Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự | Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
 Thơ Mỗi Ngày | Chân Dung | Jennifer Video
Nhật Ký Tin Văn / Viết mỗi ngày



Last Page

Noel 2015   

*

6.12.2015 by iPod

DECEMBER 7 [1997]

Wallace Stevens and Joni Mitchell

It is getting on to winter, and I almost cannot say so to myself without thinking of that lyric from Joni Mitchell's Blue:

It's coming on Christmas
They're cutting down trees
They're putting up reindeer
And singing songs of joy and peace-

With its surprising chords and its sudden, unexpected leap to the chorus:

Oh I wish I had a river
I could skate away on.

It is a song about romantic loss and about Christmas blues. People of my generation will also remember that it is about the mood of the country during the Vietnam War, when so many of the young felt helpless before the violence their government had unleashed across the world. The season and that leap in the song made me think of one of the most haunting American poems of the twentieth century. It's Wallace Stevens's "The Snow Man." It comes differently to its unexpected conclusion. It seems to arrive there almost inevitably, in the unwinding of its syntax, and leaves most readers blinking at what they have come to. Here it is:

The Snow Man

One must have a mind of winter
To regard the frost and the boughs
Of the pine-trees crusted with snow;

And have been cold a long time
To behold the junipers shagged with ice,
The spruces rough in the distant glitter

Of the January sun; and not to think
Of any misery in the sound of the wind,
In the sound of a few leaves,

Which is the sound of the land
Full of the same wind
That is blowing in the same bare place

For the listener, who listens in the snow,
And, nothing himself, beholds
Nothing that is not there and the nothing that is.

Robert Hass: Now & Then

Noel đang rộn rịp tới cùng mùa đông, và tớ không thể nói với tớ về điều này, mà không nhớ tới bài Blue sau đây của Jony Michell

Noel tới rồi
Họ chặt cây
Họ dựng tuần lộc
Và hát những bài hát vui tươi và bình an

Thế rồi, bất thình lình lòi ra khúc đồng ca:

Ui chao ước gì tớ có 1 dòng sông
Và trượt băng trên nó

Đó là 1 bái hát về tình bỏ đi, và về Noel Blue. Những người thế hệ tôi sẽ còn nhớ tâm trạng đất nước trong cuộc chiến Mít, khi đám trẻ thấy vô hy vọng, trước bạo lực mà nhà nước của họ theo đuổi trên khắp thế giới
Mùa Noel, và cú nhạc trên đây còn làm tôi nhớ tới một những bài thơ Mẽo ám ảnh nhất của thế kỷ 20. Đó là bài “Người Tuyết” của Wallace Stevens.
Khác thường làm sao, là cái kết thúc bất ngờ của bài thơ. Có vẻ như không thể có cách nào khác, và điều này là do cú pháp không quanh co của nó, độc giả như bị loá mắt, trước điều xẩy ra:

Người tuyết

Một người phải có cái đầu của mùa đông
Để nhìn sương giá, những cành thông
Bẹp dí tuyết

Và phải quen cái lạnh một thời gian dài
Để ôm cây đẫm băng,
Những cây vân sam xù xì, lấp lánh từ xa

Của mặt trời tháng Giêng
Và không nghĩ tới
Bất cứ một khốn cùng
Trong tiếng gió
Trong tiếng lá

Là tiếng đất
Đẫm cùng ngọn gió
Thổi qua cũng mặt đất trần trụi

Đối với 1 người nghe
Trong tuyết
Hư vô, chính mình
Cầm giữ
Hư vô
Cái hư vô chẳng có ở đó
Cái hư vô, như nó là

This comes from a really splendid new edition of Wallace Stevens, Collected Poetry and Prose, published by the Library of America. It's the best single volume of his work to appear, though it isn't as beautiful as the old Knopf hardback Collected Poems. But all the poems are in the Library of America edition, and the essays on poetry, and selections from the letters, and the aphorisms, the best known of which, I suppose, are "Money is a kind of poetry" and "The greatest poverty is not to love in the physical world." But there are others: "The tongue is an eye." "A poem is a pheasant." It would make a resplendent holiday gift.
That takes care of my seasonal duties. Now look back at that wintry poem, bright as ice. In college, I remember, we argued for hours about what those last lines meant, as if the chill of the poem and its enormous clarity would not quite let go of us. In the way that Joni Mitchell's song has its historical context, so, I suppose, does Stevens's poem. He belonged to the generation of writers-all of the modernists did-who had to address the ways in which the Christian idea, or at least the Protestant and transcendentalist idea, of a divinity in nature had lost its hold on their imagination. "We live," the woman in his poem "Sunday Morning" muses, "in an old chaos of the sun." When Stevens went to college in the early 1900s, aestheticism was in the air. He was a boy from solid Lutheran and German stock-Pennsylvania Dutch, as it was called-and his mother could still speak the Pennsylvania Dutch dialect to the farm women who came to Reading to sell their produce on Saturdays. He has what must be a poem to his mother, explaining his conversion to French poetry:

