Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự | Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
 Thơ Mỗi Ngày | Chân Dung | Jennifer Video
Nhật Ký Tin Văn / Viết mỗi ngày


Last Page

*

Mom & Grandma & Richie @ Mandarin's

*

VN by Flycam


Tiễn DC

Cuốn "Robert Walser Coi Tranh", dưới đây, cũng thuộc loại quí, bìa cứng, bọc giấy bóng, vô phương xem cọp. Mua, có thể có nghĩ tới DC vừa đi xa, 1 tí.
Ông không phải là bạn Gấu, và cái chuyện Gấu được gặp ông, quả cũng có tí định mệnh ở trong đó.
Cứ theo như cung cách NDT đối xử với DC, thì Gấu không được coi trọng bằng, và sở dĩ ông ghé nhà NDT, là do, nếu ở khách sạn, lỡ có chuyện gì, không có ai biết.
DC không thích gây phiền hà cho bạn bè, khi giang hồ vặt. Chàng ở khách sạn cho tiện.

Nhân chuyện bạn quí.
Trong 1 bài viết trên Phố Dzăng, viết về nhà văn bạn quí của GCC, HPA, cái hình của anh, chụp lần gặp ở Paris, 1999, lấy từ Tin Văn.
Đúng ra, 1 người lịch sự, họ ghi nguồn.
Ông bạn quí, bạn của DC, đại thi sĩ, chủ trang Phố Dzăng này, vờ.
Một ông khác, cũng bạn quí của DC, khi cần 1 bức hình Ngô Vương Toại, bạn của ông, cũng vô trang Tin Văn, lấy, và thiến mẹ cái thằng Gấu Cà Chớn, ngồi kế bên.

Thì cũng bỏ thôi, không bỏ thì làm gì được nhau, nhưng cái chuyện này, thì phải nói ra.
Cũng vẫn ông đại thi sĩ, 1 lần viết về Joseph Huỳnh Văn, nhắc đến hai câu thơ của ông, mà ông ta viết, “nhớ là đọc ở đâu đó, trên Thời Tập của Viên Linh, hình như vậy”!

Hai câu thơ

Khuya nức nở những cõi lòng không ngủ
Đợi vì sao dậy sớm tiễn người đi

Ông ta chôm ở Tin Văn.
Thơ Joseph, trước 1975, chưa từng đăng ở đâu, ngoài Tập San Văn Chương.
Hai câu thơ trên, là từ trong đầu của GCC vọt ra. Trong 1 lần, hai tên này uống bia, say quá, 1 tên thầm thì hai câu trên, vì, “tội thằng Trụ quá”, như anh thường nói với NLV, “ghiền như mi, chắc chỉ có tao là thằng độc nhất tiễn mày đi thôi”!
Bởi thế mà Gấu phán, chỉ cần 1 tên thôi, mấy tên khác đi chỗ khác chơi cho được việc!

Gấu mù tịt về hội họa, nhưng, trong lần gặp DC, “ấn tượng” bởi phong thái của ông, và sau khi mua cuốn sách, bèn xé mẹ cái giấy bóng, lật lật coi, vớ được mấy câu phán về hội họa, áp dụng vô cas DC – cái phong thái của ông - thật là tuyệt.
Từ từ, viết tiếp.
Cũng là 1 cách coi tranh DC, qua con mắt của Robert Walser.

Hội họa là 1 dụng cụ để học nhìn, đếch cần đến hội họa!
Art is a tool for learning how to see without art.

Thơ Mỗi Ngày

Tribute to Robert Walser

    When critics write about art, it is often with the intention of helping others to appreciate a work. They describe a painting, discuss its context, and evaluate its importance.
    Yet Walser's way of seeing is eminently his own. Something special happens when he is contemplating art. "A camera," the photographer Dorothea Lange once said, "is a tool for learning how to see without a camera." We can say something similar about Walser's writings on art. In these stories and essays, art is a tool for learning how to see without art. Here are a few examples:

Introduction
Susan Bernofsky and Christine Burgin

Robert Walser grew up alongside an artist who exerted a powerful influence on him in his early years: his brother Karl, one year his senior, who became the most celebrated stage set designer in Berlin in the nineteen-oughts. Karl collaborated with theater director Max Reinhardt, painted frescoes in the villa of the publisher Samuel Fischer, and counted among his friends some of the most culturally influential figures of the time. When Robert followed Karl from Switzerland to Berlin in 1905, he met many of the artists in his brother's circle. Karl had joined the renegade artists group Berliner Secession (so named because the artists were "seceding" from the classicism of the previous generation of painters), and Robert eventually landed the job of secretary to the Secession. In this position, he wrote some highly inappropriate business letters; one, addressed to Walter Rathenau in 1907, requested that Rathenau keep his promise to buy a painting by E. R. Weiss because the proceeds from the sale had "already been spent (drunk)." The secretary was soon dismissed. But it hardly mattered, because he had just completed his first novel, The Tanners, which was published that same year by Bruno Cassirer, cousin of Paul Cassirer, the Secession's manager. Bruno went on to publish two more of Robert's novels, The Assistant (1908) and Jakab van Gunten (1909), as well as a collection of poems (1908) with etchings by Karl.
    As a young writer producing a great deal of short prose for publication in journals and newspapers, Robert Walser frequently devoted his attention to works of visual art, whether by his brother and his contemporaries or by Id masters. Ekphrasis was a mode of writing he came to love; he pursued it all his life. The pieces in this collection n include some of his earliest prose ("A Painter," 1902) as well as work from the final years of his career ("Watteau" and "The Kiss," both 1930). Some of them are fluid meditations on art that sometimes touch only tangentially on the paintings that are their ostensible subjects. Others are meticulous descriptions of works down to their most minute details, with the narrator often zeroing in on elements of a picture that would not ordinarily be the focus of the gaze of either a connoisseur or critic.

    When critics write about art, it is often with the intention of helping others to appreciate a work. They describe a painting, discuss its context, and evaluate its importance.
    Yet Walser's way of seeing is eminently his own. Something special happens when he is contemplating art. "A camera," the photographer Dorothea Lange once said, "is a tool for learning how to see without a camera." We can say something similar about Walser's writings on art. In these stories and essays, art is a tool for learning how to see without art. Here are a few examples:

*
    
Karl Walser, Portrait of a Lady, 1902
 
Portrait of a Lady
 
A young lady, a girl of perhaps twenty, is sitting in a chair and reading a book. Or she has just been diligently reading, and now she is reflecting on what she has read. This often happens, that someone who is reading must pause, because all sorts of ideas having to do with the book keenly engage him. The reader is dreaming; perhaps she is comparing the subject matter of the book to her own experiences hitherto; she is thinking about the hero of the book, while she fancies herself almost its heroine. But now to the picture, to the way it is painted. The picture is strange, and the painting in it is delicate and subtle, because the painter, in a mood of beautiful audacity, has crossed the boundaries of the usual and has thrust his way through a biased reality out to freedom. In painting the portrait of the young lady, he is also painting her amiable secret reveries, her thoughts and daydreams, her lovely, happy imagination, since, directly above the reader's head, or brain, in a softer, more delicate distance, as though it were the construction of a fantasy, he has painted a green meadow surrounded by a ring of sumptuous chestnut trees and on this meadow, in sweet, sunlit peace, a shepherd lies sprawled, he too appearing to read a book since he has nothing else to do. The shepherd is wearing a dark blue jacket, and around this contented loafer graze the lambs and the sheep, while overhead in the summer morning air, swallows fly across the cloudless sky. Looming up from the opulent, rounded tops of the leafy trees, one can glimpse the wispy tips of a few firs. The green of the meadow is rich and warm, and speaks a romantic and adventurous language, and the whole cloudless picture inspires observant, quiet contemplation. The shepherd off in the distance on his painted green meadow is undoubtedly happy. Will the girl who is reading the book also be happy? She certainly would deserve to be.
Every creature and every living thing in the world should be happy. No one should be unhappy.
Translated by Lydia Davis
 
