|
SN_GCC_2017
Gấu trong lễ tuyên thệ trở thành
công dân Canada
http://nhilinhblog.blogspot.ca/2016/01/van-chuong-mien-nam-giua-chung.html
Còn lại một việc nữa: văn chương miền Nam đâu có
dừng lại ở năm 1975. Đây mới là điều huyền bí nhất.
Tất nhiên là không thể như vậy được. Giờ, ta cần xác
định, đâu là những cột trụ quan trọng nhất để nói đến
một sự bảo toàn cho di sản văn chương miền Nam. Với tôi, hiển
nhiên không thể là Võ Phiến, nhưng hiển nhiên
phải là các nhân vật từng hết sức quan trọng ở giai
đoạn văn chương miền Nam trước 1975. Họ từng rất quan trọng, nhưng sứ mệnh
chính yếu của họ lại nằm ở đoạn sau 1975, thế cho nên mới khó
hiểu và khó nhìn.
Có ba người quan trọng nhất.
Người thứ nhất là Viên Linh, người ra đi ngay từ
đầu, ngay từ trước thảm họa.
Người thứ hai là Dương Nghiễm Mậu, người đã, ngược
hẳn lại với Viên Linh, không đi đâu hết cả.
Và người thứ ba là người ở giữa, ra đi vào
khoảng giữa. Đó chính là Nguyễn Quốc Trụ.
Thế là cuối cùng tôi cũng đợi đến cái
ngày, ngoài việc được viết về một số người khác,
được nói đến đối thủ lâu năm của tôi, Mr Tin Văn Nguyễn
Quốc Trụ.
Don’t set them up to jail
To become an asylum seeker in Europe is to have overcome adversity. First,
to have survived the dangers in your homeland. Then to have survived the
journey and reached your destination. Only last week, Unicef warned that
women and children were being raped, beaten and starved in Libyan detention
centres. Last year, more than 5,000 migrants died attempting to cross the
Mediterranean, and Balkan countries shut their borders, blocking many who
had hoped to reach northern Europe. To have your claim recognized, and to
become a refugee, is harder still. It means negotiating a complicated system
that often gets it wrong. So refugee status is a mark not only of suffering
but of the ability to withstand it. The attention already given to perilous
journeys, and the populist backlash to the surging numbers of asylum seekers
in Europe over recent years - though arrivals fell in 2016 - now needs to
encompass what happens at their destination. Making a home in a new land
is challenging even for those who move by choice and with plentiful resources.
Now add in trauma and sometimes physical issues too; a language barrier;
skills or qualifications that cannot be transferred. But many of the problems
they face are entirely unnecessary.
How the UK treats those gaining admittance is just as critical as who
we do and don't let in. We have not done our part if we allow them through
the door, but not to make themselves at home. Of Europe's big five nations,
only Italy - handling much larger numbers - treats asylum seekers and refugees
worse than Britain, which is, for instance, the only EU nation to allow
indefinite immigration detention. Asylum seekers are almost never granted
the right to work. Bizarrely, those recognized as refugees are routinely
forced into destitution because they lose existing entitlements and accommodation
before their new benefits and housing have been processed. The "move on"
period is 28 days; the British Red Cross has found it takes an average of
42 days to first payment of benefits, and in some cases far longer.
The UK needs a proper dispersal policy, so asylum seekers are not just
dumped in areas with cheap housing. Allowing them to work - as many European
countries do - would help them to integrate and to support themselves.
Much could be learned from the UK's own Syrian Vulnerable Persons Resettlement
Programme, bringing in those already recognized as refugees. Though it
has its shortcomings, it is better funded and offers integrated support
for 12 months. That has led to a two- tier system, and the challenge should
be to raise up the way that others are treated, not engage in a race to
the bottom. Treating people decently is the right thing to do. It ensures
that they are able to contribute to their new society as soon as possible.
That is better for everyone. Those seeking asylum in the UK have already
succeeded against the odds. Why do we then set them up for failure?
Note: GCC đến
trại tị nạn sau dead line, tức là sau cái ngày được
tự động coi là tị nạn chính trị, và phải trải qua thanh
lọc.
Gửi thư cầu cứu 1 vị nữ văn sĩ, 1 trong 5 vị nổi tiếng số 1 trước 1975,
tại Miền Nam, vị này được 1 đấng Mẽo bệ về Mẽo trước 30 Tháng
Tư chừng ít này, khi thấy tên bà trên măng
xét 1 tờ báo của lực lượng Khiến Chán ở trong trại.
Bà viết thư trả lời, mi đi trễ quá, đi làm khỉ gì
nữa, hết mùa vượt biển rồi - nội dung thư đúng là
như thế - GCC đọc thư, thú thực, chỉ muốn viết thư cho VC, xin được
hồi chánh!
May quá. có được địa chỉ của Nguyễn ông Ngạc, qua
1 vị ở trong Trại.
Viết 1 phát là bạn trả lời liền kèm tý tiền
còm.
Tuyệt vời nhất, là bạn thông báo cho cả 1 lũ ở bên
Mẽo, những Viên Linh, Định Nguyên, chúng phôn
cho vị Chủ tịch Pen Mít ở hải ngoại.
Vị này, cũng nhận được lời cầu cứu qua vị nữ văn sĩ, nhưng nếu
không có lũ bạn bè như Viên Linh, NDN, DN phôn
phiếc, chắc là cũng vờ, vì, khi vị nữ văn sĩ thông báo
với anh, bà vờ luôn địa chỉ ở Trại của Gấu, chán thế.
Anh viết, bà nhờ tôi can thiệp cho 1 kẻ mà chính
bà vờ không cho biết địa chỉ của ông ta, làm
sao tôi can thiệp?
Vị này, viết thư xác nhận GCC là member của PEN/VN
(Ngụy)
Kể như xong được tầng đầu địa ngục!
http://www.tanvien.net/tg4/sach_qui.html
How many languages do you know?
(Anh biết mấy ngôn ngữ?)
Vào năm 1990, do đến trại tị nạn sau "tử điểm", tức là
sau thời hạn được "tự động" coi như là tị nạn chính trị,
tôi phải trải qua thanh lọc, qua đó nhà chức trách
nước tạm dung sẽ quyết định coi đủ tư cách tị nạn chính trị,
hay chỉ là di dân kinh tế.
Thời gian chờ đợi thanh lọc thường trên dưới một năm. Với chúng
tôi, nó còn là thời gian "chạy thuốc": liên
lạc thân nhân ở nước ngoài nếu có, hoặc bạn bè,
cơ quan, đơn vị cũ… để xin tiếp tế và lo giấy tờ xác nhận,
hoặc làm hồ sơ bảo lãnh. Nhân đọc một số báo
(hình như thuộc lực lượng kháng chiến), ở trong trại, thấy
tên nhà văn Trùng Dương, tôi viết thư tới bà,
qua địa chỉ toà soạn.
"Thư của bạn tới tôi sau khi đã đi gần hết nửa vòng
trái đất," bà viết thư trả lời, từ một địa chỉ Hồng Kông,
do đang được học bổng nghiên cứu về Trung Hoa lục địa. Bà than
giùm, "Bạn qua trễ quá!"
Kèm, là thư Nguyễn Ngọc Ngạn (khi đó là chủ
tịch Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại), gửi cho Trùng Dương, "Bạn
nhờ tôi can thiệp cho một ông bạn nào đó, nhưng
lại quên không cho địa chỉ…". Tôi liên lạc. Anh trả
lời, gửi tặng sách (The Will of Heaven, chắc là muốn dặn dò
khéo: hãy cố lo học tiếng Anh!).
Kèm giấy xác nhận. Sau này gặp, anh cho biết, đã
phải nhờ một tờ báo địa phương in giùm, chỉ bốn giấy chứng
nhận, với tiêu đề Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại thật "hách
xì xằng". Bốn tờ xác nhận, cho bốn người, lúc đó
đang ở trại tị nạn. Ở Thái Lan, có Hồ Ông và
tôi. Có thể, việc xác nhận là "bổn phận" của
anh, với tư cách đương kim chủ tịch Văn bút, nhưng cứ nghĩ
đến cảnh anh loay hoay nhờ cậy người này người nọ "vẽ" giùm
cho một "tác phẩm" hách xì xằng như trên, thật
đáng quí.
Tôi gặp Hồ Ông tại trại cấm Sikiew, do anh tới trại trước,
và đã trải qua thanh lọc. Anh dặn tôi, khi đi thanh
lọc, phải "nổ", đừng quá "khiêm tốn". Ngoài tờ giấy
xác nhận củaVăn bút, tôi có thêm được một
tài liệu quí giá cũng chẳng kém: cuốn Hai Mươi
Năm Văn Học Miền Nam , còn có tên thật "nổ" là
Những Truyện Ngắn Hay Nhất Của Quê Hương Chúng Ta, do Nguyễn
Đông Ngạc xuất bản. Trong có hình tôi, và
vài dòng tiểu sử. Cuốn này tôi cũng tình
cờ vớ được ở trong trại. Chủ nhân cuốn sách, một học trò
tiếng Anh của tôi, đã tặng luôn cho thầy, làm
tài liệu thanh lọc.
Phỏng vấn thanh lọc, thường do một sinh viên luật Thái Lan
đảm trách, với một thông dịch viên, một người Việt ở Thái
Lan. Như đa số ở đây, họ có cảm tình với Miền Bắc. Nhà
thường có treo hình ông Hồ. Nhưng cảm tình hay
không cảm tình, nói chung, họ cố dịch trung thực những
gì họ nghe và hiểu được.
Trong cuộc phỏng vấn, có mấy chi tiết thật lý thú
liên quan tới "văn chương" có lẽ cũng nên viết ra ở
đây, để bạn đọc cùng thưởng thức.
Nói chung, thường rất khó mà hiểu được, người phỏng
vấn tin hay không tin, những câu trả lời. Và thường
ra, họ giữ một bộ mặt hết sức khách quan, phải nói là
dửng dưng, lạnh lẽo, suốt buổi hỏi cung. Riêng trường hợp của tôi,
khi nghe tôi nói là nhà văn, anh sinh viên
luật nhìn phần lý lịch ghi trên tờ phiếu cá
nhân trong hồ sơ Cao Uỷ Tị Nạn, và không qua thông
dịch viên, hỏi thẳng bằng tiếng Anh:
-Anh nói anh là nhà văn, nhưng anh viết thứ gì?
Nhớ lời dặn của Hồ Ông, tôi cho tới luôn:
-Tôi viết truyện ngắn, và phê bình văn học.
Anh nhìn lại tờ lý lịch và nói:
-Tôi cho anh nói lại. Ở đây, thấy ghi anh học hết
trung học, có một văn bằng đại học. Anh nói anh làm
thơ, viết truyện ngắn, tôi tin. Nhưng phê bình văn học,
tôi không tin. Tôi cho anh nói lại.
-Tôi mê văn chương từ hồi nhỏ, lại may mắn biết chút
ngoại ngữ, nên có đọc văn chương thế giới, và có
chút khiếu về phê bình văn học.
-Anh học tiếng Anh ở đâu, bao nhiêu năm?
-Tôi học hồi trung học, và sau đó có làm
cho một cơ quan thông tấn nước ngoài.
-Anh nói, anh có chút hiểu biết về ngoại ngữ, anh
biết mấy thứ tiếng?
-Tôi biết ba thứ tiếng.
-Trong này chỉ ghi tiếng Anh?
-Tôi biết tiếng Pháp nữa.
-Như vậy mới có hai, làm sao anh nói ba?
Tới lúc đó, tôi cũng hết còn bình tĩnh,
và hỏi lại:
-Ông quên tiếng mẹ đẻ của tôi ư?
Anh ta chợt mỉm cười.
Tôi nghĩ, trong số những người bị phỏng vấn, có lẽ tôi
là người độc nhất được hưởng một nụ cười như vậy.
5.3.2017 by Richie
Ở cái tuổi 71 G. Steiner tỏ ra khinh
bạc hơn bao giờ hết.
Tớ chỉ là con bọ chét trong bộ lông
sư tử của ông thầy của tớ mà thôi.
GCC
Borges cho rằng, thầy với trò,
"nói 1 cách nào đó", là 1 người.
Gấu cũng tin như vậy.
Đây là ý niệm về Kẻ Kép, được
phóng chiếu, theo 1 đường hướng, hay tình trạng, hay
thời điểm nào đó.
Nhân đang nói chuyện
tình oan nghiệt, nửa kia, nửa khác, tình cờ đọc
bài sau đây, của Borges, thật tuyệt: The Double, trong
"Cuốn sách của những sinh vật tưởng tượng", The Book of Imaginary
Beings.
The Double
Suggested or stimulated by reflections
in mirrors and in water and by twins, the idea of the Double is common
to many countries. It is likely that sentences such as A friend is
another self by Pythagoras or the Platonic Know thyself were inspired
by it. In Germany this Double is called Doppelganger, which means "double
walker." In Scotland there is the fetch, which comes to fetch a man to
bring him to his death; there is also the Scottish word wraith for an
apparition thought to be seen by a person in his exact image just before
death. To meet oneself is, therefore, ominous. The tragic ballad "Ticonderoga"
by Robert Louis Stevenson tells of a legend on this theme. There is also
the strange picture by Rossetti ("How They Met Themselves") in which two
lovers come upon themselves in the dusky gloom of a woods. We may also
cite examples from Hawthorne ("Howe's Masquerade"), Dostoyevsky, Alfred
de Musset, James ("The Jolly Corner"), Kleist, Chesterton ("The Mirror
of Madmen"), and Hearn (Some Chinese Ghosts).
The ancient Egyptians believed
that the Double, the ka, was a man's exact counterpart, having his
same walk and his same dress. Not only men, but gods and beasts, stones
and trees, chairs and knives had their ka, which was invisible except
to certain priests who could see the Doubles of the gods and were granted
by them a knowledge of things past and things to come.
To the Jews the appearance of
one's Double was not an omen of imminent death. On the contrary, it
was proof of having attained prophetic powers. This is how it is explained
by Gershom Scholem. A legend recorded in the Talmud tells the story
of a man who, in search of God, met himself.
In
the story "William Wilson" by Poe, the Double is the hero's conscience.
He kills it and dies. In a similar way, Dorian Gray in Wilde's novel
stabs his portrait and meets his death. In Yeats’s poems the Double
is our other side, our opposite, the one who complements us, the one
we are not nor will ever become.
Plutarch
writes that the Greeks gave the name other self to a king's ambassador.
Kẻ Kép
Ðược đề xuất, dẫn dụ, huých
huých bởi những phản chiếu từ gương soi, từ mặt nước, từ cặp
song sinh, ý tưởng về Kẻ Kép thì thông thuộc
trong nhiều xứ sở. Thí dụ câu này “Bạn Quí
là một GNV khác”, của Pythagore, và cái tư
tưởng Hãy Biết Mình của trường phái Platonic được
gợi hứng từ đó. Trong tiếng Ðức, Kẻ Kép được gọi là
Doppelganger, có nghĩa, “người đi bộ sóng đôi, kép”.
Trong tiếng Scotland thì là từ fetch, cũng có nghĩa
là “bạn quí”, nhưng ông bạn quí này
đem cái chết đến cho bạn. Còn có từ wraith, tiếng
Scottish, có nghĩa là hồn ma, y chang bạn, và bạn
chỉ vừa kịp nhìn thấy, là thở hắt ra, đi một đường ô
hô ai tai!
Thành ra cái chuyện
“Gấu gặp bạn quí là Gấu”, ngồi bờ sông lâu
thể nào cũng thấy xác của mình trôi qua,
quả đáng ngại thật. Ðiềm gở. Khúc “ba lát” bi
thương "Ticonderoga" của Robert Louis Stevenson kể 1 giai thoại về đề
tài này. Bức họa lạ lùng của Rossetti [Họ gặp chính
họ như thế nào, "How They Met Themselves"], hai kẻ yêu
nhau đụng đầu trong khu rừng âm u vào lúc chạng vạng.
Còn nhiều thí dụ nữa, từ Hawthorne ("Howe's Masquerade"),
Dostoyevsky, Alfred de Musset, James ("The Jolly Corner"), Kleist, Chesterton
("The Mirror of Madmen"), and Hearn (Some Chinese Ghosts).
Những người Ai Cập cổ tin tưởng,
Kẻ Kép, the “ka”, là cái phần đối chiếu đích
thị của 1 con người, kẻ đối tác có cùng bước đi,
cùng chiếc áo dài. Không chỉ con người mà
thần thánh, thú vật, đá, cây, ghế, dao,
đều có “ka” của chúng, vô hình, trừ một vài
ông thầy tu là có thể nhìn thấy Kẻ Kép
của những vị thần và được thần ban cho khả năng biết được những
sự vật đã qua và sắp tới.
Với người Do Thái, sự
xuất hiện Kẻ Kép không phải là điềm gở, [tới giờ
đi rồi cha nội, lẹ lên không lỡ chuyến tầu suốt, rồi không
làm sao mà đi được, như Cao Bồi, bạn của Gấu, như Võ
Ðại Tướng, vừa mới chợp mắt tính...
đi, là đã thấy 3 triệu oan hồn
hau háu, đau đáu chờ đòi mạng, thì đi thế
đéo nào được?]. Ngược lại, họ tin đó là
bằng chứng bạn tu luyện đã thành, đạt được những quyền
năng tiên tri. Ðó là cách giải thích
của Gershom Scholem.
Một giai thoại được ghi lại trong
Talmud kể câu chuyện một thằng cha GNV, suối đời tìm hoài
Thượng Ðế, và khi gặp, hóa ra là… GCC!
Trong “William Wilson” của Poe,
Kẻ Kép là lương tâm của nhân vật trong truyện.
Anh ta thịt nó, thế là bèn ngỏm theo. Cũng cùng
đường hướng như vậy, Dorian Gray, trong tiểu thuyết của Wilde, đâm
bức hình của anh ta, và bèn gặp gỡ Thần Chết.
Trong những bài thơ của Yeats, Kẻ Kép là phía
bên kia của chúng ta, kẻ bổ túc, hoàn thiện
chúng ta, kẻ mà chúng ta không, và
sẽ chẳng bao giờ trở thành.
Plutarch viết, người Hy Lạp gọi,
“cái ngã khác”, bằng cái tên, viên
“đại sứ của hoàng đế”.
J.L. Borges
Ông bạn NTV, khi thấy GCC
mê Steiner, phán, mày phải có 1 cái
gì đó của Steiner, nên thầy trò nhận ra
nhau liền, trong khi tao đọc ông ta, từ thập niên 1960 khi
còn Sài Gòn của lũ Ngụy, khi cuốn Ngôn Ngữ
và Câm Lặng vừa ra lò, mà chẳng thấy ghê
gớm 1 tí chó nào cả!
Thầy trò nhận ra nhau, là nhờ Cái Ác
Lò Thiêu & Cái Ác Bắc Kít.
Varga Llosa cũng khen cuốn Ngôn Ngữ và Câm
Lặng, nhưng sau cuốn đó, hết đọc được Steiner, mà ông
gọi là 1 thứ "enfant terrible".
Gấu trong lễ tuyên thệ trở thành
công dân Canada
http://nhilinhblog.blogspot.ca/2016/01/van-chuong-mien-nam-giua-chung.html
Còn lại một việc nữa: văn chương miền
Nam đâu có dừng lại ở năm 1975. Đây mới là
điều huyền bí nhất. Tất nhiên là không thể như
vậy được. Giờ, ta cần xác định, đâu là những cột trụ
quan trọng nhất để nói đến một sự bảo toàn cho di sản văn
chương miền Nam. Với tôi, hiển nhiên không thể là
Võ Phiến, nhưng hiển nhiên phải là các nhân
vật từng hết sức quan trọng ở giai đoạn văn chương miền Nam trước 1975.
Họ từng rất quan trọng, nhưng sứ mệnh chính yếu của họ lại nằm ở
đoạn sau 1975, thế cho nên mới khó hiểu và khó
nhìn.
Có ba người quan trọng nhất.
Người thứ nhất là Viên Linh, người ra đi ngay từ đầu,
ngay từ trước thảm họa.
Người thứ hai là Dương Nghiễm Mậu, người đã, ngược
hẳn lại với Viên Linh, không đi đâu hết cả.
Và người thứ ba là người ở giữa, ra đi vào khoảng
giữa. Đó chính là Nguyễn Quốc Trụ.
Thế là cuối cùng tôi cũng đợi đến cái
ngày, ngoài việc được viết về một số người khác,
được nói đến đối thủ lâu năm của tôi, Mr Tin Văn Nguyễn
Quốc Trụ.
Happy Birthday to U, me-xừ Gấu!
Tks All
Cái ký họa của NTK, là từ cái hình
gửi cho anh, để làm bìa
Nơi người chết mỉm cười 1998
2004
Thơ
Mỗi Ngày
Note:
Tháng Ba, mỗi bài thơ, trong
"thơ mỗi ngày", sẽ được coi như một, cái gì
gì, bi khúc, mộ đài, theo cái nghĩa mà
NL sử dụng, khi viết về thơ TTT!
MILONGA OF THE DEAD MAN
I dreamed it inside this house
in between walls and doors.
God allows man to dream
things that are surely true.
I dreamed it out at sea
among floating islands of ice.
May we be told the rest
by hospitals and tombs.
One of so many provinces
of the interior was his land.
(It is not worth our knowing
that people die in war.)
They took him out of the barracks,
put weapons in his hands
and then gave him the order
to die among his brothers.
He acted with great discretion,
he talked to himself at length.
At one and the same time
they gave him a gun and a cross.
He heard the vain harangues
of the vain generals.
He saw what he'd never seen,
blood on the sandy ground.
He heard the people shouting
Long live! and Let them die!
All he wanted to know
was whether or not he was brave.
He knew it the very instant
the bullet entered his body.
He said I wasn't afraid
as life abandoned him.
His death was a secret victory.
No one should be surprised
that I feel envy and sorrow
for that man's destiny.
-S.K.
J.L. Borges: Poems of the Night
The milonga is a forerunner of the tango,
dating from the 1870's. According to one authority, Ventura R.
Lynch, it was invented by Buenos Aires hoodlums ( compadritos)
as a parody of Negro dances; Vicente Rossi, in his book Cosas
de negros, claims the milonga originated
out on the edges of Montevideo. The first milongas were danced.
[in Jorges Luis Borges Selected Poems 1923-1967]
[Milonga là 1 điệu nhảy đàn anh của
tango]
Milonga của người đàn ông
đã chết
Tớ mơ nó ở bên trong căn nhà
này
Giữa tường, giữa cửa
Chúa cho phép con người mơ
Những điều có thực
Tớ mơ nó ở ngoài biển
Giữa băng giữa đảo
Cầu cho cái còn lại
Thì được kể
Ở nơi nhà thương
Hoặc bên những nấm mồ
Một trong rất nhiều tỉnh lỵ
Là đất cát của hắn ta
(Rằng, cái sự hiểu biết của chúng ta,
Làm người thì phải chết ở nơi trận
tiền
Đường ra trận mùa này đẹp lắm cái
con mẹ gì đó,
Cái đó chẳng đáng kể)
Chúng tóm hắn ta ra khỏi Trung Tâm
Ba Quang Trung
Nhét khí giới vào tay
Ra lệnh mi phải chết
Cùng những kẻ đồng hội đồng thuyền
Tức lũ Ngụy
Hắn hành động 1 cách rất ư là
nghiêm túc
Hắn lèm bèm với chính hắn
Cùng lúc đó
Chúng trao cho hắn 1 khẩu súng và
1 cây thánh giá
Hắn nghe lũ tướng tá Ngụy la lối om xòm
Lũ vô ích, vô tích sự
Hắn nhìn những gì chưa từng nhìn
Máu chảy dài trên cát
Hắn nghe người ta hô, muôn năm, muôn
năm, muốn nằm!
Và, hãy để cho chúng chết!
Tất cả những gì hắn muốn biết
Là,
Mình can đảm
Hay là hèn nhát
Hà, hà!
Thế rồi vào đúng lúc, đúng
lúc, đúng lúc đó
Viên đạn đợp hắn 1 phát
Hắn phán, nè, tao đéo có
sợ, nghe chưa!
Và đời bèn rời bỏ hắn ta.
Cái chết của hắn là một niềm vinh quang
bí mật
Đừng đứa nào làm ra vẻ ngạc nhiên
Rằng Gấu Cà Chớn
Thèm được như hắn ta
Thèm cái số phận được chết kịp
Ở trong cuộc chiến chó đẻ đó!
Về sau này, gần đây, Đặng Tiến
rất tích cực quảng bá bài viết của mình
về Thanh Tâm Tuyền. Nhưng, Đặng Tiến, đã chối bỏ tư cách
nhà phê bình của mình, đâu có
đủ tư cách để bàn về thơ Thanh Tâm Tuyền?
Blog NL
Bó thân về với triều đình
Bài của Thảo Trường về TTT
có chi tiết sai: "Quán cháo lú" là
truyện của Lê Văn Siêu in trên ST số 1, chứ không
phải của Vũ Khắc Khoan.
NL .
Tks.
