeit. It can't be done into Spanish, I know. You
see, everness is a fine word and neverness is a desperate word.
Edgar Allan Poe wrote many verses and I don't think much of
them, but there is one story of his that stands out, and that story
is "The Narrative of Arthur Gordon Pym." You have Arthur and Edgar, both
Saxon names, then Gordon and Allan, both Scottish. Then Pym goes for Poe.
Now the first chapters of that long tale are not too memorable, I should
say. But the last chapters are a nightmare. And they are, strangely enough,
a nightmare of whiteness, of white being thought of as being terrible.
Of course Herman Melville had read "The Narrative of Arthur Gordon Pym,"
and he wrote Moby Dick, or the White Whale. There he used the same idea,
the idea of white, not scarlet or black, as being the most terrible of colors.
You find that both books, Moby Dick and "The Narrative of Arthur Gordon
Pym," are a nightmare of whiteness.
*To Helen," lines 21-24, 30. This poem was written for Mrs.
Sarah Helen Whitman.
+Lines 131-32.
**Sonnet 97, "A Superscription," from The House of Life
Jorge Luis Borges: "Everness"
Everness
One thing does not exist: Oblivion.
God saves
the metal and he saves the dross,
And his
prophetic memory guards from loss
The moons
to come, and those of evenings gone.
Everything is:
the shadows in the glass
Which, in
between the day’s two twilights, you
Have scattered
by the thousands, or shall strew
Henceforward
in the mirrors that you pass.
And everything
is part of that diverse
Crystalline
memory, the universe;
Whoever
through its endless mazes wanders
Hears door
on door click shut behind his stride,
And only
from the sunset’s farther side
Shall view
at last the Archetypes and the Splendors.
Translated from Spanish by Richard Wilbur
[net]
Everness
One thing alone does not exist-oblivion.
God, who saves the metal, saves the dross
and stores in his prophetic memory
moons that have still to come, moons that have shone.
Everything is there. The thousands of reflections
which between the dawn and the twilight
your face has left behind in many mirrors
and those faces it will go on leaving yet.
And everything is part of that diverse
and mirroring memory, the universe;
there is no end to its exigent corridors
and the doors that close behind you as you go;
only the far side of the sunset's glow
will show you at last the Archetypes and Splendors.
-A.R.
Note: Bài thơ này, Tin Văn đã giới thiệu,
và có bản tiếng Mít, để kiếm sau.
Nhớ, là có chôm Nguyễn Du, "Mai sau dù
có bao giờ", để dịch cái từ thần sầu Everness, của Borges...
Đành dịch lại, theo hai bản tiếng Anh, trên đây.
Mai sau dù có bao giờ
Một điều, mình nó không thôi, thì
không hiện hữu - Sự Lãng Quên
Ông Trời, Người kíu kim loại, kíu kít kim
loại – còn gọi là gỉ sét -
Và trữ, chứa trong hồi ức tiên tri của Xừ Luỷ,
Những con trăng sẽ tới
Những con trăng những đêm nào đã qua đi
Mọi thứ thì, rằng thì là, cứ thế bày
ra đó
Ngàn ngàn những phản chiếu
Giữa rạng đông và hoàng hôn
Trong rất nhiều tấm gương
Là khuôn mặt Em để lại
[Cái gì gì, đập cổ kính ra tìm
lại bóng]
Hay, sẽ để lại, trước khi soi bóng
Và mọi điều thì là phần của cái hồi nhớ
tản mạn, long lanh, vũ trụ;
Làm gì có tận cùng cho những hành
lang khẩn cấp của nó
Những cánh cửa đóng lại sau khi Em đi
Chỉ ở mãi phía xa kia, trong rực rỡ dương quang
Sẽ chỉ cho Em thấy, sau cùng, những Nguyên Mẫu và
những Huy Hoàng
MY GIFT TO YOU
My gift to you will be an abyss,
she said,
but it will be so subtle you'll perceive it
only after many years have passed
and you are far from Mexico and me.
You'll find it when you need it most,
and that won't be
the happy ending,
but it will be an instant of emptiness and joy.
And maybe then you'll remember me,
if only just a little.
Roberto Bolano
The Paris Review
Summer 2012
Xuống phố, đổi phim, ghé
tiệm sách, mua số The Paris
Review có bài thơ tuyệt vời của
Bolano, tả đúng tâm sự Gấu, đúng cái cảnh tình
cờ gặp lại Em, khi Em đi chợ Bến Thành, về, và “kín
đáo” nói cho biết, tại làm sao Em vờ Gấu, và
chọn một anh bồ, cùng học Y Khoa. (1)
Quà BHD tặng Gấu
Quà ta tặng mi sẽ
là 1 vực thẳm, em nói
Nhưng nó "tế vi"
đến nỗi mi không thể nào nhận ra
Chỉ sau thật nhiều năm,
có khi, chỉ sau khi ta đi xa rồi,
Và cả hai đều chạy
ra khỏi cả hai quê hương Bắc Kít và Nam Kít
rồi
Thì lúc đó
mi mới tìm thấy món quà ta tặng mi
Khi mà mi cực cần
đến nó
Và chắc chắn không
phải là một kết thúc hạnh phúc
Nhưng sẽ là một thoáng
chốc của sự trống rỗng và niềm vui.
Và có thể,
chỉ lúc đó mi mới nhớ ta,
Và mới hiểu cái
gọi là "mono no aware",
“Nỗi
buồn cháy da, cháy thịt khi ta đã đi ra khỏi đời của
mi".
Nhưng cũng chỉ được 1 tí
tí.
Gunnar Thorgilsson
(1816-1879)
The memory of time
Is full of swords and ships
And the dust of empires
And the rumble of hexameters
And the high horses of war
And shouts and Shakespeare.
I want to recall that kiss, the kiss
You bestowed on me in Iceland.
-H.R.
J.L. Borges
Gunnar Thorgilsson
(1816-1879)
Hồi ức thời gian
Thì đầy gươm giáo và tầu thuyền
Và bụi của những đế quốc
Và tiếng ì ầm sóng vỗ chung quanh chỗ ngồi
Của những vần thơ ở đâu xa
Và những chú chiến mã hùng vĩ
Và những tiếng la thét và Shakespeare.
Gấu chỉ muốn nhớ nụ hôn của BHD
Bữa bãi khoá, biểu tình
Nơi nghĩa trang Bắc Việt
Lần
Cuối Sài Gòn
1965. Những ngày
viết "Những ngày ở Sài-gòn". Thời gian xa cách
làm những giọt nước chín mùi, biến thành những
chữ. Cô bé đã lớn, đã bước vào những năm
cuối cùng của bậc Trung Học. Đã có lần tham gia biểu
tình, bãi khóa. Đã có người yêu
đón đưa những lần tới lớp, những giờ tan trường. Đã bị bà
Giám Hiệu ra thông báo cấm những trò có
hại cho thanh danh nhà trường như vậy. Đã bãi học không
phải để tham gia biểu tình, nhưng để đi chơi với người yêu.
Lợi dụng thành phố đang trong cơn nhốn nháo, cả hai theo chiếc
xe lên nghĩa trang Bắc Việt để thì thầm những lời yêu
đương giữa những nấm mồ và lắng nghe những người đã chết kể
về từng gốc cây ngọn cỏ.
IN THE SNOW
Tracks of someone lost,
Bleakly preoccupied,
Meandering blindly
In these here woods,
Licking his wounds
And crunching the snow
As he trudges on,
Bereft and baffled,
In mounting terror
With no way out,
Jinxed at every turn,
A mystery to himself.
-Charles Simic
NYRB June 8 2017
Trong tuyết
Dấu vết kẻ nào đó thất lạc,
Hoang mang chộn rộn
Mù lòa dọ dẫm
Trong rừng này.
Liếm, láp vết thương
Nhai, gậm tuyết
Hắn lê lết
Như mất trí, lầm lạc
Và thế là nỗi ghê rợn tăng lên
Không lối thoát
Vận rủi ở từng lối ngoặt, ngã rẽ,
Một bí ẩn với chính hắn.
SN_GCC_2017
Hoàng Ngọc
Hiến
Lời dẫn: Đoạn văn dưới đây đề cập tới một số truyện
của tôi, được trích từ một bài viết về Văn Học
Việt Nam
tại Hải Ngoại của ông Hoàng Ngọc Hiến, nhà phê
bình văn học, hiện cư ngụ tại Hà Nội. Tôi
chưa được hân hạnh quen biết hay gặp gỡ ông Hoàng
Ngọc Hiến nên chưa có cơ hội xin phép trích
đăng đoạn văn này. Tôi xin mạn phép tác
giả lấy từ trang nhà của Việt Báo Online. Việt Báo
Online đã đăng bài phê bình này trong
nhiều kỳ báo. Quý vị độc giả muốn có toàn
văn bài viết xin vào www.vietbao.com số ngày 30
tháng 7 năm 2001 và các số kế tiếp. ( ST )
[Trích
trang net của Song Thao].
Gấu là thằng liều cùng mình, về Hà
Nội, khi chưa tên nào dám về, đem bài viết
ra hải ngoại, type, post trên VHNT của PCL, cùng lúc,
trên Việt Báo online. HNH chẳng hề biết gì về chuyện
này.
Tên khốn này, cũng dân Canada, biết
GCC, biết trang Tin Văn, Gấu quen cả băng, và đã từng
làm MC quảng cáo sách của chúng. Nhưng
hắn vờ hết, chỉ cám ơn HNH, nhưng sợ lũ Khiến Chán, thanh
minh thanh nga, tôi không quen ông ta!
Sến, lần đăng bài của Gấu, viết về Joseph Huỳnh
Văn, cũng từ nguồn Việt Báo online, cũng không hề nhắc
tới trang Tin Văn.
Trường hợp nào thì cũng do não bị thiến
1 mẩu, đúng mẩu có tí can đảm, tí đạo hạnh.
Sến, thì còn do ngạo mạn.
Tên số 2 Trùm bộ lạc Cờ Lăng, cũng dân Canada,
được Canada cho cơ may lại làm người, nhờ có bà
con, thân nhân bảo lãnh, chưa từng ở Trại Tị Nạn nên
chưa biết cái sợ bị trả về xứ Mít, có thể vì
thế, chúng chưa từng nói 1 lời cảm ơn cái xứ sở đã
chấp nhận chúng, và, có thể là vì
Mẽo mới là thiên đường của lũ này, thế là tìm
đủ cách qua Mẽo sống, và, như thế là được Trời cho
đủ hết, trừ 1 câu thơ, thế là bèn thuổng.
Bạn thử chỉ cho Gấu, 1 tên, chỉ 1 tên thôi,
trong đám Mít lưu vong, cầm bút, có chút
bản lãnh, tiết tháo, hay đạo hạnh?
Lần về HN lần đầu, 2001, DMT
đèo xe máy đưa G tới gặp HNH, tại tư gia, đúng
thời gian HNH bị tố ngụy tạo tài liệu, bởi vậy, khi bà
vợ ông mang nước trà ra đãi khách, đã
hỏi khéo, hải ngoại có còn chửi ông chồng
tôi nữa không.
Bà lầm G với ông cớm văn nghệ, vì nghĩ hải
ngoại bé tí, không nó, thì là
bạn của nó!
G nhớ là, HNH mặt một đống, lấy tay xua bà vợ, ra
ý thôi đi chỗ khác, U Tha Cho Mi [Bà tha
cho tôi, thưa bà!].
Nhìn vẻ mặt của HNH lúc đưa bài viết, thì
rõ ra là, ông muốn G đi một đường giới thiệu.
Phải nói rõ ra như vậy, vì sau đó,
bài này được đăng trên talawas, và khi G mail
hỏi, có gì khác so với bài trên TV,
thì SCN mail trả lời, HNH cho biết, chưa cho phép ai đăng
bài này hết.
Khi trả lời như thế, là SCN muốn chỉ ra tôn chỉ của
talawas, không đăng bài đã đăng rồi, trên các
diễn đàn khác. Ðồng thời tố cáo G ngụy tạo
tài liệu!
Bắc Kít nhiều đòn lắm, phải 1 thằng Bắc Kít
khốn nạn cỡ G thì mới hiểu được lòng dạ của chúng!
Chứng cớ, sau đó, HNH từ chối không cho phép
talawas đăng bài phỏng vấn ông.
Là vì ông bắt buộc phải từ chối, nếu xin phép
ông!
Vụ này, G có giải thích trên TV rồi,
để coi lại coi trong bài viết nào.
Vì vậy, khi trở về Canada, Gấu đã mất công
gõ bài viết, cho đăng cùng 1 lúc trên
trang Tin Văn, và trên tờ Việt Báo online. Mấy anh
nhà văn Mít hải ngoại thấy đại giáo sư VC nhắc đến
mình, sướng điên lên, bèn trích lại, đăng
búa xua trên trang nhà, nhưng lại rét, vì
thời gian đó, chính G cũng bị đám Chống Cộng Ðiên
Cuồng dọa xin tí huyết [nói đùa cho dzui thôi],
thế là bèn đăng thì đăng, nhưng chú thích
nguồn, là tờ Việt Báo, và thanh minh thanh nga, tôi
không có hân hạnh được quen ông HNH!
Nghĩa là đếch thèm cám ơn thằng cha G đã
mất công gõ bài!
Tư cách như thế mà viết lách cái chó
gì không biết!
Source
Đọc trên
trang LH, thì ST, cựu học sinh Dũng Lạc, Hà Nội, một trường tư,
không bảnh bằng Chu Văn An, số 1, và Nguyễn Trãi số 2.
Theo gia đình di cư 1954, học hành, đỗ đạt, làm 1 viên
chức lớn (Chánh Sự Vụ) trong chế độ VNCH,
sau 1975, đi cải tạo 1 năm, được Đảng tha về, mở quán cà phê,
1985 qua Canada theo diện bảo lãnh.
Ông không
biết gì đến hận thù Quốc Cộng, không nhà
tù, “ghét tô” nào giam giữ ông. Có
thể như thế mà ông viết như chẳng có
gì xẩy ra. Và ông coi cái đất nước nhận ông,
chẳng có ơn nghĩa gì, vì mày không
nhận tao, thì tao ở VN, mà làm sao mày không
nhận tao được, nếu tao đủ điều kiện để vô nước mày theo
chính sách của mày, về đoàn tụ gia đình?
Nhưng, đó
chính là câu trả lời của đám tù thanh
thiếu niên, phần lớn Bắc Kít, mà GCC đã từng
đi uý lạo, với tí quà bánh của HNV, trong
1 dịp lễ lạc nào đó, của Canada, hay của xứ Mít không
còn nhớ, trong 1 nhà tù thành phố. Một trong
đám này biểu Gấu, mi về nói với chính quyền Canada tại làm sao lại
bắt tao, mà còn tính trả tao về Việt Nam? Tao đâu
có muốn đến Canada đâu. Khi ở Trại, họ năn nỉ chúng tao
tới Canada [quả có thế, vì Canada cần lấy đủ người theo “quota”
với Cao Uỷ Tị Nạn, những người Miền Nam, Mẽo OK; Bắc Kít, No, thành
thử đa số Bắc Kít chọn Canada là như vậy]. Bây giờ
lại đuổi chúng ta về VN, là sao?