This painting portrays something like a moral dilapidation.
    But are not loosenings of moral strictures at times elegant?
    This category includes women who are, to begin with, beautiful, and secondarily straying, etc., from the proper path.
    A variety of straying would seem to be the subject of the picture I am observing here, which appears to have been painted with exceptional delicacy, caution, precision, intelligence and melodiousness.
                                                                from "A Discussion of a Picture"

Looking at Pictures presents a little-known facet of the work of the eccentric Swiss genius Robert Walser (1878-1956): his writings on art.
Translated by Susan Bernofsky, Lydia Davis, and Christopher Middleton.
[Lời giới thiệu bìa sau]

Thông điệp gửi thế kỷ 21
Mít vs Lò Thiêu

Đại hội đảng ở 'quốc gia công an trị'
http://www.bbc.com/vietnamese/forum/2016/01/160124_bass_congress

Bài viết này, TV có ý tìm nguyên tác để dịch, nhưng tờ báo này khó chịu quá, thua. Nay thấy Văn Việt có dịch, xin thông báo để độc giả TV đối chiếu với bản trên BBC.
http://vandoanviet.blogspot.ca/2016/01/ai-hoi-ang-xii-va-so-phan-dan-chu-cai.html

Note: Bài viết của Bass, theo GCC, tuyệt.
Nhưng, vì ông không phải là Mít, và hơn thế nữa, càng không phải 1 tên Bắc Kít, cho nên ông không thể đẩy nó đến tận cùng, bật ra hai chân lý khổng lồ về xứ Mít.
Thứ nhất, dân Bắc không hiểu dân chủ nghĩa là gì, do họ chưa từng biết đến nó. Suốt bốn ngàn năm dựng nước, hết phong kiến thì nô lệ Tầu, rồi một
trăm năm nô lệ thằng Tây, chúng cũng đếch cho biết mùi dân chủ, mà thay vì vậy, là bảo hộ, với đám cường hào ác bá dựa oai Tẩy ị lên đầu nhân dân, thi nhau tác quái. Lũ VC bây giờ, là kế thừa truyền thống đó.
Và chân lý khổng lồ thứ nhì, ở cái nền của chế độ công an trị, là Cái Ác Bắc Kít.

*

Nguyên tác tiếng Ý 2013. Bản tiếng Anh, mới ra lò 2016.

A PIONEERING EXAMINATION OF THE ITALIAN RESISTANCE
AND THE GRIM SECRET THAT HAUNTED PRIMO LEVI'S LIFE

No other Auschwitz survivor has been as literarily powerful and historically influential as Primo Levi. Yet Levi was not only a victim or a witness. In the fall of 1943, at the very start of the Italian Resistance, he was a fighter, participating in the first attempts to launch guerrilla warfare against occupying Nazi forces. Those three months have been largely overlooked by Levi's biographers; indeed, they went strikingly unmentioned by Levi himself. For the rest of his life he barely acknowledged that autumn in the Alps. But an obscure passage in Levi's The Periodic Table hints that his deportation to Auschwitz was linked directly to an incident from that time: "an ugly secret" that had made him give up the struggle, "extinguishing all will to resist, even to live."
What did Levi -mean by those dramatic lines? His small partisan band, it appears, had turned on itself, committing a brutal act against two of its own members. Using that shocking episode as a starting point, Sergio Luzzatto offers a rich examination of the early days of the Resistance, when the nascent movement struggled to define its role. Combining investigative flair with profound empathy, he traces vivid portraits of both rebels and Nazi collaborators, showing how their fates continued to be intertwined into the postwar years. And he provides startling insight into the origins of the moral complexity that runs through the work of Primo Levi himself.

Lời giới thiệu trang bìa [jacket]


What enemy? Every man's his own foe,
Each one split by his own frontier,
Left hand enemy of the right.
Stand up, old enemies of yourselves,
This war of ours is never done.

One cannot read that last verse without thinking of the moment in The Truce when Levi, having just left Auschwitz, hears words of warning from another of the saved: guerra è sempre, "war is always." The poem, written almost forty years later, is equally eloquent and emphatic: the enemy is not outside, but inside the band of comrades-indeed, inside each one of them. "Every man's his own foe, / Each one split by his own frontier."
    It would be reassuring to think that in war the enemy is always outside, and that once the enemy is defeated the problem of wrongdoing has been resolved. On close inspection, however, the Italian civil war (where it doesn't seem difficult, at least in retrospect, to distinguish the side of rights and humanity from the side of inhumanity and abuse) tells another story. It is a story of unquestionable good, the fight against Nazi Fascism, intermixed with a story of profound wrong, a wrong no human being, not even the best, can say he is totally free of. Between black and white lie many shades of gray. At times this story is one of simple, sharp contrasts. More often, its truths are expressed in gradations.
Prologue
 
Còn lại một việc nữa: văn chương miền Nam đâu có dừng lại ở năm 1975.
Đây mới là điều huyền bí nhất.

Blog NL

Nếu như thế, thì cuộc chiến cũng không chấm dứt với ngày đó.
Trong lời Prologue, trích đoạn, trên, cho thấy, Primo Levi cũng không tin cuộc chiến Nazi chấm dứt với cú Đồng Minh giải phóng nước Ý của ông.

War is always.

Cái trò bầu bán Đại Hụi Bịp vừa xẩy ra mà không mặt dầy, trơ trẽn ư?
Chỉ cần 1 tên Bắc Kít, có tí tiếng tăm, thí dụ như 1 tên Nobel Toán, viết trên FB, tao nói, đéo được, là sẽ có phản ứng.
Một người thôi ư? Đúng như thế. Một ông Solz đã từng làm. Một ông Brodsky cũng đã từng.
Cái vụ anh y tá dạo bị Bắc Kít đá đít, thì cũng đã xẩy ra rồi, với tên Hồ Tôn Hiến, Sáu Dân cái con mẹ gì đó.
Hình như bị đá đít rồi mà còn lăm le làm chuyện ruồi bu, thế là chúng thịt luôn.
Bạn đọc TV có thể vặc Gấu, nè, nếu mi viết như thế, thì trường hợp DTH, sao?
Căng, nhể!


Trọng Lú dưới cái nhìn của Người Kinh Tế qua Đại Hụi Bịp: Trò ma nớp của loài bò sát

Chính trị xứ Mít VC
Politics in Vietnam
Reptilian manoeuvres
Trò ma nớp của loài bò sát
A colourful prime minister goes, as the grey men stay
Một vì thủ tướng màu mè ra đi, một lũ muối tiêu ở lại

Note:
Bảnh thật, đám lề trái cũng không nghĩ ra nổi, hình ảnh 1 lũ bò sát ở Đại Hội Bịp, và cái chết của vị đại cha già dân tộc, là con rùa vàng, biểu tượng của
bốn ngàn năm văn minh Sông Hồng, nằm chết lều bều trên mặt Hồ Gươm!