TT/NQT
*
Ngoài ông Đặng Tiến, có chị Thụy
Khuê đã viết về "Cấu trúc thơ Thanh Tâm
Tuyền", nhưng những ý tưởng cuả GNV thì khác
hai người trên, ông nói về chất "nam tính",
những "dự cảm" tai ương hay "báo bão" cho một sự sụp
đổ... rất hay và rất đúng (theo cách nhìn
của … [tôi]. Cũng như có độc giả đã cho rằng họ cảm
ra được cái dự cảm, báo bão cho một toàn
cầu hoá trong "Amers" của St. John Perse.
Đó không chỉ là tài hoa văn chương, mà
còn là cái tầm nhìn, cái mũi của loài...
"cô độc" (chẳng biết dùng từ gì, nên tôi
phang đại vậy), như Xuân Diệu "nghếch mũi lên trên
trăm triệu năm / thở lại những mùa xuân cũ" chơi, những
khi ông ta quá oải (tôi đoán mò vậy)…
[...]
Sau
này, khi có ai học thơ TTT, muốn trích dẫn
ông, họ không có nguồn để dẫn. Sách là
nguồn dẫn, không ai lại nói "theo ông GNV ở trang
web Tin Văn (nay đã không còn), Thanh Tâm Tuyền
là một cánh chim báo bão", ví dụ.
Tks. NQT
TTT thực sự không có bạn. Trong đám
ST, ông chỉ thân với Ngọc Dũng, nhưng ND không
phải là nhà văn.
Sau này, ông thân với Đinh Cường, cũng
họa sĩ, tuy viết lách làm thơ lai rai.
Khi DC nằm xuống, Gấu tính đi 1 đường thật dài
về ông, cùng lúc đọc Walser, cuốn Nhìn
Tranh, trên.
GCC cũng không có bạn.
Nhưng lại có những vị bằng hữu hiểu Gấu hơn cả
Gấu hiểu Gấu, và đều là những vì nữ lưu, và
đều dân Huế cả.
Chưa kể vị Dã Viên, đực rựa, Huế.
Vị này hiểu Gấu, khác hai vị kia.
Hai vị Huế hiểu Gấu, có gì tương tự với
Bà Trẻ của Gấu.
Bà Trẻ của Gấu có lần nhận xét, mi
tu được đấy, thực phẩm trần gian không màng, nhưng lại
lụy vì tình!
Note: Nói tới Huế, tình cờ đọc mấy câu
thơ của CTC
của những ngày mưa mọc lên từ đất
có ai buồn bỏ Huế ra đi
nghe dòng sông thở giữa đêm hè
nghe đá nổi rùa kêu trong từng khúc
ruột.
Thương cả hai người, em với bóng
chiều vàng nghiêng nón lá qua sông
để giọng hò em mát mái xuôi dòng
người ta đã xây bến đò Thừa Phủ.
người ta đã xây bến đò
Thừa Phủ.
Đây là câu thơ 'hiện thực', nhưng "không
có không được", nó "đảm bảo" cho những hình
ảnh ở trên.
Theo nghĩa của Lukacs, khi viết về "ý thức tiểu thuyết
gia vượt ý thức nhân vật", để tìm lại đời sống thực,
đời sống mất đi tìm lại được.
Đám "tiểu thuyết mới", theo đó, định nghĩa: Đọc,
là treo lửng thời gian. Là "tạm ngưng" sống.
Cũng theo nghĩa đó, Nabokov gọi, mỗi cuốn tiểu thuyết,
là một câu chuyện thần tiên.
Đọc, là lạc vào thế giới đó.
Đọc đến câu chót, là lúc Lưu Nguyễn
về trần!
Câu thơ cuối, người ta đã xây bến đò
Thừa Phủ, đẩy những hình ảnh, cảm xúc, "thương cả
hai người", "chiều vàng nghiêng nón".... lên
đến đỉnh cao của chúng.
*
Trong bài thơ Dạ Vũ Ký Bắc, chẳng hạn,
ước muốn - gặp lại bạn, kể cho bạn nghe, về cái đêm mưa
- đảm bảo bài thơ:
Hà đương cộng tiễn tây song chúc,
Khước thoại Ba Sơn dạ vũ thì
Dạ Vũ Ký Bắc
Theo nghĩa đó, câu kết thúc Bếp Lửa,
nghe rất cải lương, nhưng lại rất ư thực, rất ư cảm động, ấy là
vì, không gian, khí hậu, nội dung câu chuyện
- 'miêu tả không khí Hà-nội trước 1954; đi
và ở đều là những chọn lựa miễn cưỡng, chia lìa hoặc
cái chết': Thơ giữa Chiến Tranh và Trại Tù - đảm bảo
nó:
Anh yêu quê hương vô cùng và
anh yêu em vô cùng.
Đây là phần đảo của "định lý" Lukacs.
Thuận: Nếu cả cuốn sách là ảo, thì câu
cuối phải là thực.
Đảo: Câu chót ảo, cải luơng, thì cả cuốn
sách phải thực.
Cái cải lương mùi mẫn này là 'evidence',
chứng cớ, đảm bảo, những suy nghĩ, hành động, nỗi đau, cái
ý thức khốn khổ... của những nhân vật trong Bếp
Lửa, là có thực.
Bài viết Bếp Lửa trong văn chương, trong số Văn
đặc biệt về Thanh Tâm Tuyền [1973], là dựa trên "định
lý" Lukacs, trong Lý Thuyết về Tiểu thuyết, La Théorie
du Roman, như được tóm tắt ở trên. (1)
Vào thời điểm đó, người viết không thể
nào cảm nhận ra được, câu văn chót kết thúc
Bếp Lửa, lại là tiếng nói của những
người Việt lưu vong, vọng về trong nước:
Anh yêu quê hương vô cùng và
anh yêu em vô cùng.
Câu nói đó, là của bao nhiêu
năm sau này, của bao nhiêu con người đã sống sốt
cuộc chiến, sống sót cuộc bỏ chạy, sống sót biển cả, sống
sót cuộc hội nhập nơi xứ người - như tiếng chuông xe đạp
leng keng - vọng về Quê Nhà.
-Nghe thấy rồi!
P.V. DỞM
(1) "Định lý" Lukacs: "Con đường tận cùng, cuộc
hành trình bắt đầu" (Le chemin est fini, le voyage est
commencé).
Lưu vong và Tiểu thuyết
http://www.tanvien.net/Notes_2/souvenir_4.html
Sunday, January 11, 2009 11:43 PM
Re:
Cam on anh Tru .
Sau mấy năm rồi, cũng
vẫn câu hỏi cũ : Làm sao mà vừa đọc, vừa viết, vừa
chăm cháu ngoại, vừa nói chuyện với bạn bè được,
hay quá .K thì chỉ đọc (internet) và xem là
nhiều . Vừa xem lại "The Road Home" của Trương Nghệ Mưu , vẫn thấy đây
là phim tàu hay nhất, dù không vĩ đại . Chỉ
có tình là vĩ đại thôi .
*
Chỉ có tình
là vĩ đại thôi. Mà cứ phải mấy anh Tầu, mới vĩ đại.
Tây Mẽo không bằng. Hồi ở VN tôi có đọc một
cuốn sách dịch chuyện tình Tầu. Chuyện nào cũng hay.
Có một chuyện, về một anh học trò nhà quê,
lên thành đô học, mê một em trong xóm, chuộc
em ra. Rồi bố mẹ bắt về, trên đường về đi ngang thuyền một anh lái
buôn. Anh này thấy cô vợ đẹp quá bèn dụ
anh chồng đánh bạc, thua, cho vay, thua tiếp, phải bán vợ.
Cô vợ, vào lúc sang thuyền khác, bèn mở
mấy cái rương bạn bè trong xóm tặng ra, hoá
ra toàn kim cương, hột xoàn, và cứ từ từ thả xuống
sông, rồi thả mình theo.
Có một lời bàn,
đẹp thế, sao ngu thế, chọn đúng thằng cực kỳ khốn nạn mà
theo!
Chuyện hơi giống chuyện
nàng Tuấn Khanh [hay Thiếu Khanh?], trong Truyền Kỳ Mạn Lục.
Nhưng chuyện TK có hậu hơn, anh chồng hối hận, lo nuôi con,
cô vợ sau thành thần, về gặp lại chồng, trong mộng, tất
nhiên, khuyên theo phò Lê Lợi.
*
Chuyện
tình Mít kể, đương thời, thì có NNT. Truyện
số 1 của nữ văn sĩ “miệt vườn, đặc sản Miền Nam”, là
Một Mối Tình.
Truyện ngắn mới nhất,
Có con thuyền đã buông
bờ Lâu rồi mới viết chuyện tình mà
chẳng hay ư? Chuyện tình lồng trong chuyện tình, lồng
trong chuyện tình. Cái cô Bê phải có
một mối tình lớn, vì nó mà bỏ xứ mà
đi, và mối tình trắc trở này chắc là mắc mớ
tới một người đàn ông có vợ, và bị vợ bỏ chạy
theo thằng khác [đây là "mô típ đặc sản"
của NNT, như trong Một Mối Tình, trong Cánh Đồng Bất Tận].
nếu không, cô không để ý tới anh chàng
có đứa con bị sốt], rồi còn mối tình thương hại anh
học trò em trai cô chủ nữa.
Thú thực, viết như thế, thì Gấu này phải
chịu là Thầy!
Đặc sản Miền Bắc thì có em Phương, trong Nỗi
Buồn Chiến Tranh, chửi anh Kiên, Yankee mũi tẹt, mày ngu
quá, đâu còn đêm nào như đêm nay….
Hay em trong Trăng Goá, do sặc sụa mùi nước đái tại
Ga Hàng Cỏ khi tiễn Yankee vào Nam chiến
đấu mà nhận lời cầu hôn Thủ Trưởng, hay anh cu Sài
của Nê Nựu, Đảng bảo lấy ai thì lấy người đó!
Truoc khi di cho+i thi
cho hoi mot cau: "Vi sao giay phut uong ruou dau tien trong cuoc doi
cua cac van si - nhat la van si VN - la giay phut quyet dinh cho cuoc
doi ruou cua ho sau nay. Yeu to nao lam ho di vao con duong ruou: ban be,
co^ do+n, thie^u hu+ng...?"
Being
drunk is what separates us from the beasts
Uống rượu là
để phân biệt người khác thú.
Jeremy Clarkson
Sực nhớ
chữ cổ nhân bỉnh chúc.
Cao Bá Quát
Take care. NQT
Trong bài viết tưởng niệm Koestler,
La Morte d'Arthur, Steiner coi "drink", là 1 password khác,
trong những "intimates" của ông, trong khi từ "friend", bị gạt
bỏ.
Chess, cờ, OK.
Nhớ, lần đầu tiên tới khách
sạn Cửu Long, thăm Thanh Nam, khi còn độc thân. Đi với
ông anh vợ hụt, anh của BHD. Mang theo chai cordon bleu. Thanh
Nam hình như chỉ chạm môi 1 lần. Còn lại, là
hai tên làm sạch. Bữa sau, cả Sài Gòn biết
tài uống của GCC. Thanh Nam thực sự phục. Ông nói
với TTT, rồi nói với Phạm Đình Chương. Ông này
nói với Nguyễn Hoạt, ông anh rể của GCC. Ông nói
lại với bà vợ, thằng em của bà bây giờ nổi tiếng "phong
nhã" trong chốn
giang hồ rồi!
http://www.tanvien.net/Tribute_1/Koestler_by_Steiner.html
Nhập nước Pháp, như là
một kẻ xa lạ chẳng ai mời, vào năm 1939, Koestler bắt đầu viết
Bóng đêm giữa ban ngày,
cuốn sách nổi cộm nhất của ông, và, mặc dù
viết trên 30 cuốn sách, với đa số, ông chỉ là
tác giả của chỉ một tác phẩm. Bóng đêm
vén màn cho độc giả Tây Phương nhìn thấy thành
đồng chế độ, những cây cột trụ tâm lý của độc tài
CS. Vào năm 1944, Koestler hiểu rằng người Nga sẽ kiểm soát
phía đông Âu châu của Berlin, sau chiến tranh.
“Chỉ trong hai năm, nó sẽ là một diễn dịch tự nhiên,”
ông viết trong nhật ký. “Nếu tôi la lớn lên
điều này, chẳng ai tin, và tôi có thể bị tống
vô nhà thương điên”. Ông trở thành cây
trụ cột của Hội nghị vì Tự do Văn hóa được thành
lập bởi bàn tay lông lá của Xịa, vào năm 1950,
để chống lại tuyên truyền và ảnh hưởng của Xô Viết.
Tranh cãi sau đó liên quan tới hội nghị, là,
liệu đám trí thức, khi khởi sự có biết gì về
nguồn tiền trợ cấp. Scammell, tay viết tiểu sử Koestler nghĩ, không.
Washington,
bằng mọi giá, sẽ không giúp Koestler. Vào lúc
đó, Scammell nhận xét, như nhìn rõ tim đen của
Mẽo, “Xịa không muốn Chống Cộng ra mặt. Kín đáo, OK”.
Mít chúng ta, đọc tới đây, là bèn
nghĩ tới tờ Sáng Tạo, và nguồn tiền trợ cấp của Mẽo,
trao cho Mai Thảo. Và cũng bèn tự hỏi, liệu mấy ông
kia, có biết không?
Chắc không. Nguyên Sa, biết, nhưng không
phải lúc thoạt đầu, mà sau đó, chắc là do
MT xì ra, và khi xẩy ra đụng độ với TTT, NS tố nhóm Sáng Tạo
nhận tiền của Xịa.
Cái sự kiện, TTT ‘không được ưa’ ở NS, và
luôn cả ở MT, có thể là do ảnh hưởng của ông
đối với đám viết lách liền sau ông, là
HPA, NDD..., và Gấu.
Ông cùng đọc những cuốn sách với họ.
Hoặc hiểu họ.
Và, tất nhiên, cũng đi lính như họ.
Mai Thảo không đọc sách,
nếu có, thì chỉ tới Sagan là hết. Đó là
sự thực. Ông rành tiếng Tây, nhưng để đọc được
đám hiện sinh, thí dụ, không phải cứ giỏi tiếng
Tây. Gấu đã từng có kinh nghiệm này rồi,
với ông anh Hiếu Chân. Một bữa, ông phán, mày
đưa tao thử đọc cuốn La Nausée coi. Đọc
chưa hết mấy trang đầu, ông đã vứt trả lại, phán,
tao không hiểu được, tại sao tụi mày lại mê cuốn
đó. Có ra cái gì đâu!
Mai Thảo đã từng dịch Sagan, Cô có
thích Brahms? Đăng từng kỳ trên tờ Điện Ảnh, khi làm
tổng thư ký cho tờ tuần báo này.
Mai Thảo không chịu nổi văn của Gấu. Chính ông
đã từng nói ra, khi còn Sài Gòn,
và sau này, khi ông đang nằm viện chờ đi, qua NMG
cho biết, khi đem bài tạp ghi của Gấu viết về ông vô
cho ông đọc, cũng là một cách "ai điếu". Người gật
gù, "bây giờ nó viết, được!"
*
Trong cuốn Kẻ Lạ ở Quảng Trường, Koestler dành
một chương cho Hội nghị Tự Do Văn Hóa, và tiền tài
trợ của Xịa. Nhưng, trước khi nói chuyện tiền bạc, chúng
ta nói về cuộc tình chót đời của ông, với cô
thư ký Cynthia Jefferies. Khi họ quyết định cùng chết,
K 77 tuổi, đủ thứ bịnh tật; Cynthia 55, hoàn toàn khỏe mạnh.
Cái note của K. khi chết để lại mới thú:
To Whom It May Concern:
‘It is to her that I owe the relative peace and happiness
I enjoyed in the last period of my life-and never before’
“Tôi nợ nàng sự thanh thản tương đối và
hạnh phúc tôi được hưởng vào khúc chót
của cuộc đời - trước đó, tôi chẳng hề có”
Đúng, như "K" phán,
trên đời này, chỉ có tình là đáng
kể, và tình thật đẹp là tình thật sến,
theo Gấu!
Đẹp tới đâu sến tới đó.
Cái cảnh anh cu Gấu chạy theo em khóc nức nở
nơi cổng trường Đại học Khoa học Sài Gòn mà chẳng
sến ơi là sến sao?
Cái chai cordon bleu cũng có nguyên
uỷ của nó.
Của 1 anh Mẽo già, cực mê Dì Tám,
của Cô Mai, trong Những Ngày Ở Sài Gòn.
Dì Tám, thì là bồ nhí của ông
trưởng đài VTD, số 5 PDP Saigon. Khi ông bị mìn VC,
cùng với Gấu tại Mỹ Cảnh, cô khóc quá, mọi người
mới biết. Anh Mẽo già, mê cô quá, vô PX
Mẽo mua đủ thứ quà cho cô, nào thuốc lá, nào
rượu, cô nhận, cho Gấu hết. Gấu mê cô lắm, nhất là
tiếng cười của cô, trong vắt, không gợn một chút bụi.
Thời gian cô hết còn làm trên Đài, và
được đưa về Trung Tâm Bưu Điện ở công trường Kennedy, Gấu thường
đợi cô tan sở rồi đi thương xá TAX, thường là để mua
quà cho BHD.
Đầm đìa kỷ niệm, là vậy.
http://www.tanvien.net/New_Poems_Folder/NTST_Poems.html
Câu thơ "Có cô thiếu nữ qua Givral"
thì lại làm nhớ, lần đưa "cô bạn" và mấy
đứa em của cô vô đây.....
TAX, thì cũng đầm đìa kỷ niệm....
Phải mất 1 đêm trắng, thì Gấu mới nhớ ra được tên
của Dì Tám của Gấu. Cô Phụng. Cuộc tình này
cũng rất ư là thê lương, chấn động suốt 1 cõi Bưu Điện,
hà hà!
Cái vụ cô, và tất cả nữ điện thoại viên
trên Đài bị đưa xuống Trung Tâm BD ở quảng trường Kennedy,
là do tay kỹ sư Phương đề nghị với Tổng Giám Đốc Bưu Điện,
là Nguyễn Văn Điều, cũng 1 ông thầy dậy Gấu ở trường Quốc
Gia Bưu Điện. Tay Phương này, kỹ sư học ở Tây về, chẳng biết
1 tí gì về kỹ thuật, mỗi lần lên Đài, là
1 lần ông truởng đài TBT, sếp trực tiếp của GCC tìm
cách lánh mặt. Nhân cái vụ cô Phụng khóc,
bèn xúc hết xuống Bưu Điện chính.
Gấu, nhớ cô quá, vừa mới tháo “platre” do vụ ăn
mìn VC, nghe cô than, cái headfone của cô ở
dưới đó quá tệ, thế là Gấu bèn đem cái
cô vẫn dùng xuống.
Cũng đâu có dễ vô phòng làm việc
của cả 1 binh đoàn nữ điện thoại viên. Và viên
trưởng phòng xuất hiện, đích thân đưa Gấu vô,
thì Gấu bèn ngồi kế bên cô, suốt 1 buổi, chỉ
để ngắm cô, đếch thèm nhìn 1 ai!
Chúng bèn báo cáo với bà vợ của
ông Thạch.
“Cas” tối bữa đó, ông Thạch gọi, này, mày
nói chuyện với vợ tao, cho bà biết, tao đâu có
kêu mày xuống gặp cô Phụng...
Ui chao, lần gặp lại vợ chồng ông trưởng đài ở Quận Cam,
bả còn nhắc, về Sài Gòn, có gặp cô Phụng
cả hai anh em cùng mê không...
Không gặp.
Tránh không gặp, đúng hơn, dù có
dịp.
Hưỡn hưỡn, kể tiếp.
Poems
July 6, 2009 Issue
A Dream
By Jorge Luis Borges
http://www.newyorker.com/magazine/2009/07/06/a-dream-3
In a deserted place in Iran
there is a not very tall stone tower that has neither
door nor window. In the only room (with a dirt floor and shaped
like a circle) there is a wooden table and a bench. In that circular
cell, a man who looks like me is writing in letters I cannot understand
a long poem about a man who in another circular cell is writing
a poem about a man who in another circular cell . . . The process
never ends and no one will be able to read what the prisoners write.
(Translated, from the Spanish,
by Suzanne Jill Levine.)
Tại 1 nơi hoang
tàn ở Iran, có 1 cái tháp không cao
cho lắm, không cửa ra vào, không cửa sổ.
Ở căn phòng độc nhất (sàn tròn tròn,
dơ dơ), có 1 cái bàn gỗ, 1 cái băng
ghế. Trong cái xà lim tròn tròn đó,
một người đàn ông trông giống Gấu, đang ngồi
viết, bằng 1 thứ chữ Gấu không đọc được, một bài thơ dài
về 1 người đàn ông ở trong 1 xà lim tròn
tròn khác đang viết một bài thơ về một người đàn
ông ở trong 1 xà lim tròn tròn khác…
Cứ thế cứ thế chẳng bao giờ chấm dứt và chẳng ai có thể
đọc những tù nhân viết cái gì.
DREAMS
My physical body may be in Lucerne, in Colorado or in Cairo, but each
morning when I awake, when I once again take on the habit of being Borges,
I invariably emerge from a dream which takes place in Buenos Aires. Whether
the dream-images involve sierras, or swamps with stilt huts, spiral staircases
sunk in cellars, sand dunes whose grains of sand I must perforce count,
all of them are a particular cross street in Buenos Aires: in the Palermo
or Sur quarter. When I am sleepless I am always at the center of a vague luminous
haze, gray or blue in hue. Asleep, in my dreams, I see or converse with the
dead. None of these things surprises me in the least. I never dream in the
present but only of a past-tense Buenos Aires, and of the galleries and skylights
of the National Library on Mexico Street. Does all this mean that beyond
the limits of my will and consciousness I am, irreparably, incomprehensibly,
a porteiio, a native-born descendant of the people of the port of Buenos
Aires?
-A.K.
J.L. Borges: Poems of the Night
IN PRAISE OF DARKNESS
Old age (the name that others
give it)
can be the time of our greatest bliss.
The animal has died or almost died.
The man and his spirit remain.
I live among vague, luminous shapes
that are not darkness yet.
Buenos Aires,
whose edges disintegrated
into the endless plain,
has gone back to being the Recoleta, the Retiro,
the nondescript streets of the Once,
and the rickety old houses
we still call the South.
In my life there were always too many things.
Democritus of Abdera plucked out his eyes in order to think:
Time has been my Democritus.
This penumbra is slow and does not pain me;
it flows down a gentle slope,
resembling eternity.
My friends have no faces,
women are what they were so many years ago,
these corners could be other corners,
there are no letters on the pages of books.
All this should frighten me,
but it is a sweetness, a return.
Of the generations of texts on earth
I will have read only a few-
the ones that I keep reading in my memory,
reading and transforming.
From South, East, West, and North
the paths converge that have led me
to my secret center.
Those paths were echoes and footsteps,
women, men, death-throes, resurrections,
days and nights,
dreams and half-wakeful dreams,
every inmost moment of yesterday
and all the yesterdays of the world,
the Dane's staunch sword and the Persian's moon,
the acts of the dead,
shared love, and words,
Emerson and snow, so many things.
Now I can forget them. I reach my center,
my algebra and my key,
my mirror,
Soon
I will know who I am.
Borges: Poems of
the Night
Ngợi Ca Bóng Đêm
Tuổi
già (những người khác gọi như thế)
Có thể là lúc cực sướng của chúng ta
Con vật chết, hoặc hầu như chết.
Con người và tinh anh của nó, còn.
Tớ sống giữa những hình bóng lơ tơ mơ, mù
mờ, sang sáng
Chưa phải là bóng đêm.
Buenos Aires
những vùng rìa của nó rã ra, lẫn vào
đồng bằng vô tận
trở lại, trở thành Recoleta, Retiro,
những con phố khó tả, không thể phân loại, của
Có Một Thời [Sài Gòn Của Gấu]
và những căn nhà cũ kỹ, ọp ẹp
mà chúng ta vẫn gọi là Miền Nam
Trong đời tớ, luôn có rất nhiều điều.
Democritus of Abdera móc mắt ra để suy nghĩ:
Thời gian là Democritus của tôi.
Vùng nửa tối thì chậm và không làm
tớ đau;
Nó trườn xuống một triền dốc êm ái
giống như là vĩnh cửu,
Bạn bè của tớ thì không mặt
Đàn bà thì vưỡn là đờn bà như
từ bao nhiêu năm,
những góc này cũng có thể là những
góc khác
Chẳng có 1 con chữ nào trên những trang sách
Tất cả những trò đó có thể làm tớ sợ,
Nhưng đúng là 1 sự dịu dàng, một sự trở lại.
Về những thế hệ của những bản văn trên trái đất
Tớ sẽ chỉ đọc tí tí - những bản văn tớ đọc trong
hồi ức của mình,
đọc và chuyển hóa.
Từ Nam, Đông, Tây, và Bắc
Những con đường tụ hội và dẫn tới trung tâm bí
mật của tớ.