Mấy ông
tướng này, qua Canada không lo làm ăn mà chỉ lo
làm bậy, bị bắt, nhiều lần, Canada đành năn nỉ VC nhận lại
giùm…
ST cũng đã từng được
chấp nhận làm nhân viên của Mẽo, nhưng sau chót,
hỏng cẳng, theo bài viết của LH, về ông. Hóa ra ông
chẳng hề muốn sống ở Canada, thật, như bạn của ông là ông
số 2!
Khác
hẳn Gấu. Đã từng làm bồi Mẽo hơn 10 năm ở Miền Nam trước
1975, Gấu tởm Mẽo quá, may được Canada nhận, mừng quá,
biết ơn quá, quá!
Câu chuyện ở Bồng Sơn
Note: Tks Tuyen Vu.
Merry Christmas to both of U
NQT
- Đặt chân đến Bồng Sơn,
họ vô cùng bất ngờ khi thấy tấm bảng “Trường tiểu học Bồng
Sơn” nằm chễm chệ trên tòa nhà mà lẽ ra phải
là thư viện. Ken và Pat muốn đặt tên cho thư viện
này là “Bong Son – Lucky Star Library and Learning Center”
vì Lucky Star chính là đơn vị mà Ken phục vụ
thời chiến tranh. Chính quyền địa phương đã tự ý đổi
tên và đổi cả chức năng của tòa nhà mà
không hề báo một lời với vợ chồng ông – những người đã
bỏ tiền xây nên tòa nhà đó – chưa nói
đến việc xin ý kiến của vợ chồng ông. Ken nói với mình
“I paid for it, but they changed the name. I want my money back.”
*
Lèm bèm ngoài
lề:
Cái tên, là, rất quan trọng. Nó như
dấu ấn của 1 nhà văn. Đọc 1 nhân vật tự xưng là Nguyễn,
thí dụ, là biết ngay của Nguyễn Tuân rồi.
Chính vì thế mà không ai dám
đặt tên cho mình, hay nhân vật của mình là
Nguyễn nữa.
Ngoại trừ nhà thơ NXT!
Đây là 1 sự kính nể những người đi trước nữa.
Một khi bạn cố tình vi phạm, là phải có vấn đề.
NMG, khi chọn cho nhân vật của mình là Tường,
là phải có vấn đề, không thể khơi khơi nói
tôi hư cấu được, thứ nhất cuốn tiểu thuyết của ông viết đúng
vào thời kỳ có ông Tường đó đó.
Bởi thế, có 1 bạn văn cũng khá thân quen,
có vẻ bực mình, vì GCC đặt vấn đề này, nghĩ
là GCC không ưa NMG.
Phải nói ngược lại mới đúng.
[Jean-Paul Sartre, viết Những kẻ bị cầm tù ở Altona, Les
séquestrés d'Altona (1959), phịa ra 1 nhân vật,
không ngờ tên của nhân vật này trùng
hợp với 1 người có thực, có thế giá ở ngoài
đời, thế là đành phải lên tiếng xin lỗi, và
cho thu hồi toàn bộ những ấn bản đã cho phát hành.
NMG mà không làm chuyện đó, sợ không còn
nhiều thì giờ! Bởi vì chỉ có cách đó mới
bảo vệ sự vẹn toàn
của MBD, như là 1 giả tưởng văn học.]
NMG đã từng bị làm
phiền về chuyện này rồi, khi chính ông T đó
lên tiếng hỏi, tại làm sao ông lấy tên của tôi
đặt cho nhân vật của ông.
NMG trả lời, tôi hư cấu, nhưng ở 1 chỗ khác, ông
lại nhận, có lấy một số chi tiết đời thực của T đưa vô
tiểu thuyết.
Nhảm. Cực nhảm. Bởi vì
chỉ 1 chi tiết như thế, là phải vứt cuốn sách vô
thùng rác. Giống như bạn đánh cờ, mà chưa
sạch nước cản. Bắc Mỹ chia là làm hai, giả tưởng, và
phi giả tưởng, là theo nghĩa đó. Giả tưởng, tha hồ phịa.
Phi giả tưởng, không có quyền phịa, dù chỉ 1 chi tiết.
Ba thứ hồi ký ghi là memoir, là phải coi như sự thực,
không phải giả tưởng.
Ở những bậc đại tài,
một khi mà giả tưởng lừng lẫy quá, thì, 1 cách
nào đó, nó chiếm ngay 1 chỗ trong lịch sử, trong đời
thực.
Đây là trường hợp xẩy ra với “1984”, của Orwell,
hay với mẫu tự K, của Kafka.
Hoặc, với Bếp Lửa của TTT.
Nhắc tới Bếp Lửa 1 phát, là lập tức 1954 xuất hiện!
Kỳ tới, GCC sẽ lèm bèm
tiếp, về cái sự li kỳ của con số 1984, và mẫu tự K, qua
bài viết của G. Steiner: The Killing Time, Thời
Giết Người
Gấu đi tầu Rắn Biển, Marine Serpent, khi đó,
chắc cũng giống như chú bé trong hình, nhưng vác
theo hai cái rương nhỏ, đựng toàn sách, mua tại
Chợ Trời Hà Nội.
Không nhớ tới Sài Gòn ngày nào,
nhưng nhớ, chuyến đó ở trên tầu hơi lâu, vì
còn chờ Đức Hồng Y Spellman ghé ban phước lành.
Cũng phải những ngày cuối chiến dịch Passage To Freedom, vì phải
chờ đến lúc Hải Phòng sắp hết hạn 300 ngày, Gấu mới
từ giã nổi Hà Nội.
Đâu có tính
đi?
Tin Văn Cũ
Feb 25, 2007
Tơ nhện thiên đường
dệt giấc mơ.
Nguyễn Hữu Đang
Sử dụng chất liệu, những sợi tơ nhện của Đức Phật, để dệt giấc mơ thiên
đường Cộng Sản: Tuyệt! Xứng đáng Trùm Nhân Văn Giai
Phẩm!
Apr
22, 2007 *
May
20, 2007 *
Jun
20, 2007 *
PHỎNG VẤN DỞM
Phỏng vấn dởm. Phỏng vấn tưởng tượng. Nói chuyện với
đầu gối. Tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ [Thanh Tâm
Tuyền]. Một Thế Giới Của Riêng Tôi, Nhật Ký
Mơ, A World of My Own, A Dream Diary [Graham Greene]. Tôi Nhìn
Tôi Trên Vách [Tuý Hồng]. Borges và “Borges”…
“Chẳng lẽ Gấu mà không phải là… Gấu ư?”, mỗi một cái
tên như thế, là một chút khác biệt.
Nhưng có lẽ, tới một lúc nào đó,
đây là một cách nhìn lại. Theo kiểu mở
ra Cuốn Sách Của Bạn Tôi, của Anatole France.
Nhưng muộn màng hơn:
Thay vì “ở giữa”, “au milieu du chemin de la vie",
thì là “ở cuối đường đời”.
Hay mượn câu thơ của chính Gấu:
Ngoảnh nhìn lại quãng nửa nhà nửa chợ,
Nỗi buồn vạch một nét dài.
Thay vì :
Hãy ngủ đi, các con thân yêu,
Ngày mai chúng ta lên đường
Thì là:
Hãy ngủ đi, mấy đứa cháu nội, cháu ngoại
Ngày mai, ông đi luôn...
Thì cứ coi đây là một cõi mơ,
như đã từng trải qua quá nhiều cõi mơ trong
đời.
*
-Gấu viết văn từ hồi nào?
Có lẽ nên đặt câu hỏi như thế này:
Cái ý tưởng viết văn đó, nó đến với Gấu
vào một lúc nào, hay vào những lúc
nào.
Một trong những ao ước sau này mình sẽ viết
văn, có lẽ đã xẩy ra, khi nghĩ rằng văn chương hơn toán
học.
Hồi học trung học, Gấu nổi tiếng là giỏi toán.
Nhà nghèo, may nhờ bà cô làm me
Tây, nên Gấu được ra Hà Nội học. Ông Tây
già, chồng bà cô là một kỹ sư sở Hoả Xa
Đông Dương. Chính Ông Tây đã khám
phá ra tài toán của Gấu, và có thể
chính ông đã [ngầm] khuyến khích bà
cô lo cho Gấu. Bởi vì khi Gấu vào Nam, học ở Sài
Gòn, bà cô từ Pháp vẫn tiếp tục gửi tiền về
cho thằng cháu.
Đam mê toán của Gấu lần đầu tiên bị khựng
lại, và có thể, đam mê viết bắt đầu nhen nhúm,
là như thế này:
Năm học Đệ Ngũ, Gấu có một người bạn là Ngô
Khánh Lãng. Thân lắm. Lần đó, Gấu lần mò,
tự mình tìm ra phương trình đường thẳng [y= ax+b],
bèn chạy đi khoe với anh bạn Ngô Khánh Lãng.
Anh coi, đưa mắt nhìn thằng bạn như tỏ vẻ thương hại, và
trong khi Gấu đứng trố mắt mắt ra vì ngạc nhiên, tại
làm sao thằng bạn mình nhìn mình như thế, anh
vô trong nhà, lấy ra một cuốn sách đại số, lật đúng
đoạn giải thích phương trình đường thẳng. Đọc, Gấu ngỡ ngàng.
Cách giải ở trong sách ngắn, gọn, dễ hiểu, so với cách
của Gấu.
Sau ngỡ ngàng, là thất vọng. Thất vọng như
chưa từng biết thất vọng là gì. Những kẻ đến cái
thế giới này muộn màng như Gấu, chẳng còn có
cái gì để mà khám phá! Loài
người khám phá sạch rồi!
Nhưng đó là về toán học, khoa học.
Mơ hồ, Gấu nhận ra, rằng cái nỗi thất vọng của Gấu
đó, chỉ có Gấu mới diễn tả ra được. Không có
ai “khám phá” giùm cho Gấu được. Chỉ có
mỗi một Gấu. Và Gấu là độc nhất!
*
-Với mối tình lớn thứ nhì, văn chương, chắc
chắn vĩ đại hơn cả mối tình đầu - là toán học đó
- ông có gặp nỗi thất vọng nào không?
Có, và còn thê thảm hơn lần đầu
nhiều!
-Thế hả? Kể cho nghe tí đi.
Cứ tạm gọi nó là nỗi thất vọng, hay kinh nghiệm:
Bếp Lửa…
*
Nghe thấy rồi!
Nhất Linh, khi viết Đôi Bạn, lăm lăm với ý tưởng,
phải làm bật lên hai nhân vật chính là
Loan và Dũng, cùng với nó, là một thế
giới cũ, mà hai người bị nó nghiền nát, đưa tới
một cô Loan giết chồng sau đó. Cứ tạm coi, “nghĩa chính”
của cuốn chuyện là Loan. Nhưng về già, khi viết Viết và
Đọc tiểu thuyết, ông nhận ra, nhân vật phụ là Hà
lại nổi lên lấn át nhân vật chính. Cái
cảnh từ giã giữa người yêu và cô khép
lại cuốn truyện mới tuyệt vời làm sao! Anh chàng tới từ giã
người yêu, để đi làm cách mạng, nghĩ trong bụng, chắc
là căng lắm. Nàng tuy căng lắm, nhưng cứ tỉnh như không.
Chàng ra về, trên đường, bóp chuông xe đạp leng
keng, như một nỗi vui nho nhỏ, rằng cuộc chia ly đã không
thê thảm như là chàng nghĩ. Tiếng chuông vọng
tới tai người yêu, nàng “đau” lắm, đau hơn cả nỗi đau chia
ly [Hà bị bịnh lao, nghĩa là chẳng bao giờ có cơ hội
gặp lại người yêu], bĩu môi, buông một câu:
-Nghe thấy rồi!
Đây mới là “nghĩa chính” của Đôi
Bạn, mà đến chót đời Nhất Linh mới nhận ra!
*
Chiếc Lư Đồng Mắt Cua của Nguyễn Tuân cũng kết
thúc bằng một câu cà chớn như vậy:
-Xuyến người bên lương hay là bên giáo?
Hay câu kết của Bếp Lửa, nói lên ý
nghĩa của bếp lửa:
-Anh yêu em, yêu quê hương vô cùng.
Câu nói đó, là câu
nói của bao nhiêu năm sau này, của bao nhiêu
con người sau này, đã sống sốt cuộc chiến, sống sót
cuộc bỏ chạy, sống sót biển cả, sống sót cuộc hội nhập
nơi xứ người - như tiếng chuông xe đạp leng keng vọng về Quê
Nhà.
-Nghe thấy rồi!
Hai cuốn tiểu thuyết của TTT sở dĩ sống
sót, là nhờ cơ may.
Cuốn Bếp Lửa, tuy tác giả cho biết, được viết 1 lèo,
(1) nhưng thời gian thai nghén, thì là
cả quãng đời của tác giả ở Hà Nội, trước 1954.
Nếu không có biến cố 1954, chưa chắc đã
có nó, bởi làm gì có câu chót,
đóng lại tác phẩm, mở ra cả 1 kiếp khác, tức kiếp
lưu vong, sau 30 Tháng Tư, như trên, viết.
Bếp Lửa, trên Tin Văn, GCC type, từ bản gốc, ở nhà
Khánh Trường, lần qua Cali, photocopy.
MCNK, từ bản của Nguyễn Đông Ngạc, trước khi mất, nói
với bà xã đưa cho GCC. Rồi cũng type/post.
Lần ông anh mất, qua nhà bạn C, nghe bạn C nói,
bà Hoa cằn nhằn mày đấy, chẳng xin phép gì
anh Tâm tự tiện post, GCC lấy xuống, để gia đình có
dịp cho xb. Thấy im ắng, lại post lên. MCNK, còn, là
nhờ Ngọc Dũng mang theo cùng chuyến bỏ chạy quê hương của
anh, ngay sau 30 Tháng Tư, 1975
(1)
http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=8451&rb=08
Được viết một hơi - khoảng đâu hai ba tháng -
được in ngay sau khi viết - không có một quãng cách
nào để kịp lùi, nhìn lại -, quyển
Bếp lửa là quyển duy nhất của tôi chỉ có
một lần bản thảo.
TTT
Văn trong BL, câu nào câu nấy, đều là
thơ, cũng không phải thứ thơ sử dụng ẩn dụ, mà là
thi ảnh, làm sao mà có thể viết 1 mạch.
Nếu có, thì là vì đã viết
ở trong đầu, chờ có dịp viết ra giấy. Quá khứ của mỗi
câu văn, là quá khứ Đất Bắc, Hà Nội.
Bếp Lửa
TTT
Bếp
Lửa_Hà Nội
NQT
Hà Nội
4
Tôi về thăm nơi đã sống những năm mồ côi
đầu tiên thuở nhỏ. Mẹ tôi buôn bán xa và
tôi ở với bà ngoại. Những đồng trinh để mua những bát
bánh đúc nóng, kê, sôi lúa, bánh
khúc, quà sáng, đều do bà tôi chu
cấp. Ở đây có nghĩa địa, ao, chuôm, bến sông,
đường lên núi, giếng nước, cánh đồng, kè đá…
để bắt dế câu cá, đi đồng, leo trèo, vùng vẫy.
Tôi bảo Long:
“Tôi nhìn những con đường hẹp hơn ngày
trước.”
Long chỉ tay, giải thích:
“Nhà cửa đổ xuống không ai cất dọn. Cỏ hoang
mọc lan tràn với lại mắt mình lớn lên chứ.”
