|
Trân
trọng trình diện bạn đọc Tin Văn: Đứa con thất lạc tìm lại được.
Cám ơn talawas. NQT
Nguyễn Quốc Trụ
Nguyễn Du giữa chúng ta
Bây
giờ đọc Truyện Kiều, chúng ta hy vọng sẽ khám phá thêm được những gì ở
trong
hơn ba ngàn câu thơ đó? Liệu những độc giả bây giờ và sau này sẽ hài
lòng với
những giải thích đã có về Kiều? Tại sao cái cửa sổ mở sang khu vườn
tình ái thơ
mộng (mở sang khu vườn Thuý), lại bị đóng chặt mãi mãi chỉ vì “một tên
xưng xuất,
tại thằng bán tơ”. Liệu chúng ta, ngoài mớ giải thích về nguyên nhân
nhân quả lấy
từ Phật, có thể chấp nhận có một thảm kịch ở trong Truyện Kiều, một thứ
thảm kịch
kiểu Hy Lạp, theo đó, thảm kịch là cái không thể giải thích được, là
con mắt của
Định mệnh mở trừng trừng, là gã Oedipe tuy biết nhưng không thể tránh
khỏi phải
giết cha, lấy mẹ, theo đó, thảm kịch là cái không chấp nhận bất cứ một
giải
thích nào.
Và có thật một tâm sự hoài Lê của một cựu thần, và có thật người cựu
thần đó đã
cặm cụi thức thâu đêm suốt sáng, cố gắng moi óc, vắt tim sáng tạo nên
3.254 câu
thơ, chỉ để bày tỏ một thái độ Khổng học, thứ triết lý giáo dục đẳng
cấp mà
chúng ta không thể nào tìm thấy, dù một mảy may, trong suốt cuốn
truyện, trong
suốt cuộc đời “thanh y hai lượt thanh lâu hai lần” của nàng Kiều?
Và tại sao cùng một tâm sự hoài Lê, hoài quân vương đó cho những tác
phẩm khác
nữa như Mai Đình mộng ký, Cung oán ngâm khúc?
Chúng ta sẽ phải hiểu chữ “nghiệp” như thế nào? Theo ý nghĩa Phật học
hay theo
một ý hướng văn chương, theo tinh thần của sự sáng tạo?
Chúng ta có thể vay mượn lý thuyết phân tâm học để coi Đạm Tiên như là
tiềm thức
của Kiều, coi Kiều như một nhân vật bị bệnh mộng tưởng (một visionnaire
giống
như những nhân vật của Julien Green chẳng hạn). Chúng ta có thể vay
mượn triết
lý hiện sinh, triết lý Mác-xít, và tất cả những triết lý hiện chúng ta
đang có
để chú giải Kiều? Chúng ta có thể quả quyết tất cả những chú giải trước
đây về
Kiểu đều sai, cho nên chúng ta phải bắt đầu lại từ đầu?
Và tại sao chúng ta vẫn còn tiếp tục đọc Kiều, tiếp tục tìm cách chú
giải Kiều?
*
Trước hết, mọi chú giải trước đây, bây giờ, và sau này về một tác phẩm
lớn cỡ
Đoạn trường tân thanh, Cung oán ngâm khúc… đều là những khiếm khuyết,
những défauts
bên cạnh tác phẩm. Chú giải bao giờ cũng chỉ là cái thiếu bên cạnh cái
đủ là
tác phẩm. Heidegger cũng đã phải tự biện minh khi làm công việc
chú giải
thơ Holderlin, đại khái ông nói: “Kẻ chú giải phải xử sự như một thừa
thãi, vô
ích trước tác phẩm. Và bước chân cuối cùng của kẻ chú giải (phát giác
quan trọng
nhất của gã về tác phẩm) đẩy gã vào bóng tối, làm gã biến mất trước sự
khẳng định
đơn thuần của chính tác phẩm. Thơ, theo Heidegger, là một cái chuông
treo lơ lửng
giữa trời, và một chút tuyết nhỏ nào đó rơi trên nó, làm nó kêu rộn
ràng, từ một
hoà điệu cho đến khi trở thành hỗn độn. Một chút xíu tuyết, đó là hình
ảnh của
một lời chú giải vậy. Một lời chú giải (một tiếng nói phê bình) mang
trong nó một
chút kỳ dị là càng tự bày tỏ, khẳng định, nó càng dễ tự xoá, tự biến
mất. Tiếng
nói phê bình biến mất trong khi tự bày tỏ. Nó là sự có mặt luôn luôn
sẵn sàng vắng
mặt. Phê bình, chú giải chỉ là lùi bước trước tác phẩm, tạo một khoảng
cách
càng rộng càng tốt giữa tiếng nói phê bình và tiếng nói sáng tạo. Phê
bình gia
là một độc giả trong những độc giả nhưng hắn hiểu rõ hơn những độc giả
khác tại
sao hắn để mất cái mà hắn khám phá ra được về tác phẩm. Hắn phá hoại
nhiều hơn
là xây dựng.
