Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự văn học |
Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ |  Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
  Ghi chú trong ngày | Thơ Mỗi Ngày | Nhật Ký | Chân Dung | Jennifer Video 


20.3.2014

Thơ Mỗi Ngày

Chùm thơ Simic

IN THE STREET

Beauty, dark goddess,

We met and parted
As though we parted not.

Like two stopped watches
In a dusty store window,

One golden morning of time.

Ở con phố Gia Long, Xề Gòn


BHD, Nữ Thần Đen, Nhan Sắc Đen

Đôi ta gặp, và đi
Như thể chưa từng

Như hai đồng hồ chết
Ô kính bụi bặm

Một buổi sáng
Thời gian
Vàng.


EXPLAINING A FEW THINGS

Every worm is a martyr,
Every sparrow subject to injustice,
I said to my cat,
Since there was no one else around.

It's raining. In spite of their huge armies
What can the ants do?
And the roach on the wall
Like a waiter in an empty restaurant?

I'm going down to the cellar
To stroke the rat caught in a trap.
You watch the sky.
If it clears, scratch on the door. 

Phân giải đôi điều

Mọi con trùn thì là kẻ tuẫn nạn
Mọi chú sẻ, hứng chịu bất công
Tớ nói với con mèo của mình
Kể từ khi chẳng còn người nào ở chung quanh

Trời mưa. Mặc dù những binh đoàn kiến khổng lồ
Chúng có thể làm gì?
Và con cá “roach” ở trên tường
Thì giống như một anh bồi trong 1 nhà hàng trống rỗng

Tao đi xuống hầm rượu nhe
Để nựng nựng con chuột bị sập bẫy
Mi ngó chừng bầu trời
Nếu tạnh mưa thì cào cào vô cánh cửa.

 

 

ROMANTIC LANDSCAPE

To grieve, always to suffer
At the thought of time passing.
The outside world shadowy
As your deepest self.
Melancholy meadows, trees so still,
They seem afraid of themselves.

The sunset sky for one brief moment
Radiant with some supreme insight,
And then it's over. Tragic theater:
Blood and mourning at which
Even the birds fall silent.

Spirit, you who are everywhere and nowhere,
Watch over the lost lamb
Now that the mouth of the Infinite
Opens over us
And its dumb tongue begins to move darkly.

Phong cảnh lãng mạn

Đau buồn, luôn luôn đau buồn, đau thương
Khi nghĩ thời gian cứ thế mà cắp đít ra đi
Thế giới ngoài kia mới u ám làm sao
Y chang nơi sâu thẳm của mỗi tên Gấu Cà Chớn
Đồng cỏ rầu rĩ, cây trầm tư
Như sợ, chính chúng.

Bầu trời hoàng hôn, trong một thoáng
Bỗng long lanh với 1 cú đốn ngộ cực cao,
Và rồi, hết. Kịch bi đát:
Máu me, tang tóc
Ngay cả lũ chim cũng đành chết sững.

Tinh thần, mi, ở mọi nơi và ở không đâu,
Trông chừng con cừu thất lạc
Bây giờ, khi tháng Vô Cùng
Mở ra trước chúng ta
Và cái lưỡi đần độn của nó bắt đầu lù tà mù chuyển động

EMPTY BARBERSHOP

In pursuit of happiness, you may yet
Draw close to it momentarily
In one of these two leather-bound chairs
With the help of scissors and a comb,

Draped to the chin with a long white sheet,
While your head slips through
The invisible barber's greasy fingers
Making your hair stand up straight,

While he presses the razor to your throat,
Causing your eyes to spring open
As you discern in the mirror before you
The full length of the empty barbershop

With two vacant chairs and past them
The street, commensurately empty,
Except for the pressed and blurred face
Of someone straining to look inside.

Charles Simic: The Voice at 3 AM


Thời Sự Hình


Primo Levi's Tribute


Akhmatova: Nửa Thế Kỷ Của Tôi

Malaparte: The Skin

Ông ta [Malaparte] luôn nói với những tên thắng trận, Hãy nhìn xem, tụi mi làm chúng tao thân tàn ma dại như thế này, see what a despicable being you have made of me, and of us.
Ui choa, bất cứ tên Nam Kít nào, Ngụy hay đếch phải Ngụy, cũng có thể nói, với bất cứ 1 tên Bắc Kít, 1 câu như thế.
Trừ mấy tên VC nằm vùng, hay tinh anh Miền Nam, bỏ chạy cuộc chiến, bợ đít VC.



30.4.2014

Chuyện trò với Brodsky, chương Tưởng nhớ Akhmatova.

Volkov: Lev Gumilyov con trai của Akhmatova, trách mẹ nhiều lần là đã không lo lắng đủ, not doing enough, cho anh ta, khi còn là đứa con nít cũng như trong những năm tù. Tôi có nói chuyện với 1 hoạ sĩ già Latvian, cùng ở trại tù với Lev. Khi tôi nhắc tới Akhmatova, mặt ông ta đanh lại và nói, bà ta gửi những gói quà nhỏ xíu cho thằng con.
Nghe cứ như chính giọng ông con.

Brodsky: Lev trách, blame, mẹ, và anh nói điều gì đó, làm bà đau lắm. Tôi nghĩ những cú đau tim của bà là do ông con trai hay 1 trong những lý do của căn bịnh. Nhưng không hẳn như bạn nói. Ý của những lời nói của Lev là vầy: Với bà thì cách tốt đẹp nhất xẩy ra cho tôi, là chết ở trong tù VC Liên Xô.
Anh ta muốn nói, với bà, “như là 1 thi sĩ”.
Ngay cả 1 người bạn cũ phán như thế, thì tôi cũng vặc lại anh ta, mi là thứ heo chó, huống hồ đây là ông con trai do mình đẻ ra!
Lev đã trải qua 18 năm trong tù, và thời gian dài đằng đẵng đã làm anh ta thành què quặt (and those years apparently maimed him). Anh ta bèn quyết định, ta đã khổ như thế, thì ta có thể làm bất cứ điều gì.

GCC đọc đoạn trên, và THNM, bèn liên tưởng đến cuộc chiến Mít, kèm vói nó là chiều dài lịch sử dựng nước Mít.

Cả 1 bốn ngàn năm văn hiến như thế, Bắc Kít chỉ biết đói và lạnh, thì chỉ nêu cái cú khủng nhất. Trong khi Nam Kít, cả 1 cuộc sống thiên đàng dài dài, từ mùa màng cho đến thời tiết, thiên nhiên ưu đãi, lòng người cũng mở toang ra cùng với nó. Nhưng trên hết, và sau cùng, giả như cuộc chiến ngắn đi 1 chút, có lẽ Bắc Kít đã không đối xử tàn tệ đến mức như thế!
Ba mươi năm mới có ngày nay, vui sao nước mắt lại trào!

Hà, hà!

Đúng là 1 thời đắng nghét! [chữ của DMT, khi viết về 007 Mít, NCT]


Nghe cô giảng giải về một miền đất không hoàn toàn giản dị. Phải nhạy cảm lắm mới nhận ra chút dấu hiệu thật mơ hồ, mong manh của sự chuyển mùa: Mối tình lúc đầu giống như chớm thay đổi thời tiết.... Sau này nhớ lại, đã thực sự yêu thương, không phải lần vì quá cô đơn, lén viết lên trang tiểu thuyết Tô Hoài cô đang đọc, trong lúc cô lui vào trong, Je vous aime, nhưng khi tới báo tin đứa em trai tử trận, không gặp, đành nhờ một cô bạn ở chung nhà nói giùm, tin chắc cô sẽ hiểu.