* *


*

*

Vietnam,  1965. Noel @ Đức Lập with GI, and “Vĩnh Biệt Tình Em, Dr. Zhivago”, with Julie Christie.
Vẹm chửi Tẩy mũi lõ, chia để trị, khi phân ra Nam Kỳ tự trị, Bắc Kỳ bảo hộ.
Không phải.
Có cái gì đó, khiến Tẩy rất dễ gần với Nam Kít.
Maugham, trong bài viết vế Huế cũng nhận ra.
Chính cái điều này, càng khiến Bắc Kít, không phải thù Tẩy mũi lõ, mà thằng em ruột Nam Bộ của nó.
Chán thế!
*


1 YEAR AGO TODAY
Sat, Dec 6, 2014

The Absentee Landlord
Surely, he could make it easier
When it comes to inquiries
As to his whereabouts.
Rein in our foolish speculations,...

Continue Reading

Yiyun Li

HOPE IN A THIN SHELL

Hy vọng ở trong 1 cõi nhân gian bé tí: Xứ Bắc Kít

...Continue Reading

không một tờ báo nào đăng tin linh mục Chân Tín qua đời. đấy là vị Chủ tịch ủy ban cải thiện chế độ lao tù miền Nam Việt Nam.Người công bố cho thế giới biết chế độ chuồng cọp Côn Đảo đã vi phạm nhân quyền như thế nào.
Lịch sử để lịch sử phán xét, người trí thức chế độ nào cũng vậy nếu vi phạm quyền con người thì họ lên tiếng
tôi khinh bọn ăn cháo đá bát của ngày xưa nếu không có linh mục Chân Tín , Linh mục Nguyễn Ngọc Lan các ông đã rũ xương trong tù,nay các ông [ trừ người đã chết ] ăn cháo đá bát.
Thưa người tôi xem là thầy đang ở nước ngoài và các anh em. tôi không hoàn tất được việc thầy nhờ để tên trong việc cậy nhờ chia buồn. vì không báo nào chịu đăng dù tôi sẵn sàng trả đăng tin tiền sòng phẳng
kwan

RIP

Đây là 1 phần của cái giá phải trả của đám được coi là Lực Lượng Thứ Ba, tức đám nằm vùng
Tất cả đám này, số phận tên nào cũng thế, than thở cái nỗi gì nữa

NQT
Bạn Mark Zuckerberg, người tạo ra mạng xã hội Facebook giúp thế giới kết nối, giúp con người gần gụi nhau hơn.
Bạn Mark Zuckerberg và công ty của bạn đã phủ sóng Internet miễn phí cho các nước châu Phi và sắp tới là cả thế giới giúp người nghèo có thể tiếp cận với tri thức nhân loại.
Bạn Mark Zuckerberg viết lá thư cho con gái nhân dịp cô bé chào đời với đầy đủ lời lẽ yêu thương và trách nhiệm mà các bậc cha mẹ khác trên toàn thế giới nên học hỏi để yêu con mình hơn.
Bạn Mark Zuckerberg đã góp rất nhiều tiền cho việc thiện nguyện. Bạn ấy cũng cam kết sẽ góp 99% tài sản trị giá nhiều tỷ đô la và còn tăng nhiều hơn nữa về sau, với mong muốn làm cho thế giới trở nên tốt đẹp hơn.
...
Trong khi đó chúng ta (không phải tất cả, chỉ là một bộ phận không nhỏ) ngồi phân tích xem bạn Mark làm như vậy thì tránh được bao nhiêu thuế với tâm trạng "ồ, tưởng thế nào, nó cũng thường thôi".
Chúng ta thật là sáng suốt quá đy!


Note: Tuyệt!
Nhưng, liệu hai sự kiện trên, có gì liên quan?
Thơ Mỗi Ngày

*

Hàng Noel mới về. Nhân dịp, Tin Văn bèn đi hai đường về nhà thơ Nobel, đều của Robert Hass, nhà thơ Mẽo. Một, đã post trên TV nhưng chưa có bản tiếng Mít. Một, trong Now & Then, 1 mục về thơ, do tác giả phịa ra cho 1 tờ báo văn học, giống mục “Thơ mỗi ngày” của TV. Trong bài viết này, Hass viết về lần đi giang hồ vặt xứ Tẫu, và những vần thơ về Thượng Hải của Transtromer:

…..