Tiếng nói phê bình do đó là tiếng nói của sự im lặng. Nó từ chối tham
dự vào lịch
sử con người cũng như lịch sử văn chương. Nó không lý luận, không là
trùng phúc
và cũng không là biện chứng. Tại sao thế? Trước hết nó tự hiểu nó không
là gì
trước lịch sử loài người, nó không nói được một điều gì quan trọng,
trường cửu…
trước cái vô cùng quan trọng là lịch sử, lịch sử với những định luật
tàn khốc,
vững chắc nhất của nó (những định luật về chiến tranh, về đấu tranh
giai cấp, về
vong thân… chẳng hạn). Đối với lịch sử văn chương nói riêng, tiếng nói
phê bình
từ chối những tiếng nói phê bình cất lên trước nó. Nó không có anh em
họ hàng.
Nó không liên hệ gì với triết học, với những khoa học nhân văn (xã hội
học,
nhân chủng học…). Tiếng nói phê bình là cô đơn, là nói lảm nhảm một
mình. Nhưng
chính vì cô đơn, vì là cái có mặt nhưng luôn luôn sửa soạn biến mất,
cho nên tiếng
nói phê bình đã tham dự vào chính thực-tại-tác-phẩm, là tác phẩm. Tiếng
nói phê
bình là tác phẩm đi từ ngoài vào, là ánh sáng của bóng tối, là tiếng
nói của im
lặng. Phê bình tức là mở tác phẩm ra phần ánh sáng không phải của trí
tuệ, trí
thông minh, hoặc học vấn.
Nguyễn Du, tác giả Truyện Kiều, là độc giả đầu tiên và cũng là người
chú giải
thứ nhất về chính tác phẩm của mình. Bởi vì hai câu: “Bất tri tam bách
dư niên
hậu, Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” là một chú giải thứ nhất Truyện
Kiều. Bởi vì
một tác giả bao giờ cũng là một chú giải, một phê bình gia “en
puissance”, khi
người đó đọc lại tác phẩm của mình. Đó là câu nói cuối cùng của tác giả
(của
tác phẩm) và cũng là câu nói đầu tiên của tác giả (người chú giải) về
tác phẩm.
Trong câu nói đầy giọng cảm khái đó của Nguyễn Du, có cái đam mê của sự
đọc, có
cái sáng suốt của sự viết, có cái vẻ bất động tiêu cực của chiếm hữu
sáng tạo
và có cái tự do vô cùng của sáng tạo.
Một nhà văn xuất hiện và mở ra ngay trong gã cái được gọi là vụ án văn
chương
(Chaque écrivain qui nait ouvre en lui le procès de la littérature. -
R.
Barthes. Le degré zéro de l’écriture). Nguyễn Du, cùng với tác phẩm
Kiều và hai
câu khẩm chiếm [?] khi sắp chết, đã mở ra tất cả những
tại sao của
văn chương và của phê bình văn chương vậy.
Và nếu có thể có một tâm sự Nguyễn Du thì đó là một tâm sự “đoạn trường
ai có
qua cầu mới hay”. Đó là tâm sự của một tác giả đi tìm độc giả. Đó là
tâm sự của
Orphée khi đi tìm Eurydice.
Là một lời viết kêu gọi một lời đọc.