Cõi Khác

Elegy for a Country’s Seasons

Bi khúc dành cho “Mùa Hè Miền Nam”

Zadie Smith

April 3, 2014 Issue 

There is the scientific and ideological language for what is happening to the weather, but there are hardly any intimate words. Is that surprising? People in mourning tend to use euphemism; likewise the guilty and ashamed. The most melancholy of all the euphemisms: “The new normal.” “It’s the new normal,” I think, as a beloved pear tree, half-drowned, loses its grip on the earth and falls over. The train line to Cornwall washes away—the new normal. We can’t even say the word “abnormal” to each other out loud: it reminds us of what came before. Better to forget what once was normal, the way season followed season, with a temperate charm only the poets appreciated.

What “used to be” is painful to remember.

Ui chao, không lẽ khí hậu, con người Bắc Kít khắc nghiệt làm khí hậu Nam Kít cũng bị ảnh hưởng:
Chúng ta không chỉ mất quê hương, mà còn mất luôn cả khí hậu hiền hòa ngày nào của nó.
Cái “vốn xưa kia” mới đau nhức làm sao, khi nhớ lại.

THNM nặng quá rồi, hà, hà!

Oh, what have we done! It’s a biblical question, and we do not seem able to pull ourselves out of its familiar—essentially religious—cycle of shame, denial, and self-flagellation. This is why (I shall tell my granddaughter) the apocalyptic scenarios did not help—the terrible truth is that we had a profound, historical attraction to apocalypse. In the end, the only thing that could create the necessary traction in our minds was the intimate loss of the things we loved. Like when the seasons changed in our beloved little island, or when the lights went out on the fifteenth floor, or the day I went into an Italian garden in early July, with its owner, a woman in her eighties, and upon seeing the scorched yellow earth and withered roses, and hearing what only the really old people will confess—in all my years I’ve never seen anything like it—I found my mind finally beginning to turn from the elegiac what have we done to the practical what can we do?

Ui chao Nam Kít đã làm cái gì để xẩy ra như vầy? Và bây giờ, chúng ta có thể làm gì?
Thì đành “hồi hộp trở về”, chứ biết “nàm sao” bi giờ!


Literature and Exile

Văn chương và Lưu vong

Năm lần đủ mười lần, bất cứ lần nào, 1 nhà văn Mỹ châu La tinh cư ngụ ở Paris bị/được phỏng vấn, là thế nào cũng có cái trò nắn gân như sau: Tại làm sao mà ông sống ở nước ngoài?
Không đơn giản là tò mò. Trong đa số trường hợp, nó hàm ngụ, hoặc sợ hãi, hoặc trách cứ
Với một số, cái lưu vong vật lý của 1 nhà văn thì nguy hiểm, theo nghĩa văn học, bởi là vì mất mẹ cái sự sờ mó với đất mẹ không chỉ làm nghèo sức tưởng tượng, tầm nhìn, mà có khi còn làm sai lạc thực tại. Với 1 số khác, vấn đề mang tính đạo hạnh: Chọn lưu vong là vô đạo đức, là phản bội Mẹ Mít, thí dụ.
Trong những xứ sở mà cuộc sống văn minh, văn hóa bị hạn chế, hay đếch có, nhà văn - họ nghĩ – nên ở lại và chiến đấu cho sự phát triển những hoạt động trí thức, nghệ thuật, nâng cao mức trí tuệ, trí thức, tâm linh của môi trường sống. Nếu, thay vì vậy, bèn bỏ đi, thì bèn bị coi là ích kỷ, vô trách nhiệm hay, hèn nhát, hay cả ba.


Linda Lê viết về Conrad, trên số báo ML [về Gide].

Chàng để cho nhân vật của mình, là Lord Jim, phán: Tổ quốc là một ông quan toà câm (1)

*

Conrad à l'abordage du Titanic

Un avant-poste du progrès
JOSEPH CONRAD
Traduit de l'anglais et préfacé par Maël Renouard
Ed. Rivages Poche, 94 p., 5 €.

Le Naufrage du Titanic et autres écrits sur la mer
JOSEPH CONRAD
Traduit de l'anglais par Christophe Jaquet Éd. Arléa, 148 p., 16 €.

Fils d'un insurgé polonais en rébellion contre l'Empire russe, orphelin dès son plus jeune âge, exilé à 17 ans, Joseph Conrad, de son propre aveu, ne parlait que quelques bribes d'anglais en 1876, quand il s'embarqua à bord d'un navire de la marine marchande britannique. Et pourtant, c'est dans cette langue qu'il composa, près de vingt ans plus tard, son premier roman, La Folie Almayer. Les critiques se sont beaucoup interrogés non seulement sur l'ésotérisme et le pessimisme de ses récits, mais aussi sur les particularités de sa langue, Virginia Woolf estimant même, dans Journal d'un écrivain, que, « d'origine étrangère, parlant un anglais défectueux, et marié à une lourdaude », il versait dans le mélodrame.

Conrad devait dire dans Lord Jim que la patrie est un juge muet, et il s'était longtemps défendu contre l'accusation de désertion. Il était néanmoins un transfuge. Comme Lord Jim sautant dans le canot des fuyards, Conrad avait largué les amarres qui le rattachaient à sa terre natale. Il avait dédié sa vie aux vastes océans, bourlinguant de Singapour à Dunkerque. Il suffit d'ouvrir Le Miroir de la mer (rééd. Folio, 2008) pour savoir quelle passion il vouait à son métier de marin. Les textes réunis sous le titre Le Naufrage du Titanic et autres écrits sur la mer peuvent se lire parallèlement à ces évocations autobiographiques. Conrad y revient sur ses enchantements. Il y conte sa fascination pour les explorateurs, de Livingstone à Tasman, il y confie qu'enfant déjà il aimait les atlas et lisait tous les livres de voyage qui lui tombaient sous la main, tout en regrettant presque que ces chroniqueurs, « avec leurs remarques de perroquet, leurs étranges tentatives pour être drôles, et celles, lamentables, pour paraître sérieux », aient disparu. Il y livre ses réflexions sur le naufrage du Titanic, déplorant les lenteurs et les absurdités de l'enquête menée, condamnant l'exploitation de l'événement par la presse, soulignant que ce paquebot n'est pas, comme le clament d'aucuns, «le serviteur du progrès, mais celui du commercialisme ». Il y fait aussi allusion à son expédition au Congo, dont il s'était inspiré pour mettre sur l'enclume Au cœur des ténèbres. .