Bếp Lửa
Tất cả những chất liệu thô ròng, mà người
ta gọi bằng cái tên thiên tài của nơi chốn
đó, đã bầy ra trước con mắt của một thằng bé tí
sau này sẽ trở thành nhà văn.
Trong những món ăn Bắc Kỳ của thằng bé con
đó, thiếu một món, với Hai Lúa: những cục kẹo
bột.
Đó là thứ bột tẩm đường, mầu nâu. Người
ta rắc bột trắng lên chúng, cho đường đừng chẩy, và
cho khỏi dính tay.
Bạn cứ thử tưởng tượng, từ vượn thành người, như thế
nào, bằng sự phân biệt cái cảm giác giữa
một cục kẹo bột, [nhiều khi đắng nghét, do đường bị cô quá
lửa], và một cục sô cô la, thí dụ vậy, đối
với thằng bé Hai Lúa mắt lác thuở nào!
*
Trở về mái
nhà. Xưa.
Đây là bản nhạc của Bếp Lửa.
Một Chủ Nhật Khác. Mỗi một em là một bản nhạc.
Ly, Hòa Tấu Khúc Số 5, lần đầu tiên gióng
lên, khi Kiệt mò đến Nghiêm.
"Như đứng lạc giữa tòa nhà bí ẩn, ma
quái, Kiệt lóng tai nghe Hoà Tấu Khúc số
5. Những hòa tấu khúc của...."
[Chương Ba]
Chúng ta lại nghe Duy, nhái lại những tiếng
gằn khai mở của nó, bắt chước Kiệt, "mỗi lần hối thúc
bạn bè phát biểu hoặc quyết định một chuyện gì,
Kiệt thường hát dóng mấy âm... Chàng giải
thích: Những bước trầm hùng của Định Mệnh".
Sự thực, như độc giả khám phá ra sau đó,
đây là bản nhạc Kiệt đã hát cho Ly nghe,
lần hai người đi dưới trời lạnh dưới 10 độ.
Lạ một điều, Kiệt chẳng hề nhớ về Ly, chẳng hề nhớ lần du
Ly đi như thế hát như thế. Cho đến khi gặp lại, tại Đà
Lạt, bao nhiêu năm sau đó.
Như vậy có nghĩa, chàng không hề bao
giờ tìm hiểu, tại sao chúng lại là những bước
trầm hùng của... Định Mệnh?
Duyên cớ nào nó đến và gắn chặt
vào chàng?
Đó mới là tội lỗi của Kiệt.
Tội lỗi của mọi người đàn ông.
"Chàng đã choàng vai Ly đi trong đêm.
Chàng đã hát những đề nhạc của hoà tấu
khúc ấy cho đỡ lạnh, bước lâng lâng, Ly thỉnh thoảng
hát theo, lắm lúc run lập cập phải núp vào
người chàng. Kiệt không thấy gì khác lạ trong
đêm ấy và cả những ngày sau. Nhưng lúc này,
chàng vụt rõ sự ngu muội vô tâm của chàng."
[Chương Bẩy].
Thánh Thán gọi kỹ thuật này là
"phục bút". Hay Rắn nằm trong cỏ. Đừng đụng tới nó.
Đụng tới, là nó mổ cho một cái. Là Nọc
Đọc chạy vô tim. Là chết đứ đừ.
Thế mới gọi là Những Bước Trầm Hùng Của Định
Mệnh được chứ!
Ở đây, đúng ra phải gọi là "phục bút
của phục bút."
Bởi vì, bình thường ra, chúng ta cứ
nghĩ rằng thì là, Kiệt nhớ bản nhạc, là vì
nhớ Ly. Họăc Ly là nguồn cơn của bản nhạc ở Kiệt.
Hoá ra không phải.
Cho đến khi gặp lại Ly, thì Kiệt mới ngã ngửa
ra, bằng cách nào bản nhạc cắm sâu vào trí
nhớ của chàng.
Và chàng "thù hận" sự vô tâm
khốn nạn của mình.
Đà Lạt 1
Với Oanh, Câu Chuyện Tình: Cuộc tình
của chúng ta thì cũng thiên thu và làm
xàm như bất cứ cuộc tình nào.
Buồn Nôn,
hay những trang nhật ký của Roquentin, chỉ là một đoạn
nhạc, cứ thế lập đi lập lại, tại một thành phố biển.
Some of these
days,
You'll miss
me, honey
Đêm xuống. Tầng một khách sạn Printania, ánh
đèn sáng lên ở hai khung cửa sổ. Công trường
Ga Mới sực lên mùi gỗ ẩm: ngày mai trời sẽ mưa
trên thành phố Bouville.
Adam Zagajewski Remembers C.K. Williams
The Threepenny Review Summer 2016
tháng 3. tháng của
một nhà thơ được sinh ra và mất đi.
LIVES
C. K. Williams (1936-2015)
Adam Zagajewski
ON SEPTEMBER 20th, 2015, in Hopewell,
New Jersey, the distinguished poet C. K. Williams died after
a long illness. He was born in 1936. Polish readers know him
from the translations of Maja Wodecka: the Polish press as brought
out Czuwanie (The Vigil), and Zeszyty Literackie (Literary
Notebooks) published his poems on numerous occasions. No doubt
some of Krakow's inhabitants also remember him-a tall man who read
his own poems consummately, with the greatest energy, with complete
conviction-from his author's evenings in this city, which occurred
mainly in the context of the seminar "Americans in Krakow." He really
was very American; although his grandmother, Mrs. Grabowiecka, was
born in Lviv (she told her grandson that she came to the States from
Austria!). Her overlong surname was changed, as was the case for thousands
of other immigrants, on Ellis Island.
He was American, Jewish-American
(his poetic debut bore the title A Day for Anne Frank),
but also European. There are, in the United States, poets who
consciously restrict themselves to "Americanness"; Europe intimidates
them, cultural pluralism disturbs them, foreign languages seem
to them like implements of torture. Charlie was different. He lived
for a long time in Paris, considered that city his home, spoke
French-translated Francis Ponge- and in the afternoon he liked
to drop in to a pastry shop to ask for "un financier, s'il vous
plait" (a "financier" being not a banker, but an almond-flavored
cake). He was not interested in France alone; he followed the poetry
of many languages and countries. I know that he belonged to the
group of poets who were greatly impressed by the anthology of Polish
poetry edited in 1965 by Czeslaw Milosz ( Postwar Polish Poetry).
From that moment, Polish poetry belonged to his literary canon, and
Milosz took up one of the main places in his personal pantheon.
He was not a lyrical
poet (although he wrote beautiful poems for his wife Catherine,
who was the great love of his life). He was fascinated by the
disorder of the human world, the chaos of America; his poems tried
to introduce a certain harmony into this element. He was a moralist,
but an experiential, an empirical, and not an armchair moralist.
In no way did he resemble those who only condemn, without abandoning
the library or dirtying their hands. He spent his childhood in Newark,
New Jersey. He knew the suburbs, small towns, parks, and car parks;
he knew New York and Philadelphia, Paris and Boston; he taught in Fairfax,
Virginia, at George Mason University, and then for many years
at Princeton. Usually, he divided his time between Princeton and
France.
He also knew the great
museums, was a connoisseur of art, loved music. If this category
were not so imprecise, so overused, I would say that he was
a truly modern poet. His hero was Walt Whitman, about whom we know
that he liked to wander for hours around Manhattan, observing and
recording what he saw. Charlie also wandered through our world (more
than once we strolled together through the streets of Paris), striving
to uncover the magical, impossible formula which would allow one to capture
both the canvases of Rembrandt and the seedy alleys of New York where
dealers search for clients, both Parisian concert halls and the twenty-four-hour
petrol stations where, at night, the cashiers barricade themselves in
cramped offices. It was as if he wanted to annul the academic and not particularly
wise division between high and low. He was passionate about Greek tragedy,
but also about the slang of young Americans who attempted by means of
hip-hop to express their rebellion.
He taught classes in
creative writing, and was a conscientious and attentive teacher.
I have met many young poets who remembered very fondly the
workshops that he ran.
He was famous for his
poetics, for his long lines. His strength was neither in metaphor
nor in simile, but rather in the massiveness and consistency
of his poems. These poems are as if forged from iron; there is in
them nothing ephemeral or fleeting; the adjectives and nouns march
like Roman legions. Someone averse to him might remark: here everything
is said, there are no empty spaces, no surprises-which is true; Williams
spoke, as it were, "too much," repeated epithets, multiplied synonyms,
could not bear understatement; but, surprisingly, these hyperboles
produced a wonderful new quality. This was his secret, the alchemical
secret of a rhetoric that transmuted itself into poetry.
He was a realist in
search of justice. "rendering justice to the visible universe,"
but also to the invisible- because he saw so many riddles, came
upon so many mysteries, that he could not restrict himself to
tangible things. His breakthrough book was the collection
Tar (1983); this was the first appearance of his mature
poetic style, of a voice that was then perfected over the next
few decades. The young Williams was a poet of rage (he once wrote
a poem with the refrain "It stinks, it stinks, it stinks"), of a
rage that harmonized with the mood of the Sixties, with the campaign
against the Vietnam War. Later, however, the poet's voice underwent
an evolution. He was still critical, but his rage transformed itself
into a great curiosity about the world, into an empathy towards his
neighbors, into a poetry of attentive observation and compassion.
In the title poem of
his book Singing, Williams-the
same poet who emerged from a generation that condemned America's
sins, chief among these being racism-did not transform into a
racist, God forbid, but rather, in a poignant way and not without
sorrow, noted the impossibility of his reaching an understanding
with a young black artist. The place of rage was taken by a bitter
wisdom.
He was named among
the greatest contemporary American poets and received the
most important American prizes. He was especially pleased to receive
the Pulitzer Prize in 2000.
How did we meet? Once,
in January 1986, in New York (a few months after the appearance
of my first book in America), Charlie walked up to me, introduced
himself, and said: "We are going to be friends." And so we were,
friends until the end. +
(Translated from the Polish by Jakob Ziguras)
******
- viết để phải chịu nhiều gièm
pha. chê trách. viết không công
mà cũng viết. nay hỏi có phải đó là
“viết như không có gì xảy ra”? (và
phì cười)
Note: Trên 1 số báo
ML cũ, có 1 bài viết của Simon Leys về vụ
này. Tuyệt cú mèo.
Bèn post ở đây, để phúc
đáp hai vị bằng hữu K/O, và nhà thơ DS
SN_GCC_2017
Nhưng, quả là TTT đã
sáng tạo, tưởng tượng ra, đúng hơn, 1 tên
Bắc Kít cực kỳ cù lần, chạy thoát cuộc chiến,
nhưng vội bò về, để kịp chết.
Làm sao mà ông anh của GCC
lại tạo ra nổi một phép lạ, mà chính Chúa
cũng không đủ lãng mạn, tạo ra?
Everness
One thing alone does not exist-oblivion.
God, who saves the metal, saves the dross
and stores in his prophetic memory
moons that have still to come, moons that have shone.
Everything is there. The thousands of reflections
which between the dawn and the twilight
your face has left behind in many mirrors
and those faces it will go on leaving yet.
And everything is part of that diverse
and mirroring memory, the universe;
there is no end to its exigent corridors
and the doors that close behind you as you go;
only the far side of the sunset's glow
will show you at last the Archetypes and Splendors.
-A.R.
EVERNESS
Tout existe, hormis une chose: l'oubli.
Dieu sauve le metal; il sauve aussi la cendre,
Et sa mémoire prophetique peut comprendre
Les lunes de demain, d'hier et d'aujourd'hui.
Tout est encore et tout est déjà:
les images
Dont, du jour qui va poindre à la chute du
soir,
Mon visage a hanté le fugace miroir,
Et celles qu'y mettront mes incessants visages.
Nous ourdissons cette mémoire, l'univers.
Une glace va traversant un jeu de glaces ;
Les corridors sans but imitent les deserts
Et tu vois se fermer les portes quand tu passes.
Tu n'atteindras que sur l'autre aile de la nuit
L' Archétype qui Reste et la Splendeur qui
Luit.
Ibarra: L.L. Borges, Oeuvre poétique 1925-1965
http://lesliberiades.blogspot.ca/2012/10/oeuvre-poetique-1925-1965-jorge-luis.html
"Comme beaucoup, je tiens
qu'un poème est intraduisible, mais qu'il peut être
recréé dans une autre langue (je sais bien qu'en
bonne logique, il suffirait d'un seul vers bien traduit pour réfuter
cette assertion). Tout dépend, bien sûr, de ce qu'on
entend par "bien traduit". Pour moi, je suis nominaliste; je me
méfie des affirmations abstraites, et je préfère
m'en tenir aux cas particuliers."
Jorge Luis Borges
Mai sau dù có bao giờ
Một điều, độc 1 điều, đếch hiện hữu: Niềm quên
lãng
Ông Trời kíu kim loại, kíu luôn
tro than
Và trữ trong kho hồi ức tiên tri của
ông ta
Những con trăng sẽ tới
Những con trăng đã từng chiếu rọi.
Mọi thứ đều có đó.
Ngàn ngàn phản chiếu,
Giữa rạng đông và hoàng hôn,
Khuôn mặt của mi thì được để lại
Trong bao nhiêu là tấm gương
Và những khuôn mặt này sẽ đi
vào chuyến đi, "tí nữa, lát nữa nhé"!
Và mọi điều thì đều có phần
ở trong hồi ức đa dạng và lấp lánh ánh gương
Không có sự tận cùng của những
hành lang cấp bách của nó
Và của những cánh cửa đóng
lại sau lưng mi, khi mi đi
Chỉ là ở mãi phiá xa kia
Của buổi hoàng hôn
Sẽ chỉ cho mi thấy những Nguyên Mẫu và
những Rạng Ngời
Note: Do không biết tiếng Tây Bán
Nhà, nên “no” còm, nhưng bản tiếng Tây
tuyệt hơn bản tiếng Anh, theo GCC.
Borges phán:
Như nhiều người, tôi cho rằng thơ đếch dịch
được, nhưng nó được tái tạo trong 1 ngôn
ngữ khác....
Bản tiếng Mít, nếu có "tái
tạo", thì chỉ ở cái tít, nhưng, cũng thuổng,
của Nguyễn Du!
Susana Bombal
Tall in the evening, arrogant, aloof,
she crosses the chaste garden and is caught
in the shutter of that pure and fleeting instant
which gives to us this garden and this vision,
unspeaking, deep. I see her here and now,
but simultaneously I also see her
haunting an ancient, twilit Ur of the Chaldees
or coming slowly down the shallow steps,
of a temple, which was once proud stone but now
has turned to an infinity of dust,
or winkling out the magic alphabet
locked in the stars of other latitudes,
or breathing in a rose's scent, in England.
She is where music is, and in the gentle
blue of the sky, in Greek hexameters,
and in our solitudes, which seek her out.
She is mirrored in the water of the fountain,
in time's memorial marble, in a sword,
in the serene air of a patio,
looking out on sunsets and on gardens.
And behind the myths and the masks,
her soul, always alone.
-A.R.
-Buenos Aires, November 3, 1970
J.L. Borges
BHD
Cao, buổi chiều, ngạo mạn, xa cách
Nàng lững thững trong khoảnh vườn tao nhã
Và được khắc họa, vĩnh viễn vào thiên thu,
Cái khoảnh khắc trong trắng và bềnh bồng.
Chính khoảnh khắc này đem đến cho chúng ta
Ngôi vườn
Cùng viễn ảnh của nó,
Lặng câm, sâu thẳm.