Những con đường đó là tiếng vang và tiếng
bước chân,
đàn bà, đàn ông, những nỗi thống khổ
chết chóc, những tái sinh,
những ngày và những đêm
những giấc mộng, và những chập chờn, nửa mộng nửa thức
mọi khoảnh khắc sâu thẳm của ngày hôm qua
và của tất của những ngày hôm qua của thế giới
cây gươm vững chắc của Dane và vầng trăng Persian
những hành động của những người chết
tình yêu chia sẻ, và những từ ngữ
Emerson và tuyết, rất nhiều thứ
Bây giờ tớ có thể quên chúng. Tớ tới
trung tâm của tớ
môn đại số của tớ và chìa khoá của tớ,
tấm gương của tớ
Chẳng mấy chốc, tớ biết tớ là ai.
II
Ash on an old man's sleeve
Is all the ash the burnt roses leave.
Dust in the air suspended
Marks the place where a story ended.
Dust inbreathed was a house-
The wall, the wainscot and the mouse.
The death of hope and despair,
This is the death of air.
Tro ở tay áo tên Gấu Già
Là tất cả những gì còn lại của BHD
[Cái gì gì, tàn hôn lên môi]
Bụi lơ lửng nơi quán xưa (1)
Đánh dấu câu chuyện tình của Anh Cu Gấu ngày
nào chấm dứt
[Cái gì gì, như người xưa đánh rớt cây
gươm xuống lòng sông
Bèn ghi dấu nơi mạn thuyền,
Chàng trở lại quán xưa
Tìm dấu giầy trên lớp bụi thời gian
Và tiếng cười của nàng vẫn còn vang vọng đâu
đây]
(1)
http://www.tanvien.net/sangtac/st_lan_huong.html
Khi đến nơi hò hẹn thường lệ, thấy chàng say mê
nhìn một bà cụ già đang lúi húi bầy
hàng bên lề đường, dưới mái hiên căn nhà
bên cạnh tiệm cà phê bình dân. Những gói
thuốc lá từ từ choán đầy khung kính, những gói
kẹo buộc thành túm treo lòng thòng trên
sợi dây, một cây nhang dài cắm bên thùng
kính, buổi trưa đi học về thấy còn khoảng một nửa, một cái
mẹt trên lăn lóc vài trái ổi, cóc, mận...
Chàng đang làm quen buổi sáng sớm vừa bắt đầu cùng
với tiếng chén đĩa trong quán cà phê vọng ra,
tiếng người nói lao xao, vài tiếng ho thúng thắng....
Chàng ngẩng đầu lên nhìn tôi vẫn còn đứng
bên này đường, và tôi biết chàng sẽ mỉm
cười, một phần nụ cười dành cho tôi, phần còn lại là
của buổi sáng sớm.
....
V
What we call the beginning is often the end
And to make an end is to make a beginning.
The end is where we start from. And every phrase
And sentence that is right (where every word is at home,
Taking its place to support the others,
The word neither diffident nor ostentatious,
An easy commerce of the old and the new,
The common word exact without vulgarity,
The formal word precise but not pedantic,
The complete consort dancing together)
Every phrase and every sentence is an end and a beginning,
Every poem an epitaph. And any action
Is a step to the block, to the fire, down the sea's throat
Or to an illegible stone: and that is where we start.
We die with the dying:
See, they depart, and we go with them.
We are born with the dead:
See, they return, and bring us with them.
The moment of the rose and the moment of the yew-
Are of equal duration. A people without history
Is not redeemed from time, for history is a pattern
Of timeless moments. So, while the light fails
On a winter's afternoon, in a secluded chapel
History is now and England.
T.S. Eliot: Little Gidding [from Four Quartets]
Cái mà chúng ta gọi là
bắt đầu, thường là tận cùng
Và làm 1 cú chấm dứt là làm 1
cú bắt đầu
Tận cùng - cú xém chết ở PLT - là nơi
chúng ta khởi đầu từ đó
Mọi bài thơ thì đều là mộ chí
Chúng ta sinh ra với những người đã chết
Lament for the makers: Khóc
người làm thơ
ROBERT FROST
NEITHER OUT FAR NOR IN DEEP
The people along the sand
All turn and look one way
They turn their back on the
land.
They look at the sea all day.
As long as it takes to pass
A ship keeps raising its hull;
The wetter ground like glass
Reflects a standing gull.
The land may vary more;
But wherever the truth may be-
The water comes ashore,
And the people look at the sea.
They cannot look out far.
They cannot look in deep.
But when was that ever a bar
To any watch they keep?
Không xa mà cũng chẳng sâu
Ném mẩu thuốc cuối cùng
xuống dòng sông
Mà lòng mình phơi trên kè đá
TTT
Đám người dọc theo cát
Tất cả quay và nhìn một phía.
Lưng xoay vô đất
Mắt nhìn biển cả ngày.
Con tàu dâng thân
lên
Chừng nào nó đi qua
Thân tầu, lóng lánh như mặt gương,
Phản chiếu một hải âu đứng sững.
Đất có thể tang thương
như thế nào
Một khi sự thực thì như thế nào đó –
Nước vẫn tạt vô bờ
Và mọi người nhìn ra biển
Họ không thể nhìn
xa
Họ không thể nhìn sâu
Nhưng liệu có 1 cái kè đá nào
Cho bất cứ 1 cái nhìn mà họ giữ?
Ui chao đọc bài thơ này,
thì bèn nghĩ liền đến bài thơ của Gấu!
Biển
http://www.tanvien.net/new_daily_poetry/29.html
Bài thơ sau đây, tưởng niệm tháng ba
- giỗ lần thứ 11 ông anh nhà thơ - tháng tư (giỗ
giỗ giỗ 30 tháng tư) - quá đau, quá đã!
Ông anh của GCC cũng là 1 cao thủ cờ tướng.
RICARDO REIS
I've heard that once, during I don't know
What war of Persia,
When invaders rampaged through the City
And the women screamed,
Two chess players kept on playing
Their endless game.
In the shade of a leafy tree they stared
At the old chessboard,
And next to each player was a mug of wine,
Solemnly ready
To quench his thirst in the moments when,
Having made his move,
He could sit back and relax, waiting
On his opponent.
Houses were burning, walls were torn down
And coffers plundered;
Women were raped and propped against
The crumbling walls;
Children, pierced by spears, were so much
Blood in the streets ...
But the two chess players stayed where they were,
Close to the city
And far from its clamor, and kept on playing
Their game of chess
Even if, in the bleak wind's messages,
They heard the screams
And, upon reflection, knew in their hearts
That surely their women
And their tender daughters were being raped
In the nearby distance,
Even if, in the moment they thought this,
A fleeting shadow
Passed over their hazy, oblivious brows,
Soon their calm eyes
Returned with confident attention
To the old chessboard.
When the ivory king's in danger, who cares
About the flesh and blood
Of sisters and mothers and little children?
When the rook can't cover
The retreat of the white queen, what
Does pillaging matter?
And when with sure hand the opponent's king
Is placed in check,
It hardly concerns one's soul that children
Are dying in the distance.
Even if the infuriated face
Of an invading warrior
Should suddenly peer over the wall and cause
The solemn chess player
To fall right there in a bloody heap,
The moment before that
Was still devoted to the favorite game
Of the supremely indifferent.
Let cities fall and people suffer,
Let life and freedom
Perish, let secure, ancestral properties
Be burned and uprooted,
But when war interrupts the game, make sure
The king's not in check
And the most advanced of the ivory pawns
Is ready to redeem the rook.
My brothers in loving Epicurus
And in understanding him
More in accord with our view than with his,
Let's learn from the story
Of the impassive chess players how
To spend our lives.
Let serious things scarcely matter to us
And grave things weigh little,
And let the natural drive of instincts yield
To the futile pleasure
(In the peaceful shade of the trees)
Of playing a good game.
Whatever we take from this useless life,
Be it glory or fame,
Love, science, or life itself,
It's worth no more
Than the memory of a well-played game
And a match won
Against a better player.
Glory weighs like an overlarge burden
And fame like a fever,
Love wearies, for it ardently searches,
Science never finds,
And life grieves, for it knows it is passing ...
The game of chess
Completely absorbs one's heart but weighs little
When lost, for it's nothing.
Ah, in the shade that unconsciously loves us
And with a mug of wine
At our side, intent only on the useless
Effort of the chess game,
Even if the game is only a dream
And we have no partner,
Let's do as the Persians of this story:
Wherever out there,
Near or faraway, war and our country
And life are calling us,
Let them call in vain, while we dream
In the friendly shade
Of our partners, and the chess game dreams
Of its indifference.
1 JUNE 1916
FERNANDO PESSOA: A LITTLE LARGER THAN THE ENTIRE
UNIVERSE
Cao Thủ Cờ Tướng
Tôi nghe nói, trong 1 cuộc chiến ở Persia,
cuộc chiến nào tôi không rõ,
khi những kẻ xâm lăng tàn phá Thành
Phố,
đàn bà la thét,
hai cao thủ cờ tướng,
tiếp tục cuộc cờ không chấm dứt của họ,
ở dưới bóng cây, họ cắm mắt cắm mũi vào
một cái bàn cờ cũ,
và bên cạnh là một vại cuốc lủi,
thật trịnh trọng, và luôn luôn sẵn sàng
làm dịu cơn khát của hai cao thủ, sau một
nước cờ,
bèn ngửa người ra phía sau, tu một đường,
chờ đối thủ đi nước cờ của anh ta.
Nhà cháy, tường đổ, của cải bị ăn cướp
Đàn bà bị hiếp, bị trấn vô tường, để
tiếp tục hiếp,
trẻ con bị đâm, chém, đường phố đầy máu…
Nhưng hai cao thủ vẫn bình chân như vại, ngay
dưới chân thành phố,
tiếp tục chơi cờ, trong tiếng la hét từ phiá
xa vọng tới.
Ngay cả khi, trong tiếng gió thoảng, có tiếng
la thét, và họ,
trong thâm tâm, thoáng có nghĩ
tới, những người đàn bà của họ,
những đứa con gái ngoan ngoãn của họ,
đang bị hiếp,
chắc cũng không quá xa nơi họ đang chơi cờ,
và lông mày, lông mi của họ có
thoáng âm u,
tâm tư của họ có nhầu nát, tí
ti, thoáng 1 tí,
và họ lại chú mục vào cuộc chơi không
chấm dứt,
trở về một cách thật là vững tâm
với cái bàn cờ cũ của họ.
Khi ông vua bằng ngà trên bàn
cờ cũ bị nguy hiểm, thì ai để ý làm gì tới
thịt rơi, máu đổ, ở trên đường phố,
biển máu biển miếc, bà mẹ, người vợ, đứa
chị, con em
bị, hay được… giải phóng ?
Giải phóng hay ăn cướp thì có ăn thua
gì tới
một đường thối của Bạch Hoàng Hậu?
Và một khi đi được một nước vừa ý, đặt ông
vua vào đúng vị trí,
thì những đứa trẻ đang chết ở xa xa kia, là
cái chó gì mà phải quan tâm?
****
Borges made a profound impression on Spanish literary prose,
as before him Ruben Dado had on poetry. The difference between them
is that Dado imported and introduced from France a number of mannerisms
and themes that he adapted to his own world and to his own idiosyncratic
style. In some way all this expressed the feelings, and at times the
snobbery, of a whole period and a certain social milieu. Which is why
his devices could be used by so many without his followers losing their
individual voices. The Borges revolution was personal. It represented
him alone, and only in a vague, roundabout way was it connected with the
setting in which he was formed and which in turn he helped crucially to
form - that of the magazine Sur. Which is why in
anyone else's hands Borges' style comes across as a
caricature.
Vargas Llosa: The Fictions of Borges
Trong 1 bài viết về Borges, trong cuốn tưởng niệm
ông, của một số tác giả, Vargas Llosa cho rằng, Borges
tạo một ấn tượng sâu đậm vào văn xuôi Tây
Ban Nha, như là trước đó, Rubén Darío,
vào thơ.
Cũng vẫn ông, cuộc cách mạng của Borges là
cá nhân. Nó đại diện mình ông ta,
và chỉ là một ngọn sóng…. bởi thế, văn phong của
Borges đụng bất cứ 1 tên TBN, là để lại 1 vết sẹo!
Tuyệt!
TTT, sở dĩ đếch có truyền nhân, là
cũng xêm xêm. Ngoài lý do, thơ của TTT,
1 thứ thơ trí tuệ không 1 tên Mít nào
có được, còn có cái lý do Vargas
Llosa vừa nói tới.
Cái thứ thơ ngồi bên ly cà phê,
nhớ bạn, thì cần chó gì đến trí tuệ.
Chẳng tên nào muốn làm thơ mà lại
dính vết sẹo ở trong lòng bàn tay.
Cần chó gì sư phụ.
Không có sư phụ, thì đếch có vết
sẹo!
Cả 1 cõi thơ TTT, có thể nói, đầy
ắp Hà Nội, nhất là trong Tôi không còn
cô độc, Liên Đêm…
Con đường tình tự Ga Hàng Cỏ
Nụ hôn đầu ôm mái tóc lang thang
Đâu phải mưa ô buy vào thành
phố
Nửa đêm Hà Nội
Anh sợ cái cột đèn đổ xuống....
Toàn những hình ảnh của Hà Nội
Chỉ đến khi đi tù - trở lại cố quận – thì
người đàn bà Nam Kít, xuất hiện, như hình
ảnh của một quê hương mới, chốn trở về sau khổ lụy.
Giả như tụi Tẫu không phát động cuộc chiến
biên giới, thì cuộc hội ngộ sẽ xẩy ra ở trong tù,
ở Cổng Trời, thí dụ.
Cái tên thi sĩ dởm NDT mới nhảm làm
sao. Hắn đếch đọc được thơ TTT, bèn lên giọng dè
bỉu. Một thái độ như thế mà sao không tởm cho được.
Cái lũ làm thơ bên ly cà phê
hẳn cũng bực Gấu lắm.
Nhưng, kệ cha chúng.
Vargas Llosa, trong bài viết trích dẫn, cho
biết, đám Tây Bán Nhà cũng rất ư là
nực Borges, ở những dòng thơ đếch có tí mùi
thịt chó, rau muống!
Một vị, ra đi từ miền Bắc , khi đọc bài thơ viết
về Budapest, cái gì gì, hãy cho anh
khóc bằng.... 'bướm' em, GCC đưa lên mục Tạp Ghi
trên tờ Văn Học, phán, cứ tưởng của 1 ông mũi lõ
nào!
Borges cũng bị những đồng hương của ông chê,
mất chất… Mít!
những
dẫn nhâp không số
xuân ngấp nghé. tháng 3. toronto “có
gì lạ không” ông? tháng 3. tháng của
một nhà thơ được sinh ra và mất đi. tháng của
một dòng thơ lộng lẫy lên ngôi. viết như chỉ để cho
riêng mình nhưng lại cho mọi người. viết cho một người
nhưng lại viết cho tất cả. viết như một việc cần thiết cho chính
mình nhưng lại đủ cho một thời. viết cái chưa từng được
viết. cái viết đó quả là ghê gớm
- vậy hỏi ông làm sao viết như không có
gì xảy ra? và nếu viết như vậy thì là viết
cái gì?
- hình như khi “thiếu thốn” thì cái
viết mới “nở” ra. thế ông tự làm mình “thiếu thốn”
bằng cách gì? “phiạ” ra hay “làm” thật?
- khi “ấm” chỗ ngồi thì mới “cầm tay” rồi “biết dịa
chỉ” là “đất”. nhưng khi “cúi xuống là” ông.
ông nghĩ sao về cách đặt để này?
- cái gì tới rồi sẽ tới. nhưng mơ vẫn cứ mơ.
tưởng vẫn cứ tưởng (dầu là tưởng bở). rồi cái ác
bắc kít. rồi những bài thơ được chuyển ngữ. rồi những
vấn đề được đặt ra. để đó. rồi làm gì với chúng
vậy ông?
- viết để phải chịu nhiều gièm pha. chê trách.
viết không công mà cũng viết. nay hỏi có
phải đó là “viết như không có gì xảy ra”? (và phì
cười)
chủ nhật 2-12-17
ngọn gió. điên. thổi cuồng. vào
buổi sáng. nghẽn. nắng
tháng hai. trời. sập xệ
cây evergreen. ẻo. lả
những cái. máy cắt cỏ. kín miệng
đưòng. thêm nhiều. ổ gà
những điều. điên khùng. gắn. trên
bảng biểu ngữ. bạc màu
vị hoàng đế. mất đi. vào một. ngày tháng
nào. đó
hay mất ngôi. vào một. ngày tháng
nào. đó
có khác. biệt
tôi. suy gẫm. theo chiếc lá khô. chạy
vòng. quanh
trên đường
tiếng hát khan. từ cái radio. trong xe
lùng bùng. điệu. cổ điển
bàn ghế. già nua. bụi bặm
những tỳ vết. trên thân thể. chúng
kể lại. chuyện gì cho tôi. nghe
ngày chủ nhật. trống toang hoác. thổi
vào những. cơn gió
làm sao. ngồi xuống viết. một lá thư
để gửi về. nhà khi
cái điện thoại. bên cạnh
đứa con gái. chắc mặn mà hơn. xưa
muốn nổi loạn. nhưng. thời gian
chìm xuống. đáy
cô gái. quấn. khăn
quàng cổ. xanh. đi vào nhà. dưỡng lão
gói đồ ăn. to go. trên tay
có tôi. ngồi phiá trong. đó
mà không. phải là. con sói
trong. trang giấy
giả sử. không có. biển
đất liền. đất
giả sử. không. biên giới
thì chì là. một
và. những bức tường. sẽ không. bao giờ
được xây. lên và sụp. xuống
chúng ta. là những chất. thừa thải
trong. một cuộc (làm) tình. của đất trời
đừng. mong đợi. bất cứ. điều gì
bởi tất cả là. quá khứ
tôi. viết bài thơ. vào ngày mai
và mai nữa. sẽ là ngày. lễ tình
nhân
Đài Sử
The Feminist Mystique
Mar 9, 2016
Tập thơ này:
Còn bi ca? Nhà thơ Việt
Nam duy nhất viết bi ca là Thanh Tâm Tuyền.
Bài thơ dưới đây, trong
tập Mặt trời tìm thấy, là
một kiệt tác lớn:
bài bi ca này của Thanh
Tâm Tuyền còn đặc biệt ở chỗ: nỗi sầu bi của
nó đặt vào tương lai, một hiện tượng rất quái
gở....
Chúc Mừng SN bạn Khờ. Take Care. NQT
V/v ông anh và vấn nạn, viết hay không viết,
viết như chẳng hề có Lò Thiêu, Trại Cải Tạo….
Nhớ, lần nói chuyện điện thoại với ông anh, hỏi,
ông cho biết, trời cho có thế, và đó là
cách ông trả lời, tại sao ngưng viết.
Tuy nhiên, có vẻ như ông đã tiên
đoán được chuyện này, khi viết MCNK, 1 câu chuyện
giả tưởng, về 1 anh chàng được Ngụy cho đi du học, vội về để chết,
trước khi cuộc chiến kết thúc.
Không hiểu bạn NL, khi coi Liên Đêm
là 1 thứ bi khúc “vị lai”, là được gợi hứng từ
MCNK?
Cái anh chàng vội về này, để kịp chết,
đã có 1 thời, Gấu "nghi" là ông bạn Khờ
của GCC. Anh cũng vội về, y chang như thế, mà, không phải
như thế, thảm thế, chán thế, thú thế!
Không hiểu làm sao mà TTT có thể
tưởng tượng ra 1 tên Ngụy bỏ chạy vội bò về để chết, như
thế?
Adam Zagajewski Remembers C.K. Williams
The Threepenny Review Summer 2016
tháng 3. tháng của
một nhà thơ được sinh ra và mất đi.
LIVES
C. K. Williams (1936-2015)
Adam Zagajewski
ON SEPTEMBER 20th, 2015, in Hopewell, New Jersey, the distinguished
poet C. K. Williams died after a long illness. He was born in 1936. Polish
readers know him from the translations of Maja Wodecka: the Polish press
as brought out Czuwanie (The Vigil), and Zeszyty Literackie
(Literary Notebooks) published his poems on numerous occasions. No
doubt some of Krakow's inhabitants also remember him-a tall man who read
his own poems consummately, with the greatest energy, with complete conviction-from
his author's evenings in this city, which occurred mainly in the context
of the seminar "Americans in Krakow." He really was very American; although
his grandmother, Mrs. Grabowiecka, was born in Lviv (she told her grandson
that she came to the States from Austria!). Her overlong surname was changed,
as was the case for thousands of other immigrants, on Ellis Island.
He was American, Jewish-American (his poetic
debut bore the title A Day for Anne Frank), but also European.
There are, in the United States, poets who consciously restrict themselves
to "Americanness"; Europe intimidates them, cultural pluralism disturbs
them, foreign languages seem to them like implements of torture. Charlie
was different. He lived for a long time in Paris, considered that city his
home, spoke French-translated Francis Ponge- and in the afternoon he liked
to drop in to a pastry shop to ask for "un financier, s'il vous plait"
(a "financier" being not a banker, but an almond-flavored cake). He was
not interested in France alone; he followed the poetry of many languages
and countries. I know that he belonged to the group of poets who were greatly
impressed by the anthology of Polish poetry edited in 1965 by Czeslaw
Milosz ( Postwar Polish Poetry). From that moment, Polish poetry
belonged to his literary canon, and Milosz took up one of the main places
in his personal pantheon.
He was not a lyrical poet (although he wrote
beautiful poems for his wife Catherine, who was the great love of his
life). He was fascinated by the disorder of the human world, the chaos
of America; his poems tried to introduce a certain harmony into this element.
He was a moralist, but an experiential, an empirical, and not an armchair
moralist. In no way did he resemble those who only condemn, without abandoning
the library or dirtying their hands. He spent his childhood in Newark,
New Jersey. He knew the suburbs, small towns, parks, and car parks; he knew
New York and Philadelphia, Paris and Boston; he taught in Fairfax, Virginia,
at George Mason University, and then for many years at Princeton. Usually,
he divided his time between Princeton and France.
He also knew the great museums, was a connoisseur
of art, loved music. If this category were not so imprecise, so overused,
I would say that he was a truly modern poet. His hero was Walt Whitman,
about whom we know that he liked to wander for hours around Manhattan,
observing and recording what he saw. Charlie also wandered through our
world (more than once we strolled together through the streets of Paris),
striving to uncover the magical, impossible formula which would allow one
to capture both the canvases of Rembrandt and the seedy alleys of New York
where dealers search for clients, both Parisian concert halls and the twenty-four-hour
petrol stations where, at night, the cashiers barricade themselves in cramped
offices. It was as if he wanted to annul the academic and not particularly
wise division between high and low. He was passionate about Greek tragedy,
but also about the slang of young Americans who attempted by means of hip-hop
to express their rebellion.
He taught classes in creative writing, and was
a conscientious and attentive teacher. I have met many young poets who
remembered very fondly the workshops that he ran.
He was famous for his poetics, for his long
lines. His strength was neither in metaphor nor in simile, but rather
in the massiveness and consistency of his poems. These poems are as if
forged from iron; there is in them nothing ephemeral or fleeting; the
adjectives and nouns march like Roman legions. Someone averse to him might
remark: here everything is said, there are no empty spaces, no surprises-which
is true; Williams spoke, as it were, "too much," repeated epithets, multiplied
synonyms, could not bear understatement; but, surprisingly, these hyperboles
produced a wonderful new quality. This was his secret, the alchemical secret
of a rhetoric that transmuted itself into poetry.
He was a realist in search of justice. "rendering
justice to the visible universe," but also to the invisible- because
he saw so many riddles, came upon so many mysteries, that he could not
restrict himself to tangible things. His breakthrough book was the collection
Tar (1983); this was the first appearance of his mature
poetic style, of a voice that was then perfected over the next few decades.
The young Williams was a poet of rage (he once wrote a poem with the
refrain "It stinks, it stinks, it stinks"), of a rage that harmonized
with the mood of the Sixties, with the campaign against the Vietnam War.
Later, however, the poet's voice underwent an evolution. He was still critical,
but his rage transformed itself into a great curiosity about the world,
into an empathy towards his neighbors, into a poetry of attentive observation
and compassion.
In the title poem of his book Singing,
Williams-the same poet who emerged from a generation that condemned
America's sins, chief among these being racism-did not transform into
a racist, God forbid, but rather, in a poignant way and not without sorrow,
noted the impossibility of his reaching an understanding with a young
black artist. The place of rage was taken by a bitter wisdom.
He was named among the greatest contemporary
American poets and received the most important American prizes. He was
especially pleased to receive the Pulitzer Prize in 2000.
How did we meet? Once, in January 1986, in New
York (a few months after the appearance of my first book in America),
Charlie walked up to me, introduced himself, and said: "We are going to
be friends." And so we were, friends until the end. +
(Translated from the Polish by Jakob Ziguras)
******
- viết để phải chịu nhiều gièm
pha. chê trách. viết không công mà
cũng viết. nay hỏi có phải đó là “viết như không
có gì
xảy ra”? (và phì cười)
Note: Trên 1 số báo ML cũ, có
1 bài viết của Simon Leys về vụ này. Tuyệt cú mèo.
Bèn post ở đây, để phúc đáp hai vị
bằng hữu K/O, và nhà thơ DS
Le Magazine Littéraire Mars 2005
To Alexander Pushkin
I dearly, dearly long to be with you,
to sit and chat with you, drink tea with you.