Mais, avant d'écrire ce chef-d'œuvre, il avait eu l'idée d'une nouvelle congolaise, Un avant-poste du progrès, publiée en 1898 dans le recueil Tales of Unrest (Inquiétude). Il y met en scène deux médiocres Européens, négriers ayant la charge d'une factorerie, qui vont au désastre. La peur, arrivée avec les cruels colonisateurs, règne partout: « Un homme peut tout anéantir en lui, l'amour, la haine, la foi, et même le doute; mais aussi longtemps qu'il s'accroche à la vie, il ne peut anéantir la peur: la peur subtile, indestructible, terrible, qui imprègne son être; qui colore ses pensées; qui est à l'affût dans son cœur; qui épie sur ses lèvres l'agonie du dernier souffle. » Ce paysage lunaire, qui contraste avec l'aspect plutôt riant de ses souvenirs, rappelle que Conrad n'était pas seulement un «romancier de la mer », mais aussi un obserrvateur de cette humanité qui, comme Marlow dans Au cœur des ténèbres, ne reste loyale qu'au« cauchemar de son choix ».

LINDA LÊ

LE MAGAZINE LITTÉRAIRE MARS 2009 N°484


c. 1930: Tunis

THE COMING STORM

Oppressive tyrant
Lover of darkness
Enemy of life
You have ridiculed the sighs of the weak people;
Your palm is soaked with their blood.
You deform the magic of existence
And planted the seeds of sorrow in the fields.
Wait! Don't be fooled by the spring, the clearness of the sky,
or the light of dawn;
for on the horizon lies the horror of darkness, rumble of thunder,
and blowing of winds.
Beware, for below the ash there is fire;
And he who grows thorns leaves wounds.
Look there, for I have harvested the heads of mankind and the flowers of hope.
And I watered the heart of the earth with blood.
I soaked it with tears until it was drunk.
The river of blood will sweep you,
and the fiery storm will devour you.

Abul-Qgsim al-Shabbi, "To the Tyrants of the World." This poem was circulated and
chanted during the Arab Spring, first at demonstrations in Tunisia and then in Egypt.
Al-Shabbi was born in 1909, trained as a lawyer but never practiced, and died of heart
disease in 1934 before completing his one collection ofpoetry, Songs of Life, which was first
published in 1955. Parts of his poem "Tbe Will to Live," written in opposition to French
colonial rule, became the final verses of the Tunisian national anthem.

Bão tới

Tên bạo chúa đàn áp
Kẻ yêu bóng tối
Kẻ thù cuộc sống
Mi chọc quê tiếng thở dài, lòng khát khao của những con người yếu đuối
Bàn tay mi thì đầy máu
Mi làm méo mó sự huyền diệu của cuộc sống
Trồng mầm cây rầu rĩ ở cánh đồng
Hãy đợi! Đừng phát khùng vì mùa xuân, vì sự sáng sủa của bầu trời
Hay là tia sáng của bình minh;
Bởi là vì ở chân trời là sự ghê rợn của đêm đen, là sấm nổ, là gió hú
Hãy coi chừng, bởi là vì bên dưới tro than, là lửa;
Và kẻ nào trồng gai góc, sẽ để lại những thương đau.
Hãy nhìn kìa, bởi là vì ta sẽ gặt hái những cái đầu của nhân loại, và những bông hoa của hy vọng.
Và ta sẽ tưới trái tim của trái đất bằng máu
Ta lắc lắc nó với những giọt nước mắt cho đến khi nó say mèm
Con sông máu sẽ chảy qua mi
Và bão lửa sẽ cấu xé mi

“Gửi những tên bạo chúa trên thế giới”. Bài thơ này được truyền bá và được hát lên trong Cách Mạng Arab, trước tiên, trong những cuộc biểu tình ở Tunisia và rồi ở Egypt. Al-Shabbi sinh năm 1909, học luật nhưng không hành nghề và chết vì đau tim năm 1934, trước khi hoàn tất tập thơ, “Những bài ca của cuộc đời”, được xb lần đầu năm 1965. Bài thơ “Ý Sống”, một số đoạn trong đó, được sáng tác nhằm chống lại thực dân Pháp, trở thành những dòng thơ sau cùng của quốc ca Tunisia.

c. 1920: Petrograd

CRYING OUT FOR MOTHER

Little mushroom, white boletus,
my own favorite
The field sways, a chant of Rus
                             rises over it.
Help me, I'm unsteady on my feet.
This blood-red is making my eyes foggy.

On either side, mouths lie
open and bleeding, and from
each wound rises a cry:
-Mother!

One word is all I hear, as
I stand dazed. From someone
else's womb      into my own:
-Mother!

They all lie in a row,
no line between them,
I recognize that each one was a soldier.
But which is mine? Which one is another's?

This man was White    now he's become Red.
Blood has reddened him.
This one was Red    now he's become White.
Death has whitened him.

-What are you? White? - Can't understand!
                                     -Lean on your arm!
Have you been with the Reds?
                   -Ry    -azan.

And so from right and left
Behind            ahead
together, White and Red, one cry of
-Mother!

Without choice. Without anger.
One long moan. Stubbornly.
A cry that reaches up to heaven,
-Mother!

Marina Tsvetaeva,

From Swans' Encampment. Begun in 1917 and completed in 1921, this cycle of poems describes the Russian Civil War and - as Tsvetaeva was skeptical of the revolution and was married to an officer of the White army - expresses counterrevolutionary sympathies. After the Bolsheviks consolidated their power, she left the Soviet Union in 1922 and moved to Berlin, Prague, and then Paris, publishing After Russia in 1928. She returned to the Soviet Union in 1939 and committed suicide there two years later.

Mẹ Ơi!

Nấm nhỏ, nấm trắng
Tôi cực mê
Cánh đồng lắc lư, một tiếng hát Nga
Chồm lên nó
Bớ người ta! Kíu tui với!
Tôi đứng run rẩy trên đôi chân của mình
Máu đỏ làm mờ mắt

Phiá bên kia, những cái mồm, nằm, toang hoác
Ràn rụa máu.
Và từ mỗi cái mồm cất lên:
Mẹ ơi!

Chỉ một từ, tôi nghe.
Tôi đứng ngất ngư, ngỡ ngàng.
Từ ruột gan ai đó
Vô tôi:
Mẹ ơi!

Họ nằm thành dẫy
Không lằn ranh giữa họ.
Tôi nhận ra mỗi người từng là lính
Nhưng cái nào của tôi?
Cái nào của người khác?

Người đàn ông này Trắng…
Bây giờ anh ta Đỏ
Máu nhuộm đỏ anh ta.
Anh này là Đỏ…
Bây giờ thành Trắng
Thần Chết nhuộm trắng anh ta.

-Mi là gì? Trắng? – Không hiểu!
-Vịn vô tay!
Mi đã từng với tụi Đỏ?
-Ry  -azan.

Và như thế, từ phải qua trái
Đằng sau, đằng trước
Tất cả, cùng nhau,
Trắng và Đỏ,
Một tiếng kêu, khóc, than, gào, đòi:
Mẹ ơi!

Không chọn lựa. Không giận dữ
Một tiếng thở than dài. Cứng đầu, cứng cổ, khăng khăng…
Một tiếng khóc bò lên tận thiên đàng:
Mẹ ơi!

Từ Sawans’Encampment. Khởi viết năm 1017, hoàn tất 1921, vòng thơ miêu tả Cuộc Nội Chiến Nga. Tsvetaeva đếch ưa Cách Mạng, lấy ông chồng Bạch Vệ, biểu tỏ những tình cảm phản cách mạng của bà. Sau khi Bôn Xê Vích lấy được Nga, bà rời Liên Xô năm 1922, tới Berlin, Prague, và sau đó Paris, cho xb “After Russia” năm 1928. Bà trở về Liên Xô năm 1939 và tự tử hai năm sau đó.
Tsvetaeva là sư phụ của Brodsky. Xin xem thêm bài viết dưới đây, trong có nhắc tới Brodsky & Tsvetaeva.