Behind each one walking here hovers a cross that wants to catch
up to us, pass us, join us.
Something that wants to sneak up on us from behind and cover
our eyes and whisper, "Guess who?"
We look happy out in the sun, while we bleed to death from
wounds we know nothing about.
Tomas Transtromer: Streets in Shangai

Rereading these final lines also surprised me. Is it a Christian cross? The metaphorical cross that we, each of us, have to bear of our own forms of private suffering? Transtromer is always interested in the individual soul, not the public face. "We visited their home, which was well-appointed," one of his poems goes, "Where is the slum?" But a Christian metaphor in this context-given the entangled history of missionary activity and Western imperialism? It seems unlikely. This is one of those cases where we are brought up against the limits of translation. One wants to know what that "cross" is in Swedish and what its resonances are.
Robert Hass. A Swedish Poet: Tomas Transtromer. [in Now & Then]


SECRETS ON THE WAY
Daylight touched the face of a man who slept.
He had a livelier dream
but didn't wake up.

Darkness touched the face of a man who walked
among the others under the sun's strong
impatient rays.

It darkened suddenly as if from a rainstorm.
I stood in a room that contained every moment-
a butterfly museum.

And still the sun was as intense as before.
Its impatient paintbrushes painting the world.

Ánh sáng mơn trớn mặt một người đàn ông đang ngủ
Thằng chả đang mơ giấc mơ bảnh hơn ánh sáng nhiều
Hắn đếch thèm thức giấc
*

TOMAS TRANSTROMER (b. 1931)

After Someone's Death

Once there was a shock
that left behind a long pale glimmering comet's tail.
It contains us. It blurs TV images.
It deposits itself as cold drops on the aerials.

You can still shuffle along on skis in the winter sun
among groves where last year's leaves still hang.
They are like pages torn from old telephone directories-
the names are eaten up by the cold.

It is still beautiful to feel your heart throbbing.
But often the shadow feels more real than the body.
The samurai looks insignificant
beside his armor of black dragon scales.

Translated from the Swedish by Robin Fulton

Sau Cái Chết của Ai Đó

Một lần, có 1 cú sốc
Nó để lại đằng sau nó 1 cái đuôi sao chổi dài, le lói.
Nó kiềm chế chúng ta. Nó làm những hình ảnh TV mờ đi.
Nó rớt chính nó đánh phịch 1 phát, như giọt nước lạnh trên bầu trời.

Bạn có thể trượt băng trong mặt trời mùa đông
giữa những khu rừng nhỏ, nơi những chiếc lá năm ngoái vẫn còn treo lủng lẳng.
Chúng giống như những trang giấy xé ra từ 1 cuốn niên giám điện thoại -
những cái tên thì bị cái lạnh giá đợp mẹ mất hết rồi.

Thì vưỡn đẹp như mơ, cảm thấy trái tim bạn vưỡn đập thình thịch.
Nhưng thường là cái bóng thì lại cảm thấy thực hơn là
cái người, cái cơ thể có xương, có thịt.
Tên samurai thì là cái chó gì,
so với bộ giáp của anh ta, và
những cái vảy rồng đen thui, kế bên.

Note: Bài thơ thần sầu. Gửi theo ông anh quá tuyệt. Bảy năm rồi, xác thân nào còn, linh hồn thì cũng có khi đã đầu thai kiếp khác, hoặc tiêu diêu nơi miền cực lạc. Nhưng cái bóng thì lại càng ngày càng lớn, dội cả về Đất Cũ:
VC bi giờ coi bộ trân trọng cái bóng của ông cùng cái áo giáp, mấy cái vảy rồng đen thui, còn hơn cả đám bạn quí hải ngoại của ông!

Hai cuốn tiểu thuyết của TTT, Bếp LửaMột Chủ Nhật Khác, thần sầu ở chỗ là, tác giả “làm thơ” chứ không “viết văn”, và thơ thì cũng không phải là những từ hoa [hình tượng tu từ, figure rhétorique] mà là ảnh tượng.
Ảnh tượng, image poétique, không cần đến tri thức, cho nên nó khác hẳn mọi hình thức tu từ khác, như ẩn dụ, ám dụ… 

Volkov: Viết về Stravinsky, Auden cho rằng chính cái gọi là tiến hoá tách biệt một nghệ sĩ bậc thầy với thứ cà mèng. Đọc hai bài thơ của một thi sỡi cà mèng, bạn không thể nào nhận ra, bài nào viết trước, bài nào sau. Nói như vậy có nghĩa, khi tới một độ chín nào đó, nhà thơ cà mèng bèn dừng lại, và cứ thế dậm chân tại chỗ. Còn thứ nghệ sĩ lớn lao đếch bao giờ hài lòng với đỉnh trời này, bèn leo lên đỉnh trời cao hơn...
Brodsky: Trời hỡi, bạn nói đúng quá đi mất. Người Nhật nói tới sự mạnh khoẻ trong tiến trình sáng tạo. Khi một nghệ sĩ đạt đến sự trưởng thành, anh ta bèn đổi văn phong, thay cả tên của mình. Hokusai chẳng hạn, có chừng ba chục thời kỳ khác nhau.
Bạn nhìn ra một vô cùng cách biệt giữa Thơ Ở Đâu Xa và những tập thơ trước đó của TTT.
Điều này dễ hiểu, một trước, một sau, Trại Tù.
Nhưng lạ nhất, là sự vô cùng cách biệt, giữa Một Chủ Nhật Khác và những tác phẩm trước đó.
Có lần, một anh bạn cho biết, anh không thích Một Chủ Nhật Khác bằng Bếp Lửa.
Và anh giải thích: không có đám mình trong đó.
Cái anh chàng Kiệt bỏ chạy, rồi vội vàng bò về, vừa kịp để... chết, làm sao lại là một trong đám mình được?
*