Gấu nhìn thấy nàng, ở đây, và bây
giờ
Nhưng cùng lúc
Gấu cũng nhìn thấy nàng
Nhức nhối, ám ảnh
Một “Ur of the Chaldees” cổ xưa, chập choạng ánh hoàng
hôn
Hay chậm rãi trải những bước chân
Ở Đền Thiêng, với cái tên cúng cơm ngày
nào của nó là Xề Gòn
Hòn Ngọc Viễn Đông
Nay biến thành 1 thiên thu bụi
Hay nhể ra - như nhể, nghêu sò ốc hến ở khu Nguyễn
Tri Phương cũng của một Xề Gòn ngày nào -
Từ bảng mẫu tự thần kỳ
Được khóa chặt, đóng kín
Ở trong những vì sao
Của những vĩ độ khác.
Hay tắm trong hương thơm của chính nàng, một bông
hồng,
Cái gì gì, những bông hồng của bông
hồng
Hay, những bông hồng chẳng hỏi vì sao
Của Xề Gòn trước 1975
Nàng ở đâu, âm nhạc ở đó
Và ở trong
Màu xanh dịu dàng của bầu trời
Những âm tiết Hy Lạp
Những nỗi cô đơn của chúng ta
Chúng tìm ra nàng,
Nàng ánh lên từ mặt nước, cái vòi
nước
Ở trước nhà nàng
Thuở nàng còn ở đường Phan Đình Phùng
Trong tấm bia tưởng niệm của thời gian
Từ 1 cây gươm
Trong không gian thanh thản của 1 cái quán cà
phê hủ tíu
Trên con phố dẫn tới ngôi trường Gia Long ngày
nào của nàng
Nhìn ra hoàng hôn
Nhìn ra những khoảnh vườn
Và ở sau những huyền thoại và những mặt nạ
Là linh hồn nàng
Luôn luôn cô đơn
“Ur of the Chaldees”
https://rsc.byu.edu/archived/pearl-great-price-revelations-god/where-was-ur-chaldees
Murakami, trong bài viết trên tờ Người Nũu Ước, Gấu
đọc hồi mới ra ngoài này, khi ông chưa nổi tiếng,
và xứ Mít chưa hề biết tới ông, cho biết, ông
mặc khải, là nhà văn, khi đang coi 1 trận hockey, của Mẽo,
và cho biết thêm, dân Nhật không tin, có,
cái gọi là mặc khải
Đài Sử, thi sĩ, ông con trai của TTT, cũng có
lần hỏi GCC về cái lần đầu, Gấu được bạn Chất, ông em nhà
thơ, dẫn về nhà, và nhìn thấy ông già
của anh, là TTT, ngồi thu lu ở 1 góc nhà, đưa cả hai
chân lên ghế, viết văn, chẳng thèm nhìn ra đời,
chẳng thèm nhìn ai hết, và Gấu bèn ngộ ra là,
đây chính là hình ảnh của chính mình,
chứ không phải của chỉ TTT.
DS hỏi, có đúng như thế, có đúng là
mặc khải, như thế?
Đúng như thế, mà còn không chỉ như thế,
mà còn quá như thế!
Tếu thế!
Ấy là vì, Lão Tặc Thiên, chính
Lão, cũng… sợ, như DS, sợ, Gấu không nhận ra cái
phút “linh cầu mặc khải trọng đại” như vậy, bèn tạo ra
hai cú mào đầu - dùng từ của lũ Vẹm, Tổng Diễn Tập,
thí dụ, Quỳnh Lưu, là Tổng Diễn Tập sửa soạn cú Cách
Mạng Tháng Tám –
Cú mào đầu thứ nhất, giới thiệu tờ Sáng Tạo,
qua anh bạn học Nguyễn Hải Hà.
Cú thứ nhì, giới thiệu cuốn Bếp Lửa, qua lần đọc cọp
nó, trên đường phố Sài Gòn
Phải có 2 cú mào đầu như thế, rồi mới
tới cú, phát giác ra sự thực: Hình ảnh TTT
đang ngồi đó, là hình ảnh suốt cuộc đời Gấu sau
này.
Khủng khiếp thực!
Quái đản thực!
Có thể nói, Tên Già, Thánh Thần
sao không vật chết Nó đi, sau cú Lò Thiêu,
Lò Cải Tạo, quả có đặc biệt chiếu cố GCC!
Khủng khiếp, quái đản, quả thế thực.
Nhưng thua xa TTT, khi tạo ra 1 anh chàng Kiệt!
Bạn đọc chắc còn nhớ, O, 1 trong hai vị bằng hữu cực thân
thiết, và cũng cực là cần thiết, của GCC & Tin Văn, đã
từng nhạo Gấu, là, mi lãng mạn quá, làm gì
có được 1 tên Bắc Kít ngu.
Tên nào tên đó, khôn cực khôn,
và những tên cực khôn, đến Thượng Đế mà cũng
phải ớn chúng, bèn thiến 1 mẩu não của chúng,
không thì bỏ mẹ, chúng, không chỉ biến cả thế giới
thành bãi đánh hàng, mà còn cướp
ngay cái chỗ ngồi của Thượng Đế!
Nhưng, quả là TTT đã sáng tạo, tưởng tượng ra,
đúng hơn, 1 tên Bắc Kít cực kỳ cù lần, chạy
thoát cuộc chiến, nhưng vội bò về, để kịp chết.
Làm sao mà ông anh của GCC lại tạo ra nổi một
phép lạ, mà chính Chúa cũng không đủ
lãng mạn, tạo ra?
En
attendant SN
Cám
ơn
01/31/13 at 10:32 PM
Mấy bữa nay bác viết hay ghê – hết
viết tục rồi.
Cám ơn nhiều.
08/30/12 at 9:11 PM
Khong sao!
Subject: Re: Tham
Sorry
NQT
Thì ông chồng tôi cũng bắc kỳ
vậy… đoạn bác viết về Sến-Ngô Bảo Châu, bác
khinh không chừa một ai ngoài Bắc!
Tôi là Bắc Kỳ mà.
All My Best Wishes to U and Family
NQT
Trời ơi, sao bác miệt thị người Bắc dữ vậy,
bác thù tới tận xương tủy, bác làm
tôi nhớ đến đoạn 18, 19 Sách Sáng Thế (Cựu Ước)
ông Abraham mặc cả với Chúa, nếu tìm ra được
một người tốt trong thành phố Sodome-Gomorrhe thì xin
Chúa tha cho thành phố khỏi bị hủy – nhưng không
tìm ra được một ai... nên thành phố phải bị hủy.
Bác «lãng mạn» quá,
cứ mong chờ có một cú ngoạn mục của các
nhân tài.
Mong bác sức khỏe sống lâu để chờ
ngày đó.
http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/vnbible/sangthe/sangthe18.htm
http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/vnbible/sangthe/sangthe19.htm
[Note: Links broken]
Tks. NQT
Nhờ làm trang TV mà quen được hai vị [O & K], quả
là không uổng quãng đời lưu vong!
Quả đúng như GCC
nhớ. Câu tiếng Tẩy trong câu viết của tên thi
sĩ tản mạn bên ly cà phê, là ở trong
bài viết "Gần hết năm ghi vội", của Trúc Chi, Văn
Học, Xuân Đinh Sửu.
Nguyên văn như vầy:
Le vent se lève, il faut tenter de vivre
[Paul Valéry]
http://tapchivanhoc.org
Tên khốn này
chôm, vờ Trúc Chi, vờ luôn Valéry.
Tởm thực!
NQT
Tôi đọc Trúc Chi,
và tưởng tượng, mình cũng đang ngấm chất văn chương
của ông, theo kiểu nhân vật cái bang ngấm chất trà
của một thời vang bóng, theo kiểu Trúc Chi ngấm chất
rượu bữa gặp mặt, hay như... nhân vật xưng tôi ngấm tiếng
đàn của một người đẹp không thể đàn được nữa. Tôi
cứ hồi hộp, cái ông này, làm thế nào
bây giờ, làm sao lại làm khó người yêu
xưa, ở xứ người, bằng tiếng Cầm Dương Xanh (12) ngày nào,
ngày nào...
Nghe Đàn (13) mở ra bằng một lời nhạc: Dạo ấy đời
đẹp thiệt, đẹp hơn bây giờ...
Tôi nghiệm ra một điều,
trí nhớ của ông bạn là một nhạc viện, hơn là
một thư viện. Hình như cái tật của ông, mỗi lần
hồi tưởng, là phải bắt đầu bằng một lời nhạc. Tôi đã
từng "nhờ ông nhớ giùm" một câu hát, để choàng
lên ý thơ cổ mà ông vua mê gái
Tự Đức đã mô phỏng, tất cả chỉ để "choàng hoa" cho
một cô bạn "của mình":
Đâu con phố đơn côi,
Như tên thường gọi
Nơi bóng cũ,
Gương xưa,
Gặp gỡ?
(Where is that street,
called lonely street,
where broken dreams
and memories
meet?
... Đập cổ kính ra tìm
lấy bóng).
Một chuyến đi
Ui chao, mình khen mình,
mình thổi mình. Cái bài viết này,
là bài viết cuối cùng Gấu viết cho tờ Văn Học,
mục Tạp Ghi, và quả nó đã làm được cái
điều tác giả của nó mong muốn, một bi khúc, cho
một đoạn đời, sau nhớ lại, sẽ chỉ còn bóng dáng của
mấy người bạn, bạn văn, Trúc Chi, Tạ Chí Ðại Trường….
Nhưng không chỉ có
thế!
Trân trọng giới thiệu
Bạn cũ VHNT/PCL
Bạn mới FB
Nghia Bui
http://www.tanvien.net/tap_ghi_5/hoi_nat_luong_tam.html
Hỏi nát lương tâm hề...
Hỏi nát lương tâm hề, nhân loại…
Mỗi lần lịch sử sang trang, nó bỗng tối sầm lại, giống
như cảnh trời đất lúc sắp sửa bắt đầu một ngày. Bởi vậy,
nhân loại vẫn muốn nhìn ngoái lại những đau thương
của một thời, bằng tiếng cười, trước khi bước vào thời sắp tới.
Khi chế độ Đệ Nhất Cộng Hoà ở Miền Nam chấm dứt, người dân
Việt đã từ giã nó, không phải bằng cái
chết đau thương của ông Diệm, ông Nhu, mà bằng nụ
cười "hóm hỉnh" trước cái trò mạt cưa mướt đắng,
kẻ cắp bà già… của hai cú đảo chính Bravo
1, Bravo 2. Và khi Miền Nam sắp sửa đi đoong, tổng thống Mỹ đang
bận chơi golf, ký giả hỏi, phát ngôn viên của
Người đã tỉnh bơ trả lời: tổng thống không chơi golf thì
biết làm gì… bi giờ? Mới đây thôi, khi xẩy
ra thảm kịch Kursk, ngài tổng thống Nga đang bận nghỉ xả hơi tại
một bải biển (hình như vậy). Nhưng cái chết âm thầm
của trên trăm thuỷ thủ đoàn đã gây nhức nhối,
làm bật lên những câu thơ, những bài viết, ở
một số nhà thơ, nhà văn… Jennifer xin ghi lại ở đây,
một bài thơ bằng tiếng Anh, của tác giả Ian Bui, và
sau đó, là hai bài dịch, một của chính tác
giả, và một của bạn của ông, đăng trên tuần báo
VHNT trên lưới do nhóm Ô Thước chủ trương, và
do Phạm Chi Lan chủ biên.
Bài thơ dịch của chính tác giả đã
gây nên một cuộc "tranh luận nho nhỏ", chung quanh một
ý thơ.
Và sau hết, là trích đoạn bài
viết của ký giả Mỹ, David Remnick, trên tờ The New Yorker,
số Sept 11, 2000
Kursk!
From once a fabled battleground,
your name now lives in tragic infamy!
One hundred plus eighteen, drowned
one hundred metres under the sea.
Their gasping cries, though never heard,
would not deny their bravery
in that enclosed, eutrophic hearse
their last moments before release.
Let there be war-if that's man's end,
unfathomed shall our anguish be
knowing each one had died in vain,
but to protect whose secrecies?
We the living have no answers
to give (nor lame apologies
for what was our moral failure
to rise above old tendencies)
Mothers and sisters, lovers and wives
their pain is graver than that sea
which stole these swift but fated lives
when its dark crypt had them buried.
Fare thee well, men and sons of Kursk,
your battle's donẹ Done are your days.
One hundred plus eighteen, cursed
one hundred metres beneath the waves.
Ian Bui
Kursk!
Chiến địa lưu danh! Kursk huyền thoại!
trầm trong bể nhục kể từ đây:
Một trăm mười tám người nằm xuống.
Một trăm thước nước, vực trần ai!
Những tiếng gào vang trong tuyệt vọng.
Biển dang tay đón cỗ quan tài
như chiếc nôi, đưa người cảm tử
lên đài vĩnh quyết phút xuôi tay.
Thế chiến sang trang hề, ta đứng
ngậm ngùi xem thế kỷ đầu thai.
Những trái tim không người bảo chứng
sống vì ai? Chết bởi vì ai?
Hãy hỏi đời sau, và sau nữa,
Hỏi những hoàng hôn, những sớm mai,
Hỏi nát lương tâm hề nhân loại
Còn giá nào hơn để trả đây?
Hỏi chị, hỏi em vàn yêu dấu,
Hỏi mẹ già nua, bé thơ ngây
Niềm đau không đáy trời soi thấu
Là đêm biển lạnh kẻ vùi thây.
Vĩnh biệt anh, đàn con của Kursk!
Địa chiến mang tên. Chứng tích này:
Một trăm mười tám người thiên cổ.
Một trăm thước nước, mộ vừa xây
Ian Bui
(tác giả dịch sang Việt ngữ)
Kursk!
Huyền thoại xưa,
bi kịch bây giờ ...
Một trăm mười tám người,
đại dương mênh mông ...
Những tiếng khóc tắt nghẹn,chẳng tạo nổi âm
vang
Nhưng vinh quang vẫn còn trong chiếc tầu ma đóng
kín phút sau cùng ...
Chiến tranh ơi ...thà đây là định mệnh
!!!
Còn hơn những khổ đau không đáy của cái
chết vô danh
bảo vệ cho một bí mật nào?
Người sống không trả lời, không ân hận,
cho một đạo đức điêu tàn ...
Đã quen cúi đầu theo thói cũ !!!
Hỡi những người đàn bà tang chế
nỗi đau có đầy hơn nước biển đã cướp đi mạng
người
Trùng dương tối âm thầm chôn xác
ai ...
Vĩnh biệt thôi, những đứa con của Kursk
chiến trường xưa đã tàn ...trăm lẻ mười tám
người,
một định mệnh, đại dương mênh mông ...
(Phạm Thiên Mạc chuyển ngữ)
Thư thân hữu VHNT: Hỏi nát
lương tâm hề nhân loại…
Đã lâu rồi, trên một số báo VHNT,
tôi được đọc một bài thơ. Cao ngạo, đầy chất nam nhi trượng
phu! Nhưng bút hiệu cho thấy, đây là một nữ sĩ.
Hỏi qua email: how to explain it?