Ghi chú trong ngày

*

*

GCC, vừa xuất hiện trên văn đàn Xề Gòn, thời gian còn tờ Nghệ Thuật, là đã chơi 1 bài giới thiệu Beckett, 1965, 4 năm sau ông mới được Nobel, 1969, sau khi vớ được 1 bài của Robert Pinget!
Cái gì gì, "tôi trở về nhà, và viết. Nửa đêm. Trời mưa. Không phải nửa đêm. Không phải mưa". Ui chao, phải đến ra được hải ngoại, đi hết đời mình, thì mới có cơ may - hạnh phúc, đúng hơn - khám phá ra Beckett, một trong những món quà muộn màng tuyệt vời của Ông Giời ban cho Gấu Cà Chớn

*

 "THE USES OF POETRY"
by Anne Atik
FOR S.B. (13 APRIL 1906-22 DECEMBER 1989)

I

A Bible-reading man, he came and left
between two holy days he didn't much observe:
the Good Friday of his birth, near the Christmas of his death.
His life between, a pilgrim's progress with a smile
for what he saw along the way and wrote of,
oversleeping, age and hope and sloth.
Then saw, and wrote of, wrenched along the way,
age and hope and helpless weeping. But
he would have, reading those two states, rejected both
as most remotely holding but one part
or more than minute dose
of the inexpressible, whole truth
of how it is, it was.

II

He showed the shortest way to get across
a line like this:
crossed out such words as these to get to
speechlessness.
He crossed out rivers to get to their stones.
To get to the bottom, when the crisis is reached
and truth-telling begins.
Whatever he knew he knew to music.
He found the pace for misery,
matched distress to syncope, and joke
to a Beethoven stop at the punch line.
But thought that he'd failed to find failure's pulse.
What that says about failure,
music and us.

*

Cuốn tiểu sử Beckett, 800 trang, toàn chữ, trừ cái hình độc nhất, trên, Gấu mua lâu lắm rồi, tính đọc, nhưng sợ quá, bây giờ mới lôi ra, cùng 1 số cuốn khác nữa, của ông, hoặc viết về ông.
Cũng là 1 cách viết về bạn Bạn, và chuyến đi vừa rồi, nhờ đó gặp Sad Seagull.
Giả như gặp Sad Seagull, mà không gặp lại bạn Bạn, thì có thể đã đi luôn, bữa buổi chiều hôm đó ở bên ngoài Phước Lộc Thọ.
Trong đời Gấu, gặp nhiều lần “quái đản” như thế.


Đi tìm phê bình gia Mít

Ví dụ, năm 1956, hàng ngàn dân chúng, đặc biệt là giới sinh viên và trí thức, biểu tình trên các đường phố ở Budapest để chống lại một số chính sách của chính phủ Hungary. Một số sinh viên bị bắn chết. Làn sóng công phẫn trào lên, dân chúng khắp nơi lại ào ào xuống đường biểu tình. Đầu tháng 11, Liên Xô tràn quân qua biên giới Hungary để trấn áp những người biểu tình, giúp chính phủ cộng sản độc tài tại Hungary khôi phục lại quyền lực. Hơn 2000 người Hungary bị giết chết. Khoảng 200.000 người phải chạy ra nước ngoài tị nạn. Trước biến cố ấy, Mỹ làm được gì? Tổng thống Dwight Eisenhower chỉ làm được một việc duy nhất là tố cáo những hành động trấn áp dã man của Liên Xô trước Liên Hiệp Quốc. Hết.

NHQ

Trên TV đã từng giới thiệu 1 số bài viết, cũng đã lâu lắm rồi, về cuộc cách mạng Budapest mà phải bao nhiêu năm sau, nhân loại mới nhìn ra thành quả của nó: Không có nó, là Stalin đã nhuộm đỏ cả Âu Châu rồi.
Ngay khi nó vừa mới xẩy ra là nhà thơ TTT đã đi 1 đường chào mừng, trước cả thế giới!
Thầy Kuốc, do có đọc điệc gì đâu, toàn phán nhảm. Đây là những vấn đề liên quan đến chuyên môn, phải là 1 sử gia, ít ra, thì mới dám đụng vô những vấn đề như vầy.
Điếc đếch sợ súng. Phán liều lĩnh như thế này, thì đúng là hết thuốc chữa!

NQT

Tưởng Niệm Cách Mạng Hung

Có thể nhìn thẳng vào cái chết, với hy vọng.
"It is possible to face death with hope"

Phải đợi một nửa thế kỷ, nhân loại mới tìm ra tên của nó:
Một cuộc cách mạng đạo đức.
[Bìa báo Tin Nhanh, L'Express Inter, số đề ngày 19-25 Tháng Mười, 2006].


**

Chuyện gì xẩy ra tại Hung, vào năm 1956? 

Đây là tóm tắt về nó, tại Tây Phương, trích Bách Khoa Toàn Thư Columbia Enclycopedia. 

Vào ngày 23 Tháng Mười, 1956, một cuộc cách mạng Chống Cộng của dân chúng, tập trung tại Budapest, bùng nổ tại Hungary. Một chính quyền mới được thành lập, dưới quyền Imre Nagy, tuyên bố Hungary trung lập, rút ra khỏi Hiệp Ước Warsaw, kêu gọi LHQ cứu trợ. Tuy nhiên, Janos Kadar, một trong những bộ trưởng của Nagy, thành lập một chính quyền phản cách mạng, và yêu cầu sự giúp đỡ quân sự của Liên Xô. Trong cuộc chiến đấu tàn bạo và quyết liệt, lực luợng Xô Viết dẹp tan cuộc cách mạng. Nagy và những bộ trưởng của ông bị bắt giữ và sau đó, bị hành quyết. Chừng 190 ngàn người tị nạn rời bỏ xứ sở, Kadar trở thành thủ tướng, của chế độ Cộng Sản.

*

Ở trong căn phòng của Lukacs, là ở trung tâm trận bão của thế kỷ chúng ta. Ông bị quản thúc tại gia, khi tôi tới gặp ông ở Budapest. Tôi thì còn quá trẻ, và sướt mướt không thể tin được, và khi tôi phải rời đi, nước mắt tôi ràn rụa: ông bị quản thúc tại gia còn tôi thì đi về với an toàn, với tiện nghi ở Princeton hay bất cứ một thứ gì. Tôi phải đưa ra một nhận xét nào đó, và sự khinh miệt hằn trên khuôn mặt ông. Ông nói, "Bạn chẳng hiểu gì hết, về mọi điều chúng ta nói. Trong cái ghế này, chỉ ba mươi phút nữa thôi, sẽ là Kadar," tên độc tài đã ra lệnh quản thúc tại gia đối với ông.
"Hắn ta là sinh viên của tôi. Chúng tôi đã cùng làm việc, qua từng câu, từng câu, cuốn Hiện Tượng Luận của Hegel. Bạn không hiểu được đâu."
Thực như vậy, tôi đã không hiểu, tôi "đã" đã không hiểu. Chỉ mỗi câu chuyện này không thôi đã cải tạo tôi về cái thế giới mê cung kỳ quái của tầng lớp trí thức Mác-xít, và sự độc ác, và tính nghiêm trọng theo đó mọi trò như thế này diễn ra.
Steiner trả lời Paris Review.