Ở đầu truyện có cảnh Kiệt, đang học trong quân trường Thủ Đức, chắc vậy, được ngày phép cuối tuần, thay vì như mọi người, về hú hí với vợ con, chàng bèn nhẩy xe lô, ra bến xe đi một lèo xuống Mỹ Tho, có thể Cai Lậy, kiếm khách sạn ngủ, đêm thèm chết quá, bèn cứa mạch máu tay, sao không chết, bèn lủi thủi về nhà, bị vợ tra vấn quá, phịa chuyện gặp người tình cũ, cả hai đồng ý cùng chết, nhằm trốn tránh ba cuộc: Cuộc đời, cuộc tình, cuộc chiến.
Tới cuối chuyện, cảnh này mới thực sự xẩy ra, như trên cho thấy.
Độc giả tự hỏi: Khi tác giả viết đoạn đầu, liệu ông đã nhìn ra đoạn sau? 

Lạ, cảnh trên Hai Lúa cũng đã từng trải qua. Ấy là cái chuyện một ngày cuối tuần về Mỹ Tho, Cai Lậy, để kiếm một cô gái, chỉ mới nghe được tên.

Những ngày đó, Sài Gòn chưa hế biết đến chiến tranh.

Tôi biết anh còn muốn kể lại, lần đầu tiên anh xuống xe đò, đi lang thang trên con lộ dẫn vào quận lỵ, khi đi ngang cây cầu gỗ, rồi tiếng đạn từ chi khu bắn đi nghe chát chúa bên tai. Đó là lần đầu tiên anh nhận ra chiến tranh có thật, và tất cả những gì anh tưởng tượng về cô bạn đều có thật. Mặt nước sông nhăn nhó để lộ sự giận dữ của thiên nhiên, vẻ gớm ghiếc của số mệnh. Cùng lúc anh nhận ra nỗi đau khổ, sự thông cảm. Sau mặt nạ đầy hăm dọa của dối trá, anh nhận ra một khuôn mặt khác, một cuộc đời khác, đúng không, đúng không?...
Tự Truyện
 

Joseph Brodsky lại đưa ra một lời giải thích khác, khi được hỏi, tại sao thiếu vắng cái gọi là "cảm xúc nói ra lời hung bạo" (biểu hiện bạo động của cảm xúc, violent expression of emotion), trong thơ của những nghệ sĩ phổ cập, đại chúng, như Pushkin, Mozart, thí dụ vậy.
"Không có biểu hiện hung bạo của cảm xúc ở Mozart, bởi vì ông vượt lên trên cõi đó."
-Nhưng như vậy là thi sĩ muốn nhắm tới một thứ thơ "trung tính", vượt lên trên mọi cảm xúc?"
Nhà thơ trả lời, đây là vấn đề thời gian. "Cội nguồn của âm điệu [của thơ], là thời gian. Bạn chắc còn nhớ, tôi đã từng nói, bất cứ một bài thơ đều là thời gian được sắp xếp lại?… "Thời gian nói với từng cá nhân chúng ta bằng những giọng điệu thay đổi. Thời gian có giọng trầm bổng của riêng nó…"
Thời gian có giọng trầm bổng của riêng nó.
Điều này giải thích những dòng thơ "thiền" trong Thơ Ở Đâu Xa với những dòng thơ trước đó của Thanh Tâm Tuyền.

*

TOMAS TRANSTROMER: A TRIBUTE

ROBERT HASS        

Viết mỗi ngày

Khi biết được người ngồi bên trái tôi là Hoàng Ngọc Hiến. Tô Thùy Yên nói: “”Xin lỗi Thấm Vân, anh phải đi ra ngoài một lát.” Tôi tôn trọng quyết định của ông.

Hoàng Ngọc Hiến đã tạm trú nhà tôi vài ngày trong thời gian ông đến Bắc California.

Lê Thị Thấm Vân's photo.
1 share

Thú thực, GCC không làm sao hiểu được câu văn bình thường của TV, “Tôi tôn trọng quyết định của ông"
Giả như không tôn trọng, thì sự tình nó sẽ ra sao?
Căng thiệt!