You'd do the talking - I would be all ears;
your voice grows ever dearer with the years.
You, too, knew grief and fury and disdain;
you, too, died slowly, slowly and in pain.
Georgy Ivanov (1894-1958)
The Penguin Book of Russian Poetry
(1958)
Translated by Robert Chandler
Gửi ông nhà thơ của GCC
Gấu thèm ơi là thèm lại ngồi với ông
anh nhà thơ
Ở Quán Chùa chứ ở đâu nữa
Thèm ly cà phê, cái bánh sừng
bò
Ông anh nói,
Thằng em dướn dài cổ nghe
Giọng ông anh ngày càng âm u
Cái gì gì,
Tên tội đồ, đứa con tư sinh, trở về cố quận...
Nhất là sau khi ra tù
Ông anh, tất nhiên thì rất rành đau
thương, giận dữ,
Và khinh bỉ, chán chường
Lũ chó
Từ từ đi xa, từ từ đi, trong đau đớn.
*
No more brushing of teeth
or shaving of cheeks.
'There are things you must say
before you die.'
Eternity's door stands open wide.
And 'It's time, my friend, it's time!'
Time for mind and heart to be clear
and give life a heart-warming cheer.
Time for the wise words of the old
whose soul is at peace with the world ...
Before I die
I have nothing to say.
(1958)
Robert Chandler
Đếch thèm đánh răng, rửa mặt, cạo râu nữa
Làm gì có thì giờ?
Có những điều mi phải nói,
Trước khi ngỏm
Cánh cửa vĩnh cửu đứng sừng sững, mở toang hoác
Tới giờ rồi, Gấu Già ơi, tới giờ!
Giờ của cái đầu và trái tim trong sáng
Và ban cho đời 1 cú ấm áp
Giờ của những minh triết
Của 1 tên già
Mà linh hồn của nó thì bèn làm
hòa với thế giới…
Trước khi ngỏm
Gấu chẳng có gì để nói
https://medium.com/@zabado11/a-poem-990a6c9d6184#.und1f93a6
Things
by Jorge Luis Borges (Translated,
from the Spanish, by Stephen Kessler)
My cane,
my pocket change, this ring of keys,
The obedient lock, the belated notes
The few days left to me will not find time
To read, the deck of cards, the tabletop,
A book, and crushed in its pages the withered
Violet, monument to an afternoon
Undoubtedly unforgettable, now forgotten,
The mirror in the west where a red sunrise
Blazes its illusion. How many things,
Files, doorsills, atlases, wine glasses, nails,
Serve us like slaves who
never say a word,
Blind and so mysteriously reserved.
They will endure beyond our vanishing;
And they will never know that we have gone.
Ba cái lẻ tẻ
Cây gậy, túi tiền lẻ, xâu chìa khóa
Ổ khóa ngoan, sổ ghi muộn
Vài ngày lẻ còn lại sẽ không kiếm
được thời gian
Để đọc, cỗ bài, mặt bàn,
Cuốn sách, và,
Ép trong những trang sách
Là bông hồng đen!
Là cái công trình kỷ niệm tàn
uá, tim tím,
Về một buổi chiều không thể nào quên được,
chắc chắn như thế, bi giờ quên mẹ nó mất rồi, chán
thế!
Tấm gương ở phiá tây, nơi mặt trời lên đỏ
rực
Chói lòa ảo tưởng.
Bao nhiêu điều, bao nhiêu vật,
Những hồ sơ, tài liệu, ô cửa, bực thềm, bản đồ,
ly uống rượu bồ đào, những cái đinh
Phục vụ chúng ta như những tên nô lệ
Chẳng bao giờ dám thốt lên 1 lời
Mù, và rất ư là kín đáo, một
cách rất ư là bí ẩn
Chúng sẽ sống nhăn khi chúng ta biến mất từ đời
nảo đời nào rồi!
Và, chúng đếch làm sao biết được,
Gấu đã đi rồi!
Playboy March April 2017
USA Best Hope
Tờ Người Kinh Tế chọn
Why we would cast our hypothetical vote for Hillary Clinton
SN_GCC_2016
3.11.2016
Khu rừng thu kế nhà, mất tiêu
POETRY
Francis Ponge
End of Autumn
Translated from French by Joshua Corey and
lean-Luc Garneau
In the end autumn is nothing more than
a cup of tea gone cold. Dead leaves of all species steep together
in the rain. No fermentation, no creation of spirits: one must wait
for spring for these to have any more effect than putting a bandage on
a wooden leg.
The vote count goes awry. All the doors to the polling place
slam open and closed. To the ballot boxes! Nature rips up her manuscripts,
demolishes her library, knocks down in her rage the last remaining fruits.
Then she rises abruptly from her calculations to her full,
apparently immense height, disheveled, her head lost in the haze.
Arms slack, she sucks in the icy wind with a delight that refreshes
her ideas. The days are short, night falls fast. The comedy club has
lost its lease.
The earth floating in the air among other heavenly bodies
recovers its air of seriousness. Its lit part narrows, infiltrated
by valleys of shadow. Its shoes, like a beggar's, fill with water and
make music.
In the frogpond a salubrious amphibiguity prevails. Things
regain their strength, jump from stone to stone and change meadows.
The brooks and streams are multiplying.
A good housecleaner doesn't respect the rules! She is dressed
in her nudity and soaked to the bone.
This is goes on for a while; nothing dries all at once. Three
months pass in a state of wholesome meditation, without inflammation,
without so much as a bathrobe or n loofah. But her strong constitution
fights back.
So when the little buds start popping up again, they know
what's what. And if they’re slow to reveal their stiff, ruddy faces
it's because they know that the jig is up.
But now another story begins. It depends, maybe, on the odorless
black ruler with which I score these lines.
TLR
The Literature Review Summer 2016: Heaven
is some place
Bài sau đây, net
Valves of Sensation
(formerly le roseau
pensant)
7.12.08
End of Autumn...Francis
Ponge
http://patrickmfitzgerald.blogspot.ca/2008/12/end-of-autumnfrancis-ponge.html
A naked chestnut tree that I
saw this afternoon on a walk in Zalla.
It has been one of the wettest
autumns I can remember. Everyday it rains. I miss the sunlight.
And nothing moves me more than those sharp sunny days of autumn
with a light full of contrast and clarity. I am posting here The
end of autumn by Francis Ponge. He knew how to approach the things
of this world, disecting them and opening them up into new configurations,
making us see things afresh:
The End Of Autumn
All of autumn, in the end, is
nothing but a cold infusion. Dead leaves of every sort steep in the rain.
No fermentation, no production of alcohol: we’ll have to wait until
spring to judge the effects of a cold compress on a wooden leg.
Sorting the ballots is a disorderly
procedure. All the doors of the polling place slam open and
shut. Throw it out! Throw it all out! Nature rips up her manuscripts,
demolishes her bookshelves furiously clubs down her last fruit.
Then she abruptly gets up from
her work table. She suddenly seems immense: hatless, head in the
fog. Swinging her arms, she rapturously breathes in the icy, intellectually
clarifying wind. Days are short, night falls fast; there’s
no time for comedy.
The earth, in the stratosphere
with the other heavenly bodies, looks serious again. The lit
up part is narrower, encroached on by valleys of shadow. Its shoes,
like tramp’s, soak up water and make music.
In this frog-farm, this salubrious
amphibiguity, everything regains strength, leaps from stone
to stone, changes pasture. Streams proliferate.
This is what’s called a good
clean-up, with no respect for convention! Dressed or naked,
soaked to the marrow.
And it doesn’t dry up right
away, it goes on and on. Three months of salutary reflection
with no bathrobe, or loofah, no vascular reaction. But its sturdy
constitution resists.
So, when the little buds begin
to jut out, they know what they’re doing, what it’s all about.
That’s why they come out so cautiously, red-faced, benumbed, they
know what lies ahead.
But thereby hangs another tale,
perhaps from the black rule, though it smells different, I’ll now
use to draw the line under this one.
Translated from French by C.K.
Williams in Francis Ponge – Selected
EMILY FRAGOS
The Sadness of Clothes
****
When someone dies, the clothes are
so sad. They have outlived
their usefulness and cannot get warm and full.
You talk to the clothes and explain that he is
not coming back
as when he showed up immaculately dressed in slacks
and plaid jacket
and had that beautiful smile on and you'd talk.
You'd go to get something and come back and he'd
be gone.
You explain death to the clothes like that dream.
You tell them how much you miss the spouse
and how much you miss the pet with its little winter
sweater.
You tell the worn raincoat that if you talk about
it,
you will finally let grief out. The ancients etched
the words
for battle and victory onto their shields and then
they went out
and fought to the last breath. Words have that
kind of power
you remind the clothes that remain in the drawer,
arms stubbornly
folded across the chest, or slung across the backs
of chairs,
or hanging inside the dark closet. Do with us what
you will,
they faintly sigh, as you close the door on them.
He is gone and no one can tell us where.
from Poem-a-Day
Thơ
Mỗi
Ngày
VI KHI
NAO
Tarragon, Are You a Wild Boar?
Tarrargon, are you a wild boar?
My friend, lemon zest, has not been that
Thyme, Cognac,falooda glass noodle
These things prowl the night without cape
Gooseberries or bacalao
Tarragon, are you a wild boar?
Each time I eat you, I stop breathing
Little owl, where is your happiness?
Wake up + make people believe
In you, gastrique + steaklette
Is that chive embarrassed?
To be with the savoy cabbage?
Tarragon, are you a wild boar?
I was born female, hyper-focused
Let me trim your skirt, halibut
It's dragging salt against my oregano
Buttered by butter in no butter
Tarragon, are you a wild boar?
It's too bad the caper isn't wearing
A cape when the Peruvian potatoes
Are sitting on a bed of coals while
Floating down a river coconut
On the verge of falling off
A truffle, which is a
Shadow floating inside of a shadow
Cá Lưu Vong
Một kinh nghiệm riêng tư, gia đình - mất một đứa
con trong khi vượt biển- đẩy nó tới tầm bi kịch Hy Lạp
Death Is a Costume We Wear to War: a Conversation
with Vi Khi Nao
Talking with the author of the new novel, Fish
in Exile
https://electricliterature.com/death-is-a-costume-we-wear-to-war-a-conversation-with-vi-khi-nao-7482bd666d2#.vxyywrql9
Rita Bullwinkel: In Fish in Exile the sea is an unrelenting,
evil god that devours everything that is fed to it. What is your personal
relationship to the ocean?
Vi Khi Nao: My family crossed
the sea by boat to escape from Vietnam. Our exit from it was dark, scandalous,
and private — very much like husband Ethos and wife Catholic’s relationship
to the ocean. Its unrelenting darkness and its strength pull us like weeds
from the ground up. My family spent three days and three nights inside of
a tiny boat with thirty other people. Feces and vomit and seawater were
up to my waist. Inside that boat, I smelled everything primal. Having shared
my young human body with the sea this way, inside of a vessel — I feel closest
to the sea — to what is very atomically very mortal — these seemingly immortal
liquid magnets ask me to return to Rhode Island frequently — to Providence — in
particular because the space is so close to the Atlantic. My intense feelings
for the ocean are like big gigantic clouds that hover over my heart and
any potential attraction for the earth. The more I try to erase the sea
from my existence, the more I miss her. The more I try to relax and let
it be, the more water in my consciousness opens the space to want her more.
With the ocean, I feel like I exist inside of a paradox and all I want to
do is to be inside her embrace.
SN_GCC_2016
http://www.tanvien.net/New_Poems_Folder/1.html
*
It's good that Russia has no Tsar,
it's good that Russia's just a dream,
it's good that God has disappeared,
that nothing's real, except the stars
in icy skies, the yellow gleam
of dawn, the unrelenting years.
It's good that people don't exist,
that nothingness is all there is,
that life's as dark and cold as this;
until we couldn't be more dead,
nor ever were so dark before,
and no one now can bring us aid,
nor even needs to any more.
(1930)
Stephen Capus
Thật tốt nếu như Nga không
có Nga Hoàng
Thật tốt nếu như Nga chỉ là một
giấc mộng
Thật tốt nếu như Chúa biến mất
Rằng, chẳng có gì thực,
ngoại trừ những vì sao
Trên bầu trời giá lạnh,
Màu vàng rực rỡ của buổi
rạng đông
Những năm tháng dài dài
Cứ thế trôi đi
Không ngừng nghỉ
Thật tốt nếu như không có
cái giống người được gọi là Mít - ấy
chết xin lỗi – nhân dân Nga
Rằng, ở đó, hư vô là
tất cả
Và đời thì tối và
lạnh như thế này này
Cho tới khi chúng ta chết hơn
cả chết
Tối như chưa từng u tối hơn
Và chúng ta chẳng cần thằng
đéo nào cứu giúp
Nhu cầu ư, đi chỗ khác chơi!
*
To Alexander Pushkin
I dearly, dearly long to be with you,
to sit and chat with you, drink
tea with you.
You'd do the talking - I
would be all ears;
your voice grows ever dearer
with the years.
You, too, knew grief and
fury and disdain;
you, too, died slowly, slowly
and in pain.
(1958)
Robert Chandler
Gửi ông nhà
thơ của GCC
Gấu thèm ơi là thèm
lại ngồi với ông anh nhà thơ
Ở Quán Chùa chứ ở đâu
nữa
Thèm ly cà phê, cái
bánh sừng bò
Ông anh nói,
Thằng em dướn dài cổ nghe
Giọng ông anh ngày càng
âm u
Cái gì gì,
Tên tội đồ, đứa con tư sinh, trở
về cố quận...
Nhất là sau khi ra tù
Ông anh, tất nhiên thì
rất rành đau thương, giận dữ,
Và khinh bỉ, chán chường
Lũ chó
Từ từ đi xa, từ từ đi, trong đau đớn.
*
No more brushing of teeth
or shaving of cheeks.
'There are things you must say
before you die.'
Eternity's door stands open wide.
And 'It's time, my friend, it's time!'
Time for mind and heart to be clear
and give life a heart-warming cheer.
Time for the wise words of the old
whose soul is at peace with the world
...
Before I die
I have nothing to say.
(1958)
Đếch thèm đánh răng, rửa mặt,
cạo râu nữa
Làm gì có thì giờ?
Có những điều mi phải nói,
Trước khi ngỏm
Cánh cửa vĩnh cửu đứng sừng sững, mở
toang hoác
Tới giờ rồi, Gấu Già ơi, tới giờ!
Giờ của cái đầu và trái
tim trong sáng
Và ban cho đời 1 cú ấm áp
Giờ của những minh triết
Của 1 tên già
Mà linh hồn của nó thì
bèn làm hòa với thế giới…
Trước khi ngỏm
Gấu chẳng có gì để nói
Robert Chandler
những
dẫn nhập không số
* “…em, em có hay kẻ
tội đồ biệt xứ
sớm nay về ngang cố quận
xao xuyến ngây
ngô hắn dọ hỏi bóng tối sâu thẳm…”
- ttt
người đàn ông
lầm lũi. sớm tinh mơ.
chưa một người thức giấc. về đâu? đây có
phải khu xóm của mình? người đàn
ông đi về. sau khi đã bạc nhược cơ thể qua một
đêm dưới xóm. đầu óc thuốc phiện. không
phương hướng. cái bóng. của chiến tranh. của
sự chết. cứ bám riết. cái đam mê cháy
bỏng một thời đã tắt. cứ tuột dần xuống và không
cưỡng lại được. còn gì nữa cho chính mình?
như một bóng ma trong thành phố.“ em, em có
hay kẻ tội đồ biệt xứ”. như một lời thú tội. của một kẻ mang
án chết. trong trái tim của một người đàn
bà.
cái xóm ở ngay
đó mà không bao giờ gần. vậy có
phải đã biệt xứ? cái cố quận chỉ cần một bước
chân. sao bước hoài không tới? mà
chỉ có thể tạt ngang. “sớm nay về ngang cố quận”. cố
quận nào? cố quận của một thời mới lớn. một thời bạn bè.
cố quận với những người đàn bà trong mơ.
tất cả đã mất. có
thể có lại thêm một lần. được không?
không biết. chỉ là những xao xuyến. chỉ là
những ngây ngô. “xao xuyến ngây ngô
hắn dọ hỏi bóng tối sâu thẳm”. trong vũng đen
sâu thăm thẳm. người đàn ông chỉ có
thể độc thoại với chính mình.
đó. tôi nghiệm ra “những ngày ở sài
gòn” của ông. qua cái đọc tin văn.
quả là gan cùng mình khi ép
đặt những thứ dữ dằn như vậy lại với nhau. một thời sài
gòn những challenges in life nào ông có
thể kể? hay là sự tự xóa mình để phục sinh
lại một nguyễn quốc trụ khác? ông nghĩ sao?
những dẫn nhập không số
* sài gòn phóng mô
bi lết như bay. phóng như bay một thời. với con dốc catinat
đổ dài theo chữ nghĩa. với quán cà phê
pagoda là bạn bè. là văn nghệ. là một
thời sài gòn. thơ dtl quyện trong những dòng
này
“em đi áo lụa mềm lưng phố
có động lòng thương kẻ cuối đường”
ông có sáng tác bài
thơ nào với sài gòn ngày đó?
* “…em, em có hay kẻ tội đồ biệt xứ
sớm nay về ngang cố quận
xao xuyến ngây ngô hắn dọ hỏi
bóng tối sâu thẳm…” - ttt
người đàn ông lầm lũi. sớm tinh mơ. chưa một người thức
giấc. về đâu? đây có phải khu xóm
của mình? người đàn ông đi về. sau khi đã
bạc nhược cơ thể qua một đêm dưới xóm. đầu óc
thuốc phiện. không phương hướng. cái bóng.
của chiến tranh. của sự chết. cứ bám riết. cái đam
mê cháy bỏng một thời đã tắt. cứ tuột dần xuống
và không cưỡng lại được. còn gì nữa cho
chính mình? như một bóng ma trong thành
phố.“ em, em có hay kẻ tội đồ biệt xứ”. như một lời thú
tội. của một kẻ mang án chết. trong trái tim của một
người đàn bà.
cái xóm ở ngay đó mà
không bao giờ gần. vậy có phải đã biệt
xứ? cái cố quận chỉ cần một bước chân. sao bước hoài
không tới? mà chỉ có thể tạt ngang. “sớm nay
về ngang cố quận”. cố quận nào? cố quận của một thời mới
lớn. một thời bạn bè. cố quận với những người đàn
bà trong mơ.
tất cả đã mất. có thể có
lại thêm một lần. được không? không biết. chỉ
là những xao xuyến. chỉ là những ngây ngô.
“xao xuyến ngây ngô hắn dọ hỏi bóng tối sâu
thẳm”. trong vũng đen sâu thăm thẳm. người đàn ông
chỉ có thể độc thoại với chính mình.
đó. tôi nghiệm ra “những ngày ở sài
gòn” của ông. qua cái đọc tin văn. quả
là gan cùng mình khi ép đặt những
thứ dữ dằn như vậy lại với nhau. một thời sài gòn
những challenges in life nào ông có thể kể?
hay là sự tự xóa mình để phục sinh lại một
nguyễn quốc trụ khác? ông nghĩ sao?
* “mùa thu ở đây đẹp não
nùng”
không biết ông còn cái
cảm giác như vậy không khi đã “ở đây”
đủ lâu (cái đẹp dường như không tồn tại chỉ
trơ trẽn cái lạnh khủng khiếp)?
* “nỗi nhớ sài gòn buốt trên
mười đầu ngón tay”
tôi không muốn tra lại xem có
đúng từng chữ không. tôi đọc bài thơ
mùa đông của ông. và cái câu
đó cứ bám riết. nhất là khi cái
lạnh thấm vào đầu những ngón tay khi đông
về. làm tôi nhớ sài gòn. như một phản
xạ có điều kiện. đúng là một câu thơ
phù thuỷ. viết như vậy. tôi nghĩ đến một tập thơ của
ông trước khi ông ngừng bút (như ta thấy hình
ta những miếu đền của ông mt vậy). ông có nghĩ
đến điều đó?
* nếu tôi nhờ ông chỉnh một cái
tít như sau “nguyễn quốc trụ. người lọc sạn văn chương”
ông sẽ nhuận sắc/hiệu đính ra sao?
cuối. tháng chín
những cơn mưa. vùi
cơn gió lật. tung tất cả
xấp ngữa. mây nặng
tiếng thét. vị đắng
cơn bão. sắp đi. qua
có. người đàn bà trở. về
mang theo nụ. hôn cũ
trời mù. mù. nước
nâng đỡ khuôn. mặt
có. xót xa
những. cơn mưa xối. tung mái tóc
tóc rồi. quện vào má. rưng
rưng
bánh xe. lăn. toé nước
mảnh vỡ. ký ức. long lanh
qua. quá mau
cuối. tháng chín
thắp lên. những nụ cười. muộn
và. bi khúc. nào
nhoè trong. mưa
DS
Tks TT & NQT
* nếu tôi nhờ ông
chỉnh một cái tít như sau “nguyễn quốc trụ. người
lọc sạn văn chương” ông sẽ nhuận sắc/hiệu đính ra
sao?
Nhặt sạn, thay vì, lọc [K dùng từ này
khi đọc TV, thấy có gì sai sót.]
Hiệu đính: Đây là 1 nghi lễ, tuy
nhỏ, nhưng nói lên cái gọi là văn minh
vs cái gọi là thô bỉ, dã man, đúng
như DTH phán về cuộc chiến.
Sở dĩ Chợ Cá Bá Linh sập sạp, hay văn chương của TTCD, đếch ai thèm đọc, đâu
phải là do văn tài, mà là do đạo hạnh,
đúng như Brodsky phán.
Bạn gửi bài cho 1 tờ báo, thấy đăng,
với cái tên lạ hoắc của 1 tên nào đó,
hiệu đính, bạn có bực không?
Đã xẩy ra trường hợp hiệu đính sai,
như trong giai thoại "minh nguyệt sơn đầu khiếu", thí dụ.
Lần GCC gửi bài cho 1 tờ báo Đông
Âu, tòa soạn sửa Rừng Tràm, thành Rừng
Chàm. Tràm là cây tràm, khác
Chàm là nước Chàm.
Đây là do người hiệu đính chưa
từng thấy rừng tràm bao giờ, y chang từ hiệu đính!
"Chúng" chỉ biết dùng từ này,
theo nghĩa làm nhục cộng tác viên!
Nguyễn Tuân bảnh như thế, mà không
1 tên nhà văn Bắc Kít nào thờ làm
Thầy, là do đố kỵ, theo GCC.
Cái từ hiệu đính, trong nó có
cái nghi lễ xin học Thầy, xin đàn anh nhận đàn em làm...
học trò!
Tks
Tôi không tin tưởng rằng Jelinek là một
nhà văn lớn. Nhưng bà là một nhà văn đáng
đọc và có ích. Có thể xem việc trao giải
Nobel cho bà không chỉ là công nhận tác
phẩm và tư thế đối kháng chông chênh của bà,
mà còn như là một cử chỉ đẹp, tuy muộn màng,
đối với cả một hội những kẻ bị từ chối, gồm những nhà văn Áo
nổi tiếng trong đó có Rilke, Hofmannsthal, Musil, Broch,
Karl Kraus, Joseph Roth và Ingeborg Bachmann.
Robertson, Ritchie
Nguồn: Nobel Bodies, Phụ trang văn học Thời báo
London (TLS), số ngày 15/10/2004.
Nguyễn Quốc Trụ dịch
Chú thích: Đăng lại bản dịch trên eVăn.
Cám ơn BBT, đặc biệt TTCĐ, đã sửa giùm một số
sai sót.
NQT
Khi mặt dầy - đúng là như
thế - gửi bản dịch, Gấu gửi kèm theo cả bản gốc, là cũng
hy vọng tòa soạn sẽ kiểm tra, trao đổi, và sau đó,
thống nhất. Khi bài post lên, thấy tên đấng hiệu
đính, thú thực Gấu… tởm quá!
Chúng chẳng hề trao đổi cái con mẹ gì
hết, y chang lần gửi cho talawas!
Salman Rushdie
Ảnh hưởng
Bài đọc tại Đại học Torino
Nguyễn Quốc Trụ dịch
Trịnh Hữu Tuệ hiệu đính
Cái việc hiệu đính này,
là công việc của 1 tòa soạn. Họ coi lại bản
dịch, rồi liên lạc với tác giả. Bạn thử coi lại mục hộp
thư của báo Văn, trước 1975, thí dụ, bài nào không đăng,
không trả lại bản thảo; bài nào đăng, cần liên
lạc với tác giả, chúng tôi sẽ có thư riêng...
GCC đã từng làm cái công việc của
mấy tên khốn này, có bao giờ để tên mình
ra như là kẻ hiệu đính bao giờ đâu?
Nhờ vậy mà thoát chết ở Trại Tù VC, chuyện này
kể rồi.
Chúng làm nhục cả 1 miền đất!
Note: Nhân nhắc tới Jelinek, tình cờ vớ được 1
tờ NYRB cũ, trong có bài của Tim Parks, viết về Bà.
Tim Parks cũng không hiểu được tại sao mà Bà
được Nobel văn chương.