Phỏng Vấn Steiner I

*

Trong những lỗi lầm của Sartre, có vụ liên quan tới cuộc khởi nghĩa Budapest của nhân dân Hungary, vào năm 1956. "Một ô nhục", theo một tác giả trên tờ Le Monde, vào năm 1996, khi Sartre "chấp thuận" (approuver) chuyện chiến xa Liên Xô đè bẹp cuộc cách mạng. Trên tờ L’Express số đề ngày 9.11.1956, Sartre, trong một cuộc phỏng vấn, trước tiên đã "kết án, không chút dè dặt", sự can thiệp của Liên Xô vào Hungary, coi đây là "một lỗi lầm không thể tưởng tượng được", "một tội ác"… nhưng cần phải đọc hết cuộc phỏng vấn.

Lẽ dĩ nhiên, quyết định của điện Cẩm Linh là "một lỗi lầm không thể tưởng tượng được", nhưng… "tất cả cho thấy rằng, cuộc nổi dậy "có chiều hướng phá huỷ toàn bộ hạ tầng cơ sở xã hội". Đó là "một tội ác", nhưng… "trong những nhóm người này, kết hợp nhằm chống lại những người Xô Viết, hoặc để đòi hỏi họ ra đi khỏi đất nước Hungary, người ta nhận ra, có những thành phần phản động, hoặc bị nước ngoài xúi giục"…. "sự có mặt (chứ không phải hành động can thiệp thô bạo) của Liên Xô là "một điều cần thiết"….

Lịch sử sau đó cho thấy, nhân loại đã biết ơn rất nhiều ở cuộc cách mạng Hungary vào năm 1956. Chính nhờ nó, mà Liên Xô nhận ra một điều, chuyện nhuộm đỏ cả Âu Châu, là một toan tính cần phải "xét lại". Ngay Sartre, trong cuộc phỏng vấn kể trên cũng phải công nhận, lần đầu tiên có một cuộc cách mạng không mang mầu đỏ của phe tả (pour la première fois… nous avons assisté à une révolution politique qui évoluait à droite).

Tất cả những khẳng định của Sartre đã được tờ Pravda đăng tải, cộng thêm những lời ca ngợi cuộc can thiệp của Hồng Quân, như của Janos Kadar, vào ngày 5 tháng 11. Một tháng sau đó, chúng trở thành những lời buộc tội những người cầm đầu cuộc cách mạng…

Tin Văn Vắn 3

Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình duyên Budapest 

Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình duyên Budapest 

Anh một trái tim em một trái tim
Chúng kéo đầy đường chiến xa đại bác 

Hãy cho anh giận bằng ngực em
Như chúng bắn lửa thép vào
Môi son họng súng
Mỗi ngã tư mặt anh là hàng rào 

Hãy cho anh la bằng cổ em
Trời mai bay rực rỡ 

Chúng nó say giết người như gạch ngói
Như lòng chúng ta thèm khát tương lai

Hãy cho anh run bằng má em
Khi chúng đóng mọi đường biên giới 

Lùa những ngón tay vào nhau
Thân thể anh chờ đợi 

Hãy cho anh ngủ bằng trán em
Ðau dấu đạn 

Ðêm không bao giờ không bao giờ đêm
Chúng tấn công hoài những buổi sáng 

Hãy cho anh chết bằng da em
Trong dây xích chiến xa tội nghiệp 

Anh sẽ sống bằng hơi thở em
Hỡi những người kế tiếp 

Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình duyên Budapest 

12-56 

Thanh Tâm Tuyền

Thảo Trường kể là, đám sĩ quan VNCH, đi tù VC, thơ TTT, mang theo, chỉ một bài này.

Hãy cho anh khóc bằng mắt em

Note: Trên TLS số 5 Tháng Chín, 2008, có bài điểm cuốn Một Ngày Làm Rung Chuyển Thế Giới Cộng Sản.
Tin Văn scan, để tặng mấy anh VC nằm vùng Đào Hiếu, Lữ Phương, kèm câu này, trích trong bài điểm": "first we need to interrogate Nagy, then we will hang him by the tongue": “Trước tiên, chúng ta cần tra hỏi Nagy, sau đó treo hắn ta lên, bằng cái lưỡi của hắn"

*
HISTORY
By the tongue
TLADIMIR TISMANEANU
Paul Lendvai

ONE DAY THAT SHOOK THE COMMUNIST WORLD:

The 1956 Hungarian Uprising and its legacy 320pp. Princeton University Press. £16.95 (US $27.95).
978 0 691 13282 2 