Trong những còm, có một, cho biết, hai người lại gặp nhau.
Cũng thật khó hiểu.

HNH du Mẽo, là để lấy tiền của Mẽo, viết về đề tài vẽ khuôn mặt lưu vong Mít. Tình cờ hai đấng gặp nhau, 1 đấng tránh mặt.
Nếu gặp lại, thì ở đâu?

Không lẽ TTY về trong nước, xin gặp, như GCC, khi về Hà Nội, được Đỗ Minh Tuấn đèo xe gắn máy, tới gặp, và được ông ký tặng bản thảo bài viết “Miễn xong 1 sô".
Có thể ông muốn nhờ Gấu lăng xê bài viết, ở hải ngoại.
Và GCC đã làm điều này.


* *

*

Ý Thức Về Ký Hiệu Học 

http://www.gio-o.com/NguYen/NguYenKyHieu6.htm

Đọc bài viết của NY, thì GCC bỗng nhớ đến cuốn trên, 1 trong những cuốn tuyệt vời, thần tiên của thời mới lớn. Tất cả những giấc mơ văn chương, những khuôn mặt vĩ đại mà sau này Gấu hân hạnh được quen [qua tác phẩm, tất nhiên], những lý thuyết văn học ăn ở gần như suốt đời với Gấu, thì đều có ở trong đó.
Borges và "không tưởng văn chương", Barthes, thì rất nhiều, nào ký hiệu học, nào cơ cấu luận. Tel Quel. Blanchot.

Borges, trong bài viết về Thơ, trước sinh viên, khi được hỏi về thơ tự do, có phán 1 câu trứ danh, "Nếu không có thơ vần, chúng ta đều trở thành thiên tài".
Câu này, có thể thể áp dụng cho NY, khi viết ba thứ tào lao, bá láp này.

Chứng cớ rõ ràng nhất, ông gọi thứ ký hiệu học mà ông đang lèm bèm, là, ký hiệu học “giải tích”.
GCC đành phải lên tiếng, vì thú thực, đụng vô những đấng như ông, ngại lắm.
Giải tích, là từ của toán học. Chúng ra có môn hình học, rồi có môn hình học giải tích, géométrie analytique, tức là, chuyển hình thành chữ, thành con số.
Thay vì vẽ 1 đường thẳng, thì chúng ta viết, 1 phương trình đường thẳng, y=ax+b.

Cái kinh nghiệm viết những bài bá láp như thế này, Gấu gặp rồi, nhưng mà là với phương trình đường thẳng và cũng đã kể ra rồi, trên TV.

Hồi học trung học, nhà nghèo quá, không có tiền mua sách, bèn tự mình mầy mò, khám phá ra phương trình đường thẳng.
Sướng đến tận trời, chạy đi gặp anh bạn cùng học là Ngô Khánh Lãng, khoe, anh nhìn Gấu với cặp mắt rất ư là thương hại, rồi biểu Gấu đứng chờ, anh vô nhà, lấy cuốn sách, trong có bài giải thích phương trình đường thẳng, dí vào mắt Gấu!
Đọc, Gấu ngớ người.
Rõ ràng hơn, ngắn gọn hơn cách của Gấu nhiều, tất nhiên!
Bạn không thể hiểu, nỗi thất vọng khủng khiếp của Gấu đâu!

Mình tới trễ quá! Cái đéo gì thì thiên hạ cũng đã khám phá ra rồi!

Q: Về thơ vần, ông có nghĩ là, tất cả tùy thuộc vào loại thơ mà ông đã trưởng thành?

Borges: Câu hỏi thật kỳ cục. Có vẻ như ông có quá ít tò mò, về quá khứ. Nếu ông viết bằng tiếng Anh, thì đó là một truyền thống. Ngôn ngữ, tự thân, là một truyền thống. Tại sao không theo truyền thống thật dài, thật xuất sắc của những nhà thơ sonnet, thí dụ vậy? Tôi nhận thấy thật lạ lùng, khi bỏ qua thể thơ (form). Nói cho cùng, ít nhà thơ làm thơ tự do hay, nhưng rất nhiều nhà thơ bậc thầy, ở những thể thơ khác. Ngay cả Cummings cũng có nhiều bài sonnet thật tuyệt. Tôi có thuộc một số bài. Tôi không nghĩ ông có thể gạt bỏ tất cả quá khứ. Nếu làm vậy, ông sẽ gặp rủi ro khi khám phá ra những điều đã được khám phá rồi. Điều này là do sự thiếu tò mò. Chẳng lẽ ông hết tò mò về quá khứ? Không tò mò về những bạn thơ thế kỷ này? Thế kỷ trước? Thế kỷ 18? John Donne chẳng là gì đối với ông? Hay là Milton? Thật sự tôi không thể, ngay cả để "bắt đầu", trả lời câu hỏi của ông.