Carry on, Nguyen Phu Trong

WHEN Great Grandfather, a revered turtle which had long paddled around Hanoi’s central lake, was found dead on the eve of the Communist Party’s five-yearly congress, many Vietnamese thought it a bad omen for the ruling party. The animal embodied a legend about a 15th-century Vietnamese warrior who presented his sword to a turtle after vanquishing the Chinese. Some wondered whether the party’s leaders, whose dusty Marxism-Leninism feels increasingly out of step with Vietnam’s youthful population of 93m, were also losing their edge.

As it happens, the congress, which concluded in pomp on January 28th, ended up backing an only slightly more sprightly reptile. After eight days of unusually fierce politicking, party bigwigs forced the charismatic and pro-business prime minister to leave government after his term expires in a few months. Nguyen Tan Dung had hoped to assume the top party post of general secretary. Instead Mr Dung, along with the state president, Truong Tan Sang, failed to get a seat on the party’s new Central Committee, while the septuagenarian incumbent, Nguyen Phu Trong, was asked to carry on as all-important party chief.

Given term limits and mandatory retirement ages, Mr Dung, who is 66, had every reason to be shown the door. Yet analysts thought he might win promotion to general secretary. His patronage network is extensive, and he enjoyed the support of business types backing a more open economy. Younger Vietnamese liked Mr Dung’s friendly stance towards America and his robust defence of Vietnam’s sovereignty in territorial disputes with China.

True, whiffs of corruption hung over him, and the bankruptcies of two state firms he championed were a blot. But many Vietnamese could accept these things. Despite the scandals, “he still improved Vietnam’s relations with America”, says Pham Khac Quang, a 33-year-old machine-parts distributor in Hanoi. Had he kept on doing that, all else “would have been forgiven”. In December Mr Dung defended his record in a nine-page memo to colleagues, later leaked to a political blog.

In the end an opposing party faction loosely grouped around Mr Trong gained the upper hand, in part through skilful management of voting procedures that baffle even some insiders. This group appears to have emphasised Mr Dung’s economic mishaps. His opponents almost certainly pointed out that his self-promotion and his anti-China populism were incompatible with the Communists’ preference for cautious, consensual rule. Some doubtless worried that his rise would undermine their own power.

As for Mr Trong, party chief since 2011, he is a colourless apparatchik in the twilight of his career. His support owes as much to Mr Dung’s divisiveness as to any personal merits; indeed, with the prime minister out of the picture Mr Trong may soon retire himself, to be replaced by a bland successor—a front-runner is the party’s propaganda chief, Dinh The Huynh. More interesting are the officials the congress appears to have chosen for other top jobs. Nguyen Thi Kim Ngan looks likely to become the first woman to chair the National Assembly; she understands economics and is broadly well-regarded. The probable new state president is Tran Dai Quang, the minister for public security. He would be a worrying choice, given the state’s tendency to lock up and occasionally torture dissidents. Human Rights Watch calls its record “dismal”.

The next prime minister is expected to be Nguyen Xuan Phuc, who is harder to read. As one of Mr Dung’s deputies he has worked to cut red tape, with the help of some American funding. A foreign businessman calls him a “straight shooter”. Yet Mr Phuc has demonstrated little of Mr Dung’s popularity or vim, and he probably cleaves closer to Mr Trong’s slightly more conservative views.

The new leaders may slow the pace of economic liberalisation, but they are unlikely to reverse it. Nor will relations with America be set back. It was Mr Trong, after all, who delighted in calling on President Barack Obama in Washington last summer—a big step in attempts to make Vietnam less vulnerable to Chinese bullying. A party plenum recently reaffirmed its support for the Trans-Pacific Partnership, an American-led trade deal which the incoming government will soon have to ratify. Meanwhile, bigwigs at the congress made encouraging noises about shrinking flabby state firms. Investors will welcome this sense of consistency, although the prime minister’s imminent departure has also dashed hopes that grander modernisations might be on the cards.

More radical changes may have to wait for the next congress, in 2021. Then a mass of Russian-speaking party members, brought up hating America, are due to retire. Their successors may well be Western-educated technocrats who understand that the party’s best hope of survival lies in making the economy more competitive, and in convincing young Vietnamese such as Mr Quang, the machine-parts distributor, that it has their interests at heart. For the moment, though, hammer-and-sickle banners cover the capital. And most people—like subjects in a 15th-century kingdom—have no say in who rules the roost.


Viết/Đọc mỗi ngày  

Adapted from Zha Jianying’s introduction to Ji Xianlin’s ‘The Cowshed: Memories of the Chinese Cultural Revolution,’ translated by Chenxin Jiang, which has just been published by New York Review Books

After reading Ji Xianlin's The Cowshed: Memories of the Chinese Cultural Revolution, a Chinese intellectual friend summed it up to me: “This is our Auschwitz.” Indeed, though what happened in the cowshed where the…
nybooks.com|By Zha Jianying

“This is our Auschwitz. Đây là Lò Thiêu của Tẫu.
Bắc Kít cũng có 1 Lò Thiêu như thế, nhưng chính chúng, vờ.
Chưa hề có 1 tên nào nhỏ nước mắt, vì nạn nhân CCRD, vì lũ Ngụy đi tù mút mùa lệ thuỷ trong Trại Cải Tạo. Những trò hề như Đại Hội Đảng VC vừa qua, cứ thế tiếp tục.
Chúng đâu biết nhục là gì, do chẳng hề biết dân chủ là gì


Khiem Do liked this.

Đọc trọn vẹn bài viết xin mời :

art2all.net


* *

Lé, lác, trợn ngược cả mắt lên, vì nền vhnt hải ngoại!
To be a litterateur is to live under the sign of mere intellect, just as prostitution is to live under the sign of mere sex.
[W. Benjamin: Schriften II, 179]. Just as a prostitute betrays love, a litterateur betrays the mind.
Hannah Arendt: Tựa, cho cuốn Illuminations của Walter Benjamin.
[Nhà văn sống với chữ, thì cũng giống như bướm sống với cái số ta.
Và nếu như thế, bướm phản bội tình yêu, cũng như nhà văn phản bội cái đầu của mình]
The destruction of someone's native land is as one with that person's destruction. Séparation becomes déchirure [a rendingl, and there can be no new homeland. "Home is the land of one's childhood and youth. Whoever has lost it remains lost himself, even if he has learned not to stumble about in the foreign country as if he were drunk." The ‘mal du pays’ to which Améry confesses, although he wants no more to do with that particular pays—in this connection he quotes a dialect maxim, "In a Wirthaus, aus dem ma aussigschmissn worn is, geht ma nimmer eini" ("When you've been thrown out of an inn you never go back")—is, as Cioran commented, one of the most persistent symptoms of our yearning for security. "Toute nostalgie," he writes, "est un dépassement du présent. Même sous la forme du regret, elle prend un caractère dynamique: on veut forcer le passé, agir rétroactivement, protester contre l'irréversible." To that extent, Améry's homesickness was of course in line with a wish to revise history.
Sebald viết về Jean Améry: Chống Bất Phản Hồi: Against The Irreversible.