Đi tìm tâm sự Nguyễn Du cũng chính là đi tìm ý nghĩa đầu tiên (sau
cùng) của
sáng tạo. Đó cũng là một công cuộc tìm kiếm cái hữu (l’être) của thơ,
của Đoạn
trường tân thanh vậy.
Đi tìm tâm sự Nguyễn Du tức là tìm cách trả lời câu hỏi của tác giả
Truyện Kiều
gửi lại hậu thế, tìm cách trả lời những câu hỏi đến từ một câu hỏi:
Một câu hỏi, đó là: “Bất tri tam bách…”.
Những câu hỏi, đó là: Thơ là gì? Văn chương là gì? Viết là gì? Tại sao
viết? Viết
cho ai? Đọc là gì? Tại sao đọc?
Những câu hỏi đưa đến một bản thể học của văn chương vậy.
*
Bởi vì, gạt bỏ những chú giải xã hội, chính trị, “có một tâm sự hoài
Lê” ở
trong Kiều, gạt bỏ những ý hướng phê bình nhằm đưa Nguyễn Du đến giường
bệnh,
những ý hướng, toan tính phê bình mà chắc chắn chúng ta không thể chấp
nhận được,
hoặc chỉ chấp nhận tới một giới hạn nào đó, chúng ta chỉ có thể tiếp
tục đọc Kiều
và chú giải Kiều bằng chính tác phẩm Kiều và bằng lời chú giải thứ nhất
của
chính tác giả, trên đường đi tìm kiếm cái nghiệp của sự viết, cái tâm
sự của
tác giả muốn gửi gấm lại người đọc. Một công cuộc tìm kiếm cái nghiệp
của sự viết
(cái hữu của sự sáng tạo) như vậy sẽ giúp chúng ta hiểu được những
“khéo dư nước
mắt khóc người đời xưa”, những “Rằng hay thì thực là hay, Nghe ra ngậm
đắng nuốt
cay thế nào!”, những “Đã mang lấy nghiệp vào thân”, những “Xưa nay sầu
thảm,
nay sao vui vầy?”…
Kafka, trong một bức thư gửi cho bạn, viết: “Nhà văn là một
bouc-émissaire (1)
của nhân loại. Nhờ hắn mà nhân loại có thể vui hưởng tội lỗi một cách
ngây thơ
vô tội”. Chính niềm hoan lạc ngây thơ vô tội này là sự đọc. Sự viết
mang trong
nó mầm bất hạnh, nhưng sự đọc lại là hân hoan, lại là ân sủng. Một nhân
xấu cho
một quả tốt. Viết là một sự vật ai oán (chose nocturne), là cái ngậm
đắng, nuốt
cay, là cái nghiệp, là cái sầu thảm. Nhưng đọc lại là ân huệ, là an
hưởng tội lỗi
một cách không tội lỗi, (một cách thơ ngây vô tội). Viết là một tác
động xấu
(activité mauvaise) nhưng đọc lại là cái bất động, cái tiêu cực sung
sướng. Cái
hữu của sự viết là bất hạnh trong khi bản tính của sự đọc lại là hạnh
phúc, mặc
khải…
Chúng ta phải hiểu cái tâm sự của Nguyễn Du (nếu có thể gọi đó là một
tâm sự)
như một niềm ao ước, một hy vọng cảm thông ở nơi người đọc. Bởi vì viết
là chỉ
mong được đọc, như Sartre nói, viết mà không mong được đọc, được biết
tới chỉ
là một thất bại. Được đọc, được thông cảm và được tha thứ. Bởi vì nhà
văn là một
kẻ phạm tội; một kẻ bị kết án phải viết. Nhà văn là gã Oedipe bị lời
nguyền rủa
độc ác phải lấy mẹ giết cha. Nhà văn là gã Sisyphe bị kết án suốt đời
vác đá.
(Chúng ta không có ý định, ở đây, nhằm đưa tới kết luận nhà văn phải có
một đời
sống vật chất hoặc tinh thần khốn nạn, khổ sở, để nhờ đó mà văn chương
trở nên
vinh quang, người đọc trở thành sung sướng). Hắn là một kẻ trầm luân,
hắn là sự
khổ, là bất hạnh. Hắn mang cái nghiệp viết bất hạnh đó vào thân. Hắn là
một thứ
bouc-émissaire. Một gã tội phạm.