The Hungarian-born Austrian journalist and historian Paul Lendvai has written a refreshingly insightful analysis of the 1956 Hungarian Uprising and its historical significance. He offers a fully updated critical discussion of one of the most exhilarating and hotly debated events in twentieth-century history. Drawing from recently released documents, Lendvai points out that the Hungarian Revolution was simultaneously an attempt to get rid of a decrepit Stalinist dictatorship, and a war for national liberation. Initially unwillingly, later more determinedly, Imre Nagy and his comrades engaged in a radical break not only with an obsolete system, but also with the Kremlin's imperialist ambitions.
Lendvai makes persuasive use of the treasure of information generated by the Budapest-based Institute for the History of the 1956 Revolution. He refers extensively to memoirs of revolutionaries, as well as to some seminal contributions by Nagy's biograapher Janos Rainer and the historian Gyorgy Litvan. Focusing on Nagy's convoluted political itinerary, including his decades-long unswerving commitment to the Bolshevik cause, as well as his brief yet disturbing collaboration with the NKVD during the Great Terror, Lendvai highlights Nagy's slow, but irreversible divorce from the criminal practices of Stalinism. Referring to Milovan Djilas's illuminating critique of national communism as a historically doomed effort to humanize Leninism, Lendvai also shows how the logic of historical developments forced Nagy to transcend his initially hesitant and self-limited reformist agenda.
For Lendvai, the Rakosi regime was by far the most atrocious in Eastern Europe both in its cynicism and its terrorist policies. Having chaired the Presidential Commission for the analysis of the Communist dictatorship in Romania, I beg to differ. I think that Bulgarian and Romanian repressive strategies were lly ruthless and destructive. Moreover, during the "New Course" between 1953 and , Nagy encouraged a political and economic relaxation unthinkable in Romania, Bulgaria and Albania. At the same time, I agree that the Rakosi-Gero-Farkas-Revai gang resorted to uniquely sadistic and squalid patterns of persecution.
Blending political history and personal memoir, Lendvai helps us understand the  grandeur of the Hungarian Revolution. He places the upheaval within the international context of 1956: attempts by the West to engage in negotiation with the USSR as part of the "peaceful coexistence"; hollow Communist rhetoric followed by no actions; an American administration for whom Eastern Europe did not really matter; hot-headed Radio Free Europe journalists. It also the year of Khrushchev's iconoclastic “Secret Speech" which led to the end of the Stalin myth and ushered in an era of disillusion among Communists worldwide. It was precisely the split among Hungarian Communists and the rebellion of the disenchanted Marxist intellectuals that led to the extraordinary effervescence during the months that preceded the upheaval. The old regime had lost all support even among once fanatic Leninists. Many Communists who survived years of jail under Rakosi embraced the Revolution's ideals. Some did it wholeheartedly, others opportunistically. Lendvai examines the case of Janos Kadar, one of the most depressing in Eastern Europe's history. He documents beyond any doubt Kadar's Judas like role during those fateful days. At the same time, it appears that with or without Kadar, the Soviets had made up their-mind and were ready to crush the Revolution. Kadar's role was, however, decisive in having Nagy and his closest associates subjected to a frame-up and murdered. It was Kadar, not Khrushchev who engineered the judicial assassination in June 1958. Contrasting Kadar and Nagy means exploring two political visions within world Communism after Stalin: the astute opportunist versus the neo-Marxist idealist. By the end of his life, isolated and despised, Kadar lost not only his power, but also his mental sanity. He finished his days haunted by the spectre of Nagy, his political nemesis, the man whom he had pledged to support during the first days of the Revolution, whom he betrayed, and whose life he sacrificed to prevent the political resurrection of an embarrassing rival.
During his "political asylum" at Snagov, by the lake in Romania, Nagy wrote several essential political documents (reviewed in the TLS, May 6, 2005). It was clear for him that no compromise could be reached with the political thugs who had made a martyr out of Hungary. Gheorghiu-Dej, the Romanian ultra-Stalinist leader, told his fellow Politburo members that "first we need to interrogate Nagy, then we will hang him by the tongue". Among those who participated in the attempt to break Nagy's political will was Valter Roman, a Transylvanian, Hungarian Jewish former Spanish Civil War veteran. The Romanian "comrades" did their utmost to make Nagy confess that the Revolution was in fact a Western-backed "counter-revolution".
Lendvai insists on the extraordinary role of the workers' councils during the Revolution and its aftermath. He depicts the resistance mounted by these self-organized, spontaneous networks of civic initiative as a second revolution. In this respect, his position converges with Hannah Arendt's for whom the Hungarian Revolution's main legacy was precisely the emergence of the councils as a form of radical, direct democracy. At the same time, Lendvai is at his best in detailing some of the most fascinating biographies of revolutionaries: from desperate teenagers resisting the secret police and Soviet troops on the Corvin passage to the still enigmatic Jozsef Dudas, a former Hungarian-Romanian Communist, an anarchist of sorts, a romantic adventurer who finished hanged by Kadar's kangaroo justice. The uprising was inclusive, democratic and patriotic. Contrary to the Communist propaganda, the Hungarian Revolution not only did not engage in anti-Semitism, but, on the contrary, some of its most ardent participants were Jewish (including the journalist Miklos Gimes, executed together with Nagy in June 1958). With its heroic dreams and liberating passion, the Hungarian Revolution was the prelude to the citizens' upheaval of 1989.

Bài thơ Budapest của TTT, lần đầu tiên ra mắt người đọc hải ngoại, và, cùng lúc, độc giả ra đi từ Miền Bắc, thời gian Gấu, cùng với cả thế giới, kỷ niệm 40 năm cách mạng Hung [1956-1996], qua bài viết Tạp Ghi, Hãy cho anh khóc bằng mắt em, trên báo Văn Học, số tháng Ba, 1997, của Nguyễn Mộng Giác
Một thi sĩ ra đi từ Miền Bắc, cho biết, ông cứ nghĩ, của một ông Tây!

Hào khí ngất trời!

Về bài viết, Gấu chỉ còn nhớ một chi tiết thật thú vị. Điện Cẩm Linh, có lúc đã tính “đầu hàng” Cách Mạng, và thí cho tay đứng đầu cuộc nổi dậy, Imre Nagy, chức Phó Thủ Tướng trong tân chính phủ hòa hợp hòa giải dân tộc.
*
Bất giác lại nhớ đến ngày 30 tháng Tư, chúng mày còn gì đâu mà đòi chuyện bàn giao, hoà giải, thành lập tân chính phủ....


Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu

Bà cảm thấy thế nào khi sống tại nước Pháp hiện nay?

Tôi gần như luôn luôn cảm thấy mình sống trong tình trạng lưu vong. Tôi tin rằng mặc dù sống ở Pháp đã lâu vậy mà tôi chưa bao giờ nói: đây là xứ sở của tôi. Nhưng tôi cũng không nói Việt Nam là xứ sở của tôi. Tôi coi tiếng Pháp là tình yêu sâu đậm của mình. Đó là cái neo độc nhất cắm vào thực tại mà tôi luôn thấy, thật hung bạo, Tôi rất lo ngại về sự bùng phát của một thứ chủ nghĩa quốc gia dữ dằn ở Âu Châu. Tôi có cảm tưởng Âu Châu ngày càng trở nên lạnh nhạt, và càng ngày càng bớt bao dung. Có lẽ chúng ta đang ở trong một thời hòa bình chỉ ở ngoài mặt, có vẻ như hòa bình, những cuộc xung đột ngầm chỉ chờ dịp để bùng nổ, tôi sống trong sợ hãi một cú bộc phát lớn. 

Trong Cronos, bà đưa ra một lời kêu gọi, về một sự phản kháng. Phản kháng như thế nào, theo một hình thức nào, vào lúc này, theo bà?

Đó là thứ tình cảm bực tức, muốn làm một cái gì đó, muốn nổi loạn, khi tôi theo dõi những biến động, Đôi khi tôi cảm thấy gần như ở trong tình trạng bị chúng trấn áp đến nghẹt thở. Tới mức có lúc tôi ngưng không đọc báo hàng ngày, không nghe tin tức trên đài nữa. Như nữ nhân vật Cronos, tôi thỉnh thoảng ở trong tình trạng cảm thấy mình bị cự tuyệt, bị sự chối từ cám dỗ…. Như nữ nhân vật này, tôi chỉ có thể chiến đấu bằng ngòi bút. Có thể 1 ngày nào đó những biến động bắt buộc tôi phải hành động khác đi. Nhưng vào lúc này, trong xã hội mà tôi sống trong đó, khí giới độc nhất của tôi là viết.

Dù có thể chẳng được hồi đáp

Tôi luôn viết với thứ tình cảm là tôi có thể giảng đạo ở giữa sa mạc. Nhưng điều đó không đánh gục tôi. Ngược lại. Một cách nào đó, vậy mà lại hay. Đừng bao giờ cảm thấy mình viết ra là được chấp nhận. Nếu không bạn sẽ bị ru ngủ bởi sự hài lòng, thoải mái. Bằng mọi cách, cố mà đừng để xẩy ra tình trạng tự hoang phế, hay thương thân trách phận. Tình cảm hài lòng, và oán hận là hai tảng đá ngầm lớn mà tôi cố gắng tránh né.

Những cuốn sách của bà hay nói tới đề tài bị bỏ bùa…  

Đề tài này luôn ám ảnh tôi. Nó đầy rẫy ở trong những tiểu thuyết của Henry James, trong có những phụ nữ bị mồi chài bởi những tên sở khanh. Văn chương tuyệt vời nhất là khi nó mê hoặc, quyến rũ. Tôi mê những nhân vật giống như là một cái mồi, sẵn sàng phơi mình ra để mà được… làm thịt. Bản thân tôi, cũng đã từng bị mê hoặc, hết còn chủ động được, trước một vài người, trong đời tôi, và tôi luôn quan tâm tới điều này.
*

Đây là đề tài ‘ban phát’, thay vì ‘giải phóng’ bà 'Thấm Vân Thấm Dần Thấm Tới Đất' [mô phỏng cái tít “Mưa không ướt đất” của 1 nữ văn sĩ nổi tiếng trước 1975 ở Miền Nam] từng đề cập.