[Sự huỷ diệt quê nhà của ai đó thì là một với sự huỷ diệt chính ai đó. Chia lìa là tan hoang, là rách nát, và chẳng thể nào có quê mới, nhà mới. 'Nhà là mảnh đất thời thơ ấu và trai trẻ của một con người. Bất cứ ai mất nó, là tiêu táng thòng, là ô hô ai tai, chính bất cứ ai đó.... ' Cái gọi là 'sầu nhớ xứ', Améry thú nhận, ông chẳng muốn sầu với cái xứ sở đặc biệt này - ông dùng một phương ngữ nói giùm: 'Khi bạn bị người ta đá đít ra khỏi quán, thì đừng có bao giờ vác cái mặt mo trở lại' - thì, như Cioran phán, là một trong những triệu chứng dai dẳng nhất của chúng ta, chỉ để mong có được sự yên tâm, không còn sợ nửa đêm có thằng cha công an gõ cửa lôi đi biệt tích. 'Tất cả mọi hoài nhớ', ông viết, 'là một sự vượt thoát cái hiện tại. Ngay cả dưới hình dạng của sự luyến tiếc, nó vẫn có cái gì hung hăng ở trong đó: người ta muốn thọi thật mạnh quá khứ, muốn hành động theo kiểu phản hồi, muốn chống cự lại sự bất phản hồi'. Tới mức độ đó, tâm trạng nhớ nhà của Améry, hiển nhiên, cùng một dòng với ước muốn xem xét lại lịch sử].

L'homme a des endroits de son pauvre coeur qui n'existent pas encore et où la douleur entre afin qu'ils soient.
Trái tim đáng thương của con người có những vùng chưa hề có, cho đến khi đau thương tiến vào. Và tạo ra chúng.
Léon Bloy.
W.G. Sebald trích dẫn, làm đề từ cho bài viết "Sự Hối Hận Của Con Tim: Về Hồi Ức và Sự Độc Ác trong Tác Phẩm của Peter Weiss", The Remorse of the Heart: On Memory and Cruelty in the Works of Peter Weis,  trong "Lịch sử tự nhiên về huỷ diệt, On the natural history of destruction", nhà xb Vintage Canada, Anthea Bell dịch, từ tiếng Đức.

-Ai di truoc, nguoi con lai se phai lo trang TV. How?
-Gau chet la Tin Van chet. Amen.


Jan 25, 2016

Văn chương miền Nam: giữa chừng

Còn lại một việc nữa: văn chương miền Nam đâu có dừng lại ở năm 1975. Đây mới là điều huyền bí nhất. Tất nhiên là không thể như vậy được. Giờ, ta cần xác định, đâu là những cột trụ quan trọng nhất để nói đến một sự bảo toàn cho di sản văn chương miền Nam. Với tôi, hiển nhiên không thể là Võ Phiến, nhưng hiển nhiên phải là các nhân vật từng hết sức quan trọng ở giai đoạn văn chương miền Nam trước 1975. Họ từng rất quan trọng, nhưng sứ mệnh chính yếu của họ lại nằm ở đoạn sau 1975, thế cho nên mới khó hiểu và khó nhìn.

Có ba người quan trọng nhất.
Người thứ nhất là Viên Linh, người ra đi ngay từ đầu, ngay từ trước thảm họa.
Người thứ hai là Dương Nghiễm Mậu, người đã, ngược hẳn lại với Viên Linh, không đi đâu hết cả.
Và người thứ ba là người ở giữa, ra đi vào khoảng giữa. Đó chính là Nguyễn Quốc Trụ.
Thế là cuối cùng tôi cũng đợi đến cái ngày, ngoài việc được viết về một số người khác, được nói đến đối thủ lâu năm của tôi, Mr Tin Văn Nguyễn Quốc Trụ.


Note:

“Tks NL, dear” [cái này thuổng của cô bạn, của cả hai, CM].
Cách nhìn trên, theo GCC, có tính định vị, liên quan tới thảm họa lớn.
Ra hải ngoại, đụng đầu với thế giới, GCC nghĩ về nhà văn lớn: Phải đau cái đau Lò Thiêu, phải có cái ám ảnh khủng khiếp này, khi nhìn về xứ Mít.
Đây cũng là ý nghĩ của nhà văn Do Thái, David Grossman, khi tuyên bố, Kafka là sư phụ của tất cả chúng ta [nhớ cái ý, không nhớ rõ câu tuyên bố, để check sau]. (1)
Trong cái định vị của NL, trên, khi chiếu về thảm họa lớn, quá OK,
nhưng thiếu chiều sâu.
Viên Linh ra hải ngoại từ đầu, tiếp tục làm tờ Thời Tập, nhưng tờ này không nhập vào được khí hậ
u văn học toàn thế giới, theo cái nghĩa “Kafka” ở trên.
DNM ở lại nhưng kể như không viết nữa, in lại sách thì lại bị cấm, mà nếu không cấm, thì cũng đã bị kiểm duyệt.
Nếu có 1 nhà văn lớn của Việt Nam, thì chắc sẽ là Linda Lê, lập lại nhận định của NL.

(1)


Ai, ngoài Schulz ra, ảnh hưởng tới ông?

Kafka, tuy nhiên, thật khó mà kiếm thấy một nhà văn không bị ảnh hưởng bởi Kafka, ngay cả khi người này không viết cùng một cái văn phong như của Kafka. Kafka là một giai đoạn văn học mà bạn bắt buộc phải vuợt qua [Kafka is a literary stage you have to go through]. Tôi luôn luôn tưởng tượng ra cái xen, Kafka đứng, hai tay trên bờ cửa sổ, nhìn bên trong vào cuộc đời [looking inside into life]. Như thể ông nhìn ra phía bên ngoài từ cái chết, ngay cả khi ông đang còn sống. Tôi chưa tìm ra điều này, ở bất cứ nhà văn nào khác.


*

Paris Review 4

David Grossman

Nghệ thuật giả tưởng

Năm 1987, để đánh dấu 20 năm Israel chiếm đóng West Bank và Gaza Trip, mấy tay chủ bút, chủ biên của tờ tuần báo Do Thái Koteret Rashit phái tiểu thuyết gia trẻ David Grossman tới West Bank, 7 tuần, “đi thực tế”.
Grossman, thông thạo tiếng Ả Rập, bèn làm những chuyến tham quan dân Palestine ở trại tị nạn, thành phố, vườn trẻ, đại học, cũng như đám định cư Do Thái ở trong những pháo đài chung quanh có giây kẽm gai [chắc cũng giống những khu định cư, kinh tế mới của đám Bắc Kít, sau 30 Tháng Tư 1975, Nam Tiến, tới những vùng đất cao nguyên Trung Phần, nơi chúng phá rừng trồng cà phê, hay trồng bất cứ cái khỉ gió gì miễn ra tiền và vô phúc cho một người bản địa nghèo đói nào lén vô là chúng thả chó ra, không chỉ cắn chết, mà còn xé xác ăn thịt!], và đám sĩ quan, binh lính Do Thái tuần tra những khu vực dành cho người Palestine. Thu hoạch của chuyến đi thực tế chiếm trọn một số báo, và gây chấn động trong đám Bắc Kít, ấy chết xin lỗi, Do Thái.
Grossman rất rành mạch, rõ ràng, trong những bài viết, về điều này:
"Dân Palestine hết còn chịu nổi rồi, hết còn ngoan ngoãn như lũ cừu rồi" [nguyên văn: "Người Palestine, ngày ngày đau đớn khổ sở vì những sự tàn ác dã man của đám chiếm đóng hàng thế hệ, sẽ không còn hiền lành, dễ bảo nữa, would be docile no more".]
“Đúng là một cú sốc”, Tom Segev, một trong những tay biên tập nói. “Cho đến lúc đó chúng tôi không hề biết họ thù ghét chúng tôi tới mức như vậy”

Năm tiếp theo năm đó, khi báo cáo của Grossman được xb bằng tiếng Anh, với cái tít trận Hoàng Phong, the Yelllow Wind, thì cuộc nổi dậy, intifada, của người Palestine đang tưng bừng hoa lá. Những gì Grossman viết trở thành tiên tri, “sấm Trạng Trình”, biến ông trở thành một tác giả tầm vóc thế giới.
*
Phỏng vấn viên:

Trong Nụ Cười của Cừu Non, The Smile of the Lamb, Uri [nhân vật chính] nói, “Nhà ở đâu, nói cho cùng?”, và Abner trả lời, nhà là khoảng trống rỗng giữa đầu cây viết và tờ giấy, home is the empty space between the tip of his pen and the paper. Đó là điều ông cảm nhận ư?