Q: Liệu chúng ta có thể đọc những nhà thơ quá khứ, rồi diễn giải những gì học được, bằng thơ tự do?
Borges: Điều tôi không hiểu được, đó là, tại sao ông lại muốn bắt đầu, bằng một điều thật khó, thí dụ như thơ tự do?

Q: Nhưng tôi thấy không khó.

Borges: Well, tôi không biết thơ bạn làm, thật khó mà nói. Vấn đề có thể là, làm thì dễ, nhưng đọc thì khó. Trong hầu hết trường hợp, có sự lười biếng. Lẽ dĩ nhiên, có những ngoại lệ. Thí dụ Whitman, Sandburg, Edgar Lee Masters. Một trong những lập luận của thơ tự do, đó là người đọc biết, đừng trông mong lấy ra được từ đó một thông tin nào; hoặc phải tin vào một điều gì đó - khác với một trang thơ xuôi, vốn thuộc về văn chương của tri thức, chứ không phải văn chương của quyền lực.

Q: Ông có nghĩ, có thể tạo ra những thể thơ mới?

Borges: Lý thuyết có thể đúng. Nhưng điều tôi muốn nói, và chưa nói ra được, đó là bắt buộc phải có một cấu trúc; và nếu bắt đầu bằng một cấu trúc hiển nhiên, như vậy vẫn dễ dàng hơn. Phải có cấu trúc thôi. Mallarmé có nói: "Chẳng có cái gọi là thơ xuôi (prose); đúng vào lúc bạn lo tới nhịp điệu, nó trở thành thơ (verse)." Stevenson cũng nói đại khái như vậy: "Sự khác biệt giữa thơ và thơ xuôi là do khi bạn đang đọc" - ông muốn nói những thể thơ cổ điển - "bạn mong một điều, thế là bạn có".
Nói ngắn gọn, sự khác biệt giữa một sonnet của Keats, với một trang thơ tự do của Whitman, thí dụ vậy, đó là bài sonnet, cấu trúc của nó hiển nhiên - thành ra dễ làm - trong khi nếu bạn thử làm một bài thơ như "Children of Adams" or "Song of Myself", bạn phải tự mình bịa đặt ra một cấu trúc của riêng bạn. Không có cấu trúc, bài thơ sẽ chẳng có hình dạng, và tôi nghĩ, nó chẳng thể chịu nổi một chuyện như thế đâu.

Đọc bài viết của NY, Gấu gặp cái Gấu đã gặp rồi, ấy là nói về ký hiệu học, khi đọc Genette.

Hiện sinh vs Cơ cấu luận

GCC có nhớ từng viết gì về cơ cấu luận và đăng tờ nào không? Thời ấy GCC đọc Trần Thiện Đạo về CCL không?

TTD, tôi chỉ đọc ông ta khi dịch Sa Đọa. Ông này mà văn chương cái con khỉ gì.
Lạ, là làm sao mà ông ta lại chọn đúng cuốn Sa Đọa để dịch?
Không lẽ ông ta đã ngửi ra cái thân phận 1 tên bỏ chạy cuộc chiến, trốn qua Tây, và tự rủa xả mình, như nhân vật của Camus?

Vô lý quá! (1)

Hồi đó đó, TTD, đám học trường Tây, như Mít Butor mà GCC bé cái lầm, cứ đinh ninh “bạn quí”, hay những đấng giáo sư Triết…  đều được Xìn Phóng, tức TPG, “biệt nhãn”, so với GCC.
GCC vẫn còn nhớ cái nhìn khinh khỉnh của TPG khi thấy Gấu cầm cuốn Lịch sử và Ý thức giai cấp của Lukacs, cậu mua thứ này tính nhát ma ư?
Cũng cái nhìn đó, là của Mít Butor, mỗi lần ghé Quán Chùa, nhưng Gấu lại không nhận ra, vì nghĩ, "bạn quí" vốn thế!

Ui chao phải đến khi về già, nhìn lại, thì GCC mới thật sự cám ơn ông Giời, cho mình được đi học, mà học trường Mít.
Nếu không, thì cũng như lũ mất gốc đó rồi.
Bởi vì, bạn chỉ có thể học ngoại ngữ để rành tiếng mẹ đẻ của bạn.
Một khi bạn học ngoại ngữ, để mong đặc quyền, cơ hội...  là vứt đi.
Tất cả cái đám tinh anh hồi đó, học tiếng Tây, chỉ để mong có dịp bỏ chạy. 

Đó là sự thực.  