Và một trong những tiểu thuyết thần sầu của Henry James mà Linda Lê nhắc tới ở đây, là Washington Square.
Cuốn này đã được quay thành phim, với nhân vật thần sầu, Monty Cliff, đóng vai anh chàng sở khanh đào mỏ.
Nhân trong nước đang ì xèo về phim Cánh Đồng Bất Tận chuyển thể từ tiểu thuyết của Nguyễn Ngọc Tư, TV bèn ‘lệch pha’qua nhân vật đàng điếm sở khanh Monty Cliff, một trong những kép độc được mấy em gái thời Gấu mới lớn mê mẩn, không chỉ anh ta, mà còn, nào là Elvis Presley, Gregory Peck, Clark Gable... 

Tên nào Gấu cũng thù, do hồi đó Gấu mê một em, và thần tượng của em là những đấng trên!
Gấu Cái cũng cực mê Elvis Presley, từng trốn học đi coi phim có anh ta thủ vai chính!

*

Điểm Sách London 7 Oct 2010

MONTGOMERY CLIFT was a lush, a loser and a masochist; for more than 15 years he was also one of the finest actors in America - as Clark Gable put it, 'that faggot is a hell of an actor.' His beauty, his drinking, his homosexuality, his failure and his unaccountable talent have all re-formed themselves as elements of the icon that stands in for Clift, a potent image of the suffering star. Having seen himself in Howard Hawks's Red River (1948), Clift, so the story goes, knew that fame was coming to him, and grabbed the opportunity to get drunk anonymously one last time. In the years of his renown, it could seem as though his aim was to hold on to that anonymity while in the throes of stardom. For all that, he clearly loved the limelight, and in some perverse way tried to turn celebrity into concealment. The sad joke of his career was that his fame outlived his success; after Red River, he couldn't even be anonymous in failure. 

*

Cynthia Ozick, trả lời phỏng vấn, "Cuốn sách thay đổi đời tôi", cho biết, đó là cuốn Washington Square, của Henry James. Bà viết:

Một bữa, khi tôi 17 tuổi, ông anh mang về nhà một tuyển tập những câu chuyện bí mật, mystery stories, trong, lạ lùng sao, có truyện The Beast in the Jungle của Henry James. Đọc nó, tôi có cảm tưởng đây là câu chuyện của chính đời tôi. Một người đàn ông lớn tuổi, đột nhiên khám phá ra, ông bỏ phí đời mình hàng bao năm trời.
Đó là lần đầu tiên Henry James làm quen với tôi. Washington Square tới với tôi muộn hơn. Câu chuyện của cô Catherine được kể một cách trực tiếp, cảm động, và gây sốc. Đề tài xuyên suốt tác phẩm này là: Sự giả đò. Giả đò làm một người nào đó, mà sự thực mình không phải như vậy. Ở trong đó có một ông bố tàn nhẫn, ích kỷ, giả đò làm một người cha thương yêu, lo lắng cho con hết mực. Có, một anh chàng đào mỏ giả đò làm người yêu chân thành sống chết với tình, một bà cô vô trách nhiệm, ngu xuẩn, ba hoa, nông nổi giả đò làm một kẻ tâm sự ruột, đáng tin cậy của cô cháu. Và sau cùng, cô Catherine, nạn nhân của tất cả, nhập vai mình: thảm kịch bị bỏ rơi, biến cô trở thành một người đàn bà khác hẳn.
Ozik cho rằng, ý tưởng giả đò đóng vai của mình, là trung tâm của cả hai vấn đề, làm sao những nhà văn suy nghĩ và tưởng tượng, và họ viết về cái gì. Không phải tất cả những nhà văn đều bị vấn đề giả đò này quyến rũ, nhưng, tất cả những nhà văn, khi tưởng tượng, phịa ra những nhân vật của mình, là khởi từ vấn đề giả đò, nhập vai.
Tuy nhiên, nguy hiểm khủng khiếp của vấn đề giả đò này là:
Những nhà văn giả đò ở trong đời thực, sẽ không thể nào là những nhà văn thành thực của giả tưởng. Cái giả sẽ bò vô tác phẩm.
[Writers who are impersonators in life cannot be honest writers in fiction. The falsehood will leach into the work].
Gấu đọc Washington Square khi còn Sài Gòn, và bị nó đánh cho một cú khủng khiếp, ấy là vì cứ tưởng tượng, sẽ có một ngày, bắt cóc em BHD ra khỏi cái gia đình có một ông bố tàn nhẫn, ích kỷ, đảo ngược cái cảnh tượng thê lương ở trong cuốn tiểu thuyết:
Khi ông bố không bằng lòng cho cô con gái kết hôn cùng anh chàng đào mỏ, cô gái quyết định bỏ nhà ra đi, và đêm hôm đó, đợi người yêu đến đón, đợi hoài, đợi hoài, tới tận sáng bạch...

Và Gấu nhớ tới lời ông anh nhà thơ phán, mi yêu thương nó thì xách cổ nó ra khỏi cái gia đình đó, như vậy là may mắn cho cả nó và cho cả mi!
Ôi chao giá mà Gấu làm được chuyện tuyệt vời đó, nhỉ. (b)



Năm nhà văn nữ dưới mắt họa sĩ Chóe

Đúng rồi, số báo này có bài của Gấu. Bạn quí, thư ký tòa soạn order. Bài đăng lên, bị thiến mất mấy chữ, Gấu cằn nhằn, bạn quí sorry, nói, tao mà không thiến mấy dòng đó, mấy bà đó đi gặp mày, thiến luôn của quí của mày!

Thời gian này, Gấu có báo riêng. Tờ Tập San Văn Chương. Nguyễn Tường Giang bác sĩ, ông chủ lo tiền bạc, quản lý báo, nghe, bực quá, ra lệnh post lại trên báo nhà, nguyên con.
Gấu vốn tính cả nể, “chẳng dám đụng ai”, bèn nói, thôi, bỏ đi.
Cũng rét chứ bộ.
Còn nhớ một ý, hách lắm, nhân Tuý Hồng mới cho ra lò “Tôi nhìn tôi trên vách”, đại khái:
Mấy bà viết văn, thì thường là viết tiểu thuyết xã hội, [ý nói, đái không qua ngọn cỏ!], và lấy ngay cuộc sống gia đình làm đề tài.
Đàn ông viết truyện, đàn bà viết tự truyện.
Đàn ông đẻ ra nhân vật, mấy bà chẳng cần đẻ, bệ ngay ông chồng của mình vô.
Mấy ông đi từ cái bếp lên tủ sách [ý nói, ăn uống xong xuôi, bèn viết], mấy bà bê mẹ tủ sách xuống bếp, vừa viết văn vừa thổi cơm.
Đang nhặt sạn gạo, bèn lấy mẹ một hột sạn thay cho dấu chấm trên chữ i!
*
Gấu nhớ là, bài viết của Gấu có chôm mấy ý trong một bài viết của Virginia Woolf.
Cái hình ảnh, lấy hột gạo/hạt sạn thay cho dấu chấm trên chữ i, là của Woolf ?
Hẳn thế.
Gấu, sức mấy mà nghĩ ra một hình ảnh, lấy ra từ "tam giác bếp núc", của Levi-Strauss, đẹp đến như thế! (1)
Bạn có liên tưởng ra, hình ảnh một cái hột… khác, không?