Grossman:

Nhà là nơi mà những người tôi yêu thương ở đó, home is where the people I love are. Càng về già, thế giới đó càng lạ lẫm, alien, và hơn thế nữa, tỏ ra thù nghịch đối với tôi. Câu chuyện mà tôi đang viết là một cái nhà khác, cho dù phải mất từ hai cho đến ba năm nó mới trở thành nhà. Tôi chẳng bao giờ cảm thấy cô đơn, trơ cu lơ một mình, khi tôi có câu chuyện của tôi, khi tôi biết giọng điệu, the tonus, của mọi nhân vật và ngôn ngữ.

Giọng điệu?

Giọng điệu, sức căng của bắp thịt, the tension of the muscles. Liền lập tức tôi cảm thấy mình được nối kết, connected, với những xao động, the emotional vibrations, của những con người ở Israel, điều mà tôi không thể cảm thấy khi ra nước ngoài.

Tuy nhiên, có vẻ như ông rất bị ảnh hưởng bởi những nhà văn của thế hệ Do Thái Lưu Vong [Jewish Diaspora]?

-Khi bạn sắp sửa ló dạng ra, như là một nhà văn, mọi người sẽ nói cho bạn biết, văn của bạn giống, hay, thôi thì nói đại, chôm của ai. Khi còn trẻ, tôi ngoan ngoãn lắm, và đồng ý với bất cứ điều gì mà người ta bảo tôi. Một tay làm việc cho đài truyền hình Do Thái, một người mới tới, a newcomer, từ Ba Lan, một bữa gọi điện thoại cho tôi, và cho biết, cuốn The Smile of the Lamb của tôi hiển nhiên là chịu ảnh hưởng của Bruno Schulz. Tôi nói, có thể. Tôi chưa từng đọc Bruno Schulz, và chẳng lẽ nói với tay đó, là mình dốt ư?
Ngay từ phút đầu tiên đọc Schulz, tôi cảm thấy như bị điện giật! Mỗi đoạn văn là một sự bùng nổ của những thực tại khác nhau - mộng, mị, ác mộng, tưởng tượng, quái tưởng, fantasy. Đọc ông ta khiến tôi muốn sống hơn, sống nữa, reading him made me want to live more. Rồi tôi đọc những câu chuyện về cái chết của ông. Ông ta được một sĩ quan Đức bảo bọc. Ông này đã từng giết một nha sĩ Do Thái của một viên sĩ quan Đức khác. Viên sĩ quan này bèn đi kiếm Schulz và bắn ông ta chết ngay trên đường phố. Bạn giết tên Do Thái của tớ thì tớ giết tên Do Thái của bạn.
[Trên TV có một ấn bản khác nữa, nhưng cả hai đều xác nhận chuyện Schulz bị một viên sĩ quan Đức khác giết, và khi anh này nói với tay sĩ quan bảo trợ Schulz, hắn ta xua tay, nhằm nhò chi, để kiếm thằng Do Thái khác thay thế].
Khi đọc điều này, tôi cảm thấy quá đỗi thê lương. Tôi chẳng còn muốn sống trong một thế giới, nơi một chuyện như thế có thể xẩy ra, khi con người có thể thay thế, có sẵn đó, tùy nghi sử dụng, replaceable, disposable. Tôi cảm thấy tôi phải làm cái gì đó để cứu chuộc cái chết không cần thiết, và tàn nhẫn của ông ta [I must redeem his needless, brutal death]. Thế là tôi viết See Under: Love.
Tôi có thể nói cho bạn biết, trong hầu hết ngôn ngữ cuốn sách của tôi được dịch – chừng 14 thứ tiếng- trong vòng chừng 1 năm hay cỡ đó, là có một lần tái bản câu chuyện về Schulz.
Ui chao thật là ngọt ngào, thật là dễ thương đối với tôi, khi biết rằng cuốn sách của mình đã làm được một điều gì đó cho ông ta, sau khi ông ta làm điều cho tôi.

Ai, ngoài Schulz ra, ảnh hưởng tới ông?

Kafka, tuy nhiên, thật khó mà kiếm thấy một nhà văn không bị ảnh hưởng bởi Kafka, ngay cả khi người này không viết cùng một cái văn phong như của Kafka. Kafka là một giai đoạn văn học mà bạn bắt buộc phải vuợt qua [Kafka is a literary stage you have to go through]. Tôi luôn luôn tưởng tượng ra cái xen, Kafka đứng, hai tay trên bờ cửa sổ, nhìn bên trong vào cuộc đời [looking inside into life]. Như thể ông nhìn ra phía bên ngoài từ cái chết, ngay cả khi ông đang còn sống. Tôi chưa tìm ra điều này, ở bất cứ nhà văn nào khác.

Trong Chết như là Cách Sống, Death as a Way of Life, ông phán: “Tôi không thuộc về số người coi Lò Thiêu là một sự kiện đặc thù Do Thái”.

Grossman: Tôi không nghĩ, người ta có thể tách "tính Do Thái", the Jewishness, ra khỏi Lò Thiêu, the Shoah, nhưng đây là một sự kiện mắc mớ đến toàn nhân loại. Mọi người, bất cứ một người, ai cũng nên đặt ra cho chính mình, một vài câu hỏi liên quan tới Lò Thiêu. 

Source

Ta mang đứa trẻ Mít đã chết ở trong ta, Linda Lê nói, trong tinh thần “Kafka”, của Grossman.

Chuông gọi hồn anh đó, cũng ý này.