GCC học tiếng Tây chỉ để mong sẽ có ngày viết được 1 cái thư bằng tiếng Tây, cám ơn 1 ông Tây thuộc địa, chồng bà cô của Gấu, Cô Dung, một me Tây, nhờ ông chồng của bà cô - GCC còn nhớ cái nick của ông, Ông Tây - Gấu có cơ hội đi học.
Thế rồi khi biết tiếng Tây rồi, thì mới đọc hiện sinh, đọc Camus, đọc Sartre, đọc Lukacs, đọc Lefebvre, đọc Nguyễn Đình Thi… là để tìm ra lời giải cho cuộc chiến.
Nhờ đọc Koestler mà thoát được nọc độc CS.
Nhưng chỉ đến khi đọc Barthes, đọc cơ cấu luận, thì mới thoát ra được cái thứ văn chương dấn thân, xuống thuyền, viết cho ai…
Nhờ Barthes mà Gấu hiểu ra được, "viết như thế nào" mới là vấn đề.

(1)

*

NB 2. Có một câu nói ác, bảo Camus là triết gia của học sinh cấp ba, và Cioran bảo văn chương Camus là thứ văn chương tỉnh lẻ :p (đồng thời Sartre chẳng có gì đáng quan tâm cả). Cioran cũng là một cục đen hiểm ác, cực hiểm ác.
Blog NL

Không phải 1 câu, mà 1 cuốn sáchCamus, philosophe pour classes terminales

Sự kiện Cioran không khoái Camus, thì cũng đúng thôi, vì 1 bên là mặt trời, 1 bên là đêm đen; cả chuyện coi ông là triết gia của lớp chót bậc TH cũng đúng, vì cái thái độ đạo đức của ông, chỉ đám học sinh may ra còn chịu nổi, hay tin được.

Điều làm GNV điên cái đầu, là, cái ông Tẩy mũi tẹt, tại làm sao lại chọn cuốn La Chute để dịch ?

Chỉ đến khi thấy ông ta "về", và phán nhảm, thì Gấu mới vỡ ra là Người chẳng có thú tội gì hết :

Sự thú tội của Clamence vẽ lên chân dung 1 con người bị cắn rứt bởi tuyệt vọng, tội lỗi và ân hận vì đã vờ 1 em tự trầm.
Nhưng Clamence còn đưa 1 tấm gương cho những người muốn dòm vào đó, theo cái kiểu mà Nguyễn Huệ của NHT đã từng làm :
Hãy nhét cứt vào miệng chúng, để chúng nhận ra thân phận của chúng.

Trong NHT có cả ba, Clamence & Tướng Về Hưu & Nguyễn Huệ, là vậy !

Hà, hà !

1956: Cuộc chiến Mít chưa hứa hẹn những điều khủng khiếp, và ông Tẩy thì chắc cũng mới chuồn qua Paris, hẳn thế?
Với riêng Gấu, phải đến khi ra được hải ngoại, thì mới nhìn ra sự thân quen giữa Clamence và Tướng Về Hưu!

Sa Đọa gióng lên hồi chuông báo tử cho những kẻ tưởng là giải phóng, hóa ra là ăn cướp, tưởng xây dựng thiên đàng, hóa ra địa ngục, là 1 nước Mít hậu chiến.
GNV

Mô phỏng:

La Chute sonne comme un adieu de l'auteur à ses propres illusions:
Sa Đọa gióng lên lời vĩnh biệt của tác giả với những ảo mộng của chính ông.


* *

Hình, từ Guardian Weekly

Có thể, Trần Thiện Đạo, vào lúc này, ngồi bàn kế bên, dịch Sa Đọa, ở tiệm cà phê trứ danh ở Paris, Café de Flore, nơi cặp tình nhân thường ngồi, để viết văn.

Isaiah Berlin

Berlin có 1 thời là người yêu của Akhmatova. Trong cuốn "Akhmatova, thi sĩ, nhà tiên tri", có nhắc tới mối tình của họ.
Berlin là nguyên mẫu của “Người khách từ tương lai”, "Guest from the future", trong “Bài thơ không nhân vật”, “Poem without a Hero”.
Cuộc gặp gỡ của cả hai, được báo cáo cho Xì, và Xì phán, như vậy là nữ tu của chúng ta đã gặp gián điệp ngoại quốc, “This mean our nun is now receiving visits from foreign spies”.
Cuộc gặp gỡ của họ đậm mùi chiến tranh lạnh. Và thật là tuyệt vời.

Vào ngày Jan 5, 1946, trước khi về lại Anh [Berlin khi đó là Thư ký thứ nhất của Tòa ĐS Anh ở Moscow], Berlin xin gặp để từ biệt.
Kết quả là chùm thơ “Cinque”, làm giữa Nov 26, 1945 và Jan 11, 1946. Những bài thơ tình đẹp nhất và bi đát nhất của ngôn ngữ Nga.
Bài dưới đây, viết ngày 20 Tháng Chạp, Akhmatova ví cuộc lèm bèm giữa đôi ta như là những cầu vồng đan vô nhau:

Sounds die away in the ether,
And darkness overtakes the dusk.
In a world become mute for all time,
There are only two voices: yours and mine.
And to the almost bell-like sound
Of the wind from invisible Lake Ladoga,
That late-night dialogue turned into
The delicate shimmer of interlaced rainbows.