Bài trên TLS giải thích tại sao, và
chính vì thế mà GCC mất công dịch và
gửi cho eVăn.
Khi cho bà, là cho cả 1 lô những tác
giả bị từ chối, và toàn là những thứ cực kỳ bảnh,
cực kỳ dữ dằn.
Chớ bao giờ coi thường 1 giải thưởng văn học như Nobel. Và
nên nhớ điều này, nó là đỉnh cao của chính
trị, như là văn học, khi văn học vươn tới đỉnh cao chót
vót của nó, như là 1 câu trả lời cho câu
nói dè bỉu của Tẩy, “tất cả cái còn lại là
văn chương”, “et tout le reste est littérature”. [Verlaine]
16.8.2012
Bữa nay sinh nhật Gấu
Trang đặc biệt mừng SN/GCC
Chúc anh Trụ một ngày
SN thật thoải mái, không nghĩ chi về ai hết, không
lo chi chuyện tây, chuyện ta gì hết , chỉ nghĩ tới mình
và những bài thơ đã làm, đang làm,
và sẽ làm thôi
K vừa đưa bài Trong Căn Phòng Rưỡi, và
bài thơ Gởi Con Gái
Tôi do anh dịch của Brodsky lên a2a . Đồng thời
K link vào bài phim Room
and A Half, nói tiếng Nga, xem cho vui . Như một món
quà SN .
K muốn gom mấy bài thơ của Brodsky anh dịch vào
một trang mà chưa làm xong .
K
Cám ơn K và bạn
của K
SN năm nay, sao cảm khái quá, chắc là
sắp đi xa cũng nên
Hà, hà!
Lời chúc của K nhiều "thiện ý" lắm.
Tks again.
NQT
1 Year Ago
See Your Memories
Thư Nhà
Khi Gấu dịch
cái thư này, tiếng Anh của Gấu tệ lắm [2005, Gấu qua Xứ Lạnh,
cc 1994]. Chắc là đầy sạn, nhưng mê quá, thế là
cặm cụi dịch. Ui chao đọc nhữ...
See More
Playboy Nov 2016
STORIES
Because all things write their
own stories
No matter how humble
The world is a great big book
Open to a different page,
Depending on the hour of the day,
Where you may read, if you so
desire,
The story of a ray of sunlight
In the silence of the afternoon,
How it found a long-lost button
Under some chair in the corner,
A teeny black one that belonged
On the back of her black dress
She once asked you to button,
While you kept kissing her neck
And groped for her breasts.
Những câu chuyện
Bởi
là vì mọi vật thì đều kể/viết những câu
chuyện của riêng chúng
Dù dấu bèo, dù hèn mọn, dù
nhún nhường cỡ nào
Thế giới là một cuốn sách lớn
Mở ra ở một trang khác nhau
Tuỳ thuộc giờ đọc nó trong ngày
Em có thể, thí dụ, thích trang này
Câu chuyện về 1 tia nắng
Trong im ắng của một buổi xế trưa
Bằng cách nào nó tìm thấy
một cái nút áo bị mất từ hồi nảo hồi nào
Ở dưới một cái ghế ở góc nhà
Một cái khuy áo màu đen nho nhỏ,
xinh xắn
Của em, đúng là của em, của 1 cái
áo dài đen
Một thứ khuy áo để cài ở sau lưng
Mà có lần em ra lệnh, nè, cài
cho ta đi, tên ngố
Trong lúc tên ngố hăm hở, ham hố, hôn
đến rách mặt em
Và vò vò, đến nát, hai đầu
vú!
Chữ người tử
tù ( Nguyễn Quốc Trụ)
a2a mời đọc
:
Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
http://www.tanvien.net/dich/linda_le_singer.html
UN DYBBUK AMOUREUX
Hồn ma si tình
Isaac Bashevis Singer et son alter
ego
Singer và thế thân
của ông
Trong L’Anneau de Clarisse, Claudio
Magris chào mừng Isaac Bashevis Singer, như một tay kể chuyện
cổ gần gũi với "những bậc thầy vô ngã, vô tên
của quá khứ, những nhà văn lớn lao giống như tất cả
mọi người, và chẳng giống một người nào, bởi vì
họ biến thành những con người nói bằng bụng, thay vì
bằng miệng, và những nhân vật đa dạng, những hộp cộng
hưởng, cho mọi thứ tiếng tơ đồng, của cõi sống."
Như con quỉ cuối cùng, trong một truyện ngụ ngôn
của mình, sống bằng cách gậm nhấm một cuốn
sách cổ xưa [thuật chuyện núi rừng Hua Tát,
bằng một thứ ngôn ngữ Mường Mán], Singer là
một meshugah, một
tên khùng, sống sót bằng cách, rút
ra từ những huyền thoại Do Thái, và những kỷ
niệm về một thế giới đã qua, lý do hiện hữu của
mình.
Lưu vong qua Mỹ vào năm
1935, khi đó ông 31 tuổi, ông viết bằng
tiếng yiddish,
và cộng tác trong việc dịch chúng qua tiếng
Anh. Ông muốn viết bằng một ngôn ngữ chết, mà
sự biến mất của nó báo hiệu sự suy tàn của
nghệ thuật.
Nhà văn yiddish, với ông, là
một thứ dybbuk, một bóng
ma, nhìn, và không ai nhìn thấy
được. Viết nhiều, "thi sĩ của lưu vong, không phải theo
kiểu Do Thái, mà là một thứ lưu vong đụng
tới con người, và nhất là, con người-nhà văn
đương thời", Claudio Magris nói về Singer.
Singer cố làm bật ra,
bằng một nỗi buồn nhuốm mầu thần bí, tính sống động,
và cơn chao đảo, của một thế giới chìm xuồng.
retour aux classiques
par Linda Lê
UN DYBBUK
AMOUREUX
Isaac Bashevis Singer et son alter ego
Dans L’Anneau de Clarisse, Claudio Magris saluait
en Isaac Bashevis Singer un conteur proche de ces “grands écrivains
impersonnels et anonymes du passé, qui ressemblent
à tout le monde et à personne parce qu'ils
se font les ventriloques indifférents des vies et des
personnages les plus divers, et les caisses de résonance
impartiales de toutes les cordes du vivre”. À la manière
du dernier démon d’une de ses paraboles, qui se nourrit
en rongeant un vieux livre de contes yiddish,
Singer était un meshugah,
un fou qui survivait en tirant des légendes juives et des souvenirs
du monde d'hier sa raison d'être.
Exilé aux Etats- Unis en 1935-
il avait 31 ans -, il composait ses textes en yiddish, et collaborait à leur
traduction en anglais. Il déclarait avoir conscience
d'écrire dans une langue morte, dont la disparition
annonce le déclin des arts. L'écrivain yiddish pour lui est une sorte de dybbuk, de spectre, qui voit mais n’est pas vu. Auteur
prolifique, “poète de l'exil, pas seulement des Juifs
mais de l'exil existentiel qui touche l'homme et surtout l'écrivain
contemporain”, disait encore Claudio Magris, Singer s'est
attaché à dépeindre, avec une mélancolie
teintée de mysticisme, la vitalité et le chaos
d'un univers qui a sombré.
Le jeune Arele Greidinger, le narrateur
de Shosha et l'alter ego romanesque de
Singer, affirme sans ambages que le monde est un abattoir
et un bordel. Fils de rabbin, tout comme Singer lui-même,
et tout comme ce dernier lecteur de Weininger et de Spinoza,
Arele se fraye un chemin dans la Varsovie de l'entre-deux-guerres:
it écrit une pièce ou l'héroine tombe amoureuse
de son dybbuk - on reconnait là
l'ébauche de ce qui sera La Corne du belier
de Singer. Une actrice américaine et un ancien charpentier
qui a fait fortune se proposent de le lancer. L'aventure tourne
court avant même d'être sur les rails. Loin de ce
microcosme, qui prend de plus en plus conscience de la menace hitlerienne
et se tourne vers Staline avant d'ouvrir les yeux sur la terreur
qui règne au paradis bolchevique, Shosha,
une femme enfant, un peu retardée, répresente l'innocence
perdue. Arele poursuit son rêve, refuse de partir pour
New York,
et choisit de s'installer auprès de cette étrange
créature, à peine capable de comprendre ce qu'il
écrit.
Fourmillant de personnages qui traversent
la scène comme des evadés impatients de
tout connaitre avant l'effondrement de ce à quoi ils
ont cru, ce roman, qui développe un chapitre d'un livre
autobiographique de Singer, Un jour de plaisir,
est autant un chant d'amour qu'un kaddish
pour les morts auxquels Singer offre un tombeau
de papier.
Shosha
Isaac Bashevis Singer
Trad. de l'anglais par Marie-Pierre Bay et Jacqueline Chnéour Ed.
Stock, 380 p.,19 €.
Le Magazine Littéraire, Mai,
2007
SN_GCC_2016
Hãy Nói
Về Miền Nam
Câu chuyện
về một "Muỗng Nước Mắm" của Nguyễn Thị Thụy Vũ
Nhưng câu
chuyện về một Deep South của Quentin không chấm
dứt với chiến tranh. Đạ...
See More
Tks.
Đa tạ.
Take Care
NQT
Happy Birthday to U, Richie,
5.6.2014 (1)
All of Us & TV Family
SN_GCC_2016
http://tanvien.net/new_daily_poetry/20.html
Son of Man and Son of God
Tuesday, July 29, 2014 4:11 PM
Thưa ông Gấu,
Xin góp ý với ông Gấu
về một đoạn thơ đã post trên trang Tinvan.
Nguyên tác:
Christ speaks to her in turn:
“Whether dead or alive
woman, it’s all the same –
son or God, I am thine
Theo tôi, nên dịch
như sau:
Christ bèn trả lời:
Chết hay là sống,
Thưa bà, thì đều như nhau
–
Con, hay Chúa, ta là của
bà
Best regards,
DHQ
Phúc đáp:
Đa tạ. Đúng là Gấu dịch trật,
mà đúng là 1 câu quá quan
trọng.
Tks again.
Best Regards
NQT
… Anh khoe khong?
K
OK rồi,
không què đâu. Tks
NQT
Mạnh khỏe la vui roi!
O.
Tks. Tưởng là què
luôn.
V/v Đi tu tới bến.
Tôi đang đọc Weil, cũng có
cảm giác đó
Bác Tru theo dao nao vậy?
Toi theo dao tho ong ba
Den gia, doc Weil, thi lai tiec.
Gia ma tre theo dao Ky To, chac là
thành quả nhiều hơn, khi doc Weil.
NY Review
Book 2005
Xuống
phố, vô tiệm sách, vớ được cuốn trên. Đọc
sơ sơ mấy dòng, thì vỡ ra tới hai điều rất ư là
quan trọng, với riêng GNV:
Tại làm sao mà Gấu bị cái
rìu phá băng Simone Weil bổ trúng đầu, đúng
dịp Trần Trường Cờ Máu Hình Bác, tại ngay trung
tâm Tiểu Sài Gòn, Cali?
Bản văn ‘Iliad hay là
Bài thơ của Sức mạnh’ của Weil có một chị/em song
sinh.
Khủng hơn nữa, cả hai tác giả, đều là
nữ, và đều tự tử.
Bởi
vì ngay cái tít của bài Intro cho cuốn sách trên,
đã giải thích: Đây là câu
chuyện của hai Iliads
Introduction:
A tale of two Iliads
INTRODUCTION
A TALE OF TWO ILIADS
The critic
Kenneth Burke once suggested that literary works could serve as "equipment
for living," by revealing familiar narrative patterns that
would make sense of new and chaotic situations. If so, it should
not surprise us that European readers in times of war should look
to their first poem for guidance. As early as the fall of 1935, Jean
Giraudoux's popular play La guerre de Troie
n'aura pas lieu encouraged his French audience to think of their
country as vulnerable Troy while an armed and menacing
Hitler was the "Tiger at the Gates" (the play's English title).
Truth was the first casualty of war, Giraudoux warned. "Everyone,
when there's war in the air," his Andromache says, "learns to live in
a new element: falsehood."
Giraudoux's
suggestion that the Trojan War was an absurd contest over empty
abstractions such as honor, courage, and heroism had a sinister
real-life sequel when Giraudoux was named minister of wartime propaganda
in 1939. In the wake of Munich,
Minister Giraudoux announced that the most pressing danger to French
security was not the Nazis but “one hundred thousand Ashkenasis,
escaped from the ghettos of Poland or Rumania.”
After
September 1939, the analogy between the crisis in Europe and the Iliad - which opens
with broken truces and failed attempts to appease Achilles' wrath-seemed
altogether too apt. During the early months of the war, two
young French writers of Jewish background, Simone Weil and Rachel
Bespaloff, apparently unaware of the coincidence, wrote arresting
responses to the Iliad that are still fresh today. During
the winter of 1940, Weil published in the Marseilles-based journal
Cahiers du Sud her famous essay
"L'Iliade, ou le poème de la force." Three years
later - after both Weil and Bespaloff had fled France for New York - Jacques Schiffrin, a childhood friend
of Bespaloff's who had become a distinguished publisher, published
"De l'Iliade" in New York under the Brentano's imprint.
The idea
of bringing these two complementary essays together was first pursued by
Schiffrin and Bollingen editor John Barrett. After Mary McCarthy translated
both essays into English plans were made to publish them in
a single volume.' When rights to Weil's essay proved unavailable,
Bespaloff's "On the Iliad" appeared separately in
1947, as the ninth volume in the Bollingen series, with a long introduction
- nearly half as long as Bespaloff's own essay-by the Austrian novelist
Hermann Broch, author of The Death of Virgil. In their respective essays, Weil and Bespaloff
adopt some of the same themes while diverging sharply in their approach
and interpretation. In her essay Weil condemns force outright while
Bespaloff argues for resistance in defense of life's "perishable joys."
[suite]
NEW YORK REVIEW BOOKS CLASSICS
WAR AND THE ILIAD
SIMONE
WElL (1909-1943) was one of the first female graduates of the
Ecole Normale Superieure and taught philosophy in provincial schools
from 1931 to 1938. A socialist, she worked for a time on the Renault
assembly line and volunteered to fight against the Fascists in the
Spanish Civil War. In 1938, a mystical vision led Weil to convert
to Roman Catholicism, though she refused the sacrament of baptism.
Weil fled France
for the United States in 1942,
where, in solidarity with the people of Occupied France, she drastically
limited her intake of food, so hastening her early death from tuberculosis.
RACHEL BESPALOFF
(1895-1949) was born to a Ukrainian Jewish family-her father
was the Zionist theoretician Daniel Pasmanik-and raised in Geneva. Bespaloff
intended to pursue a musical career, but after an encounter with the thinker
Leo Shestov, she devoted herself to the study of philosophy. One of the first
French readers of Heidegger, Bespaloff published essays in the 1930s about
Kierkegaard, Gabriel Marcel, Andre Malraux, and Julien Green, among other
philosophers and writers. In 1942, she left France for the United States, where she worked as a
scriptwriter for the French Section of the Office of War Information before
teaching French literature at Mount Holyoke.
In 1949, Rachel Bespaloff committed suicide, leaving a note that said
she she was "too fatigued to carry
on."
Một chủ nhật khác
Lần
trước còn học trong Thủ Đức, một chủ nhật được phép
xuất trại, Kiệt không về nhà. Chàng thức
giấc lúc trời tối mịt, không đợi xe buýt,
ra khỏi doanh trại cùng vài người như những bóng
ma. Một chuyến xe lam đưa chàng về Sàigòn còn
đèn thắp ngoài đường. Trên phố vắng vẻ, gió
không lộng như ngoài xa lộ, nhưng hun hút xào
xạc. Kiệt đứng trên hè ngó dãy phố đóng
ỉm cửa, và như bị nhiếp hồn.
GCC & Đặng Phú Phong
& Nguyễn Đình Thuần
@ DPP's, Cali, Little Saigon
16.8.2012
Happy Birthday GCC
Somebody gave me love
Somebody was you (1)
SN_GCC_2016
FB nhắc Gấu, tuần này phát Nobel
đấy, mi có tính
đi 1 đường
lèm bèm chăng?
Congratulations Are in Order
This year's Nobel Prize winners
will be announced this week, honoring those who have dedicated
their lives to making the world more open and connected through
science, literature and the pursuit of peace.
Nhớ, hồi Nguyễn Tiến Văn còn lưu vong, Gấu
có lần lèm bèm, Borges đếch được Nobel, là
do Mẽo áp lực lên Uỷ Ban Nobel, do ông có
lần bắt tay và nhận giải thưởng văn học từ nhà độc
tài Pinochet, anh nói, làm gì có
chuyện Nobel bị Mẽo thao túng!
Bà Huệ, Gió O, thì coi cái
này là của mafia Do Thái, chúng muốn
cho ai là người đó được
http://www.tanvien.net/T_G/nobel_dispute.html
Hãy mở giùm tôi
cánh cửa này... (1)
Vào một ngày thứ Năm,
tháng Mười, một người đàn ông tên
là Sture Allen sẽ cử hành một nghi lễ nho nhỏ.
Liền sau buổi trưa, ông ngồi trước cái bàn
thời Louis thứ XV, trong một văn phòng với những đồ vật vốn
thuộc hoàng gia Thụy-điển. Và khi chiếc đồng hồ
bằng vàng của ông gõ một tiếng, ông mở
cánh cửa thông qua Đại sảnh, Viện Hàn Lâm
Thụy-điển.
"Năm nào tôi cũng chỉ
làm như vậy". Ông mở cửa bước vào Đại sảnh, gặp gỡ báo
chí. Họ đang đợi ông. Sự thực họ đang chờ thông báo,
ai là người trúng Nobel văn chương, từ người thư ký
thường trực của Hàn Lâm Viện. Allen, năm nay 69 tuổi, chẳng
phải học giả, thi sĩ hay văn sĩ. Ông chỉ là nhà ngôn
ngữ học được huấn luyện để làm việc với những chiếc máy tính
(computer), nhưng chức vụ "người truyền giao thông điệp" của ông
là một ân sủng đối với đồng sự. Và thông đìệp
của ông, thời giá của nó: trên một triệu đô-la.
"Hàng năm cứ vào cuối
thu, lá ngoài đường rụng nhiều, và trên
không có những đám mây bàng
bạc"... là giới báo chí lại xôn xao,
xì xào, ai sẽ là người được Nobel văn chương.
Thường là đoán
trật. Năm nay (1998), những tên tuổi được nhắc nhở, là
Bei Dao, nhà thơ lưu vong Trung-hoa. Hugo Claus, người
cùng chạy đua với ông, là một thế giá
từ bấy lâu nay của nền văn chương viết bằng tiếng Flemish.
Còn hai cột trụ của văn chương Bồ-đào-nha hiện đại,
một là José Saramago [giải thưởng sau cùng
vào tay ông]; cuốn tiểu thuyết "Năm Từ trần (The Year
of the Death of) của Ricardo Reis" của ông được coi như một
đại tác phẩm; người kia là Antonio Lobo Antunes, một
nhà tâm thần học, tác phẩm của ông dựa trên
kinh nghiệm khi ông làm việc với Quân đội Bồ-đào-nha
tại Angola vào những năm 1970.
Chưa nhà văn
viết bằng tiếng Flemish đoạt Nobel. Cách đây ba
năm, Claus đã tưởng rằng (mistakenly told), ông là
người đầu tiên được vinh dự này. Michael Specter, tác
giả bài viết tóm tắt ở đây (Hội chứng Nobel,
the New Yorker Oct 5, 1998), kể lại, hai năm trước, ông viếng
thăm nhà văn người Estonian, Jaan Kross. Ông này
đã từng nghe xì xào nhiều lần, và đã
một lần được báo trước (advance warning) rằng, lần này
đúng là ông đấy! "Người ta bảo tôi đừng rời
máy điện thoại. Ôi chao chuyện đó dễ ợt! Thời giờ
cứ thế trôi, rồi tôi hiểu ra, chưa tới lượt mình. Cũng
chẳng sao, nhưng đã có đôi lúc, tôi mơ
màng sờ được nàng!"
Người mơ sờ được nàng,
lâu nhất, qua những nét chữ bằng vàng trước
tên mình: FNPW (Famous Nobel Prize Winner, Nhà
văn đoạt giải Nobel nổi tiếng), có lẽ là nhà
văn người Mỹ, Norman Mailer. Sau hai mươi mốt năm lăn lộn với tình,
giữa chốn giang hồ, ông như có một cái máy
dò Geiger, ở trong đầu, về những đợt phóng sạ, từ
những giải thưởng này nọ. Nhưng ông không phải
là nhà văn Hoa-kỳ độc nhất, ôm ấp giấc mơ tuyệt
vời như vậy. Khi tôi (M. Specter) gọi điện thoại cho Joyce
Carol Oates, cách đây không lâu, để hỏi bà
có ý nghĩ gì về giải thưởng, bà hào
hển: "Sao, sao, ông nghe thấy gì?"
Danh sách chót,
thường là năm người, năm nay sáu. Những tờ thăm
được bỏ vào một chiếc lọ cổ bằng bạc.
Cuộc chiến đấu giữa
mấy ông hàn, cũng gay go ngoạn mục vô cùng.
Nhất là trong việc gạt bỏ một số thế giá văn chương
dư sức đoạt giải, thí dụ như Jorge Luis Borges. Ông
không được, chỉ vì lý do: Borges đã từng
được (nhà độc tài) Pinochet ban giải thưởng, như một
ông già (as an old man). Vậy là đủ để gạt nhà
văn vĩ đại nhất của Mỹ-châu La-tinh, vĩnh viễn, khỏi giải thưởng.
Tuy
thường được giải thích, cuộc chiến đấu giữa mấy ông
mang tính hàn lâm, nhưng thực sự chỉ là
cá nhân. Họ bị cấm không được xì ra cho
báo chí, nhưng giả sử cho phép, họ cũng chẳng
có thì giờ, vì còn quá bận rộn lo
cấu xé lẫn nhau!
Giải
thưởng, lẽ dĩ nhiên, đã được trao cho một số tác
giả thật tuyệt vời của thế kỷ chúng ta: Yeats, Mann, Faulkner,
Hamsun, và Beckett, nhưng không phải như thế là
đủ. Joyce, và Nakokov, thí dụ vậy, đã chẳng được
vinh dự này, và người "vừa đập cánh cửa vừa khóc",
chắc phải là nhà văn Nga, tác giả cuốn sách,
và cuốn phim đã và đang gây chấn động,
Lolita. "Vladimir Nabokov có lẽ là người than van nhiều
nhất, về chuyện hụt giải" (one of the most-lamented non-laureates, The
New Yorker). Khi Nobel về tay Solzhenitsyn, ông tức giận tuyên
bố, đại khái, cái trò "chống Cộng đầu tiên"
phải thuộc về tôi. Hai người từ chối, một, Pasternak, là
do chính quyền Xô-viết làm áp lực. Còn
người kia là Jean-Paul Sartre. Ông từ chối, vì theo
ông, "vô nguyên tắc". (Sau khi ông mất, 'hậu
duệ' của ông đã nài nỉ mấy ông hàn cho
lại họ nhưng bị từ chối).
Omerta,
luật là vậy, nhưng đôi khi cũng đến tai công
chúng. Người đầu tiên phạm luật là Artur Lundkvist;
gà của ông là nhà thơ Neruda. Ông
đã thề sống dai hơn nhà văn Anh, Graham Greene, chỉ để
gạt tên ông này ra khỏi Nobel. Ông cũng là
người không chịu William Golding, Nobel 1983, "một hiện tượng
Anh nho nhỏ, chẳng có chi đặc biệt". Tuy nhiên chuyện thực
sự xấu xa xẩy ra vào năm 1989, khi Ature Allen, lấy quyền thư
ký thường trực, ngăn chặn Viện Hàn Lâm tỏ thái
độ, khi cái đầu của Salman Rushdie bị ra giá, qua vụ Quỉ
Thi. Việc này đã làm hai ông hàn "quit
job". Chủ tịch PEN Thụy điển tuyên bố: "Chuyện quá đơn giản.
Một quốc gia lớn kết án tử một nhà văn chỉ vì dám
bầy tỏ quan điểm của mình, vậy mà một trong những thế giá
văn chương lớn lao nhất thế giới như Nobel đã chẳng dám
lên tiếng. Bởi vì Mr. Allen là một tay thư ký
bàn giấy. Sau việc này, uỷ ban Nobel chỉ là một
trò hề đối với tôi."
Thành
lập năm 1895, thời gian bốn mươi năm đầu, chỉ có hai người,
ở bên ngoài Âu và Mỹ-châu được
giải, nhưng từ Cuộc Chiến Lớn II, được nới rộng. Năm 1968 về tay
nhà văn Nhật Kawabata; Nigeria:
Wole Soyinka (1986); Ai cập: Naguib Mahfouz (1988); Nam Phi:
Nadine Gordimer (1991). Toni Morrison, nhà văn Mỹ gốc Phi
châu đầu tiên được giải (1993), nói với tác
giả bài viết: Nếu một người da trắng được giải, họ sẽ không
nói, đây là chính trị. Bởi vậy tôi
chẳng để tâm đến chuyện phê bình. Giả dụ một nhà
văn Mỹ gốc Phi, hay một người thuộc Thế Giới Thứ Ba - một người không
ở Mỹ, trung tâm của vũ trụ - được giải, vậy là có
vấn đề chính trị. Chính trị là một từ thực, nó
có một cái nghĩa. Nhưng dùng ở đây, nó
chỉ là một từ phân biệt sắc tộc.