Mấy bữa sau, đọc một truyện ngắn, của cùng tác
giả. Nhân vật nữ ở trong truyện, khi được chồng hỏi, khi sắp
sửa ra phố, tại sao em không mặc áo dài? Người vợ
đáp (tôi nhớ đại khái): em mặc, nhưng thấy cũng không
làm giảm được cái dáng vẻ cứng cỏi của em…
Một cách trả lời thật kín đáo. Thật
VHNT!
Mới đây, đọc bài thơ của Ian Bui, dịch bài
Kursk, trong có đoạn:
Hãy hỏi đời sau, và sau nữa
Hỏi những hoàng hôn, những sớm mai
Hỏi nát lương tâm hề nhân loại
Còn giá nào hơn để trả đây?
Tôi mê ba câu đầu quá! Thật cao
ngạo ngất trời! Nhưng câu thứ tư, tôi thấy không
chở nổi ba câu trên (giá nào thì cũng
thua thôi!). Cứ tưởng tượng hỏi tác giả, có thể ông
sẽ trả lời: sao, ông chê thơ tôi hả? Vậy thử thay bằng
một câu khác, coi được không?
Tôi liều lĩnh thay bằng câu:
Hãy hỏi đời sau, đời sau nữa
Hỏi những hoàng hôn, những sớm mai
Hỏi nát lương tâm hề nhân loại,
Lạnh lẽo nào hơn huyệt mộ này?
Đinh Hùng có câu:
Nằm trong đáy mộ chắc em sầu?
Bài thơ đề tặng Liêu Trai của Vương Ngư Dương
(?) mà Vũ Hoàng Chương dịch, tôi nhớ mài
mại:
Chuyện đời chán ngấy người lên được,
Nghe quỉ mồ ma khóc thấy ưa
(nguyên tác: Ái thính thu phần
quỉ xướng thi)
Liệu có phải Kursk cũng là một "chuyện đời
chán ngấy người lên được"? Biết đâu bài
thơ của Ian Bui, là mở đầu cho những dòng thơ, từ trong
mồ… Kursk ngàn đời sau vọng lên?
(Một thân hữu VHNT)
Chú thích: Sự thực tôi có hỏi,
ông trả lời, thật lịch sự:
"… thật ra ý tôi trong đoạn đó rất đơn
giản…. Cũng có thể câu đó là điểm yếu trong
toàn bài, hơi bấp bênh, không chắc như những
câu khác. Chỉ sợ nếu sửa câu thơ một tí mà
làm sai ý của nguyên bài thì hỏng.
Quả thực là việc nguy nan…"
Ôi chao, thật nguy nan, cái việc sửa thơ, và
thật vô cùng nguy nan, cái việc sửa thơ của người
khác!
3.
Phong Hỏa Đài
Đời xưa, một ông vua vì muốn mua một tiếng
cười của Người Đẹp, đã ra lệnh nổi lửa trên Phong Hoả
Đài. Chư hầu thấy hiệu lửa cầu cứu, vội vàng kéo
quân tới. Nhìn thấy những đoàn quân ùn
ùn tới, rồi tẽn tò lui, Người Đẹp quả nhiên bật cười.
Không hiểu ký giả người Mỹ, David Remnick có
biết tới nụ cười La Joconde đã biệt tích theo hạc vàng
của Đông Phương hay không, nhưng trong bài viết
về thảm kịch Kursk, ông đã liên hệ tới ngọn lửa cháy
trên tháp cao nhất của nước Nga, (và của Âu
Châu?). Ông viết: Nước Nga là một xứ sở lớn lao
của… ẩn dụ (Russia is a great country for metaphor), chính vì
vậy mà tuần lễ vừa rồi, khi tháp truyền hình Ostankino
bốc cháy trên nền trời Moscow, người ta cố tìm cho
được ý nghĩa của nó. Liệu có thể coi đây là
ngọn đuốc tưởng niệm những người con của nước Nga, nằm dưới đáy
sâu biển cả, trong nấm mồ lạnh lẽo là tiềm thủy đỉnh nguyên
tử Kursk? Hay đây là ngọn lửa bùng lên vào
phút cuối cùng, báo trước sự cáo chung của
một chế độ? Hay đây là ngọn lửa cho thấy cơn giận dữ của
chính quyền, trong nỗ lực bóp nghẹt tự do báo chí?
Bài viết của ký giả Mỹ, David Remnick, trên
tờ The New Yorker, số Sept 11, 2000: Trang TV như thế, chẳng
phải là đã hai chục niên ư?
- VIÊN LINH viết về VÕ PHIẾN
- MAI THẢO viết về VŨ KHẮC KHOAN
- CUNG TRẦM TƯỞNG viết về THANH TÂM TUYỀN
- TẠ TỴ viết về VŨ HOÀNG CHƯƠNG
- LÊ HUY OANH viết về SƠ ...
Note: Bài "tạp ghi" đầu tiên của Gấu, khi còn
ký Sơ Dạ Hương, viết về NDT:
http://harpers.org/archive/2017/03/without-a-fight/
By Adam Zagajewski, from Slight Exaggeration,
a memoir that will be published next month by Farrar,
Straus and Giroux. Zagajewski is a poet and essayist.
Translated from the Polish by Clare Cavanagh.
Two days in Berlin in July, a public conversation on
how aging affects writing. I was surprised at first that
I had been asked to take part in a conversation on this
subject — but then I recalled, with some distress,
that I’d reached an age that gives you the right to answer
such questions. I took the position that aging, for those who
perform mental, spiritual labor — or perhaps simply for
everyone — is like a duel, immensely difficult and inevitably
lost, between the fading body and the spirit, which sometimes
remains undiminished or becomes even stronger, or maybe even —
at moments — is intoxicated by the thought of its increasing
solitude. Abandoned by its faithful companion, the body, the
spirit grows ever lonelier, like those courageous soldiers in
war films who single-handedly protect their squad’s retreat, even
at the price of death. The duel is always lost, yes, but the fight
may be thrilling, inspiring, it may yield moments of true exaltation.
Sometimes we happen to see, in reality or in some documentary, an
old artist or poet who walks with difficulty but whose eyes still shine
with spiritual presence, and this seems to be something magnificent,
the frail body and in it a little flame of fearless pride, the light
of endless questing, a challenge cast to sickness, weakness, age.
Doomed to defeat, yes, since one day the light will die. Though we
don’t know even that, we can’t know, another light may flare up then.
We can’t know, but we live with that hope.
I argued quite eloquently, I thought.
When I got back home to Kraków,
I looked in the dictionary and realized that in German,
“duel” is das Duell, not der
Duell, but I’d kept saying der
Duell. Over and over. I’d used all the wrong forms. I’d suspected
that I might make mistakes, I’d been anxious. Had my arguments
survived my grammatical blunder? My fellow discussants
tactfully (too tactfully?) ignored my error. From now
on I’ll remember: das Duell, not
der. I’m still dwelling on this mistake,
I’ve given it a whole paragraph: it just goes to show that
I still lack the wisdom I see in the eyes of some old men and
women, I’m not even close.
Hai ngày ở Berlin, tháng Chín,
1 cuộc nói chuyện giữa công chúng về
tuổi tác ảnh hưởng vào cái viết. Thoạt đầu
tôi ngạc nhiên khi được mời tham dự 1 đề tài như
thế, và sau đó, bèn “đắng lòng” - chữ
của VC - ngộ ra – chữ của GCC – mình đã già mẹ
nó mất rồi, cứ tưởng bở!
Nói rõ thêm ra, tôi
đã ở đúng cái tuổi để trả lời những câu
hỏi như thế.
Với những người lao động tinh thần, tâm
thần, hay có lẽ, với mọi người, giản dị mà nói
– 1 cái tuổi đụng vấn đề như thế, xẩy ra, như cuộc tử đấu
tay đôi, khó khăn rộng khắp, và chỉ “từ chết
đến chết”, giữa cái cơ thể, cứ thế mà èo uột
đi ,và cái tinh thần, đôi khi, càng già
càng thêm hung hãn – sao bác càng
già càng viết dữ thế, như 1 vị bằng hữu TV có
lần tỏ ra ngạc nhiên - và có thể, vào
vài lúc, như “phê”, như những ngày còn
trẻ, phê xì ke, nhưng bây giờ thì là,
phê nỗi cô đơn cứ thế mà tăng thêm mãi.
Bị cái hình hài, người
bạn đồng hành trung thành bỏ rơi, cái trí
tuệ, cái lý trí, trở thành "thần
thánh cô đơn", giống như mấy tên VC Bắc Kít
nhìn về thiên đường Miền Nam, những ngày cận
kề 30 Tháng Tư 1975, chúng trở nên cực kỳ can
đảm, thắng trận này ta sẽ xây cái nhà
Mít to đùng, hà, hà!
Cuộc tử đấu tay đôi đó, chỉ từ
thua cho tới thua, tất nhiên, nhưng nó có
thể hấp dẫn, hứng khởi, thú vị, đem đến những khoảnh khắc
thực phớn phở.
Đôi khi chúng ta nhìn thấy
- hoặc cảnh tượng đời thường, hoặc qua phim ảnh, tài
liệu - hình ảnh 1 tên già, thí dụ
như tên Gấu Cà Chớn, đi thì như sắp té,
mắt thì như mù dở, tai thì điếc đặc, vậy
mà đôi lúc bỗng trở nên linh hoạt, như
sáng lên cái ngọn lửa “sáng tạo” ngày
nào, nhất là những ngày Mậu Thân!
Ôi chao, tên Gấu Già đang
thách đố định mệnh:
Hỡi con người, mi sinh ra là để thất
bại, bởi vì sẽ có cái ngày ánh
sáng đời sẽ tắt ngỏm, với mi!
Nhưng, biết đâu đấy, đúng vào
lúc đó, 1 thứ ánh sáng khác,
bèn sáng lên?
Why not?
QUATRAIN
Others died, but that happened
in the past,
Which is the season (no one doesn't know this)
most
propitious for death.
Is it possible that I, a subject of Yaqub
Almansur,
Must die the way the roses and Aristotle had
to die?
From the Diván de Almotásim
el Magrebí (12th century)
[Alan Dugan]
J.L. Borges: Selected
Poems 1923-1967
QUATRAIN
D'autres moururent, mais cela
arriva dans le passé,
Qui est la saison (personne ne l’ignore) la
plus propice à la mort.
Est-il possible que moi, sujet de Yacoub El-Mansour,
Je meure comme durent mourir les roses et
Aristote ?
Dans le Divan d'Almotasim El-Maghrebi
(XII siècle),
J.L.
Borges: Oeuvre poétique
1925-1965 [éd Gallimard]
Tứ Tuyệt
Những người khác chết,
nhưng đó là chuyện xẩy ra trong quá khứ.
Đó là mùa chết: Cuộc
chiến Mít
[Chẳng ai biết/nhớ cả, thế mới tếu!]
Liệu chăng, Gấu… đếch
chết?
Và nếu có chết
Thì cũng theo kiểu của những bông
hồng
Tàn hôn lên môi
Vùi quên trong tay
Hay như Aristotle, đã từng phải chết?
http://www.tanvien.net/Al/Waiting_For_SN_1.html
hãy thêm củi vào lò
đốt cho cháy
hết những tháng năm này
để mùa đông
dài thật dài
và chén
đắng cay tưởng không bao giờ cạn
và chén
đắng cay tưởng không bao giờ cạn:
Tuyệt!
Tks
NQT
http://www.tanvien.net/Viet/6.html
Cuốn của
Durrell này, mua, một phần là vì nhớ BHD.
Lần ăn mìn
VC, nằm dưỡng thương ở Đài VTD, số 5 PDP, em mang 1 cuốn
của Durrell làm quà tặng SN, cùng câu
tiếng Tẩy, “ta sẽ là vợ mi”!
... vào
đúng sinh nhật lần thứ ba mươi mà cũng là
sinh nhật lần thứ nhất, nàng nói, "Je serai ta femme."
(2)
Durrell là bạn thân
của Miller. Bữa trước, TV có nhắc tới Bolano, viết về những
vị thầy văn học, thí dụ như Miller, nhưng bây giờ chẳng
ai thèm đọc. Theo Gấu, số phần của Durrell cũng có phần
tương tự. Steiner có thời mê lắm, nhưng sau, ngượng, tại
làm sao mà ngày nào mình thổi Durrell
quá cỡ thợ mộc như thế, nhất là tiểu thuyết bộ tứ “Alexandria
Quartet” của Durrell.
Gấu cũng quá mê Durrell thời mới lớn,
đúng thời gian có BHD.
Bởi thế, em mới tặng quà SN là cuốn
của Durrell.
Cuốn kia, “série noire”, cũng 1 tác
giả Gấu cực mê, em cũng biết, và khi mua, chỉ lo
mua trúng cuốn Gấu đã đọc rồi.
Mà đọc rồi thật.
Thời gian còn nằm Grall, em đi bộ qua đường
Lê Lợi, ghé 1 tiệm sách.
Em nói, chờ mãi mới có dịp
ra khỏi nhà.
Nhớ, lúc đó cũng xẩm tối. Cả hai
đi bộ trong nhà thương Grall, giữa những luống hoa....
Gấu đọc nhiều nhất, khi bắt đầu
có tiền, do làm part-time cho UPI. Vừa làm bưu điện,
vừa làm cho UPI, vừa có BHD, chiến tranh thì
còn ở mãi tít xa Saigon, thế là đọc
hối hả, đọc ào ào, trong số đó, đa số là
série noire, và trong série noire, có
Chase.
Trong cái đọc có tí văn chương,
là Durrell. Thành ra hai tác phẩm mà
BHD đem tới làm quà khi gặp, một cuốn là
của Chase, Một buổi sáng đẹp, mùa hè, “Un
Beau Matin d’Été”, khi còn nằm trong nhà
thương Grall, và khi về Đài VTD dưỡng thương, chờ mổ
tiếp, là cuốn “Cefalu”, của Durrell.
Về già, chờ đi, Gấu tìm
đọc Durrell, là tìm cơ may sống lại thời trẻ, khi
có tất cả.
Trong cuốn "Từ Lưng Voi", có
1 bài viết thật thần sầu, với riêng Gấu.
Và, 1 cách nào
đó, nó nói ra cái ao ước kể trên
của Gấu, và hơn thế nữa, nó nói thế này.
Một khi mà bạn "sống thật
sống", với tất cả những cay đắng ngọt ngào "cái con mẹ" gì
đó, mà không
1 lần, phải biên tập cái đạo hạnh của bạn, thì
về già, thế nào bạn cũng có dịp sống lại một lần nữa,
cuộc đời của bạn, nhờ 1 cái gì đó, và cái
gì đó này, thường là 1 nghệ phẩm, 1 bản nhạc,
một truyện ngắn, truyện dài, một bài thơ, thí dụ.
Đó là bài
viết: Liệu giấc mơ vưỡn còn, khi mà kẻ mơ ngỏm rồi,
"Can Dreams Live on When Dreamers Die"?, trong "Từ Lưng Voi", của
Durrell
Gấu sẽ scan và post bài viết, và
dịch & giới thiệu, và, song song, kể kinh nghiệm lần
đầu nghe “After the Sunrise” của Yanni, trong CD
Refections
Of Passion.
Trong khi chờ đợi, post 1 bài
cực ngắn về thơ, trong cuốn trên.
Ideas About
Poems
1942
1.
Neither poet nor public is really interested
in the poem itself but in aspects of it.
2.
The poet is interested in the Personal aspect:
the poem as an aspect of himself.
3.