Và kẻ tội phạm đó mong được đọc, được hiểu, được thông cảm, tha thứ,
mong được
hưởng những giọt nước mắt khóc thương. Tâm sự của Nguyễn Du mong gửi
gấm nơi
người đọc cũng chính là tâm sự, là nỗi lòng của chàng nhạc sĩ Orphée
lặn lội
nơi địa ngục để tìm kiếm nàng Eurydice thân yêu vậy.
*
Tôi đã định theo gót Tiên phong Mộng liên đường chủ nhân, trong khi đề
tựa Kiều,
đi tìm một cuộc biến chuyển ngôn ngữ, từ lục Phong tình sang Đoạn
trường tân
thanh (thành ra cái lục Phong tình thì vẫn là cái lục cũ, mà cái tiếng
đoạn trường
thì lại là cái tiếng mới vậy) rồi từ Đoạn trường tân thanh sang Truyện
Thuý Kiều.
Bằng hai tiếng “tân thanh”, chúng ta có thể đi đến những định nghĩa về
thơ: Thơ
là lời nói, thơ là biến động, thơ là cái ngôn ngữ trẻ nhất, mới nhất.
Bằng chữ
truyện chúng ta có thể coi Kiều như một cuốn tiểu thuyết và nếu đã coi
đó là một
cuốn tiểu thuyết, chúng ta sẽ phải tìm kiếm một nội dung và một hình
thức của
nó. Chúng ta sẽ giải thích cái hậu của Truyện Kiều như của bất cứ một
cuốn tiểu
thuyết nào (như thế chúng ta có thể tránh được những giải thích vay
mượn từ Phật
học, như trường hợp Trần Trọng Kim chú giải Kiều).
Nhưng công việc đó đòi hỏi một thời gian nghiên cứu quá dài.
Nguồn
*
(1) bouc-émissaire: Dê tế thần mới đúng. Không phải 'trong một bức thư
gửi bạn',
mà là một 'ngụ ngôn', truyện cực ngắn của Kafka.
Bản trên talawas, có mấy lỗi, défauts [talawas 'type' trật là
defauits], phải
[phát]. Khẩm chiếm [khẩu chiếm?], không biết là chữ gì trong
nguyên bản!
Ui chao, đọc lại mà ngỡ ngàng. Gấu ngày nào bảnh [trai] hơn ngày này
nhiều!
Gấu sẽ đi một đường hồi tưởng, về bài viết này, sau.
*
Gấu có một kỷ
niệm về bài viết. Khi ra lò, nhà thơ Du Tử Táo, trong một lần ngồi Quán
Chùa,
phán, bài mày viết, là để trả lời phản ứng của Nguyên Sa, sau khi mày
chê tập
truyện ngắn Mây Bay Đi của ông ta.
Đọc Mây Bay Đi, là nhận ra, Nguyên Sa là nhà văn dễ dãi và sung sướng!
Gấu này quả có ý đó, khi viết về Nguyễn Du, Hồng Sơn Liệp Bộ.
*
"Cuộc đời trăm năm rách nát với văn chương" (thơ
chữ Hán,
Nguyễn Du). Đâu khác chi Kafka, khi khẳng định: "Ông Trời ‘năn nỉ’
tôi
đừng viết nhưng tôi phải viết" ("Dieu ne veut pas que j'écrive, mais
moi je dois"). Nguyễn Du, thời gian "trốn đời, ở ẩn", khiêm
tốn gọi mình là một tên thợ săn ở núi Hồng Sơn (tài liệu từ cuốn thơ
chữ Hán
của Nguyễn Du, in ấn ở miền bắc, lọt vào miền nam do ngả Paris, người
viết được
đọc trước 1975); lúc này ông già, yếu, đói, bịnh, và đói, nhưng "nhằm
nhò
chi ba cái lẻ tẻ", cuộc đời trăm năm đã dành cho "mắt xanh" mất
rồi, đâu có thời giờ đi kiếm tiền chữa bịnh!