(II, p. 237)

Tiếng buồn nhạt nhòa vào hư vô
Và bóng tối lướt lên cõi chạng vạng
Trong một thế giới trở thành câm nín đời đời
Vưỡn còn, chỉ hai giọng, của anh và của em
Và cái âm thanh giống như tiếng chuông
Của gió, từ con hồ Ladoga vô hình
Cuộc lèm bèm muộn trong đêm – hay, trong đêm muộn –
Biến thành hai cái cầu vồng
Lù tà mù, mờ mờ ảo ảo, lung la lung linh
Quấn quít – hay, cuống quít - cuộn  vào nhau.

The last poem of the cycle, written on January 11, 1946, was more prophetic than Akhmatova realized:

We hadn't breathed the poppies' somnolence,
And we ourselves don't know our sin.
What was in our stars
That destined us for sorrow?
And what kind of hellish brew
Did the January darkness bring us?
And what kind of invisible glow
Drove us out of our minds before dawn?

(II, p. 239)

In 1956, something unexpected happened: the man who was to become "Guest from the Future" in her great work Poem Without a Hero-Isaiah suddenly returned to Russia. This was the famous "meeting that never took place”. In her poem, "A Dream" (August 14, 1956), Akhmatova writes:

This dream was prophetic or not prophetic . . .
Mars shone among the heavenly stars,
Becoming crimson, sparkling, sinister-
And that same night I dreamed of your arrival.
It was in everything ... in the Bach Chaconne,
And in the roses, which bloomed in vain,
And in the ringing of the village bells
Over the blackness of ploughed fields.
And in the autumn, which came close
And suddenly, reconsidering, concealed itself.
Oh my August, how could you give me such news
As a terrible anniversary?

(II, p. 247)

Another poem, "In a Broken Mirror" (1956), has the poet compare Petersburg to Troy at the moment when Berlin came before, because the gift of companionship that he brought her turned out to poison her subsequent fate:

The gift you gave me
Was not brought from altar.
It seemed to you idle diversion
On that fiery night
And it became slow poison
In may enigmatic fate.
And it was the forerunner of all my misfortunes-
Let’s not remember it! ...
Still sobbing around the corner is
The meeting that never took place.

(II, p. 251)


*

David Williams/Corbis

The grave of Karl Marx, Highgate Cemetery, London, March 2014

Mộ Mác: W[V]C thế giới, hãy đoàn kết lại!

Note: Berlin là 1 trong vị thầy của Vargas Llosa. Sau khi được Nobel, ông viết 1 cuốn sách nhỏ, Giếng Khôn, vinh danh những người & tác phẩm ảnh hưởng lên ông, trong có Berlin.

I speak with particular feeling, for I am a very old man, and I have lived through almost the entire century. My life has been peaceful and secure, and I feel almost ashamed of this in view of what has happened to so many other human beings. I am not a historian, and so I cannot speak with authority on the causes of these horrors. Yet perhaps I can try.

Isaiah Berlin

Viết đàng hoàng đi...
Độc giả TV

Tớ già rồi, sống trọn thế kỷ rồi, sóng gió cũng nhiều, nhưng vưỡn cảm thấy hổ thẹn, so với sóng gió của những người khác, nhưng tớ sẽ cố, viết về…  tớ, như là viết về...  họ!

Hà, hà!
Quyet Le Quoc with Lê Quốc Quân and 9 others.

Vừa nhận được tin Ls Nguyễn Văn Đài, Vũ Văn Minh và Lý Quang Sơn bị côn đồ đi trên hai xe ô tô và một số xe máy đuổi đánh tại tp Vinh. Các anh em Nghệ xin liên số điện thoại của Minh: 01266079666 để hỗ trỡ. Luật sư Đài đã bị đánh gãy tay nhưng hiện vẫn đang bị truy đuổi, đánh!

131 Likes14 Comments

Vẫn 1 đòn, chỉ 1 đòn, từ hồi “lập nước” 1945, “một mùa thu năm qua, cách mạng tiến ra”…  Mỗi lần đọc 1 cái tin như vầy, là Gấu lại thầm cám ơn ông bố Gấu 1 phát. Ông như biết trước, những sự kiện như vầy, khi tránh cho lũ con không bị mang cái nhục, là con của 1 tên Vẹm! Ông chết vì nạn đảng phái, đúng thời kỳ này, nhưng vì quá tin 1 tên học trò.