The public is interested in the Vicarious
aspect; that is to say "the universal application:' which is an
illusion that grows round a poem once the logical meaning is clear
and the syntax ceases to puzzle.
4.
This is why good poems get written despite
bad poets and why bad publics often choose right.
MEANWHILE.
the poem itself is there all
the time. The sum of these aspects, it is quite different to what
the poet and the public imagine it to be. Like a child or a climate
it is quite outside us and our theories don't affect it in any way.
Just as climate must be endured and children kept amused, (he poem
as a Fact must be dressed up sometimes and sent to the Zoo-to get
rid of it. It is part of the ritual of endurance merely. That Is
the only explanation for Personal Landscape now.' People say that
writing Poetry is one of the only non-Gadarene occupations left-but
this is only another theory or aspect. Poems are Facts, and if they
don't speak/or themselves it's because they were born without tongues.
NOTE
1.
This short piece appeared at the beginning
of the first issue of Personal Landscape, the periodical edited
in Cairo during World War II by Durrell, Robin Fedden, and Bernard
Spencer. Each subsequent issue included an "Ideas About Poems" segment
that personalized rather than politicized poetry, despite their proximity
to, and the immediate threat of, the war. The kindred terminology of
"Ideas About Poems" to the ''Attitudes'' about Personalism adopted by
the New Apocalypse poets in the following year, 1943, is suggestive.
G.S. Fraser, who contributed to Personal Landscape and was a friend to
the three editors, was also an important contributor to the original New
Apocalypse anthologies in London in the preceding years. The personalist
nature of both groups appears anti-authoritarian in the same manner as
Herbert Read's notion of the politics of the unpolitical.
Ideas About
Poems II
The schizophrene, the cyclothyme,
Pass from the droll to the sublime.
Coming of epileptoid stock
They tell the time without a clock.
NON SENSE IS NEVER JUST NON SENSE;
it is more like good sense with all the logic removed. At its highest point
poetry makes use of nonsense in order to indicate a level of experience beyond
the causality principle. You don't quicken or laugh at nonsense because it
is complete non-sense; but because you detect its resemblance to sense.
Logic, syntax, is a causal instrument,
inadequate for the task of describing the whole of reality. Poems
don't describe, but they are sounding-boards which enable the alert
consciousness to pick up the reverberations of the extra-causal reality
for itself.
Poems are negatives; hold them
up to a clean surface of daylight and you get an apprehension of
grace. The words carry in them complete submerged poems; as you
read your memory goes down like the loud pedal of a piano, and
all tribal, personal, associations begin to reverberate. Poems are
blueprints. They are not buildings but they enable you to build for
yourself. Serious nonsense and funny nonsense are of the same order:
both overreach causality and open a dimension independent of logic but
quite real. Shakespeare and Lear are twins who do not dress alike. Serious
nonsense and comical nonsense have a common origin, and an uncommon
expression.
Nothing is lost, sweet self
Nothing is ever lost.
The spoken word
Is not exhausted but can be heard.
Music that stains the silence remains,
O! echo is everywhere the unbeckonable bird! (1)
NOTE
1.
This stanza is later modified to become Durrell's
poem "Echo" (1943).
Can Dreams live on When Dreamers
Die?
1947
IN THE ANCIENT WORLD they set great store
by dreams. One ancient author (1) divides them into five Classes of
which the fifth is dreams of divination, or oracles. People practiced
what is known as incubation hat is to say, sleeping within the precincts
of a temple-in order to have the dreams they felt would yield useful
interpretations, the dreams which might give them guidance in their
lives or settle problems for them. When the great cult of Aesculapius
(2) arose, dreams played a great part in the technique of healing the
sick; there is still a good deal we do not know about ancient medicine,
but what we do indicates that those who were sick travelled to one of the
many temples where they entered a special building and spent the first
night in incubation. There were hundreds of temples allover Greece, and
today we think that those which we have unearthed at Epidaurus and Cos
(3) must have been the most famous. On arrival the suppliant made his sacrifices
and performed some sort of ritual whose details are not known to us today;
then he slept in the special dormitory set aside for him, and during his
sleep the god appeared and either healed him outright or prescribed
a course or treatment for him to follow. So you see dreams were a form
of diagnosis, just as for the psychoanalyst today the patient's dreams
give a kind of symbolic picture of his subconscious preoccupations and
his problems. But they were far more important in the ancient world
because everybody believed they came directly from the god himself.
I was thinking along these lines
one hot August day in 1939 when some friends suggested a trip to
Epidaurus in southern Greece. (4) I had never seen the temple and
very much wanted to go, so we set off. It did not take long from Corinth,
where we were then staying, and as the car bumped down the shallow
gradient into the valley I could quite understand how not only
the temple but the whole of the territory of Epidaurus was considered
sacred to the god. The plain is very green and encircled by wooded mountains,
and gives one the strangest impression: as if, not only the temple,
but the whole landscape had been designed deliberately by men. There
was something at once intimate and healing about it all. A light wind
ruffled the arbutus and holm-oak; the sea was just out of sight but one
heard it, like the whispering in a sea-shell; above us in that shattering
blue silence of the Greek sky, two eagles sat, almost motionless. We
spent the whole day wandering about the theatre and the temple, and looking
at the treasures in the little museum.
The guide was an amiable fellow,
a typical Greek peasant, and while I was talking to him he told
me that he had managed to get a transfer to another place-Mycaenae.
(5) As this is rather a bleak fortress perched on a hill I asked
him jokingly why he was so silly as to get transferred from this peaceful
valley with its silence and greenness: and to exchange it for a place
like Mycaenae. "If I told you why," he said, "you would think me mad.
It is because of the dreams. I can't bear the dreams we have in this
valley." This, in a fantastic sort of way, was interesting. "What dreams?"
I said. "Everybody in this valley has dreams," he said. "Some people
don't mind, but as for me I'm off." I was, I suppose, rather skeptical
about the whole thing, because he looked at me and made a face as much
as to say: "Yes, you think I'm mad like the others."
I asked him to tell me some of
the dreams but he seemed reluctant to do so. "They're a lot of rubbish;'
he said: and then, as an afterthought, "But I'll tell you one thing:
the old man in the fresco appears frequently in them." The fresco
in the museum showed a grave Assyrian-looking face with dense ringlets
falling down to the shoulders. I cannot remember now if it represented
Aesculapius or not: at any rate it is an extraordinary piece of stone-carving.
The guide went on: "Now you'll perhaps imagine that it's natural enough,
when I spend almost every day in the museum, that the old man makes
an impression on my mind; but tell me one thing. Why should my two
kids dream about him when they have never set foot in the museum? (6)
The two children were sitting under a tree playing and I tried to question
them. The boy was too shy to talk and hung his head', but the little
girl was made of sterner stuff; she was about twelve. I asked her if
she dreamed about an old man and if she could describe him. I cannot say
that she said anything of great interest, but one little gesture she made
was curious. She spread her fingers and drew them down from her ears to
her shoulders as she described the old man's hair. By this time the rest
of the party wanted to move off, so I had no chance of pursuing the matter
further. As I was leaving the guide said, in rather a cynical or sardonic
way: "If you don't believe me, ask any of the peasants who live in this
valley. They all have dreams. The valley is full of dreams.”
As we bumped back to Nauplia in
the twilight, through the enchanted Greek landscape, I could
not help wondering whether the dreams of those countless thousands
of suppliants had stayed behind in this valley; whether they were
the dreams of the ancient Greeks which had lingered on there. Naturally
enough, I tried the subject out over dinner and got heartily laughed
at for my pains; but sometimes these odd ideas prove to have something
in them. However, we were then on the point of war with Germany and the
whole thing slipped out of my mind. It was not indeed until 1945 that it
all came back to me.
Một tên
nhơ bẩn đến như tên số 2, không hiểu sao bạn VL,
già rồi, có tiền già rồi, lại về làm
1 tên viết mướn cho lũ này, sau khi làm
1 ông Trùm suốt 1 cõi Sài Gòn
trước 1975, và đến khi ra hải ngoại phục hồi được 1 tờ
báo của Nguỵ, là tờ Thời Tập, chưa kể sáng
tác một Thủy Mộ Quan?
Đọc trong nước viết về VL, chưa đủ
hãnh diện sao?
http://nhilinhblog.blogspot.ca/2016/01/van-chuong-mien-nam-giua-chung.html#more
Còn lại một việc nữa: văn chương
miền Nam đâu có dừng lại ở năm 1975. Đây
mới là điều huyền bí nhất. Tất nhiên là
không thể như vậy được. Giờ, ta cần xác định,
đâu là những cột trụ quan trọng nhất để nói
đến một sự bảo toàn cho di sản văn chương miền Nam. Với
tôi, hiển nhiên không thể là Võ
Phiến, nhưng hiển nhiên phải là các nhân
vật từng hết sức quan trọng ở giai đoạn văn chương miền Nam trước
1975. Họ từng rất quan trọng, nhưng sứ mệnh chính yếu của
họ lại nằm ở đoạn sau 1975, thế cho nên mới khó hiểu và
khó nhìn.
Có ba người quan trọng nhất.
Người thứ nhất là Viên
Linh, người ra đi ngay từ đầu, ngay
từ trước thảm họa.
Người thứ hai là Dương Nghiễm
Mậu, người đã, ngược hẳn lại với Viên Linh,
không đi đâu hết cả.
Và người thứ ba là người
ở giữa, ra đi vào khoảng giữa. Đó chính
là Nguyễn Quốc Trụ.
Trong bài điểm Hồi Ký Viết Dưới Hầm
của Dos, Thạch Chương dịch, hồi còn Sài Gòn,
Gấu có dẫn Sarraute, khi bà cho rằng, ở Dos, có
2 tuyến nhân vật, 1, đẻ ra 1 phát là cứ
thế lững lững đi thẳng, "cũng" 1 phát, tới với Chúa
với Phật, còn 1, phải trầm luân trong đời đời kiếp
kiếp thì mới, may mắn ra, ngộ ra Đạo.
Bạn đọc TV có thể dùng
hình ảnh trên đây, để hình dung
ra GCC và ông anh của nó, là TTT.
“Con đường thằng em
đi”, thì ngập ngụa những thương đau, còn ông
anh cứ thẳng 1 lèo, đóng vai kẻ “tiết tháo”,
dù không muốn!
Rõ ràng là ông
không muốn, như trong thư gửi đảo xa cho thấy. Và
để, cũng chẳng "tiết tháo" chi đâu, ông
bèn để cho nhân vật nói thay cho ông,
mình là cái chó gì, đôi
khi phải coi thường mình.
Khi Oanh, thấy Kiệt bịnh quá,
thỏ thẻ, hay là em bỏ hết, để theo anh, hầu hạ anh,
Kiệt cáu quá, chửi, chẳng đáng, chẳng
bõ!
Đọc, thì hiểu ra thái độ
của ông, khi ra hải ngoại, không trả lời phôn,
bất cứ ai.
Ông đâu có muốn như
thế?
Đau thế!
Khi ông bỏ Quận Cam, đến Mai Thảo
mà cũng còn quê. Đúng là
bỉ mặt ông Trùm Sáng Tạo, Người, cứ ai
biết lái xe, chở Người đi nhậu, rút ví trả
tiền, là trở thành nhà văn, như chính
VL có lần nhận xét.
Cái vụ mà qua đó VL
xử sự cực bảnh, rất ư là "nhân văn" [dùng
chữ của Vẹm để dịch từ "human", lũ này, viết lách
như kít, độc hơn... thịt vịt, vậy mà hơi
1 tí là khen nhặng cả lên, có tính
nhân văn!], Gấu mới là tên bị ảnh hưởng nặng
nhất, do cái "phản ứng phụ" của nó: Gấu vướng vô
Cô Ba, là do nó.
Từ từ khai báo hết, để đi cho rảnh!
"Vụ này", cực "nổi tiếng" trong giới giang hồ trước
1975, và cách xử sự của VL, quả là đầy tình
người, đúng như thế. VL, cũng 1 tên Bắc Kít,
ít học, thân lập thân, cũng cực độc, như bất kỳ
1 tên Bắc Kít nào khác, nhưng không
bao giờ chơi đòn lén, hoặc đánh kẻ dưới mình,
và khi cần xử sự cho xứng đáng 1 đấng nam nhi, thì
cũng thật bảnh, như trong chuyện giúp TTT 10 ngàn trả tiền
a văng, cho 1 bài viết mà ông nhận lời viết, và,
khi dự án này bị huỷ bỏ, cái tên đưa tiền a
văng dọa làm bỉ mặt TTT, và ông đã cầu cứu
VL.
Cái chuyện chỉ vì gọi phôn, không
bắt phôn, mà giữ mãi ở trong lòng 10 năm,
sau khi TTT đã mất rồi, khui ra trong 1 bài viết tưởng
niệm, thì thật quá hẹp bụng, thật uổng lòng kỳ
vọng của TTT ở nơi VL.
****
Khuya nức nở những cõi
lòng không ngủ
Đợi vì sao dậy sớm tiễn người đi
Không hiểu sao hai câu
thơ của Joseph Huỳnh Văn trích dẫn trên lại cứ lởn
vởn trong đầu óc Nguyễn tôi
những ngày gần đây. Có phải giờ này gió
mùa đang thổi trên khắp quê nhà, gợi lại
những chuyến đi? Hay ngọn gió Santa Ana đang thổi suốt dọc giải
đất Cali, làm dậy lên tiếng những chiếc phong linh bằng đất
nung khua chạm vào nhau? Le vent se lève… Gió đã
lên… Gió đã lên rồi… hãy thử sống xem
sao?...
Vậy đó, hai câu thơ gợi những
âm vang. Kẻ viết những dòng này đã đọc
khá nhiều thơ của Joseph Huỳnh Văn -những bài thơ nửa
tượng trưng nửa siêu thực, những bài cầm dương xanh
sầu quý phái- nhưng không hiểu sao hai câu
thơ bình dị nói trên bỗng dưng lại có
mê lực đưa lòng mình vào tưởng nhớ mông
lung. Hai câu thơ thật giản dị nhưng khơi gợi nhiều quá.
Phải chăng nó đã động phải những tầng sâu thẳm
nào đó tận dưới đáy hồn -và đáy
thời gian.
Nhưng thôi hãy gượm. Trước khi
nói về thơ, xin hãy nói về người. Con người
đó là Joseph Huỳnh Văn. Nguyễn được đọc và
nghe tên anh từ hồi tạp chí Thời Tập của Viên Linh.
Joseph Huỳnh Văn. Cái tên lạ, nửa Tây nửa Ta, nhưng
rồi cũng trở nên quen thuộc.
Blog NXP
Hai câu thơ của Joseph
Huỳnh Văn, tên này chôm từ Tin Văn, nhưng
hê lên, đọc Thời Tập.
Nhân có
VL ở đây, có khi nào đăng thơ Joseph Huỳnh Văn, vốn
chỉ xuất hiện trên Tập San Văn Văn Chương, 1972, tức là vào
lúc sắp sửa đứt phim?
Đã ăn cắp, không biết nhục, vậy mà còn
"la làng", đọc ở TT!
Ở mẩu trên, "Le vent se lève"... Gấu nghi, chôm
từ 1 bài viết của Trúc Chi. (2)
Đây là kiểu viết của rất nhiều đấng Mít, chôm
đầu này 1 chút, đầu kia 1 chút, chôm báo
lá cải của mũi lõ...