Ông than van, ông cầu mong; nhưng "bạn của ông", nhà văn người Pháp,
Gustave Flaubert, thì không "hiền khô" như vậy: Flaubert đã từng phát
điên lên, tại sao ‘con điếm’ Bovary cứ sống hoài, trong khi ta nằm
đây, chết
như một con chó ghẻ? (Flaubert cried out against the paradox whereby he
lay
dying like a dog whereas that ‘whore’ Emma Bovary, his creature…
continued
alive. G. Steiner, The Uncommon Reader). Đời đọc tính theo giờ, đời
sách tính
bằng thiên niên kỷ. Pindar là người đầu tiên nhận ra sự trớ trêu này: Khi
thành phố mà tôi ca ngợi, đã lụi tàn, khi những con người mà tôi hát
hỏng, đã chìm
vào quên lãng, những con chữ của tôi vẫn còn hoài. Đây chính là
"sợi
chỉ xuyên suốt", khởi từ Horace với khẳng định ‘exegi monumentum’* tới
Mallarmé,
với giả dụ rằng: thế giới hiện hữu là để tiến tới một cuốn sách, cuốn
sách sau
cùng, bản văn vượt thời gian (the final book, the text that transcends
time.
George Steiner).
Ba trăm năm sau
*
Sau bài điểm sách của Gấu, trên
tờ Văn,
phê bình, khác tờ Văn, sáng tác, Nguyên Sa đi một thư trên nhật báo
Sống, gửi
"Nguyễn quân", Gấu còn nhớ, yêu cầu trả lời một số điểm trong bài
điểm sách, nhưng chủ yếu, hỏi:
Tại sao mày dám chê tao?
Gấu không trả lời. Liền sau đó, là loạt bài của Duyên Anh, ký tên
Thương Sinh,
chửi Gấu hàng ngày, kéo dài đâu cũng nửa năm, cỡ đó.
Gấu vẫn vờ.
Tiếp theo, Nguyên Sa đi loạt bài trên báo Sống, và sau đó, trên tờ
Trình Bầy
[hình như vậy], Một bông hồng cho văn nghệ, Một mình một ngựa, phạng
Gấu.
Gấu không trả lời, nhưng Trần Phong Giao có lên tiếng, trong mục Tin
Văn của tờ
Văn, "Bông hồng hay bông cứt lợn". Sau bài viết, Nguyễn Đình Vượng ra
lệnh ngưng, như Gấu được biết.
Mãi tới khi Văn ra số đặc biệt về Nguyễn Du, nhân đang đọc Kafka,
Blanchot,
Sartre [viết về Faulkner], Gấu bèn đi một đường về "choses
nocturnes", chữ của Blanchot, để chỉ thứ văn chương đoạn trường, văn
chương về đêm, văn chương sau Lò Thiêu, văn chương của sự câm lặng...
*
Tại sao cái cửa sổ mở sang khu vườn tình ái thơ mộng (mở sang khu vườn
Thuý),
lại bị đóng chặt mãi mãi chỉ vì “một tên xưng xuất, tại thằng bán tơ”:
Câu này
'thuổng' Sartre, viết về Âm Thanh và Cuồng Nộ của Faulkner, đại ý: Tại
sao cái
cửa sổ mở ra Âm Thanh... lại là ý thức của một tên khùng? (1)
(1) A PROPOS DE “LE BRUIT ET LA FUREUR”. LA TEMPORALITÉ CHEZ FAULKNER
Quand on lit Le Bruit et la Fureur, on est frappé d’abord par les
bizarreries
de la technique. Pourquoi Faulkner a-t-il cassé le temps de son
histoire et en
a-t-il brouillé les morceaux? Pourquoi la première fenêtre qui s'ouvre
sur ce
monde romanesque est-elle la conscience d'un idiot?
Về Âm thanh và Cuồng nộ. Thời tính trong tiểu thuyết của Faulkner.
Khi đọc Âm thanh và Cuồng nộ, người ta bị đập bởi những rắm rối, kỳ
quặc của kỹ
thuật. Tại sao Faulkner lại bẻ nát thời gian của câu chuyện, và làm rối
tung
những mẩu đoạn? Tại sao cái cửa sổ đầu tiên mở ra thế giới tiểu thuyết
đó lại
là ý thức của một tên đần độn?
|