(1) Văn minh nhân loại, theo C. Lévi-Strauss, chỉ luẩn quẩn quanh xó bếp. Trước tiên là sống. Cái thuở loài người ăn uống như thú vật. Rồi chín, khi Prométhée ăn cắp giùm lửa. Chín là trạng thái trừ khử nước, trong sống. Cộng thêm nước, thành rữa, thúi. Đó là ba đỉnh cái kiềng ba chân của C. Lévi- Strauss.
Phiền một nỗi, trong khi nướng, thui... con người bỗng mê "khói", bởi vậy văn minh nhân loại cũng chỉ là một đường thẳng, đi từ mật ong, tới tàn thuốc. Thoạt kỳ thuỷ, ăn mật ong, "hỗn như gấu", tới khi hít khói thuốc, là tàn một chu kỳ văn minh.
*
Gấu nhớ ra cái tít của bài viết rồi, "Nhà văn nữ và tiểu thuyết xã hội". Được “lạng lách” [được gợi hứng], từ một bài của Woolf, qua đó, bà cho rằng, tiểu thuyết là thứ mạt hạng trong các thể loại văn học, và tiểu thuyết xã hội là "mạt hạng của mạt hạng", và nhà văn nữ, do tạng của họ, chỉ hợp với thứ này!

Hà, hà!

Đúng là "danh bất hư truyền": Một tên 'sa đích văn nghệ'!

Gấu cũng nhớ ra mấy câu ông bạn quí delete rồi, đại ý:
Những nhà văn nữ Việt nam đi từ thành công tới thất bại, biến tiểu thuyết thành tự truyện, biến những nhân vật tiểu thuyết thành những người thân trong gia đình!

Đi từ thành công tới thất bại!
Đểu thật!
Nhưng, so với cái tít cuốn tiểu thuyết của Tuý Hồng, thì cũng chẳng thấm vào đâu.
Như muối bỏ bể!
*
TTT rất quí Tuý Hồng, ông rất phục, đúng hơn, cái tài sử dụng chữ Mít của Tuý Hồng. Ông có nói điều này với Gấu, trong một lần ngồi Quán Chùa, nhắc tới Thanh Nam, và những ngày làm tờ Nghệ Thuật.

“Tôi nhìn tôi trên vách” quá tuyệt.
Chắc là cái tít bật ra khi nhìn bản mặt ông chồng, thấy chán như cơm nếp nát, hẳn thế?

Gấu gặp Tuý Hồng, độc nhất một lần, khi còn ở building Cửu Long, sau khi ông bê bà về đây ít lâu.
Khi ông còn độc thân, có ghé vài lần, có lần xách theo ông anh vợ hụt [ông anh BHD] cùng chai Remy, của một anh lính Mẽo già, mua cho một cô nữ điện thoại viên ở trên Đài, từ PX của Mẽo. Anh già này mua nhiều thứ lắm, toàn Gấu được hưởng, như Pall Mall, Remy.

Cô nữ điện thoại viên mà anh lính già mê, Gấu cũng mê!

Ông trưởng đài lại càng mê. Hai người bồ bịch với nhau, chẳng ai biết, chỉ đến khi ông trưởng đài bị mìn VC cùng với Gấu, tại nhà hàng nổi Mỹ Cảnh, cô thương quá, sợ ông chết, bật khóc nức nở, thế là bể chuyện.
Ui chao chuyện về em này cũng tuyệt lắm. Bữa nào rảnh kể tiếp. Gấu gọi em là Dì Tám, bởi vì mê cháu của bà, là cái cô Mai, trong Những ngày ở Sài Gòn:

Mai, Mai, để anh kể cho em nghe về một thành phố mà anh vừa biết yêu nó thì phải rời bỏ, một quãng đời của anh, bây giờ nhớ lại thấy đâu đó trong quá khứ những trái sấu vàng vương vãi, tiếng lá vàng xào xạc, tiếng còi mười giờ chạy dọc theo con phố Tràng Tiền.

Mai, Mai… để anh kể cho em nghe về một thành phố thỉnh thoảng buổi sáng có sương mù…

Mai thôi làm việc. Khi chúng tôi chia tay nhau tại cầu thang, trong khi chờ thang máy, đột nhiên nàng nói: "Tôi sợ, tôi sợ lắm", nàng nói câu đó bằng tiếng Pháp. Tôi mở cửa thang máy cho nàng và bỗng chợt nhớ câu tôi hỏi vị bác sĩ người Pháp chữa trị cho tôi, khi còn nằm trong nhà thương Grall:

Như vậy là chiến tranh đã chấm dứt đối với tôi? (Est-ce que la guerre est finie pour moi?).

Những ngày ở Sài Gòn (1965)

*
Năm nhà văn nữ, mỗi bà có một, hoặc hai thương hiệu. Thuỵ Vũ, “lao và lửa”, Trùng Dương, ‘mưa không ướt đất’, ‘em lên anh nhé’, Tuý Hồng, ‘vết thương dậy thì’, Nguyễn Thị Hoàng, ‘vòng tay học trò’. Ngoài ra, còn Nhã Ca, Trần thị NGH, Lệ Hằng, Ngọc Minh, nhiều lắm.
Trong Văn Học Tổng Quan Võ Phiến giải thích hiện tượng âm tính của cõi văn Mít Miền Nam, giọng văn trước, ‘ồm ồm’, sau, ‘eo eó’, là do đàn ông đi lính hết!

Nhảm thế đấy.

Trong cuộc trò chuyện giữa Volkov và Brodsky, khi được hỏi, tại sao cả trăm năm, từ Karolina Pavlov tới Mira Lokhvitskaya, đàn bà chỉ đứng khép nép bên chiếu thơ, thế rồi, bất thình lình, cùng một lúc, chúng ta có hai tài năng khổng lồ, là Tsvetaeva và Akhmatova, đứng ngang hàng với những nhà thơ khổng lồ trên thế giới, Brodsky cho rằng, vấn đề này không  liên quan tới thời gian. Nhưng, có thể, chính là vấn đề thời gian [Then, again, maybe it has].

Vấn đề theo tôi [Brodsky], là, đàn bà rất mẫn cảm với trà đạp đạo đức, với vô đạo đức, về mặt tâm lý cũng như về mặt tinh thần. Và vô đạo đức thì phổ cập, tràn lan, thế kỷ khốn kiếp của chúng ta chẳng hề thiếu!
Thành thử, sự nổi lên của các nhà văn nữ Miền Nam vào thời kỳ đó, không phải là do đàn ông đi lính hết, các bà tha hồ múa may quay cuồng, mà chính là vì sự hung bạo, tàn khốc của cuộc chiến, và nói quá đi một chút, có thể các bà đã ngửi ra cái mùi dã man từ những trại cải tạo sắp tới, cũng nên!

Như GCC được biết, bài được đăng, trong 1 số báo khác, của Văn. Tuy nhiên, nhớ, đúng là bạn quí order.