Cái tên khoe khoang, viết chừng hai ba tá,
tác phẩm Phén, Phiếc, bằng võ công “Càn
Khôn Đại Nã Di”, như bạn Cà của hắn ca tụng, là
cũng chuyên xài đòn này.
Tên này cũng cực kỳ dã man. Gấu là tên
đầu tiên, dám về lại xứ Bắc Kít, đem bài viết
của Đại Phê Bình Gia, Đại Giáo Sư VC, là Hoàng
Ngọc Hiến, ra hải ngoại, rồi mất công đánh máy,
cho công bố, trong đó, HNH có xoa đầu hắn, vậy mà
hắn vờ, trong khi cám ơn rối rít HNH.
Sở dĩ hắn vờ GCC, là vì hắn không có
1 chút đạo hạnh nào, và cũng còn là
vì, sợ lũ Khiến Chán hỏi thăm sức khoẻ, như đã từng
hỏi thăm NMG, thí dụ, trong vụ cái tai người...
"Tôi không được hân hạnh quen biết ông
HNH", như hắn viết.
Mấy câu thơ sau đây,
của TTT, Gấu đọc ở trên tường, kế bàn viết của ông,
trong phòng riêng của ông, một lần lén vô,
thời gian ông sắp sửa trình diện TT3 Tuyển Mộ
Nhập Ngũ Quang Trung:
Khi anh đi, anh đi vào
sương đen
Sương rất độc tẩm vào người nỗi chết.
Nhớ, bài thơ dán
trên tường, khi ông sắp sửa trình diện nhập ngũ.
Vậy mà đọc net,
cũng thấy 1 đấng chôm, nhưng sửa đi 1 tí, cho thành
"của tớ đấy" (1)
Tên thi sĩ tản mạn bên ly cà
phê này cũng đã từng được TTT coi là bạn,
và được TTT làm thơ tặng.
Vậy mà khi xẩy ra vụ "đảo xa", bèn vội
vã bê về blog của hắn, ra cái điều, tưởng thế
nào, cũng có bồ nhí, như ta đây!
Tư cách, đạo hạnh như thế, chỉ nội cái
việc sống không thôi, là đã bửn rồi, vậy
mà còn bày đặt làm thơ!
NQT
(1)
http://www.tanvien.net/Tribute_1/TTT_10_Yrs_2.html
TTT 10 years Tribute
Người yêu nhạc thì sẽ yêu cái tên
Nguyễn Đình Toàn vì những bản tình
ca nặng lòng với quê hương
“Mai tôi đi, tôi đi
vào sương đêm
Sương rất độc, tẩm vào
người nỗi chết
Quê hương ta sống chia giòng
vĩnh biệt
Chảy về đâu những nước mắt
đưa tin…”(Mai tôi đi)
Note:
Hai câu đầu, chắc là từ thơ TTT, trên Tin Văn đã từng
post.
Có thể NDT đọc TV, rồi nhập
tâm.
Nếu bài viết của NDT có
trước đó, thì là trùng hợp
Nó nằm trong 1 bài thơ ông làm, khi
sắp sửa vô Trung Tâm 3 Tuyển Mộ Nhập Ngũ. Dán
lên tường, nơi bàn viết của ông.
Gấu, 1 lần lén vô,
bèn chôm liền.
Cái gì gì:
Khi anh đi trời còn mù sương
Thành phố… chùm áo cũ
Chúng ta còn một
mình bơ vơ
Hai câu cuối:
Khi anh đi, anh đi vào
sương đen
[đen, không phải đêm]
Sương
rất độc, tẩm vào người nỗi chết
http://www.tanvien.net/Ghi_1/suong_rat_doc.html
Hai câu thơ của Joseph Huỳnh Văn, cũng như hai câu
của TTT, chưa từng đăng báo nào cả.
Của Joseph, như Tin Văn đã từng kể, là trong
1 lần cả hai nhậu say, thời gian Gấu ghiền nặng quá, Joseph,
chắc là nghĩ, tội thằng Trụ quá – như anh từng nói
như thế với thằng em của anh, là NLV - chắc là sắp ngỏm
đến nơi rồi, thế là bèn lầm bầm hai câu thơ.
Cũng tương tự, là hai câu thơ của TTT.
Vậy mà chúng cũng chôm, rồi còn
la toáng lên, đọc ở Thời Tập.
Cực bửn, cả 1 lũ Mít lưu vong, hải ngoại.
Chôm chán, thì bò về trong nước,
xin VC thí cho tí danh hão!
(2)
Quả đúng như GCC nhớ. Câu tiếng Tẩy trong câu
viết của tên thi sĩ tản mạn bên ly cà phê, là
ở trong bài viết "Gần hết năm ghi vội", của Trúc Chi, Văn
Học, Xuân Đinh Sửu.
Nguyên văn như vầy:
Le vent se lève, il faut tenter de vivre [Paul Valéry]
http://tapchivanhoc.org
Tên khốn này chôm,
vờ Trúc Chi, vờ luôn Valéry.
Tởm thực!
NQT
ANECDOTE OF RAIN
I was strolling under the tents
of trees
and raindrops occasionally reached
me
as though asking:
Is your desire to suffer,
to sob?
Soft air, wet leaves;
-the scent was spring, the scent
sorrow.
Giai thoại mưa
Anh lang thang dưới tàng
cây
và những hạt mưa thỉnh thoảng
lại đụng tới anh
như muốn hỏi:
thèm gì, ước gì?
đau khổ
hay nức nở?
Trời nhẹ, lá ướt;
-Mùi xuân, mùi
buồn
SN_GCC_2017
thăm cô chú nhiều sức khoẻ.
kính
những dẫn nhậ p không số
làm toán cộng. với những gì đã
mất. 42 năm. và 11 năm. một quê hương. một người cha. không
có cái mất mát nào dễ quên cả. cử
đợi đến ngày đó. tháng đó. dấy lại những
cái… thật khó mà diễn bằng lời. như vết thương
lại tấy mủ. đau. nhưng cái đau đã quen. buồn. một cái
buồn đã cũ. bất lực trong cái chọn lựa. chỉ để nói.
đó là hai cái mất thật giống nhau. giống ở cách
effect. ừ. mà lại lan man vớ vẩn đi đường nào. ông
nhỉ. trở lại để viết hỏi ông. nhưng lại không muốn hỏi. tôi
muốn viết một cái gì khác. cái khác
đó. tôi chưa nghĩ ra ngay lúc này.
- trong văn chương tôi chưa có dịp đọc (hay không
có?) ai viết bài tự phê bình mình.
sao ông không viết phê bình về “phê
bình” của ông và cái “viết” của ông?
- ngồi trong một xó. rồi rải cái chữ. tung bay
tứ hướng. những cái dây dưa thật của ông. từ một
thời xa lắm. nay đã không thật. hay đã không
còn có thể thật. cái quán. con đường. trạm
bưu điện. những người con gái một thời. đã không
còn. trại cấm sekiew songkhla. chỉ còn trong tưởng nhớ.
panatnikhom camp nay chỉ là đồi trọc. bơ bơ cát bụi. không
còn một tí ti dấu vết của một tị nạn. mà ông
lại phây phây theo nhưng cái không thật. rồi
giải lại bài toán của ông một thời. đâu là
cái nguồn cơn? đâu là động lực đưa đẩy? tôi không
nghĩ chỉ là đơn thuần cái đọc. ông giải thich sao?
- ông ở đâu vào cái giờ phát
lệnh đầu hàng năm 75? ông còn nhớ tâm tình
của ông lúc ấy?
theo tôi đó là dấu chấm của cái
phân nửa trước của ông. mà cái phân
nửa đó hình như quan trọng lắm với ông. vì
nó được cưu mang suốt trong cái phân nửa sau qua cái
viết của ông.
khúc trước bão
ch. à
mùa này. đã bắt đầu. lạnh
mùa gì. mà lá. rơi
nhiều lúc gió. thổi. điên
chợt thèm. ly cà phê. nóng
mình. quen chưa? ch. và. tôi
dăm email qua. lại
những. xã giao. lệ thường
thế thôi
cái nào? chung của bọn. mình
những. bài thơ của. ông bố
cùng những. cái bóng. ngất ngưởng
người ngoài. không hiểu. được
còn. một cái khác. sau sự ràng.
buộc
bằng. cách nào? để mọi việc. bình thường
khi màu đỏ. đã hết và. chữ nghĩa đã.
hết
ch. à
khi nào. rảnh
ngồi xuống. một ly. rượu
(hay cà phê. cũng xong)
vài. câu chuyện
(hay im lặng. cũng vậy)
ch. và. tôi
cái nhớ đi. về trong câm. nín
có nghe? tiếng cào. lá xạc xào
khi. chiều chạng vạng. không ch?
tiếng. còi tàu rúc. sao mênh mông
quá. đỗi
để phải. đứng lại. dẫu không biết. phải làm gì
ừ. khi nào. nhớ
tôi. đốt lò sưởi
như bếp lửa. và chỉ ngồi. một mình
huơ. huơ tay im. lặng tìm hơi. ấm
nhớ. người đi trong. tuyết
cái áo lạnh. quá khổ cùng. cái
tẩu trên. môi
ch. à
thì vẽ khi. nhớ
thì viết khi. cô đơn quá. đỗi
rồi. làm gì nữa? cho tôi. biết
đêm dài. quá
rồi. cơn bão. tới ngày mai
dù có. lật tung tất. cả
cũng sẽ. qua
để lại. những cái nhớ gắt. gỏng
ch. à…
TKS
TT/NQT
.... nay chỉ là đồi trọc. bơ bơ cát
bụi.
Ôi chao, cảm khái chi đâu, nơi đóng dấu
địa ngục ngày nào.
Tks
Bụi
Họ nói, họ thấy hai ông
tiên, râu tóc bạc trắng, mỗi ông cầm một cuốn
sổ, ngồi đối diện trên hai mỏm đá. Bên dưới là
những hồn ma, kẻ khóc lóc, kẻ năn nỉ... "Sự thật" nổ bùng
ra, như thuốc súng. Mọi người đổ xô ra mân mê,
khẩn cầu hai mỏm đá vô tri. Có thể vì quá
bực mình, hoặc ái ngại, hoặc muốn cho cuộc phán xét
tử sinh được công tâm, hai vị tiên đã cho xây
những bức tường cao, che kín mọi bí ẩn.
Bây giờ nếu bạn không tin,
xin mời tới Sikiew. Những bức tường giờ này vẫn còn, và
được dùng vào việc giam tù, đóng dấu ấn Địa
Ngục.
Trong những điều được nói về
Sikiew, tất cả chỉ là bịa đặt, hoặc tô điểm. Duy có
điều này: Nó thực sự là một địa ngục.
Đặng
Lệ Khánh
P h ạ m D u y
Never explain —
your friends do not need
it and your enemies will not believe you anyway. (1)
—Elbert Hubbard
Sống một đời đã rất đầy
Âm thanh quyên góp từ mây xứ
Trời
Từ viên đạn vỡ tim người
Từ lòng từ ái mẹ ngồi đợi con
Từ tiếng ru giọng mỏi mòn
Từ đôi chân bước hiền ngoan bên trường
Từ môi ngọt vị chanh đường
Từ trong khắc khoải người thương nhớ người
Có khi lãng mạn biển khơi
Có khi nhí nhảnh lên mười bé
con
Có khi tay vỗ nhịp dồn
Có khi lơ đãng nụ hôn nửa vời
Sống cho đời
Sống với đời
Khóc cười đến tận cùng nơi cảm hoài
Âm ba từ thuở nằm nôi
Tiếng à ơi vọng mẹ ngồi đâu đây
Quê hương xin mở vòng tay
Để tôi nằm xuống một ngày không xa
Đất thơm là chốn quê nhà
Hồn tôi miên viễn bao la trở về
Từ trong mộ thẳm đời kia
Biết đâu dòng nhạc ảo mê lại tràn
Vấn vương ơi
Những cung đàn
Đặng Lệ Khánh
(1) Đừng bao giờ giải
thích. Bạn chẳng cần, kẻ thù chẳng tin.
_____
Mời đọc :
Phạm Duy và vết thương di tản ( Nguyễn Xuân
Hoàng)
Mời nghe : Rong
khúc ( Phạm Duy)
RONG KHÚC
Từ cõi xa xôi, muôn nghìn thế
giới
Anh đã đi theo nắng từ trời vui
Anh xuống nơi chơi lúc người mới tới
Anh đã hân hoan ghé qua cuộc đời
Cuộc đời trần gian
Chỉ có trăm năm
Anh đã rong chơi khắp miền hoang dã
Anh đã đi qua bốn bể gần xa,
Êm ái rơi theo tuyết miền băng giá
Hay cuốn bay theo gió sa mạc già
Ở nơi dương thế... mặn mà.
Anh đã rong chơi khắp nẻo đường trần
Anh đã quên đi những nẻo đường tiên
Chân đã tung tăng khắp nẻo đường đời
Anh đã cho anh sống thật đầy vơi
Ðã chót đưa em tới nguồn yêu dấu
Anh cũng theo em bước vào khổ đau
Khi thấy ai trong cõi trần khô héo
Anh đã dâng cho trái tim nhiệm mầu
Ðời mà chìm sâu
Cũng muốn leo cao
Anh bước khoan thai lối rừng hun hút
Ðưa đón chân anh có lửa hoàng
hôn
Anh dẫn em vươn tới miền an tĩnh
Cho bớt mông mênh cõi sinh mệnh buồn
Ở nhịp trần gian... quay cuồng.
Anh đã rong chơi khắp nẻo đường tình
Anh đã theo em đi gặp bình minh.
Như đã rong chơi khắp nẻo đường chiều
Như đã đưa em tới đỉnh tình yêu
Thôi nhé, cho anh giã từ trái
đất
Anh đã nghe vang tiếng gọi càn khôn
Nhưng nếu em yêu muốn vào cõi lớn
Anh sẽ cho em dắt tay lên đường
Một đường hành tinh
Ði thăm những thái dương
Anh dắt tay em đi vào ngàn mai
Anh khoác vai em bước về ngàn xưa
Ta sẽ quên như có mình nơi đó
Ta sẽ quên như có ta nơi này
Và lộ trình ta.. miệt mài
Ta vứt sau ta những nẻo đường trần
Ta vút bay theo những nẻo đường tiên
Nhưng nếu mai sau, ai gọi người tình
Anh sẽ quay lưng bước về nẻo xanh.
Phạm Duy
Quà đặc biệt cho 30 Tháng
Tư 2017
Tks K.
ANECDOTE OF RAIN
I was strolling under the tents
of trees
and raindrops occasionally reached me
as though asking:
Is your desire to suffer,
to sob?
Soft air, wet leaves;
-the scent was spring, the scent sorrow.
Giai thoại mưa
Anh lang thang dưới tàng
cây
và những hạt mưa thỉnh thoảng lại đụng tới anh
như muốn hỏi:
thèm gì, ước gì?
đau khổ
hay nức nở?
Trời nhẹ, lá ướt;
-Mùi xuân, mùi buồn
SN_GCC_2017
Handshake denied.
Ôi chao, THNM, bèn nhớ đến lần gặp lại cô
bạn, ở Refugees Center, ở Toronto, 1994 cỡ đó.
Cô cởi bao tay, bắt tay Gấu, tự nhiên,
vô tư, như.... người Hà Nội, còn Gấu
thì run như con thằn lằn đứt đuôi, Gấu Cái thì
đau tím ruột tím gan, sau đi 1 đường trên 1 tờ
báo địa phương, mi rung răng rung rẻ với chồng ta 5 năm trời
ròng rã, suốt Saigon, gặp lại mi nói “xin lỗi”,
vậy là đủ sao?