It tolls for thee

Robert Macfarlane | January/February 2016

Hemingway’s Spanish civil-war novel, “For Whom the Bell Tolls”, pits nature against atrocity

The Guadarrama mountains of Spain run from north-east to south-west across the central plains of Castille. They are ancient mountains, formed of pale granite and gneiss, their slopes densely wooded with pines of several species: black pines, maritime pines, sentry pines, Scots pines. I once walked across the range from south to north, sleeping in caves and forest clearings. Years on I still clearly recall the scents of those days and nights: “the piney smell of…crushed needles”, as Ernest Hemingway puts it in “For Whom The Bell Tolls”, “and the sharper odour of…resinous sap”.
Hemingway’s novel is set in the Guadarrama during the last May of the Spanish civil war. Its hero is Robert Jordan, a young American fighting for the International Brigade. Jordan, an explosives expert with a profound disinterest in his own fate, is tasked by his Soviet commander with destroying a bridge in the Fascist-held mountains. He joins forces with Republican partisans who have gone guerrilla. Their base for the operation is a cave in the “rim-rock” at the “cup-shaped upper end” of a “little valley”.
In the book’s second paragraph, Jordan unfolds a photostatted map on the “pine-needle floor” of the forest. That contrast between military perception and natural presence preoccupies Hemingway throughout the novel. The landscapes of the Guadarrama are interpreted chiefly in terms of tactics: open ground is read for its lines of fire, “timber” for its cover. Those with close knowledge of the range – like Jordan’s trusted guide Anselmo – are valuable because they can move discreetly through this hostile territory.
Yet these tough men remain alert to the beauty of the mountains. When a two-day blizzard blows in, Jordan relishes its wildness, though he knows it will betray their position. Pilar, a fellow partisan, agrees: “What rotten stuff is the snow and how beautiful it looks.” The hurry-up-and-wait aspects of war mean there is time to appreciate the “afternoon clouds…moving slowly in the high Spanish sky”. Maria, Jordan’s lover, speaks of her passion for the pine forest: “the feel of the needles under foot…the wind in the high trees and the creaking they make against each other”. Even their target is assessed both aesthetically and militarily – it is a “steel bridge of a single span”, possessing a “solid-flung metal grace”, standing “dark against the steep emptiness of the gorge”.
The upper pine forests aren’t the only landscape of the novel, though. Hemingway splices in atrocious scenes from earlier in the war: a dusty village square in which supposed fascists are flailed, cudgelled and then hurled over a cliff, or an attack on a guardia civil barracks, after which the wounded are dispatched with pistol shots to the skull. The sky is a scape, too, through which pass Franco’s glittering aeroplanes: Heinkel bombers of the Condor Legion, moving “like no thing there has ever been…like mechanised doom”, or Messerschmitts turning among the vultures.
The novel’s first and last sentences describe almost the same situation: Jordan, flat on the forest floor, watching the ground below. In the first, he is planning his assault on the bridge; in the last, waiting for his death. The attack has gone wrong, and a shell blast has broken his leg appallingly. Fascist troops are approaching. Despite the circumstances, these closing paragraphs are oddly uplifting. Jordan touches “the palm of his hand against the pine needles where he lay”, and “the bark of the pine trunk that he lay behind”. Such gestures are a means of reassuring himself of the existence of matter, in advance of its annihilation. Dying, he has begun to meld with the forest in which he has fought. The landscape shimmers into a mindscape: “he was”, writes Hemingway, “completely integrated now”. Jordan has fulfilled the novel’s title: he has become a piece of the continent, a part of the main.

Trong số những bài viết của mục “Phong cảnh của cái đầu”, GCC mê nhất, bài viết về Lolita.
Lạ nhất, là nó làm GCC nhớ đến những lần kêu 1 cái tắc xi rồi đưa BHD, rời bỏ cõi đời thực, bước vô cõi thần tiên, cả hai tung tăng trong Chợ Lớn, em kéo Gấu đi nhiều hơn là Gấu.... Ui chao, so với cái tên già dâm đãng HH của Nabokov, thì cặp GCC & BHD hạnh phúc hơn nhiều.
Đời của Nabokov, do không biết đến cái nghèo khổ nhục nhã của dân Nga, nên không đọc được Dos, cũng không biết đến cái hạnh ngộ ở trên đời, gặp được nhau, nhận ra nhau trong cõi thực 1 lần, là cũng quá đủ rồi...
GCC được hưởng cả hai, từ xứ Bắc Kít.
BHD, Bắc Kít như GCC


LANDSCAPES OF THE MIND

Robert Macfarlane on Nabokov’s “Lolita”

LOLITA'S LOATHSOME BRILLIANCE

Note: Bài viết thần sầu trên, trên tờ Intel, về Lo, Gấu chôm về Tin Văn, tính dịch hầu quí độc giả. Thú vị hơn nữa, trên số báo Intel, số mới nhất, có 1 độc giả, gửi thư cho toàn soạn, v/v bài viết, và về điều mà vì độc giả gọi là “Over-exposure”: Như bác sĩ, cớm, hầu hết những tên chủ khách sạn, học rất nhanh, những hình thái của cái ác của con người. Gấu post cái thư sau đây, rồi lèm bèm tiếp.

Overexposure
Re: A loathsome brilliance (Landscapes of the Mind, March/April)

Of the real nature of the relationship between Lolita and Humbert, Robert Macfarlane ponders, "Why do the motel owners not see what is going on'?" But no doubt they do. It is a product of exposure. Like doctors and police officers, most motel owners, I suspect, do learn - and learn fast - the forms of human evil. This is a fact clearly not known to Humbert, who arrogantly prides himself on his canniness. Yet Nabokov must have known it. Having fled Berlin in 1937 and Paris in 1940, he was no doubt well aware of the frequency with which good persons choose to look the other way, and of the black consequences of doing so. It is something that, since late October of last year, we have been thinking a good deal of here in Toronto, given the scandal of Jian Ghomeshi.

BOYD HOLMES, TORONTO

Landscapes of the Mind: Nabokov’s “Lolita” unfolds in motel America. Robert Macfarlane travels along the road to despair

Phong cảnh của tâm hồn: “Lolita” trải lòng ra, qua những phòng ngủ ở thiên đàng

Humbert Humbert, nhân vật nổi tiếng số 1 sờ soạng con nít của văn chương, coi đó là “joy-ride”, cuộc đi chơi của niềm vui. Ròng rã 1 năm trời, thằng chả chạy xe trên những những con lộ hẻo lánh, hạng nhì ở miền quê nước Mẽo, với Lolita, lúc đó 12, như là một bạn đường bị ép buộc, và cũng là nạn nhân thường lệ của hắn. Cả hai trải qua, phủ lên, choàng lên…  [“cover”, từ này, tưởng dễ mà thật khó dịch!] hàng ngàn dặm đường trong chiếc sedan, lượn lờ trên những con đường nhựa hào “nhoáng”, từ New England tới Rockies, qua những cánh đồng bắp Midwestern. Cả hai trở thành những chuyên viên bậc thầy,  connoisseurs, về…  nếm ngửi, thở hít, ăn ngủ sờ soạng, của “motel”, phòng ngủ bên đường, của Mẽo – luôn luôn ghi vô sổ đăng ký khách sạn như là bố và con gái, và không bao giờ ở quá lâu, chỉ vài đêm, phán chục phát, cỡ đó, là tếch.

Đây có lẽ là 1 bài viết lạ thường nhất về cuốn tiểu thuyết, viết về 1 anh già mê 1 đứa con nít: Cái sáng ngời ghê tởm. A loathsome brilliance. Cuốn tiểu thuyết mở ra cánh cửa địa ngục, là cánh cửa 1 căn phòng ngủ của 1 nhà ngủ bên lộ, a motel: “Lolita” unfolds in motel America.
Hay, như chính Nabokov gọi, một căn phòng ngủ trọ như thế đó, 1 "phòng giam của thiên đàng", a "prison cell of paradise".