Trường hợp nhà thơ
Cộng Sản Neruda, cũng có nhiều điều thú vị, qua
kể lại của Per Wastberg, người năm ngoái được bổ sung, khi
có hai ghế trống. Ông năm nay 64, tiểu thuyết gia, nhà
phê bình, vốn được coi như nhà ngoại giao, hoạt
động nhân quyền, và cũng là nhà văn
Thụy điển đầu tiên công khai lên tiếng yêu
cầu nhà nước rút đại sứ ra khỏi Iran, khi xẩy ra vụ
Rusdhie.
"Là một người
Thuỵ-điển cũng căng lắm," ông nói, "Đi bất cứ nơi
đâu, khi được giới thiệu đây là nhà văn
Thuỵ điển, thế là mọi người nhẩy bổ lên!", ông
nói, không hoàn toàn có vẻ diễu cợt.
Ông kể lại lần gặp gỡ đầu tiên với nhà thơ ý
thức hệ lớn Cộng Sản Pablo Neruda: Tôi gặp ông ta vào
năm 1965, tại Bled. Khi biết tôi là một người Thuỵ điển,
ông liền mời dùng cơm. "Nhà thơ nhà nước"
Cộng Sản này sống như một ông hoàng xa xỉ. Ông
ta hoàn toàn bị Nobel hành, và luôn
nghĩ, ông có một địch thủ, ở trong uỷ ban, qua Gunnar Elelof.
Ông Eleof này tin rằng Neruda có một vai trò,
trong chuyện thủ tiêu Trotsky. Neruda khi đó là lãnh
sự tại Mexico, đã lên
tiếng phủ nhận. Có lần ông nói, ông nguyện
sống dai hơn Elelof, để được giải. Và lời nguyện của ông
đã thành!
Thành viên
Hàn Lâm Viện luôn nhấn mạnh, Nobel không
dính dáng gì đến chính trị, nhưng
chạy trời không khỏi nắng. Nhà văn Phần-lan Frans Eemil
Silanpaa được Nobel năm 1939, chỉ vì Liên bang Xô
viết có dự định xoá sổ xứ sở này. Milosz ăn
giải 1980, cùng năm với sự ra đời của công đoàn
Đoàn Kết. Trường hợp Borges: một điều không thể tha thứ
được, theo nhiều người. Lẽ dĩ nhiên có chính trị
ở đây. Hãy coi danh sách những người đoạt giải. Nếu
bạn tôn vinh Stalin ở Thuỵ-điển, chẳng sao, bạn có thể được
Nobel. Nhưng nếu bạn lỡ mặc bộ đồ đồng phục Nazi, khi còn là
một đứa bé, như vậy là kể như xong.
Bạn nghĩ thế nào?
Chú thích:
Hãy mở giùm
tôi cánh cửa này, tôi đập, và
khóc ròng.
Ouvrez-moi cette porte
où je frappe en pleurant.
Thơ Apollinaire
Thấy mấy ông
bà mafia Do Thái không, họ đưa những là
Isaac Bashevis Singer thiên tài, Imre Kertész
thiên tài, Elfriede Jelinek thiên tài
lên. Toàn là những người Do Thái khắp nơi
trên thế giới của họ được kênh lên. Họ có
thế lực tiền nong và chính trị của các nước lớn.
Thế là nhân gian cứ chạy theo Nobel do họ lập ra, ca mấy
người do nhóm mafia văn chương thế giới này đưa lên
trên giời. Nhắm tít mắt lại khen theo dịch dọt phục vụ mấy
con mồi của băng đảng mafia văn chương ấy.
LTH
(1)
Vưỡn Nobel
Nhà thơ Wislawa Szymborska:
Kiến Tạo Một Nền Thi Ca Phổ Quát Giữa Những Rối Loạn Chính
Trị
*nguồn: Tạp chí Văn
Học Nghệ Thuật Liên Mạng (VHNT) #240 – Oct. 22, 1996, cung
cấp bởi nhà văn Nguyễn Phước Nguyên. BBT Da Màu
cập nhật và nhuận sắc Oct. 03, 2016.
Note: Chết rồi mà còn bị dựng dậy,
để nhuận sắc!
Và, không hiểu cái tít
bài viết có bị nhuận sắc, hay không?
Nếu có thì thật là khổ cho PN!
Bởi là vì, nguyên tác
tiếng Anh, “Wislawa
Szymborska: Creating Poetry Out of Chaos,” thật đơn giản, và tất nhiên
thần sầu, “sáng tạo ra 1 nền thi ca từ [thoát ra
từ] hỗn mang”
Out of chaos, mà “giữa" hỗn mang?
“Rối loạn Chính trị” nữa chứ!
Cái còm của black raccoon, cũng có
tí vấn đề:
The Nobel Prize in Literature 1996 was awarded to
Wislawa Szymborska “for poetry that with ironic precision allows
the historical and biological context to come to light in fragments
of human reality”.
The Nobel Prize in Literature 1996 đã được
tặng thưởng cho Wislawa Szymborska ” vì nền thi ca với sự
sắc bén mang tính trào phúng cho phép
ngữ bản thuộc nhân học phơi bày ra ánh sáng
những mảnh đời thường của con người”.
Vòng hoa Nobel, trao
cho W.S, vì “thơ của bà, với sự chính
xác diễu cợt, cho phép cái nội dung lịch
sử và sinh vật, chường ra ánh sáng,
trong những manh mún của thực tại con người”, hay nói
ngắn gọn, thơ của bà chính xác, cái
chính xác tiếu lâm, cà chớn.
Thành ra "Việt Nam",
ở cái tít, và những đứa con, quả
đúng là của bà mẹ Mít, ngoài
ra, chúng tranh giành hết cả.
(1)
Nhắc tới Isaac Bashevis
Singer thiên tài, FB phán, có
liền!
Nhớ, lần đăng bài này trên mục Tạp
Ghi, do GCC phụ trách, trên Văn Học, NMG đọc, xoa đầu
tên viết muớn, ông sáng tác bằng tạp ghi,
tôi làm không được.
"Người" muốn nói tới những viên đất Gấu ném
xuống mộ thằng em, lấy ra từ những giọt nước từ giếng trời....
2 Years Ago
See Your Memories
Chữ người tử tù
Nhà văn
Isaac Bashevis Singer, khi phải lựa chọn một số truyện ngắn, để
làm một tuyển tập, ông nói đùa, mình
đúng là một đấng "quân vương", vớ...
Chữ người tử tù
Nhà văn
Isaac Bashevis Singer, khi phải lựa chọn một số truyện ngắn, để
làm một tuyển tập, ông nói đùa, mình
đúng là một đấng "quân vương", với ba ngàn cung tần mỹ nữ, và hàng
lô con cháu. Chẳng muốn bỏ đứa nào!
Ông sinh năm 1904, tại Ba Lan, di cư sang Mỹ
năm 1935, và một thời gian làm ký giả cho
tờ báo cộng đồng Jewish Daily Forward, tại New York City.
Chỉ viết văn bằng tiếng Iddish, và được coi như nhà
văn cuối cùng, và có lẽ vĩ đại nhất của "trường"
văn chương Iddish. Vĩ đại hơn, ông là nhà văn
Iddish đầu tiên, sống nhờ viết văn. Chúng được dịch ra
tiếng Anh, rồi ông được trao tặng Nobel (1978). Là một
trong số những dịch giả truyện của mình, với ông, tiếng
Anh còn là ngôn ngữ mẹ đẻ thứ hai, nhưng ông
thú nhận, ông viết bằng tiếng Iddhish, vì đây
là "tử ngữ', và truyện của ông là để cho
những người đã chết, đọc.
Trong Nhà Văn Hiện Đại, khi Nguyễn Tuân
mới xuất hiện, Vũ Ngọc Phan đã tiên đoán, văn
tài của ông sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới lớp sau.
Có thể mượn nhận định của Sartre, về chủ nghĩa Mác-xít:
tùy bút của Nguyễn Tuân quả đã "không
thể vượt được", nhất là chất khinh bạc của nó, đã
"di truyền" mãi mãi về sau này. Như nhìn
ra "phần số khắc nghiệt", để bù lại, trong truyện ngắn, Nguyễn
Tuân thường viết về những người đã chết. Ở đó,
chất khinh bạc mất hẳn, hoặc được ngôn ngữ kỳ diệu của ông
đẩy tới tột cùng, biến thành lòng nhân hậu.
Cảnh Huấn Cao viết bức tranh chữ cuối cùng của
đời mình rồi quay sang nói với viên cai ngục,
hãy kiếm một nghề khác mà nuôi thân,
(con người như ông, những chữ như thế này phải tìm
đất khác để mà tụ lại): chẳng đợi người cai tù
nói hết câu: xin bái lĩnh, ông đã
nhập vào những chữ chưa khô mực. Khó mà thấy
cõi lòng nhân hậu đó, của Nguyễn Tuân,
ở trong những trang tùy bút tuyệt vời như Chiếc Lư Đồng
Mắt Cua, Nguyễn... kể cả sau này, trong những bài ký
thời chống Mỹ cứu nước, như thể ông càng đi nhiều, càng
gặp người (sống) nhiều, tài hoa, lòng nhân hậu của
ông càng hao mòn dần...
Chữ người tử tù: lý tưởng một đời người,
ý nghĩa của chữ. Trên đỉnh non Tản: hiện thực huyền
ảo. Non Tản: Cái nôi, chốn hành hương, cội rễ nhà
trời, nơi trời Việt, đất Việt gặp gỡ...
Cá nhân người viết làm quen với
Nguyễn Tuân rất sớm, phải nói là quá sớm.
Mới biết đọc, biết viết, "thằng bé" đã nghe đọc văn
ông, ở những bậc cha chú trong gia đình. Người bác
trong lúc tâm đắc với một người bạn về những viên
ngọc vương vãi, trên con đường từ giếng trời trở về trần,
vô tình để mãi những viên ngọc trong trí
tưởng của đứa cháu. Thế đấy, cậu bé đã dùng
những viên ngọc như vậy để đánh dấu những trang sách
hồng, Ông Đồ Bể, Cái Ấm Đất, của Khái Hưng. Đánh
dấu những trang sách của một chuyện tình (chúng làm
cho những lần chia ly bớt thê thảm đi một chút); của cuộc
chiến: như những viên đất ném theo, ném theo mãi,
xuống lòng huyệt...
Nhận xét của họ Vũ về thể văn tuỳ bút,
ở Nguyễn Tuân, không ngờ đầy chất tiên tri. Những
bài viết của ông sau này, là ký,
không còn là tuỳ bút.
Với tuỳ bút, cái "tôi" rất quan
trọng. Cá nhân người viết, khi đọc "Những essays hay
nhất trong năm của Mỹ", The Best American Essays, thấy chúng
rất giống thể văn tuỳ bút, ở tính tự thuật, ở chất
hồi tưởng, và nhất là ở tấm lòng của người viết,
khi chuyện trò với những hồn ma. Tuyển tập Những bài
essay hay nhất (hàng năm) của Mỹ, có một đặc biệt: mười
hai năm hiện diện cho tới nay, mỗi năm mời một tác giả làm
"guest editor", thường là những khuôn mặt "đang lên":
Joyce Carol Oates (1991), Susan Sontag... Gần đây nhất là
Jamica Kincaid (1995), Geoffrey C. Ward (1996).
Tuyển tập 1997,
với Ian Frazier lo việc in ấn và viết lời giới thiệu, có
bài viết của Lê Thị Diễm Thúy, The Gangster We
Are All Looking For. Qua phần ghi chú tiểu sử, chúng
ta được biết, bà là một nhà văn, và nghệ
sĩ trình diễn đơn (solo performance artist). Sinh tại Việt Nam,
lớn lên tại miền Nam California, hiện cư trú tại phía
tây Massachusetts. Đã từng đoạt giải thưởng 1997 Bridge
Residency của Headlands Center for the Arts. Văn xuôi và
thơ của bà đã xuất hiện trên The Massachusetts Review,
Harper's Magazine, và Muae. Tác phẩm trình diễn: "Red
Fiery Summer" và "the bodies between us". Hiện đang viết cuốn sách
với nhan đề nêu trên, sẽ do Knopf xb.
Đọc Gã
Găng-tơ Tất Cả Chúng Ta Tìm, chúng ta sẽ thấy
hậu quả của cuộc chiến đè nặng lên những nhân vật
trong truyện, và thật khó mà nghĩ rằng, nó
đã chấm dứt, không phải với chúng ta, mà với
những thế hệ tiếp theo. Câu chuyện bắt đầu bằng một tấm hình
đen trắng: Việt Nam là một tấm hình đen trắng, chụp ông
bà tôi ngồi trên những chiếc ghế tre... Khi nhìn
bức hình ông bà tôi, ở những năm cuối đời của
họ, tôi cứ muờng tượng ra một sự khởi đầu. Khởi đầu cho cái
gì, và ở đâu, tôi không biết, nhưng luôn
luôn là một sự khởi đầu... Ký ức của bà mẹ
truyền lại cho người con (nhân vật xưng tôi): Mẹ tôi có
nghe một câu chuyện về một cô gái bị chết vì
bom na-pan, khi xuống bãi dúng chân vào nước
cho mát. Người ta kiếm thấy cô nổi lềnh bềnh trên mặt
biển. Chất lân tinh của trái bom trùm lên thân
thể cô, khiến nó lập lòe như một ngọn đèn...
Trên nói tiên tri, đối với cả thể
văn tùy bút, lẫn con người Nguyễn Tuân. Một
cách nào đó, khi ông phải "từ chối" tác
phẩm (Những tác phẩm viết trước cách mạng như Tàn
Đèn Dầu lạc, Chiếc Lư Đồng Mắt Cua, hoặc sau đó, như
Phở chẳng hạn), tôi nghĩ, có thể ông tin rằng,
tuy ông bị ở lại, nhưng thể văn tuỳ bút, và con người
Nguyễn Tuân ở trong đó, đã "vượt thoát".
Đã sống sót, ở một số nhà văn sau ông.
Thí dụ như Vũ Khắc Khoan, Mai Thảo... Có điều, cả Nguyễn
Tuân lẫn Vũ Ngọc Phan không thể ngờ, thể văn tuỳ bút
lại trở thành một địch thủ lợi hại của thơ ca và giả
tưởng, như trong bài Tựa của Robert Atwan, cho Tuyển tập 1997
kể trên: "Sự thay đổi của thể essay ngày hôm nay
làm cho thi ca và giả tưởng trở thành tù
đọng: essay là một dạng văn chương năng động nhất hiện nay của
chúng ta. Nào là essays kể (narrative), như của Lê
Thị Diễm Thuý, rất gần gụi với thể truyện ngắn. Essays khảm (mosaic)
giống như thơ xuôi. Rồi phê bình văn chương mang dạng
tự thuật. Thể văn báo chí mang giọng bi kịch, cộng thêm
ẩn dụ, suy tưởng, với một liều lượng rất nặng tay, những thông tin.
Một vài nhà essayists viết tranh luận (polemic) "cứ như thơ"!
Trong bài Giới thiệu, Ian Frazier lại coi essay
là một hành động (Thì "đi" không phải
là một hành động hay sao?, tôi như nghe Nguyễn
Tuân, Vũ khắc Khoan, tuyết ngưu "gầm gừ" từ phía bên
kia đời sống vang vọng qua). Ông định nghĩa thêm: Một bài
essay là một người đang nói. Câu này thật
đúng với tuỳ bút Nguyễn Tuân. Đây là
sự khác biệt giữa hai Nguyễn Tuân, giữa tùy bút
và ký. Có thể nói khinh bạc là tuỳ
bút Nguyễn Tuân. Với ký, con người biến mất, chỉ còn
"chúng ta", một khối vô danh đáng ghét, đáng
sợ.
Có thể có người "bắt bẻ"; trong truyện
ngắn, trong tiểu thuyết, luôn luôn vẫn thấy, vẫn nghe
người nói; nhưng người ở đây chỉ là giả tưởng,
cái tôi trong tiểu thuyết, truyện ngắn là một
tôi đeo mặt nạ. Khác hẳn cái tôi "bắt buộc",
như chất khinh bạc, ở trong tuỳ bút Nguyễn Tuân. Khi nào
quá chán cái tôi khinh bạc, ông viết
về những người đã chết...
Gấu thợ máy Bưu
Điện
Hình này, chắc
là chụp sau khi Diệm ngỏm ít lâu,
Bưu Điện mở mạch viễn ấn dành cho báo chí
nước ngoài, Gấu thợ máy đang thử máy,
trên dàn máy mới của Philco Corp, lắp ráp
cho Bưu Điện, tính sử dụng với Bangkok, nhưng sau quay qua
RCA Manila.
Tay Mẽo, đứng kế bên Gấu,
tên là Dzuman, hay Dzumal [?], chuyên
viên Philco Corp. Trụ sở chính của Hãng,
nằm trên đường Nguyễn Du, ngay đầu đường Catinat, công
trường Nhà Thờ Đức Bà, còn gọi là
công trường Kennedy. Vì biết tí tiếng Anh,
Gấu đang làm bên Quốc Nội, được chuyển qua Quốc Ngoại,
đặt dưới quyền sử dụng của tay Mẽo này, phụ trách mạch
viễn ký của các hãng báo chí nước
ngoài, như AP, UPI, Reuters, SITA [hãng tầu biển]
Một
đêm mưa bên sông nhớ bến
Hỡi mưa đêm,
dệt tơ những hồi ức xa xôi
Hỡi bóng hình, ngồi bên
sông nhìn mưa rơi
Mưa rơi mưa rơi êm đềm như đêm
xưa kia thôi
Một đêm mưa
bên sông nhớ bến
Hỡi mưa đêm,
dệt tơ những hồi ức xa xôi
Hỡi bóng hình, ngồi bên
sông nhìn mưa rơi
Mưa rơi mưa rơi êm đềm như đêm
xưa kia thôi
Con đò nào
đã về từ nẻo lạ, đậu bến này
Nhớ mùi than củi, bếp hồng hơ ấm
bàn tay
Bến đây không mùa,
chỉ có một trời mưa lạnh thôi
Mưa rơi mưa rơi,
lạnh tay ai ngồi nhìn mưa rơi
Chỉ một bếp lửa, nhớn nhác tìm
hoài, tìm hoài
Con đò nào đã về
từ nẻo lạ, đậu bến này
Đâu còn bến nào khác,
để đò gieo neo cuộc chơi.
Bản thảo thời gian
Nhìn coi
(làm sao nhìn) thời gian không hình
tướng
Nhưng cái đuôi vô hình
quệt nhẹ lên mọi vật
Làm chúng mờ đi: cánh
cửa gỉ sét kẽo kẹt
Rồi im bặt. Ngọn đèn lu mờ dần
Rồi tắt ngúm. Gương mặt xoã
tóc soi mặt hồ, run rẩy
Rồi lặng ngắt…
Thời gian dắt chúng
ta đi như những chiếc bóng
(trên bức tường này in dấu
chúng ta tựa lưng nghỉ mệt
không còn ai nhìn
thấy)
Những chiếc mũi khoằm gật gù, ra
chiều thông cảm
Với những người nửa đêm đốt đuốc
đi tìm, lối ra bờ tường bóng tối
Nhưng chỉ hoài công
Thư cao nguyên
Cú vọ, nhìn
xuyên đêm đen,
Nhưng chẳng thấy,
những nỗi đau riêng, trơ trọi
Goá phụ ngậm mật đắng, mớm cho
đàn con vị ngọt từ tâm
Tiếng cú rúc từ cánh
rừng lam chướng
Vọng lại mấy thập
niên, nhắc rằng, vận rủi chỉ dài như vệt sao
băng
Người goá phụ gói ghém
tay nải rỗng không đời mình, ném vào
vực thẳm.
Và làn gió ma thiêng
thổi bay chiếc áo lam lũ về lại đồng bằng.
DV
LAMENTO
He put the pen
down.
It lies there without moving.
It lies there without moving in empty
space.
He put the pen down.
So much that can
neither be written nor kept inside!
His body, is stiffened by something happening
far away
though the curious overnight bag beats
like a heart.
Outside, the late
spring.
From the foliage a whistling-people or
birds?
And the cherry trees in bloom pat the
heavy trucks on the way home.
Weeks go by.
Slowly night comes.
Moths settle down on the pane:
small pale telegrams from the world.
Tomas Transtromer:
Selected Poems [ed by Robert Hass]
Lamento
Anh ta để cây
viết xuống
Nó nằm liệt
Nó nằm liệt trong không gian
trống rỗng
Anh ta để cây viết xuống.
Quá nhiều
điều không thể viết, mà cũng không thể
giữ khư khư trong mình!
Cơ thể của anh ta cứng ngắc, bởi 1 điều
gì xẩy ra ở thật xa
Mặc dù cái túi qua
đêm kỳ cục, đập như 1 trái tim.
Bên ngoài
xuân muộn
Từ tàng lá có tiếng
lào xào - người hay chim?
Và những cây anh đào
đang nở rộ vỗ nhẹ lên những xe tải nặng trên đường
trở về nhà.
Những tuần lễ qua
đi
Đêm chầm chậm tới
Bướm đêm làm tổ trên
ô cửa:
Những thông điệp nhỏ nhợt nhạt từ
thế giới?
Note: Đọc “Bản
thảo thời gian”, bèn dịch bài này.
Thơ của bạn lạ lắm, có cái
air thơ Đường, có cái chất nostalgie, và
có, ở trong cái tít của bài thơ
của Tomas Transtromer: Lamento.
Tks. Take care.
NQT
Web definitions
A lament or lamentation
is a passionate expression of grief, often in music, poetry,
or song form. The grief is most often born of regret, or mourning.
wiki/Lamento
Tạm dịch: Lamento
là tiếng than van, thường là trong nhạc, thơ
và bài hát, phát sinh từ ân
hận, hay tưởng niệm...
Ta tha thứ cho mi, vì mi có nhiều
kẻ thù quá!
BHD phán, từ phiá bên
kia vọng qua!
Nhớ,
hồi mới quen BHD, về khoe nhặng với bạn C. trong Thất Hiền,
bạn gật gù thông báo với cả bọn, Thánh
nữ đó, mỗi lần Thánh nữ phán, là
một Thánh ngôn đối với bạn Gấu ta!
Còn bà cụ C thì lắc
đầu, nhà đó không chịu nổi một thằng như
mày đâu!
Ông anh bèn cãi lại,
nó lấy con H. chứ đâu phải gia đình con
H. Mày cứ lấy nó đi, đem nó ra khỏi cái
gia đình đó, là đại phúc cho con
H đấy!
Ui chao, đúng ra, ông phải
nói, đại phúc cho thằng Gấu chứ!
Mày lấy nó đi.
Ôi sao đơn giản như thế mà
Gấu không làm được!
Về
già, nghĩ lại, mới thấm đòn, tại sao ngày
đó ngu thế. Vừa mới nghe em nói bây giờ
H hết lãng mạn rồi, là điên lên, may
là chưa tát tai cho em một cái, đúng
như DP, thằng bạn của thằng em trai đã tử trận, khi đọc
đoạn chạy theo em ở nơi cổng trường Đại Học Khoa Học:
-Gặp tay em là em bạt tai cho vài
cái rồi!
Sau này, nhớ lại Maugham, nhớ ra
cái mẹo của cô gái ở trong một truyện ngắn
của ông, khi tìm cách tống cổ ông
Phó Vương ra khỏi nhà, thì mới vỡ ra rằng,
BHD cố tình nói như vậy, để tống cổ Gấu ra khỏi gia
đình của cô, tránh cho Gấu cái khổ, phải
dạ dạ vâng vâng thưa Bố, với ông bố vợ Bắc Kít!
Một mình em gọi ông ta là
Bố là quá đủ rồi!
*
Ta tha thứ cho mi, vì
mi ngu quá, không hiểu lòng ta. Ta không
muốn mi phải gọi cái ông bố của ta là bố,
nên đành phải từ chối tình mi.
Mi vừa ngu, vừa kiêu ngạo, vừa bướng
bỉnh, vừa quá yêu ta... Chỉ cần ta giả đò
lắc đầu, là mi bỏ đi, ta biết trước như vậy...
Ui chao, sao mà khôn như thế,
đúng là Gái Bắc Kít!
*
Trong Lục Mạch Thần Kiếm, A Châu
có tài hóa trang thần kỳ, đóng
giả vai Kẻ Đại Ác Đoàn Chính Thuần, chịu
chết dưới Giáng Long Thập Bát Chưởng của người
yêu là Kiều Phong, trong khi ngắc ngoải, nằm trong lòng
Kiều Phong, nghe người yêu gặng hỏi, tại "nàm" sao mà
nàng phải "nàm" như vậy, à, thôi ta hiểu
rồi, nàng sợ ta đánh chết Đoàn Chính
Thuần, dòng họ Đoàn có Lục Mạch Thần Kiếm sẽ kiếm
ta giết đi để trả thù…
A Châu mỉm cười mà đi, chàng
hiểu em rồi, em chết là vì chàng, cho
chàng, chứ không vì ai khác.