Hà, hà!
Merkel has been great - just like Obama and the Pope.
However, she has been faced with many more problems about refuges
and now the idiotic Donald Trump.
These two are greatly different people. While
Merkel has been a seasoned politician, Trump is a lying and
cheating businessmen. The unfortunate thing is also that most Americans
are kept in the dark regarding the real world and its problems. They
are given what I call the Anglo-Zionists version of the world.
FB
Lần đầu tiên anh cầm tay em, là
bữa đi ciné. Lần đầu, vì hôm sau anh phải đi
Trung Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ Quang Trung. Em như miễn cưỡng
"chiều" anh. Ở trong rạp, anh cầm tay em, em giật ra. Bực mình,
anh giữ chặt lại. Nghĩ sao, em để yên. Anh như nghe em nói:
thôi được rồi, tui thương ông đó.
[Chịu chưa? Thích chưa?] Được chưa?
Hà, hà!
Cầm dương
xanh
Đâu con phố đơn côi,
như tên thường gọi,
nơi
gương cũ
bóng xưa
gặp gỡ?
Where is that street,
called lonely street,
where broken dreams
and memories
meet? (1)
... Đập cổ kính ra tìm lấy bóng.
Anh biết, chẳng ai tin đôi trai gái
yêu thương nhau ngần ấy năm trời chẳng hề có chuyện
chiếm đoạt.
Họa là thánh, ngay
cả những người bình thường nhất cũng tỏ vẻ nghi ngờ.
Hoặc ngần ngại, khi phải đưa ra
một lời kết luận.
Hay là anh không thương
em. Hay là em không thương anh, những ngày
đó.
Sau ba mươi năm, anh tự hỏi.
Có lẽ không phải vậy.
Anh thương em, như bất cứ một người nam thương một người
nữ. Muốn sở hữu. Muốn chỉ là của mình. Nhưng đó
là những lúc xa, thật xa em, tưởng tượng nếu có
em lúc này, lúc nọ...
Khi gặp, anh chỉ thấy em thân
thương, giản dị, như một đứa em ruột thịt. Anh chỉ thấy em,
như những đứa em gái của em. Anh yêu em như yêu
tụi nó.
Anh yêu em, như một người
thân thương ruột thịt, mỗi lần anh trở về; bởi vì,
ngoài em ra, đâu còn nơi nào để mà
trở về?
Sự thực, riêng với anh, có
lẽ là, anh đã tưởng tượng ra em. Như một đối
đầu, thách đố. Như thể, anh may mắn được gặp em, vậy là
quá đủ rồi. Như thể anh quá sợ, cuộc chiến lúc
nào cũng soi mói, rình mò. "Mày
chê tao nhơ bẩn, chắc gì mày đã hơn
tao?", anh nghe như nó nói, với ánh mắt cười
cợt, với nụ cười đe dọa. Như thể, anh càng yêu em trong
sạch, thánh thiện, nghĩa là bình thường, giản
dị chừng nào, cuộc chiến thua chúng ta chừng đó.
Tất cả cái xấu trong cõi
đời này, là do lơ là, đối với một chút
chi mong manh, dễ vỡ. Cái xấu hoàn toàn
là do sự bất cẩn của chúng ta. Và cái
tốt chỉ nẩy sinh, do sự kháng cự, chống lại nó*... Nhiều lần anh tự hỏi, chẳng
lẽ giản dị như vậy sao, chẳng lẽ chúng ta giản dị chọn lựa
sự lãng quên?
Có những lần, anh đã
trách em. Hình như em quên tất cả những một
tí, những một chút kỷ niệm, Đâu có
nhiều, tuy mấy năm trời quen biết. Nhưng sau này anh
hiểu. Một lần lên xe, là cả quãng đời cũ xưa coi
như đoạn tuyệt. Cha mẹ, anh em, còn cũng đành nữa
là...
Đã từ lâu, anh đi
đâu cũng có em. Anh gói em, ở nơi nương náu giản
dị nhất: anh giấu em trong nỗi vui của anh như một tờ thư ngập ánh
mặt trời.
(Cela fait longtemps que je ne
sors plus sans toi. Je t’emporte dans la plus simple cachette qui soit:
je te cache dans ma joie comme une lettre en plein soleil)*
Anh vẫn phục người Tây phương.
Họ rất kính trọng những kỷ niệm riêng tư của
nhau.
Hình như chỉ có một
lần độc nhất, anh hôn em, từ phía sau, bên
dưới mớ tóc, trong dáng đi vội vàng của
em, sau khi vừa đi đâu về. Anh vô tình đụng
tới tâm hồn, thể xác em, khơi dậy ở em, nữ tính,
và anh thấy toàn thân em run rẩy. Và
anh tự nhủ, sẽ chẳng bao giờ, chẳng bao giờ... nữa.
Rồi một lần trong những ngày
Mậu Thân cay nghiệt. Bữa đó khuya, hai đứa ngồi
nơi phòng khách. Trong khi nói chuyện, như
vô tình, hoặc làm như vô tình,
tự nhiên em nói: Anh được tất cả rồi, còn muốn
gì nữa? Thoạt đầu, anh ngạc nhiên, rõ ràng
là anh đâu muốn gì... anh như ú ớ biện
minh với chính mình. Rồi anh hiểu, và anh vô
cùng cảm động. Anh biết, em muốn nói, em thương anh,
vậy là đủ rồi. Như thể em muốn nói một điều thật là
giản đơn, cho nên cũng thật khó hiểu: em trở thành
đàn bà, ngay phút đầu tiên chúng
ta nhìn thấy nhau.
Lần đầu tiên anh cầm tay
em, là bữa đi ciné. Lần đầu, vì hôm sau anh phải
đi Trung Tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ Quang Trung. Em như miễn
cưỡng "chiều" anh. Ở trong rạp, anh cầm tay em, em giật ra.
Bực mình, anh giữ chặt lại. Nghĩ sao, em để yên.
Anh như nghe em nói: thôi được rồi, tui thương ông
đó. Được chưa?
Bao nhiêu năm, anh vẫn thường
tự hỏi, nếu không có những ngày tháng
cay nghiệt đó, anh có thương em nhiều đến như
vậy không.
Anh viết kể từ khi em đọc,
Chữ sao muộn màng so với cuộc đời của
chúng ta.
J'écris depuis que tu me
lis.
Les mots sont en retard sur nos vies. *
Không phải người ta viết
để trở thành nhà văn.
Viết là lặng lẽ trở về với tình
yêu thiếu vắng của tất cả tình yêu.**
Cái phần thiếu vắng, có thể là
tất cả những gì anh đang tự hỏi.
Nguyễn Quốc
Trụ
___________
*Christian Bobin: L’inespérée.
** Christian Bobin: La part manquante.
(1) Lời nhạc, theo Trúc Chi.
LONELY
STREET
Where's
this place called "Lonely Street?"
I'm looking for that lonely street
I've got a sad, sad tale to tell
I need a place to go and weep
Where's this place called Lonely Street?
A place where there's just loneliness
Where dim lights bring forgetfulness
Where broken dreams and mem'ries meet
Where's this place called Lonely Street?
Perhaps upon that Lonely Street
There's someone such as I
Who came to bury broken dreams
And watch an old love die.
A place where there's just loneliness
Where dim lights bring forgetfulness
Where broken dreams and mem'ries meet
Where's this place called Lonely Street?
Where's this place called Lonely Street?
(Song
written by Carl Belew, Kenny Sowder, and W.S. Stevenson
and
performed by Andy Williams)
ARS POETICA
To look at the river made of
time and water
And remember that time is another river,
To know that we are lost like the river
And that faces dissolve like water.
To be aware that waking dreams
it is not asleep
While it is another dream, and that the death
That our flesh goes in fear of is that death
Which comes every night and is called sleep.
To see in the day or in the
year a symbol
Of the days of man and of his years,
To transmute the outrage of the years
Into a music, a murmur of voices, and a symbol,
To see in death sleep, and in
the sunset
A sad gold-such is poetry,
Which is immortal and poor. Poetry
Returns like the dawn and the sunset.
At times in the evenings a face
Looks at us out of the depths of a mirror;
Art should be like that mirror
Which reveals to us our own face.
They say that Ulysses, sated
with marvels,
Wept tears of love at the sight of his Ithaca,
Green and humble. Art is that Ithaca
Of green eternity, not of marvels.
It is also like the river with
no end
That flows and remains and is the mirror of
one same
Inconstant Heraclitus, who is the same
And is another, like the river with no end.
-W.S.M.
J.L. Borges
ARS POETICA
Nhìn dòng sông
dệt bằng thời gian và nước
Bèn ngộ ra thời gian là 1 dòng
sông khác.
Và ngộ thêm ra rằng chúng
mình thì cũng sẽ mất nhau, như
dòng sông
Và khuôn mặt đôi ta rã
ra như là nước
Và để ý rằng thì
là, những giấc mộng thức, thì không phải
là ngủ
Nó là một giấc mộng khác,
Rằng cái chết,
Cái chết mà xác thịt chúng
ta sợ hãi nó,
Là cái chết hàng đêm
chúng ta quen gọi là giấc ngủ.
Là nhìn ra, trong
ngày, hoặc trong năm, một biểu
tượng
Của những ngày của người, và những
năm của nó
Thế là bèn chuyển hóa cơn
giận dữ của những năm
Vào âm nhạc, vào tiếng thì
thầm, vào một biểu tượng
Để nhìn ra trong giấc
ngủ sâu như cái chết, trong hoàng hôn,
Một nỗi buồn vàng – và cái
đó gọi là thơ ca của Miền Nam, là nhạc
sến
Nó thì mới bất tử, và nghèo
nàn làm sao. Thơ
Trở lại như rạng đông và hoàng
hôn.
Có những lúc vào
buổi chiều, một khuôn mặt
Nhìn chúng ta từ những chiều sâu
thăm thẳm của 1 chiếc gương
Nghệ thuật thì như thế đấy,
Như tấm gương đó
Nó vén lên, như 1 em vén
váy, làm lộ ra cho chúng ta,
Bộ mặt riêng của chúng ta
Một bướm đẹp tuyệt trần
Người ta nói là
Anh Cu Gấu,
Chán chường những điều huyền diệu của
tụi mũi lõ,
Và quá tởm Lò Thiêu
Khóc những giọt nước mắt thương yêu
khi nhìn thấy Xề Gòn
Xanh vô cùng, khiêm tốn vô
cùng
Nghệ thuật là Xề Gòn đó
Xề Gòn của Niềm Xanh Vĩnh Cửu.
Đếch phải những huyền diệu, kỳ tích.
Nó cũng là
dòng sông chẳng tận cùng
Trôi đi và ở lại và là
tấm gương của vẫn một
Heraclitus không hằng hằng,
Kẻ vẫn thế,
Và kẻ khác,
Như dòng sông không tận cùng.
The Watcher
The light enters and I remember who I am;
he is there.
He begins by telling me his name which (it
should now be clear) is mine.
I revert to the servitude which has lasted
more than seven times ten years.
He saddles me with his rememberings.
He saddles me with the miseries of every
day, the human condition.
I am his old nurse; he requires me to wash
his feet.
He spies on me in mirrors, in mahogany, in
shop windows.
One or another woman has rejected him, and
I must share his anguish.
He dictates to me now this poem, which I
do not like.
He insists I apprentice myself tentatively
to the stubborn Anglo-Saxon.
He has won me over to the hero worship of
dead soldiers, people with
whom
I could scarcely exchange a single word.
On the last flight of stairs, I feel him
at my side.
He is in my footsteps, in my voice.
Down to the last detail, I abhor him.
I am gratified to remark that he can hardly
see.
I am in a circular cell and the infinite
wall is closing in.
Neither of the two deceives the other, but
we both lie.
We know each other too well, inseparable
brother.
You drink the water from my cup and you wolf
down my bread.
The door to suicide is open, but theologians
assert that, in the subsequent
shadows of the other kingdom, there will I be, waiting for
myself.
Tên canh me
Ánh sáng vô và
tớ nhớ ra tớ là ai, thì hắn có đó.
Hắn bắt đầu nói với tớ, tên của
hắn (thì rõ ràng như thế rồi, vào
lúc này), là của tớ.
Tớ trở lại với công việc cung phụng
vốn kéo dài hơn bẩy lần, mười năm.
Hắn thắng yên tớ, với những hồi nhớ
của hắn
Hắn thắng yên tớ với những khốn cùng
của mọi ngày, tức cái gọi là phận người
Tớ là người vú già của
hắn; hắn đòi hỏi tớ rửa chân hắn
Hắn rình mò tớ qua tấm gương,
trong bàn ăn, trong kính cửa sổ tiệm.
Một hay một người đàn bà khác
phụ rẫy hắn, và tớ phải chia sẻ cơn thống hối của hắn
Hắn đọc thơ của hắn cho tớ nghe,
Biển biếc, bụi biệc gì đó,
Thú thực, tớ đếch thích.
Hắn nài nỉ tớ, hãy tự tập luyện
để là một tên Ăng Lô Xắc Xông cứng
cầu cứng cổ
Hắn có được tớ, nhờ thắng cái
trò thờ phụng anh hùng của những người lính
đã chết, những người mà tớ chưa từng trao đổi,
dù chỉ 1 lời.
Trong chuyến tầu suốt, cuối cùng, tớ
cảm thấy hắn ta ở kế bên
Hắn ở trong những bước chân của tớ,
trong giọng nói của tớ
Cạn láng mà nói, tớ ghê
tởm hắn: Cái Ác Bắt Kít, đích thị
nó đấy!
Tớ thấy may mắn, như được Thượng Đế ban cho
gói quà, ấy là vì, hắn không
nhận ra điều này
Tớ đang ở trong 1 cái xà lim
hình tròn và bức tường vô tận cứ
thế khép lại
Trong hai đứa, đếch có đứa nào
làm thất vọng đứa nào, và cả hai đều nói
dối
Hai đứa rành rẽ nhau quá đỗi,
thứ anh em sống chết có nhau, không thể chia rẽ
Mi uống nước từ ly của ta, và mi ngấu
nghiến bánh mì của ta
[Như chúng nói, Nam Kít nhận họ,
Bắc Kít nhận hàng]
Cánh cửa căn phòng tự làm
thịt mình, thì mở,
Nhưng, như những nhà thần học khẳng
định,
Trong những cái bóng kế tiếp
nhau như thế đó, của vương quốc khác,
Tớ sẽ có đó, chờ đợi chính
tớ.
Câu trả lời hay nhất: Canh me
là nói lái từ cụm từ "canh mé".
Chữ MÉ ở đây mang nghĩa mé sông,
mé biển hay bãi sông bãi biển...
Cụm từ canh me này xuất phát
thời kỳ khoảng 1975-1990 khi có phong trào vượt
biên sốt lên cao độ. Những người có vàng
thì đóng vàng, những người không có
tiền, vàng thì đóng sức. Họ khuân dầu,
dấu người ở bãi .v.v...để được tham dự cuộc vượt biên
miễn phí.
Cũg có thành phần thừa lúc
tối khuya số người ào ạt lên thuyền thì
họ cũng trà trận vào số khách đi miễn phí.
Như thế gọi là canh me!
[net]
|
|