Quái làm sao, bài viết làm Gấu nhớ thời gian làm 1 tên chuyên viên kỹ thuật, và những chuyến đi về 1 thành phố địa phương, để sửa máy, và phải ngủ khách sạn.
Nhớ nhất, là lần về Long Xuyên, như…  Humbert Humbert, được thưởng thức mùi vị của một cô Miên lai, da ngăm đen. Cô này, thực sự không làm nghề này, cô làm nghề giữ con nít cho 1 gia đình cũng ở gần khách sạn.
Gấu mê cô quá, hồi đó chưa lấy vợ, cứ lần lữa kéo dài chuyến đi tới cả tháng, sau này viết l
ại, trong

Ba Xuyên, lần viếng thăm hồi bắt đầu đi làm, những năm tập sự của cuộc đời gã chuyên viên kỹ thuật, ngày hai buổi, tại Ty Trung Ương, Cơ Xuởng Vô Tuyến Điện, số 11 đường Phan Đình Phùng, Sài Gòn; chuyên lo việc sửa chữa, tu bổ máy móc, đồ dùng kỹ thuật từ các nơi gửi về; lâu lâu, do nhu cầu công vụ, được biệt phái tới những đài địa phương, để giúp đỡ người trưởng đài, thường chỉ là những hiệu thính viên, biết sử dụng máy móc, nhưng không biết, và cũng không có phận sự sửa chữa khi trục trặc, cần làm gấp tại chỗ, đại loại như máy nhận bỗng yếu, rè, nhiều tạp âm, khi nghe được, khi không; máy phát đột nhiên ngưng, không chịu phát tín hiệu, không biết vì lý do gì, hoặc bị cháy, nổ, cần gấp một máy khác thay thế cùng chuyên viên lắp đặt... Tất cả những công việc như thế thường chỉ mất một hai ngày làm, do đó thời gian trù tính cho mỗi chuyến đi thường trên dưới mười ngày, nhiều lắm nửa tháng. Trừ những ngày mới tới, bắt tay ngay vô việc, cặm cụi lo tìm kiếm, sửa chữa, những ngày còn lại, là để viếng thăm, làm quen thành phố.

Một thành phố không có gì đáng nhớ (khi cố gắng muốn nhớ lại), có một người trưởng đài người loắt choắt nhưng tính tình thật niềm nở, đã lập gia đình, sau bữa ăn, hoặc khi rảnh rỗi, người chồng (người trưởng đài) ưa kể cho khách nghe, về quãng đời đã qua của mình (thời còn trẻ, những năm tháng giang hồ, những năm phục vụ trong quân đội Pháp, lý do giải ngũ, trường hợp lập gia đình...), hỏi khách tốt nghiệp đã lâu chưa, hồi còn ở Bắc quê vùng nào, khi đã tới giờ ngồi vào bàn làm việc, thường là với đài chính (Sài Gòn), hoặc khi đã hết câu chuyện để kể, hay để nói, như sực nhớ tới hiện tại, ông khuyên khách đừng đi quá xa vượt phạm vi châu thành, cười cười, khi người vợ ít nói cùng mấy đứa nhỏ đã lui vào nhà trong, nói, ở đây chỉ có những cô Mai Liên, khách phải nghĩ một hồi lâu mới hiểu chủ nhà định nói tới những cô gái nước da ngăm đen ở vùng này

Hết hai năm tập sự, đổi qua làm việc tại một đài chuyên duy trì những đường dây liên lạc quốc tế, về viễn ký, viễn ảnh, điện thoại đường dài [điện thoại viễn liên], giữa Sài Gòn và một số thủ đô trên thế giới, không còn dịp ra khỏi thành phố, quên dần những chuyến đi, những cuộc phiêu lưu vặt, lâu lâu mơ hồ nhơ nhớ về một thành phố một hai lần ghé qua, một vài ngày ở lại, những chi tiết vụn vặt không liên quan, không ăn nhập vào đâu cả, nhưng không thể rũ bỏ, (hình như) kiến trúc phảng phất nhau, khu trung tâm gồm Toà Hành Chánh, một chợ nhỏ vây quanh bởi một vài khách sạn chệt, một vài quán nước, tiệm cà phê, hủ tíu, quán bi da, banh bàn; những sáng thứ hai toàn thành phố phải đứng nghiêm chào cờ theo lệnh một chiếc loa công cộng [thời còn ông Diệm], (thành phố lúc đó có một bộ mặt trang nghiêm thật tức cười, những thực khách đang dùng điểm tâm vội vã đứng dậy, miệng còn mẩu bánh chưa kịp nuốt, dáng lúng túng của mấy bà già nghễnh ngãng chưa kịp hiểu chuyện gì đang xẩy ra), tiếng hát vọng cổ khoảng chập tối, hay trong khi chập chờn ngủ, được chiếc tây ban cầm họa theo, từ đám thanh niên tụ tập trong quán cà phê phía trước khách sạn, theo gió lọt vào căn phòng, nghe như tiếng thở than, hoặc tình tự, của linh hồn tỉnh nhỏ, thay cho lời từ biệt chẳng hề nói của cô gái lúc nãy, vội vàng rời căn phòng, chân đi đất không gây một tiếng động, như khi lén lút tới, phả hơi nóng thành phố vào tận sâu trong cơ thể người khách lạ còn trẻ tuổi, rồi sau đó lén lút rời căn phòng, thay vào đó, là một con mèo đen, không biết tới nằm trên thành cửa sổ từ lúc nào, mắt xanh biếc trong bóng tối, tiếng nước nhỏ giọt từ buồng tắm phòng kế bên, một người khách lơ đễnh không vặn chặt vòi nước, tiếng còi những chiếc xe hàng đánh thức giấc ngủ khoảng ban mai, đánh thức luôn mùi ẩm mốc hình như toát ra từ những bức tường loang lổ, từ chiếc nệm giường mục nát, vẻ tiều tụy của căn phòng thường làm dậy một nỗi trắc ẩn vô duyên cớ, một cảm giác bực bội, buồn bã không đâu...

Trở lại Ba Xuyên khi được tin đứa em trai chết.
Tử trận.