Bởi thế, mà, qua bên kia,
BHD mới ngoái lại mà nói rằng, ta tha
thứ cho mi, vì cái chuyện, mi không hiểu
lòng ta, đâu phải ta không yêu thương
mi, mà vì ta không muốn làm nhục mi,
khi bắt mi gọi ông bố Bắc Kít của ta là bố!
'Cảm tạ ông Gấu'
Wednesday, June 10, 2009 12:27 PM
From:
To:
Kính gửi nhà văn Nguyễn Quốc
Trụ,
5, 7 năm nay, có thể chỉ 1, 2 năm,
không nhớ rõ bắt đầu đọc ông từ lúc
nào, đọc ở đâu, nhưng cảm thấy nợ nặng, nặng nợ
cùng ông từ lâu lắm nên kính
gửi ông vài lời cảm ơn, ngộ nhỡ có thình
lình đi tầu suốt, ai biết được, ngoài bẩy chục sống
nay chết mai đâu chừng, xin ông vui lòng nhận
cho lời cảm ơn của tấm lòng biết ơn chân thành
này từ một độc giả lẽo đẽo vất vả theo ông trên giấy
mực lem nhem lẫn những trang mạng chen chúc chằng chịt.
Học hỏi được nhiều, cứ ung dung thuổng
5, 7% kiến thức rung cảm ông ghi đó là
tôi cũng đủ tiêu xài đến cuối đời, lại nhận
ra thấp thoáng đời cũ từ tản cư hồi cư di cư rồi di tản,
thấy chuyện bông hoàng lan của mình trong hình
ảnh bông hồng đen, thấy rụt rè mến phục Bếp Lửa đọc
dạo nào trên xe đò đoạn đường Búng
Lái Thiêu trong giọng ông hùng hồn
ngợi khen Bếp Lửa, Một chủ nhật khác ... không dám
chửi cha mấy thằng mấy con Bắc Kít, yankee mũi tẹt thì
thỏa dạ nghe ông viết giùm nỗi thù hận thâm
căn cố đế mang từ những trại Suối Máu, Trảng Sụp, Phú
Quốc, Xuân Lộc, hết K nọ đến K kia, lia chia abc 123 có
đủ!
Cảm ơn ông Gấu, chúc ông
vui mạnh luôn để cho độc giả ông được hưởng lợi.
Xin ông bảo trọng.
TB: Tuần trước tôi cũng lên
Ottawa đi qua mấy chỗ ông chụp hình, hãnh
diện lắm. Chỉ tiếc uất kim hương đã tàn cả nên
lếch thếch theo con cháu lên nhà thủy tạ
ăn ba cái cọng khoai tây chiên chua cả miệng,
mệt cả người.
Phúc đáp:
Đa tạ.
Gấu mấy bữa nay đau
nặng, thì nhận được thư bạn. Thật đỡ quá.
Khi nào mạnh,
sẽ viết thêm.
Cho gửi lời cảm tạ và
chúc an khang tới toàn gia đình bạn.
NQT
*
Nghe
anh Trụ bệnh nặng, thăm và chúc chóng hồi phục để còn
chở cháu đi chơi và chụp hình, và
nhất là viết cho thiên hạ đọc .
Cám ơn đã đọc sách
giùm, nhất là đọc và đem về những tản
mạn cũng như những bài viết thú vị lấy từ các
trang mạng và blogs .
Nhân vụ ông già 88 tuổi
James Von Brunn xách súng vào
Holocaust Museum ở Washington D.C.bắn chết người mới thấy
rằng lòng thù hận không hạn tuổi .
(1)
Chúc khỏe ,
K
*
Tks, both of U.
Bịnh hết rồi, nhưng còn yếu xìu.
Hết còn khoẻ và viết như trâu [chữ của
O]!
NQT
(1)
"It's better to be strong than right," he said
in one of his dark screeds online, "unless you like dying.
Crowds hate good guys."
Một ông bài Do Thái
vô Bảo Tàng tưởng niệm Lò Thiêu xả
súng bắn tưới. "Bạn phải mạnh, không cần bạn phải
đúng. Không lẽ bạn thích chết, bị người ta
giết? Đám đông ghét thiện nhân."
Thảo Trần nhận thẻ công
dân Canada 1997
Nay ong Gau,
Toi thay cai bai "van te" hay lam ong
a ! (1)
Thảo Trường
Ối ! Trụ ơi!
Bốn mươi năm chung sống
Hai mươi năm lưu lạc xứ người,
Em đi làm- anh ở nhà viết
văn đọc sách.
Ra đường – em lái xe- anh lười
seatbelt-
Nên ngồi băng sau làm ông
chủ,
Còn hai mươi năm kia,
hết mười năm anh ở trong tù,
em nuôi mẹ nuôi con,
mười năm đầu từ khi cưới nhau
cô phù dâu theo anh
về trong giấc chiêm bao !!
Em đi dạy học- anh làm
công chức,
Sáng anh ngồi quán Cái
Chùa.
Cà phê sữa, croissant
Trưa lang thang đại lộ Hàm Nghi
- Cầu Calmette
Tối thì Văn Cảnh- Đêm Mầu
Hồng.
Không ai kèn cựa với người
đã chết.
Tù trong tù.
Đó là tình
cảnh Gấu, khi quá nhớ nhà, quá đói,
không biết chuyện gì xẩy ra cho gia đình,
không làm sao bắn tin về nhà.... và
trong lúc đang lao động cải tạo, do tuổi già, được
phân về tổ công tác trồng rau, đã đột
nhiên phát khùng và cứ thế bỏ chạy về
phía ven rừng phiá trước, và vừa chạy đến ven
rừng, là kiệt sức, bèn kiếm một lùm cây khá
dầy, nằm lăn ra thở, chờ mấy anh chàng bảo vệ nông trường
cải tạo tới, xách về, chẳng khác gì một tấm rẻ
rách.
Gia đình Gấu đã biết Gấu
bị bắt đưa đi cải tạo tại Đỗ Hòa, do một chú
thiếu niên trốn trại, thoát, hai ba tuần trước
đó, thương tình, và nhớ lời dặn, tìm
đến nhà đưa tin giùm.
Gấu đang thụ hình tù trong
tù, tại tổ trừng giới, và đang lao động, thì
có tin người nhà lên thăm nuôi.
Cậu thiếu niên, lạ làm
sao, rất khoái Gấu, tin Gấu, nói cho Gấu biết,
cậu sẽ trốn trại, và nếu được, sẽ cho Gấu đi cùng.
Sau đó, cậu nghĩ ra kế hoạch trốn
trại, thật đơn giản, nhưng có cơ may thành công.
Bữa đó chủ nhật, không phải
đi lao động, kiếm một góc, cậu nói với Gấu, không
thể nào trốn từ đội lao động, mà phải tìm
cách để được đưa ra khỏi đội. Cách tốt nhất, là
làm ra bệnh, mà phải là bệnh thiệt, để được
đưa lên khu trạm xá. Từ đó, mới có thể
trốn được.
Gấu nói, đúng như thế, nhưng
ra khỏi trại, vẫn không thể nào thoát,
chung quanh rừng, trời, nước mênh mông, làm
sao thoát, thoát đi đâu.
Cậu thiếu niên nói, phần
đó để ông Trời tính.
Quả đúng như thế, cậu làm
ra bệnh ỉa chảy, được cấp tốc cách ly, và trong
đêm trốn trại, được một ghe chài đưa về tận Sài
Gòn.
*
Ai đã từng ở tù VC đều hiểu rõ, một trong những mục tiêu
dã man nhất của nó, không phải là tranh
thủ thiện tính của người tù, làm sao cho người
tù yêu VC, yêu quản giáo, mà là,
làm sao chuyển hận thù của tù qua... tù,
tức là qua mấy tay được VC ban cho chút quyền lực, làm
đội trưởng, làm bảo vệ, làm đầu bếp... Và người tù,
thì bằng mọi cách, phải tâm niệm, cái
thằng ăng ten, chính là mình, nhưng không
còn là mình ! Bạn ở tù VC, và
sẽ nhận ra chân lý, VC hiền vô cùng,
bao cái ác của VC, là mấy tay ăng ten, mấy tay
được VC cất nhắc, lãnh đủ.
Theo nghĩa đó, một khi bạn bị đưa
vô tổ trừng giới, là VC không còn
nữa, chỉ còn có tù với tù: Chúng
mày chơi lẫn nhau đấy nhé ! Đáy địa ngục, nếu
có, là vào những giờ phút này.
Nói như thế, để bạn hiểu rằng,
khi nghe tin có người nhà thăm nuôi,
Gấu chỉ còn có nước than Trời, tại sao lại vào
lúc này?
Nông trường cải tạo Đỗ
Hòa có hai loại bảo vệ, một của Đội, và
một của Nông Trường. Bảo vệ nông trường là
Ông Trời, hách hơn cán bộ VC rất nhiều,
bởi vì cán bộ VC, tức quản giáo ít
khi phải ra mặt, chỉ những dịp lễ lớn, những khai mạc nghị quyết,
những huấn dụ...
Đám bảo vệ nông trường đa
số còn trẻ, cũng là tù, nhưng được quản
giáo tin cậy, rút ra làm lực lượng nồng
cốt.
Một trong những tay
như thế đó, tới hiện trường lao động, yêu cầu
cho Gấu tới nhà hội, để gặp người thân.
Gặp rồi, tay này đưa Gấu về tổ
trừng giới, cất ba đồ thăm nuôi, và đưa Gấu ra
hiện trường tiếp tục lao động.
Trên đường từ hiện trường lao động
tới "Nhà Hội", tay này căn dặn Gấu, đại khái
như sau, như Gấu còn nhớ được:
Anh đang bị án tù
trong tù. Khi gặp người thân, hãy tranh
thủ ăn, còn bao nhiêu, về Tổ, tụi nó sẽ
cướp hết.
Tôi đã kiểm tra, người nhà
của anh giấu mấy trăm đồng ở trong mấy ký gạo. Lát
nữa, anh lấy tiền đó ra, giấu thật kỹ. Số tiền này
sẽ cứu mạng anh đấy.
Bạn không thể tưởng tượng,
lần gặp gia đình đó, nó bi hài
đến thế nào
Gấu Cái nói mặc Gấu Cái,
Gấu Cái khóc mặc Gấu Cái,
Gấu Đực tranh thủ nhét đồ ăn ngập
miệng.
Bây giờ, đọc lại đoạn
trên, thì nhớ ra là, chính Gấu đưa ra ý
tưởng, muốn trốn trại là phải trốn từ Khu bịnh viện của Trại, cho
cái cậu thanh niên, cũng tù nhân.
Còn cái tay ra hiện trường
đưa Gấu về Nhà Hội gặp Gấu Cái, là TNXP,
cán bộ Trại, chuyên khám đồ thăm nuôi
của tù.
SN_GCC_2016
16.8.2009
THE YOUNG NIGHT
And now the lustral waters of
night absolve me
from the many colors and the many forms.
In the garden, birds and stars exalt
the longed-for return of the ancient norms
of sleep and shadow. Darkness is sealing
the mirrors which copy the fiction of things.
Goethe said it best: everything
near becomes far.
Those four words capture the entire twilight.
In the garden, roses cease to be roses;
they wish to be the Rose.
-C.M.
J.L. Borges: Poems of the Night. Waiting For The Night (1978-1985)
Note:
p. 137. The Young Night: Borges discussed the line
by Goethe quoted in the poem: "Alles Nahe werde fern, everything
near becomes far. Goethe was referring to the evening twilight.
Everything near becomes far. It is true. At nightfall, the
closest to us seems to move away from our eyes. So the visible
world has moved away from my eyes, perhaps forever. Goethe could
be referring not only to twilight but to life. All things go off,
leaving us. Old age is probably the supreme solitude-except that
the supreme solitude is death. And 'everything near becomes far' also
refers to the slow process of blindness which is not a complete misfortune.
It is one more instrument among the many-all of them strange- that
fate or chance provide," "Blindness," Selected Non-Fictions (edited
by Eliot Weinberger), New York, Penguin, 1999, p. 483.
Đêm trẻ
Và bây giờ nước
thanh tẩy của đêm
Xóa cho tôi rất nhiều màu
sắc và hình thể.
Trong vườn, chim và sao tán
tụng sự trở về hằng mong mỏi
Những tiêu chuẩn xa xưa về ngủ và
bóng
Đêm đen sẽ đóng khằn những
tấm gương
Chúng lập lại giả tưởng của sự vật
Về cú này, Goethe phán
bảnh nhất, mọi vật gần thì bèn xa,
[Cái gì gì ôm
em trong tay mà đã nhớ em những ngày sắp
tới ?]
Chỉ mấy từ tóm trọn chạng vạng
Trong vườn những bông hồng ngưng là
những bông hồng
Chúng trở thành BHD.
FOREWORD
First and foremost, I think
of myself as a reader, then as a poet, then as a prose writer.
The initial part of this statement calls for no explanation; the other
two should be qualified. They do not mean- they emphatically do not
mean-that I am fonder of my verse than of my prose, or that I judge
it as technically better, For all I know, the opposite may be true.
I suspect that poetry differs from prose not, as many have claimed,
through their dissimilar word patterns, but by the fact that each
is read in a different way. A passage read as though addressed to the
reason is prose; read as though addressed to the imagination, it might
be poetry. I cannot say whether my work is poetry or not; I can only say
that my appeal is to the imagination. I am not a thinker. I am merely
a man who has tried to explore the literary possibilities of metaphysics
and of religion.
My stories are, in a sense,
outside of me. I dream them, shape them, and set them down;
after that, once sent out into the world, they belong to others.
All that is personal to me, all that my friends good-naturedly tolerate
in me-my likes and dislikes, my hobbies, my habits-are to be found
in my verse. In the long run, perhaps, I shall stand or fall by
my poems.
Goethe, who is not one
of my heroes, thought that all poetry is occasional poetry (Gelegenheitsdichtung).
I have forgotten the context, but I suppose his statement is
open to at least two interpretations: he may have been apologizing
for the all-too-plentiful verses he contributed to albums, or he
may have implied that true poetry springs from what a particular
man feels at a particular time. In my case, I can fairly claim that every
piece in this book had its origin in a particular mood, in a necessity
of its own, and was not meant to illustrate a theory or to fill out
a volume. I have never thought of my poems, in fact, in terms of publication.
When this book was begun,
some three years ago in Cambridge, it was the first time I
had ever taken a direct hand in the translation 'of any of my own
work. Di Giovanni and I have gone very thoroughly over each piece,
each line, and each word; the fact that I am not only a collaborator
but also the writer has given us greater freedom, since we are less
tied to verbal precision than to inner meanings and intentions. I
should like to thank the outstanding British and American poets who,
by their skill and generosity, have made English poems of my Spanish
originals and so given them this new life.
JORGE LUIS BORGES
Salt Lake City, March 31, 1971
Trước hết và trên hết, tôi
nghĩ về tôi như là 1 độc giả, rồi như một thi
sĩ, và rồi thì là, một nhà văn
xuôi.
Phần đầu của câu phán, tớ là
độc giả, thì đếch cần giải thích [trừ đám
Mít triết, chúng chỉ thích làm phê
bình gia, khi chửi Gấu, mi đâu phải phê bình
gia, vì mi đâu có bằng cử nhân triết của
Thầy Nguyễn Văn Trung ban cho mi, hà, hà!]. Hai phần
sau, có lẽ nên định giá. Chúng không
có nghĩa, tôi khoái thơ vần hơn thơ xuôi.
Ngược lại, có lẽ thú hơn, xuôi hơn vần.
Tôi ngờ rằng, mỗi cách có
cách đọc riêng của nó. Môt đoạn,
đọc, mà nghĩ, nó viện tới lý lẽ, thì
là văn xuôi, cái viện tới trí tưởng
tượng, thì là thơ. Tôi cũng khó nói
về cái viết của tôi, thì thơ, hay đếch thơ. Tôi
chỉ có thể nói, tôi cố với/vời tới trí
tưởng tượng, khi viết chúng.
Tôi không phải là 1 suy
nghĩ gia. Tôi, giản dị mà nói, là 1
người cố phát triển, khai phá, những khả hữu văn
chương của siêu hình học và của tôn giáo.
Cafe Trieste: San Francisco
To L.G.
To this corner of Grant and Vallejo
I've returned like an echo
to the lips that preferred
then a kiss to a word.
Nothing has changed here. Neither
the furniture nor the weather.
Things, in one's absence, gain
permanence, stain by stain.
Cold, through the large steamed
windows
I watch the gesturing weirdos,
the bloated breams that warm
up their aquarium.
Evolving backward, a river
becomes a tear, the real
becomes memory which
can, like fingertips, pinch
just the tail of a lizard
vanishing in the desert
which was eager to fix
a traveler with a sphinx.
Your golden mane! Your riddle!
The lilac skirt, the brittle
ankles! The perfect ear
rendering “read” as “dear”
Under what cloud's pallor
now throbs the tricolor
of your future, your past
and present, swaying the mast?
Upon what linen waters
do you drift bravely toward
new shores, clutching your beads
to meet the savage needs?
Still, if sins are forgiven,
That is, if souls break even
with flesh elsewhere, this-joint,
too, must be enjoyed
as afterlife's sweet parlor
where, in the clouded squalor,
saints and the ain'ts take five,
where I was first to arrive .
[1980]
Joseph Brosky: To Urania
Như
người xưa, đánh rớt cây gươm xuống lòng
sông
Bèn ghi dấu nơi mạn thuyền
Chàng trở lại quán
xưa
Tìm dấu hài ghi
trên lớp bụi
Và tiếng cười của nàng
vẫn còn văng vẳng đâu đây
Tôi trở về đây, với
con đường xưa
Với góc đời này
Như một tiếng vang
Tới cặp môi
Vốn thèm một nụ hôn
Thay vì [Đừng yêu lính bằng] một lời!
Chẳng có gì thay
đổi
Bàn ghế không
Khí hậu cũng không
Sự vật, khi vắng bóng
một ai đó
Tích tụ dần cái
trường tồn, từng tí, từng tí
2 Years Ago
See Your Memories
Biển
Buổi chiều đứng
trên bãi Wasaga
Nhìn hồ Georgian
Cứ nghĩ thềm bên kia là quê
nhà.
... See More
Dạ Vũ Ký Bắc
Hàng cây trong công
viên bên đường nhớ rừng
Cùng thi nhau vươn cao như muốn trút
hết nỗi buồn lên trời.
NQT: Biển
Một lần, nhậu cùng một ông
bạn trẻ tuổi hơn, cũng nòi thi sĩ, đã từng có
thơ đăng trên Trăm Con. Cũng cùng quê Bắc,
và cái ý thơ Đêm Mưa Gửi Bắc, là
cũng cùng ngậm ngùi.
Say thơ, say rượu, đọc tới hai câu trên,
anh gật gù:
-Thơ không cần làm nhiều. Chỉ hai
câu này, là có thể chẳng cần làm
thơ nữa, cũng vẫn được, anh ạ!
Lý Thương Ẩn [813-858]
Tự là Nghĩa Sơn, hiệu là Ngọc Khuê
sinh. Người huyện Hà Nội, tỉnh Hà Nam.
Năm 837 (đời Đường Văn-tông), nhờ thế lực của Lệnh Hồ Đào,
con của Lệnh Hồ Sở mà được chấm đậu tiến sĩ. Rồi được Vương
Mậu Nguyên, trấn thủ Hà Dương, dùng vào
việc thư ký và gả con gái cho. Vì Mậu
Nguyên là địch thủ chính trị của Lệnh Hồ Sở nên
ông bị coi là người vong ân.
Lý Thương Ẩn nổi tiếng ngang với Ôn
Đình Quân và Đỗ Mục, nên người đương
thời gọi là Ôn Lý và Lý Đỗ.
Có ảnh hưởng rất lớn đối với thi đàn
đời Tống. Vương An Thạch khen thơ ông có cái
vẻ tài tình giống thơ Đỗ Phủ.
Hai Lúa mới lục trong tủ sách, cuốn
Thơ Đường, của Trần Trọng San, có phần tiếng Anh, nhà
xb Đại Học Tổng Hợp Thành Phố HCM.
Lạ một điều, bản tiếng Anh, dịch bài Đăng
Lạc-Du nguyên, lại giống như bài thơ Biển của...
Hai Lúa!
Biển
Buổi chiều đứng trên bãi
Wasaga
Nhìn hồ Georgian
Cứ nghĩ thềm bên kia là quê
nhà.
Sóng đẩy biển lên cao,
khi xuống kéo theo mặt trời
Không gian bỗng đỏ rực rồi đêm tối
trùm lên tất cả.
Cát ở đây được con người
chở từ đâu tới,
Còn ta bị quê hương ruồng bỏ nên
phải đứng ở chốn này.
Số phận còn thua hạt cát.
Hàng cây trong
công viên bên đường nhớ rừng,
Cùng thi nhau vươn cao như muốn trút
hết nỗi buồn lên trời.
Chỉ còn ta cô đơn lẫn
vào đêm
Như con hải âu già
Giấu chút tình sầu
Vào lời thì thầm của biển...
NQT
*
Bản dịch qua tiếng Anh, của Witter Bynner,
bài Đăng Lạc-Du nguyên của Lý Thương Ẩn.
The Lo-Yu Tombs
With twilight shadows in my heart
I have driven up among the Lo-Yu Tombs
To see the sun, for all his glory
Buried by the coming night
“Buried by the coming night”, dịch
lại qua tiếng Việt, chẳng là:
Không gian bỗng đỏ rực rồi đêm tối
trùm lên tất cả?
Tuyệt cú mèo. Cứ y hệt
như Hai Lúa khi làm, sáng tác... bài thơ Biển của mình, là...
dịch nó từ tiếng Anh qua!
*
Thơ là toán thuần tuý,
ngược với văn, là toán áp dụng, của ngôn
ngữ. Nó xác thực hơn, có nhiều khả năng tạo
những hình thức lý thuyết, độc lập không dựa
vào nền tảng chất liệu, so với văn.
G. Steiner: Verse in Tragedy, Thơ trong Bi Kịch.
[... that verse is the pure mathematics of language.
It is more exact than prose..., and more capable of constructing
theoretic forms independent of material basis. Prose, on the contrary,
is applied mathematics].
Nhân nói chuyện dịch thơ,
tờ Guardian online kể kinh nghiệm dịch Antigone của nhà
thơ Nobel văn chương, Seamus Heaney. Ông bị bí, và
rồi cảm hứng đã tới với ông, khi ông nhận ra
rằng, đừng coi bản dịch của mình như là một cơ hội
để phản đối cuộc chiến Iraq. Đây là
một vở kịch thơ, nhưng bình luận và nghiên
cứu đã biến nó trở thành một ẩn dụ chính
trị. Tôi nhắm cái chiều hướng nhân chủng học của
tác phẩm, không muốn bản dịch của mình biến
thành một lời chỉ trích cuộc chiến Iraq, vì thế
mà tôi đổi là The Burial at Thebes, Chôn
Cất Tại Thebes, thay vì Antigone.
Burial, chôn cất, là vì,
chôn hay không chôn, đó là vấn
đề; một bên, quyền của người chết, và một bên,
luật của đất. Nhưng chôn là một từ luôn bám
rễ vào đất, nghĩa là, chẳng bao giờ mất đi cái
thực tại nguyên thuỷ của nó. Chôn bảo cho những
người còn sống là người chết muốn được quyền chôn
cất, rằng, hãy tỏ lòng tôn kính, với
chiếc quan tài, và cái xác chết ở trong
đó, cho dù cái quan tài đó phủ cờ
gì.
Search for the soul of Antigone: Đi tìm
linh hồn nàng Antigone
Wednesday November 2, 2005
The Guardian
Đăng Lạc-Du Nguyên
Hướng vãn ý bất thích,
Khu xa đăng cổ nguyên.
Tịch dương vô hạn hảo,
Chỉ thị cận hoàng hôn.
Lý Thương Ẩn
Sau đây là bản dịch, khi
chưa chuyển thành thơ, của Trần Trọng San.
Lên Lạc-Du nguyên
Lúc trời sắp tối, ý không
thoả thích, nên rong xe lên khu đất cổ. Nắng
chiều đẹp vô hạn, thế nhưng đã sắp hoàng hôn!
Bây giờ bạn đọc lại bài
Biển.
Buổi chiều đứng trên bãi
Wasaga
Nhìn hồ Georgian
Cứ nghĩ thềm bên kia là quê
nhà.
Cái "air" của bài thơ
rất giống cái "air" của bản dịch khi chưa chuyển thành
thơ, của bài thơ Đường.
Nói một cách khác, mấy bài
thơ của Hai Lúa, một cách nào đó,
đều như được dịch từ Đường Thi qua, và còn ở dạng "nháp",
chưa được gọt rũa, thành vần, thành điệu.
Và đây là một trong
những cái "mánh", trong cái việc tập tành
làm thơ:
Hãy thử dịch thơ Đường!
Và đó cũng là câu Alain
khuyên ông học trò sau này nổi danh
của mình, là André Maurois, mày mê
ai, thì cứ dịch người đó (1) và rồi sẽ trở
thành văn sĩ, như người đó.
*
Nhưng thơ Đường không
làm sao có những dòng như vầy:
Cát ở đây được con người chở từ đâu
tới,
Còn ta bị quê hương ruồng bỏ nên
phải đứng ở chốn này.
Số phận còn thua hạt cát.
Nó là tâm thức
bi đát về phận người, về những hoàn cảnh giới hạn của nó,
tâm trạng sao xuyến, lưu đầy, và, lưu vong.
Cũng xin được cắt nghĩa
một tí về "Cát ở đây..."
Bãi Wasaga không có cát,
cát được chở từ nơi khác tới, làm một bãi
biển giả, câu du khách từ thành phố tới.
Bài thơ trên, làm đúng
vào lần đầu tiên được một người bạn chở tới đây.
Ông bạn này nói cho biết về cái vụ
"cát ở đây", và, bài thơ được hoàn
thành ở trong đầu, khởi từ ý đó.
Cụm từ " bị quê hương ruồng bỏ" lúc
ban đầu, đúng như vậy, rồi đuợc sửa là, "không
hiểu tại sao", như bản được đọc trên Gió_O, nhưng một
ông bạn đọc cả hai, bèn mắng cho, "bị quê hương
ruồng bỏ", là đúng rồi, đúng ra phải nói,
"bị VC đá văng ra khỏi đất nước", nhưng "bị ruồng bỏ" nghe
có vẻ... thơ hơn!
SN_GCC_2016
thượng thọ
- 10/2016
Today at 8:51 AM
những dẫn nhập không số
thu lãng đãng
về. trời trong suốt. những giọt sương sớm no tròn
trên cỏ. và cái lạnh mềm sương khói
thu se sẽ. gọi vàng lá.
gọi đỏ cây. gọi rực một trời màu sắc. thu
với vẻ đẹp tê tái
tháng 10. tháng
kéo lòng thẳng thớm lại. tháng
bắt đầu vào mùa lễ hội. những khu shopping rồi
lộng lẫy. với đèn. với trưng bày. như người
con gái diễm kiều. người ta rồi lắm ồn ào. rồi
đầy mua sắm. trời dần lạnh. những cái áo khoát
ngoài rồi dày hơn. rồi tuyết sẽ rơi tràn
khắp. trắng tinh khôi. nhịp nô nức. nhịp chờ đón.
nhanh dần. và mùi vị. và âm thanh của
mùa lễ hội rồi lan toả đến từng nhà. từng phố.
mùa lễ hội. rạng rỡ trên
từng khuôn mặt. còn tôi? vào
những ngày này làm nhớ lắm những mùa
tết xa cũ
với ông thì sao?
mùa lễ hội ở đây có làm ông
nhớ?
ông có là
người dễ dãi trong ăn uống? món hà
nội. món sài gòn. hay món miền
tây nào làm ông “thèm” và
“nghiện” nhất?
rượu là cái để
khơi mào hay kết thúc cho cái đọc
cái viết?
cứ âm thầm đọc. cứ âm
thầm viết. ngày qua ngày. nhiều lúc
tôi tự hỏi có cần phải nói? hoặc khi
nói sẽ phải nói ra sao? giống một người câm.
ông có thấy như vậy?
khi say rượu người ta sẽ nói
nhiều rất nhiều. vậy khi say chữ người ta có
viết thật nhiều không ông?
mua sắm là việc của các
bà, mua sách là việc của ông?
quán xá một nét
rất đặc trưng trong sinh hoạt văn chương nói riêng
(ngồi quán với ly cà phê/hay rượu.
với điếu thuốc. qua ô cửa kiếng. chiều xuống. trời chạng
vạng. sắp đổ mưa/hay tuyết. những chuyến xe qua lại. những
hình bóng nhập nhoè chuyển động. và
chợt nhận ra. một vóc. dáng. quen. cũ. và
như thế… hoặc cà phê. tờ báo. dăm người bạn.
với những câu chuyện không đâu vào đâu…
rồi những thứ đó đi vào trang giấy) tôi cứ nghĩ
mãi về điều này. nay hỏi ông. nó có
phải là mặt kia của đồng tiền văn chương?
ông có nói
“viết, một cách nào đó, là
chết”. vậy đọc. hiểu theo một cách nào đó
là sống. sống lại. ông có tán đồng?
một chút. thu
ở một góc. đời nào
không. thể thiếu
một chút em. thu rực
rỡ sắc. màu
một chút nắng. bóng
nghiêng vào. nỗi nhớ
một chút tình.
ai mòn mỏi giăng. tơ
ở một cạnh. cuộc sống vàng.
cong. úa
một chút. ta nhặt từng.
chiếc lá nhàu
một chút. lạnh dày
vò. hình với dáng
một chốc. ôi mùa
lá. rụng. lao xao
Đài Sử
Tks
TT/NQT
ông có nói
“viết, một cách nào đó, là
chết”. vậy đọc. hiểu theo một cách nào đó
là sống. sống lại. ông có tán đồng?
Yes, sure. Đọc/dịch với tôi,
là nhất, vào lúc về chiều.
Nếu làm được thơ như hồi
mới qua, gặp lại cô bạn, thì quá tuyệt,
đúng ý K.
Tks all again. NQT
Đọc là ân sủng.
Nhớ ra rồi. Cái ý
viết là chết, Gấu chôm của Kafka, và
của Blanchot, tác giả cuốn “Espace Littéraire”,
Không gian văn chương, được Vila-Matas đi 1 đường vinh
danh trong bài viết “Viết để biến mất”.
Và nó liên
quan tới cú Gấu phạng nhà thơ Nguyên
Sa khi gọi ông là nhà văn dễ dãi,
sung sướng, được ông đi 1 đường “Thưa Nguyễn quân”,
và khi Gấu đếch thèm trả lời, đệ tử &
băng đảng của ông là Thương Sinh bèn hàng
ngày chửi Gấu, dòng dã gần 1 năm trời
trên nhật báo Sống, và, nhân dịp
tờ Văn ra số đặc biệt về Nguyễn Du, Gấu bèn đi 1 bài
vinh danh Người, và thi sĩ Du Tử Cà, ngồi Quán
Chùa đọc, bèn gật gù phán, đây
là thằng cha Gấu Cà Chớn trả lời Nguyên
Sa.
Bảnh thật, chỉ có mỗi Du
Tử Cà là đọc ra Gấu!
Mây Bay Đi
Sau bài điểm sách của
Gấu, trên tờ Văn, phê bình, khác
tờ Văn, sáng tác, Nguyên Sa đi một
thư trên nhật báo Sống, gửi "Nguyễn quân",
Gấu còn nhớ, yêu cầu trả lời một số điểm trong
bài điểm sách, nhưng chủ yếu, hỏi:
Tại sao mày dám
chê tao?
Gấu không trả lời. Liền
sau đó, là loạt bài của Duyên
Anh, ký tên Thương Sinh, chửi Gấu hàng
ngày, kéo dài đâu cũng nửa năm,
cỡ đó.
Gấu vẫn vờ.
Tiếp theo, Nguyên Sa đi
loạt bài trên báo Sống, và
sau đó, trên tờ Trình Bầy [hình
như vậy], Một bông hồng cho văn nghệ, Một
mình một ngựa, phạng Gấu.
Gấu không trả lời, nhưng
Trần Phong Giao có lên tiếng, trong mục Tin
Văn của tờ Văn, "Bông hồng hay bông cứt lợn". Sau
bài viết, Nguyễn Đình Vượng ra lệnh ngưng, như Gấu
được biết.
Mãi tới khi Văn ra số đặc
biệt về Nguyễn Du, nhân đang đọc Kafka, Blanchot,
Sartre [viết về Faulkner], Gấu bèn đi một đường về "choses
nocturnes", chữ của Blanchot, để chỉ thứ văn chương đoạn trường,
văn chương về đêm, văn chương sau Lò Thiêu,
văn chương của sự câm lặng...
*
Tại sao cái cửa sổ mở sang
khu vườn tình ái thơ mộng (mở sang khu
vườn Thuý), lại bị đóng chặt mãi mãi
chỉ vì “một tên xưng xuất, tại thằng bán
tơ”: Câu này 'thuổng' Sartre, viết về Âm Thanh
và Cuồng Nộ của Faulkner, đại ý: Tại sao cái
cửa sổ mở ra Âm Thanh... lại là ý thức của
một tên khùng? (1)
(1) A PROPOS DE “LE BRUIT ET LA
FUREUR”. LA TEMPORALITÉ CHEZ FAULKNER
Quand on lit Le Bruit et la Fureur,
on est frappé d’abord par les bizarreries de
la technique. Pourquoi Faulkner a-t-il cassé le temps
de son histoire et en a-t-il brouillé les morceaux? Pourquoi
la première fenêtre qui s'ouvre sur ce monde
romanesque est-elle la conscience d'un idiot?
Về Âm thanh và Cuồng
nộ. Thời tính trong tiểu thuyết của Faulkner.
Khi đọc Âm thanh và
Cuồng nộ, người ta bị đập bởi những rắm rối, kỳ quặc của
kỹ thuật. Tại sao Faulkner lại bẻ nát thời gian của
câu chuyện, và làm rối tung những mẩu đoạn?
Tại sao cái cửa sổ đầu tiên mở ra thế giới tiểu
thuyết đó lại là ý thức của một tên
đần độn?
Nguyễn Du giữa chúng ta
http://www.tanvien.net/tgtp_02/nguyen_du_giua_chung_ta.html
Kafka, trong một bức thư gửi cho bạn,
viết: “Nhà văn là một bouc-émissaire (1) của nhân
loại. Nhờ hắn mà nhân loại có thể
vui hưởng tội lỗi một cách ngây thơ vô
tội”. (1) Chính niềm hoan lạc ngây thơ vô
tội này là sự đọc. Sự viết mang trong nó
mầm bất hạnh, nhưng sự đọc lại là hân hoan, lại
là ân sủng. Một nhân xấu cho một quả tốt. Viết
là một sự vật ai oán (chose nocturne), là cái
ngậm đắng, nuốt cay, là cái nghiệp, là cái
sầu thảm. Nhưng đọc lại là ân huệ, là an hưởng
tội lỗi một cách không tội lỗi, (một cách thơ
ngây vô tội). Viết là một tác động xấu
(activité mauvaise) nhưng đọc lại là cái bất
động, cái tiêu cực sung sướng. Cái hữu của sự
viết là bất hạnh trong khi bản tính của sự đọc lại là
hạnh phúc, mặc khải…
(1)
He is the scapegoat of mankind.
He makes it possible for men to enjoy sin without guilt,
almost without guilt.
Bản tiếng Anh, ra hải ngoại Gấu
mới được đọc
Cafe Trieste: San Francisco
To L.G.
To this corner of Grant and Vallejo
I've returned like an echo
to the lips that preferred
then a kiss to a word.
Nothing has changed here. Neither
the furniture nor the weather.
Things, in one's absence, gain
permanence, stain by stain.
Cold, through the large steamed windows
I watch the gesturing weirdos,
the bloated breams that warm
up their aquarium.
Evolving backward, a river
becomes a tear, the real
becomes memory which
can, like fingertips, pinch
just the tail of a lizard
vanishing in the desert
which was eager to fix
a traveler with a sphinx.
Your golden mane! Your riddle!
The lilac skirt, the brittle
ankles! The perfect ear
rendering “read” as “dear”
Under what cloud's pallor
now throbs the tricolor
of your future, your past
and present, swaying the mast?
Upon what linen waters
do you drift bravely toward
new shores, clutching your beads
to meet the savage needs?
Still, if sins are forgiven,
That is, if souls break even
with flesh elsewhere, this-joint,
too, must be enjoyed
as afterlife's sweet parlor
where, in the clouded squalor,
saints and the ain'ts take five,
where I was first to arrive .
[1980]
Joseph Brosky: To Urania
Như
người xưa, đánh rớt cây gươm xuống lòng sông
Bèn ghi dấu nơi mạn thuyền
Chàng trở lại quán xưa
Tìm dấu hài ghi trên lớp bụi
Và tiếng cười của nàng vẫn còn
văng vẳng đâu đây
Tôi trở về đây, với con đường xưa
Với góc đời này
Như một tiếng vang
Tới cặp môi
Vốn thèm một nụ hôn
Thay vì [Đừng yêu lính bằng] một lời!
Chẳng có gì thay đổi
Bàn ghế không
Khí hậu cũng không
Sự vật, khi vắng bóng một ai đó
Tích tụ dần cái trường tồn, từng tí,
từng tí
Đọc Hồ Sơ Đệ
Tứ, Dưới Chân Golden Gate, S.F.
http://www.tanvien.net/Sach_Moi_Xuat_Ban/ho_so_de_tu.html
Hồ Sơ Đệ Tứ Tập 3.
Nhóm Đệ Tứ tại Pháp xuất bản. In tại Huê
Kỳ. Giá $US 20.00 Địa chỉ liên hệ: Tủ Sách Nghiên
Cứu P.O.Box [Boite Postale] 246. 75224 Paris. Cedex 11.
Ghi chú: Sách bạn ta, VHQ, tặng,
lần gặp lại Tháng Tám, 2004, tại San Jose. Bỏ
quên tại Tiểu Sài Gòn. Nhân "phạng"
bạn mình, mới nhớ ra! Sorry. NQT
“Xuất bản tập hồ sơ này, chúng
tôi muốn chứng tỏ một thế giới khác (với thế giới
của tư bản hiện nay) có thể có.”
Hoàng Hoa Khôi.
Paris ngày 23 tháng Hai 2004.
[Trích lời đề tựa].
Vũ Huy Quang, trong lời giới thiệu:
“Một khi đã chống du lịch, vận động
duy trì Cấm vận để trả thù Việt Nam lúc
trước, thì lúc sau cũng ủng hộ cuộc phát
động chiến tranh đánh Iraq. Càng tố ‘Cộng Sản Việt
Nam’ bao nhiêu người ta càng thêm tin rằng sự giầu
mạnh của Đế quốc là lý tưởng, là trường tồn”.
Anh không còn rảnh để làm
tài xế cho tụi này, như lần gặp trước tại Tiểu
Sài Gòn. Bà cụ thân sinh bị té,
anh phải lo săn sóc.
VHQ coi già hơn trước, nhưng vẫn sôi
nổi như trước. Nghĩa là vẫn dư muối, để mặn mà
với bạn bè.
“Thằng đó thiếu muối, gặp làm
gì,” anh trả lời, khi tôi hỏi thăm về một mối bằng
hữu đã lâu không gặp.
Hoặc, “Thằng đó chống Cộng theo kiểu
Ngô Đình Diệm!”
Vụ ám sát Tạ Thu
Thâu đã giết ra như thế nào?
Ông Hoàng Hoa Khôi nhắc
tới câu của Hồ Chí Minh, khi trả lời một nhà
văn Pháp, và cũng là đồng chí cũ
Tạ Thu Thâu: Tạ Thu Thâu là một nhà yêu
nước lớn, chúng tôi khóc cái chết của
ông. Nhưng liền sau đó, ông bồi thêm: "Nhưng
tất cả những ai không đi theo đường lối do tôi vạch
ra đều bị bẻ gẫy." Theo Trần Ngươn Phiêu [sách đã
đẫn, HSĐT], ông Hồ có lần trả lời là 'địa phương
đã giết lầm một người ái quốc."
"Ai đi ngang Quảng Ngãi vào khoảng
tháng 9 năm 1945 cũng đều biết đến không khí
hãi hùng của cái thành phố tự cho
mình 'có tinh thần cách mạng cao' ấy".
Các tín đồ Cao Đài, các
nhà trí thức, các nhà phú
hộ, các nhà cách mạng quốc gia... cùng
vợ con, anh em... được Việt Minh cẩn thận chém giết, chôn
sống, thiêu cháy, mổ bụng... mỗi ngày theo
chính sách 'tru di tam tộc để trừ hậu họa'. Người chết
nhiều đến nỗi độ ấy ở Hà Nội, tờ báo Gió Mới
của Tổng Hội Sinh Viên đã phải lên tiếng rằng, 'ở
Quảng Ngãi, ngày ngày đầu người rụng như sung'.
Hoàng Hoa Khôi cho biết, "sau
khi điều tra, chúng tôi biết được ba thủ phạm [sát
hại Tạ Thu Thâu]. Họ đều là những người Cộng Sản.
Người thứ nhất là Kiều Đắc Thắng, trách nhiệm nghiệp
đoàn. Người thứ hai là Nguyễn Văn Trấn, đã từng
được đi học tập ở Moscow. Người thứ ba là Nguyễn Văn Tây,
cưu bộ trưởng chính phủ Trần Văn Giàu. Cần nói
thêm nhân vật Nguyễn Văn Trấn được nhắc đến ở đây...một
người Cộng Sản 'phản tỉnh', tác giả cuốn Viết cho Mẹ và
Quốc Hội...
Hồ Sơ Đệ Tứ, phần điểm cuốn Giọt Nước Mắt Trong
Biển Cả, của Hoàng Văn Hoan, có vài chi
tiết thú vị về Hồ Chí Minh.Thí dụ như, [Hoàng
Văn Hoan] được giao trách nhiệm thảo một bức thư gửi nhà
cầm quyền Trung Quốc... HVH đưa bản nháp cho Hồ Chí
Minh duyệt. "Bác Hồ" bôi xóa vài chữ và
thêm vào vài chữ khác. HVH lấy làm
lạ, vì như vậy, nội dung thư không thay đổi, nhưng văn
pháp thì sai. "Bác Hồ" mới trả lời ông rằng:
"Chú chỉ biết viết thư là viết
thư, chứ chưa biết chính trị... Người Việt Nam ở những
nơi xa xôi hẻo lánh viết chữ Trung Quốc làm
sao đúng văn phạm được? Viết như vậy, họ mới tin là
do anh em viết.."HVH kết luận: "Việc tuy nhỏ nhưng đối với tôi,
là một bài học rất sâu sắc về công tác
quần chúng và công tác thực tế."
Chi tiết Bác Hồ bị cướp, đọc trên
talawas, trích HVH.
Chi tiết Lênin bị cướp thì đọc
ở đây.
Cười Vỡ Đêm Đen
Tới San Jose, 3 Tháng Tám 2004.
Thử vừa đi vừa viết.
Lần đầu tới đây. Phone NXH, tao bận lắm,
bữa nay báo ra. Mai hoặc cuối tuần mới có thì
giờ. Mày phone cho thằng VHQ coi nó có bận
không?
VHQ ghé, 10 giờ đêm, đem cho cuốn
của mấy ông Trốt Kít. Đọc. Nghe TCS.
8. August: Đi cắt tóc. Ăn phở. Mua băng
nhạc. Mua một cuốn sách dịch Chase. Lại Chase. Nhớ BHĐ.
(1)
Hồ Sơ Đệ Tứ Tập 3, do nhóm Đệ Tứ Việt
Nam ở Pháp xuất bản đề giá US $ 20. 00
[Nhật ký Tin Văn]
(1) Gấu tui học tiếng Tây bằng
cách đọc tiểu thuyết đen, trinh thám, điệp viên.
Một trong những tác giả Gấu mê, là
James Hadley Chase. Tay này hiện cũng được dịch ra tiếng
Việt, và thuộc loại ăn khách số một, ở trong nước.
Gấu có một kỷ niệm, phải nói
là rất "ngu si", về tay này.
Số là, lần bị thương vì vụ mìn
Mỹ Cảnh, nằm trong Grall, được Bông Hồng Đen tới thăm,
đưa cho một cuốn của Chase, và hỏi, "Đọc chưa?"
Nói, đọc rồi.
Mặt em xịu xuống, nói, em biết trước
như vậy, mà sao em ngu quá, vẫn cứ mua!
Gấu tui mới là thằng ngu, vì
không biết giả đò, mắt sáng rỡ, vồ ngay
lấy, cả tay lẫn sách, miệng thì cứ leo lẻo, "Anh
đang thèm đọc cuốn này!"
Cuốn đó, tới giờ chết, Gấu vẫn còn
nhớ tên: Một buổi sáng đẹp trời mùa hạ.
Cuốn này sau được làm phim. Anh
Tây mặt ngựa, Jean-Paul Belmondo, đóng vai chính.
Có lần, anh Tây này trả
lời phỏng vấn. Hỏi:
-Thích con vật gì?
-Ngựa. Lẽ dĩ nhiên!
Gấu, nếu được hỏi, sẽ trả lời:
-Gấu. Lẽ dĩ nhiên!
Bởi vì Gấu là "nickname" Bông
Hồng Đen ban cho.
Ôi chao, về già mới ngộ ra một
điều là: Không phải hỗn, mà là ngu.
Ngu như Gấu!
Dịch thoáng:
Đời thì như "Mù Sương,
Sương Mù"
Thoát ra từ hầm núi
Và Chết,
Như “Người Đi Trên Mây”
Trên đường tới Thiên Đàng
Nhưng mà đừng suy tư nhiều quá về
chúng
Nếu không muốn trở thành cù
lần như GCC!
Portrait GCC
như vậy, anh đi
đã 2 năm. phùng nguyễn chụp tấm ảnh này
trong vườn nhà em, cũng theo anh đi, đã 1 năm.
vậy là hết
nghe anh than: chán quá, anh chỉ muốn chết
giờ thì
anh đã chết và không còn gì
để làm anh chán nữa
nhớ lúc trước Quỳnh Như hay ‘quát’
anh: em đây khô...
Waiting For SN
Bác «lãng
mạn» quá, cứ mong chờ có một
cú ngoạn mục của các nhân tài.
O.
Lãng mạn phải là
chúng mày mới đúng. Đau khổ cho
nhiều vào, đọc sách cho nhiều vào, xót
thương mình chưa đủ rồi xót thương người…
để mơ mộng: cách mạng. Ôi chao cách mạng!
Cách mạng để làm gì? Những con ngựa
bị hành hạ đau quá thì lồng lên hất
thằng dô kề ngã mà chạy. Chạy đi đâu? Thằng
dô kề nó sẽ túm được, nó đánh đập
tàn nhẫn hơn và lại sỏ cương trèo lên.
Bếp Lửa [TTT]
Ancient Autumn
Is that foolish youth still sawing
The good branch he's sitting on?
Do the hills wheeze like old men
And the few remaining apples sway?
Can he see the village in the valley
The way a chicken hawk would?
Already smoke rises over the
roofs,
The days are getting short and chilly.
Even he must rest from time to time,
So he's lit a long-stemmed pipe
To watch a chimneysweep at work
And a woman pin diapers on the line
And then step behind some bushes,
Hike her skirt so her bare ass shows
While on the common humpbacked men
Roll a barrel of hard cider or beer,
And still beyond, past grazing cattle,
Children play soldier and march in step.
He thinks, if the wind changes
direction,
He'll hear them shouting commands,
But it doesn't, so the black horseman
On the cobbled road remains inaudible.
One instant he's coming his way,
In the next he appears to be leaving in a hurry
...
It's such scenes with their air of menace,
That make him muddled in the head.
He's not even aware that he has resumed sawing,
That the big red sun is about to set.
Charles Simic
Thu Cũ
Liệu cái tuổi trẻ khùng
điên ba trợn vưỡn kưa kưa
Cái cành cây bảnh nhất anh
đang ngồi?
Những ngọn đồi vưỡn khò khè như
những ông già
Và mấy cây táo còn
lại, vưỡn “nắc nư”?
Liệu anh có thể nhìn ngôi
làng ở bên dưới thung lũng
Vưỡn cái nhìn của con chim ưng
thèm gà con?
Khói đã bốc lên
từ những mái nhà
Ngày mới ngắn và lạnh làm
sao
Ngay cả như thế thì anh vưỡn thèm
ngồi lại
Thì cũng phải nghỉ ngơi, lúc này
lúc nọ
Và thế là anh lấy cái tẩu
dài thòng ra
Và đốt thuốc
Trong khi nhìn một tay thông ống
khói làm việc
Và 1 người đàn bà treo mấy
cái tã con nít lên sợi dây
Và rồi lui lại, sau mấy bụi cây
Kéo cái váy lên, phô
cái chảo trắng ngần ra
Trong khi ở chỗ công cộng những người đàn
ông gù
Vần 1 cái thùng tô nô
rượu táo, thứ nặng đô, hay là bia
Và vẫn quá, quá bầy trâu
bò gặm cỏ
Lũ con nít chơi trò lính
tráng, xếp hàng diễn hành
Anh nghĩ, nếu ngọn gió
đổi chiều
Thì có thể nghe chúng hô,
Bác Hồ muôn năm, một, hai, một, hai
Nhưng gió không làm cái
chuyện bậy bạ như thế
Và thế là người kỵ sĩ đen
Trên con lộ sỏi
Không làm sao nghe được
Trong 1 thoáng, người kỵ sĩ đi theo con
đường của anh ta
Trong thoáng kế, anh ta có vẻ bỏ
đi trong vội vã
Những xen như thế thật đe dọa
Khiến cho anh mụ cái đầu
Anh cũng chẳng nhận ra là mình
lại tiếp tục kưa kưa
Và cái ông mặt trời đỏ bự
thì đang tính đi ngủ.
|