Fiction January 25, 2016 Issue
Aspic
By Tatyana Tolstaya


Truth be told, I’ve always been afraid of it, since childhood. It’s prepared not casually, or whenever the fancy strikes you, but most often for New Year’s Eve, in the heart of winter, in the shortest and most brutal days of December. Darkness comes early. There is a damp frost; you can see spiky halos around the street lamps. You have to breathe through your mittens. Your forehead aches from the cold, and your cheeks are numb. But, wouldn’t you know it, you still have to boil and chill the aspic—the name of the dish itself makes the temperature of your soul drop, and no thick gray goat-hair shawl will save you. It’s a special kind of religion, making the aspic. It’s a yearly sacrifice, though we don’t know to whom or for what. And what would happen if you didn’t make it is also a question mark.
But, for some reason, it must be done.
You must walk in the cold to the market—it’s always dim there, never warm there. Past the tubs with pickled things, past the cream and the crème fraîche redolent of girlish innocence, past the artillery depot of potatoes, radishes, and cabbages, past the hills of fruit, past the signal lights of clementines—to the farthest corner. That’s where the chopping block is; that’s where the blood and the axe are. “Call Russia to the Axe.” To this one right here, digging its blade into a wooden stump. Russia is here, Russia is picking out a piece of meat.
“Igor, chop up the legs for the lady.” Igor lifts his axe: hack! Lays out the white cow knees, cleaves the shanks. Some buy pieces of the muzzle: lips and nostrils. And those who like pork broth—they get little pig feet with baby hooves. Holding one of those, touching its yellow skin, is creepy—what if it suddenly shook your hand in return?
None of them are really dead: that’s the conundrum. There is no death. They are hacked apart, mutilated; they won’t be walking anywhere, or even crawling; they’ve been killed but they are not dead. They know that you’ve come for them.
Next it’s time to buy something dry and clean: onions, garlic, roots, and herbs. And back home through the snow you go: crunch, crunch. The frosty building entryway. The light bulb has been stolen again. You fumble in the dark for the elevator button; its red eye lights up. First the intestines appear in the elevator’s wrought-iron cage, then the cabin itself. Our ancient St. Petersburg lifts are slow; they click as they pass each floor, testing our patience. The chopped-up legs in the shopping bag are pulling your arm down, and it seems as if at the very last moment they’ll refuse to get into the elevator. They’ll twitch, break free, and run away, clacking across the ceramic tile: clippity-clop, clippity-clop, clippity-clop. Maybe that would be for the best? No. It’s too late.
At home, you wash them and throw them into the pot. You set the burner on high.
Now it’s boiling, raging. Now the surface is coated with gray, dirty ripples: all that’s bad, all that’s weighty, all that’s fearful, all that suffered, darted, and tried to break loose, oinked and mooed, couldn’t understand, resisted, and gasped for breath—all of it turns to muck. All the pain and all the death are gone, congealed into repugnant fluffy felt. Finito. Placidity, forgiveness.
Then it’s time to dump this death water, to thoroughly rinse the sedated pieces under a running faucet, and to put them back into a clean pot filled with fresh water. It’s simply meat, simply food; all that was fearsome is gone. A calm blue flower of propane, just a little bit of heat. Let it simmer quietly; this is a five-to-six-hour undertaking.
While it cooks, you can take your time preparing the herbs and the onions. You’ll be adding them to the pot in two batches. First, two hours before the broth finishes cooking, and then, again, an hour later. Don’t forget to stir in plenty of salt. And your labor is done. By the end of the cooking cycle, there will have been a complete transfiguration of flesh: the pot will be a lake of gold with fragrant meat, and nothing, nothing will remind us of Igor.
The kids are here; they are looking at the pot, unafraid. It’s safe to show them this soup—they won’t ask any tough questions.
Strain the broth, pull the meat apart, slice it with a sharp knife, as they did in the olden days, in the age of the tsar, and the other tsar, and the third tsar, before the advent of the meat grinder, before Vasily the Blind, and Ivan Kalita, and the Cumans, and Rurik, and Sineus and Truvor, who, as it turns out, never even existed.
Set up the bowls and the plates and place some fresh-pressed garlic in each one. Add the chopped-up meat. Use the ladle to pour over it some thick, golden, gelatinous broth. And that’s that. Your job is done; the rest is up to the frost. Carefully take the bowls and plates out to the balcony, cover the coffins with lids, stretch some plastic wrap over them, and wait.
Might as well stay out on the balcony, bundled up in your shawl. Smoke a cigarette and look up at the winter stars, unable to identify a single one. Think about tomorrow’s guests, remind yourself that you need to iron the tablecloth, to add sour cream to the horseradish, to warm the wine and chill the vodka, to grate some cold butter, to place the sauerkraut in a dish, to slice some bread. To wash your hair, to dress up, to do your makeup—foundation, mascara, lipstick.
And if you feel like senselessly crying do it now, while nobody can see you. Do it violently, about nothing and for no reason, sobbing, wiping away your tears with your sleeve, stubbing out your cigarette against the railing of the balcony, not finding it there, and burning your fingers. Because how to reach this there and where this there is—no one knows. ♦
(Translated, from the Russian, by Anya Migdal.)

Burning bright

Indonesian literature


Brash, worldly and wickedly funny, Eka Kurniawan may be South-East Asia’s most ambitious writer in a generation
 

*

Đường sách Xề Gòn. Con phố ngắn này, có tên là Nguyễn Hậu thì phải, là nơi Bưu Điện có 1 block sử dụng làm Hộp Thư, Boite Postale.
Có thời gian, lúc sắp sửa đứt phim, khi Bưu Điện tách làm đôi, một Bưu Chính, vẫn thuộc Bưu Điện, một Viễn Thông, thuộc… Mẽo, Gấu làm dưới quyền 1 ông sếp mới, nghe nói Xịa, và có 1 căn phòng của riêng Gấu, là cả một tầng lầu phía bên trên mấy sạp sách.
Buồn buồn ngó đầu ra ngoài thở hơi me, phi xì ke, tuyệt cú...  me.
Gấu nhớ có viết về vụ này, đâu đó trên Tin Văn (1)
Tính kiếm 1 cái hình của thời cũ, trên manhhai, nhưng không thấy.

(1)

Tôi biết Lộc, và J. Huỳnh Văn, là qua Tập san Văn chương. Không biết ai là người đầu tiên đưa ra việc làm báo. Khi có tôi, mọi chuyện đã được quyết định. Tôi nhận lời,  phần lớn là vì hai người bạn mới. Nhất là J. Huỳnh Văn. Như một hậu quả tất nhiên của những buổi bỏ sở ra ngồi quán cà phê gốc me đường Nguyễn Du, hoặc bên đường Hai Bà Trưng, quãng gần ngã tư Gia Long, khi bên kia quá ồn.  Số là lúc này, Bưu Điện đã phân đôi, thành Bưu Vụ, và Viễn Thông; tôi chuyển về Trung Ương, chuyên lo việc lên đồ biểu điện đàm/ điện tín, dưới quyền của ông T. nghe nói người của Mỹ. Vào những ngày cuối cùng, trong lúc Đà Nẵng đang trong cơn hỗn loạn, tôi còn cố liên lạc với Phòng Điện Toán, xin con số điện đàm/ điện tín ... "Anh có biết Đà Nẵng sắp sửa đi đoong không..."  tôi nghe tiếng người bạn bên kia đường dây hốt hoảng. Quay qua phòng sếp, một đống hồ sơ vẫn y nguyên. Đã hơn tuần, ông chưa vô sở: người Mỹ đã đưa ông và gia đình đi từ mấy ngày trước.

Huỳnh Văn là linh hồn của cả bọn, là tinh thần, và Tổng thư ký, của tờ báo. Không có anh, chắc tờ báo không ra quá số hai. Sài-gòn nhỏ xíu: chiến tranh, nỗi sợ hãi, đời sống riêng tư của mỗi con người... làm người ta co cụm lại. Đám bạn bè tuy biết nhau, nhưng chỉ chịu ngồi bên nhau, khi có anh. Anh nói, anh biết tôi từ hồi Nghệ Thuật, từ những ngày, thỉnh thoảng ghé quán Cái Chùa, thấy một gã lúc nào cũng đeo kính đen, ngồi trơ một mình tại một chiếc bàn ở góc quán. Nếu không có Tập san Văn chương, chúng tôi chẳng bao giờ có dịp quen nhau. Và có thể chẳng bao giờ người đọc biết anh là một thi sĩ. Cũng chẳng mấy người biết anh dậy học, cho một trường tư ở Biên hòa. Có thể những dòng Cầm Dương Xanh đã rong ruổi cùng với anh, suốt quãng đường Sài-gòn - Biên-hòa, và ngược lại. Chúng xuất hiện lần đầu tiên, và cũng là cuối cùng trên Tập san Văn chương.
Huy Tưởng, thay mặt tôi tới gia đình đốt những nén hương tưởng niệm, sau đó gửi ra vài dòng. Về câu hỏi, chị còn nhớ...?: Thời gian sau này, bạn bè nhiều nhưng thật tình là tôi không được quen biết hết, chỉ có các anh là bạn cũ trước 75 thì tôi mới nhớ thôi.

Thật đơn giản, nhưng...