Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự văn học |
Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ |  Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
  Ghi chú trong ngày | Thơ Mỗi Ngày | Nhật Ký | Chân Dung | Jennifer Video 

*

  Daily TV
Old

1 2 3 4

















 

 
Last Page


1 YEAR AGO TODAY
Wed, Nov 12, 2014

Albert Camus và đạo đức học của những giới hạn

Hai mươi năm trước đây, Albert Camus là một tác giả thời thượng; những kịch phẩm, tiểu luận và tiểu thuyết của ông giúp những người trẻ tuổi, sống. Vào lúc đó, bị ảnh hưởng Sartre, say mê những tư tưởng của ông ta, tôi đọc Camus mới ngán ngẩm làm sao, và nhiều khi còn bực bội về cái gọi là chất trữ tình làm ra vẻ trí thức của ông!
Sau đó, khi tác phẩm di cảo của ông, Sổ Ghi [Notebooks], được xb, vào năm 1962 và 1964, tôi bèn đi ...

Continue Reading

Những con thú ăn mồi sống

Nhà văn Bắc Mỹ Paul Theroux, tác giả “The Mosquito Coast”, một cuốn tiểu thuyết thú vị, và nhiều cuốn sách du lịch rất ăn khách, một bữa khám phá ra là, một tiệm sách ở Anh rao bán một số tác phẩm của ông, cuốn nào cũng có chữ ký, và thủ bút của tác giả, là những dòng đề tặng Ngài Sir Vidia S. Naipaul. Tức điên lên, ông bèn viết thư cho nhà văn Nobel, và ông này, thay vì phúc đáp, thì để cho vợ ra đầu ngõ, vén váy, đi vài đường bồm bộp [nguyên văn,...

Continue Reading

Những đứa con của tiểu thuyết

Ngay từ cuốn truyện đầu, độc giả đã hỏi Mario Vargas Llosa, (người Peru 1937-), chuyện "thực" hả? Ông chẳng thích thú việc trả lời. Theo ông, đa số độc giả, thường đánh giá thực/giả, bằng ý niệm tốt/xấu. Những "thẩm tra viên" (inquisitors) người Tây Ban Nha đã cấm in và nhập cảng tiểu thuyết, tại thuộc địa của họ, với lập luận, chỉ là những chuyện phi lý, vô nghĩa, rất có hại cho sức khoẻ tinh thần của thổ dân da đỏ. Trong vòng 300 năm, dân Mỹ ch...

Continue Reading



*

The French intellectual André Glucksmann enjoyed telling listeners, “I cannot tell you what to be for. But I know what to be against.”

November 11, 2015
The Coruscating Moral Vision of André Glucksmann
By Adam Gopnik
http://www.newyorker.com/culture/cultural-comment/the-coruscating-moral-vision-of-andre-glucksmann

The truth that the American war in Vietnam was wrong did not mean that we were obliged to idealize its victors, or see past the victims of North Vietnamese power.

Note: Graham Greene cũng phán, như thế, nhà văn phải sẵn sàng đổi bên, vừa thấy cái nón tai bèo rớt xuống, là chạy sang phía Ngụy!

Greene provided surprising support for colonialism, suggesting the relativity of his political beliefs.
Elsewhere he wrote: 'the writer should always be ready to change sides at the drop of a hat. He stands for the victims, and the victims change.

bateau victim

1979: Ba triết gia Jean-Paul Sartre, André Glucksmann, và Raymon Aron trong cuộc họp báo "Một con tầu cho Việt Nam" [Un bateau pour le Viêtnam].

[Hình từ báo Văn Học Pháp, Magazine Littéraire, số đặc biệt 1966-1996: La passion des idées, đam mê tư tưởng.] Có cả Michel Foucault, nhưng ông không ngồi ở bàn chủ tọa.

30.4.2005
Happy 100th birthday, Roland Barthes
Little did the great demythologiser know that after his death he would become famous, commodified and mythic himself

http://www.theguardian.com/books/booksblog/2015/nov/12/roland-barthes-happy-100th-birthday-centenary-birth

Chúc mừng SN thứ 100, Roland Barthes

The real Barthes legacy, then, is not the literary criticism or theory, but the journalism he wrote offhandedly back in the 50s and later, related projects that, like Mythologies, are about looking and decoding: Empire of Signs (1970), on Japan, Camera Lucida (1980), on photography, and The Fashion System (1967) - the latter recently both invoked and crisply summarized by the Guardian’s Jess Cartner-Morley in noting that “the fashion system chews up and spits out trends on an almost hourly basis”.

Thơ Mỗi Ngày

OF MERE BEING

The palm at the end of the mind,
Beyond the last thought, rises
In the bronze decor,

A gold-feathered bird
Sings in the palm, without human meaning,
Without human feeling, a foreign song.

You know then that it is not the reason
That makes us happy or unhappy.
The bird sings. Its feathers shine.

The palm stands on the edge of space.
The wind moves slowly in the branches.
The bird's fire-fangled feathers dangle down.

A CHILD ASLEEP IN ITS OWN LIFE
Among the old men that you know,
There is one, unnamed, that broods
On all the rest, in heavy thought.

They are nothing, except in the universe
Of that single mind. He regards them
Outwardly and knows them inwardly,

The sole emperor of what they are,
Distant, yet close enough to wake
The chords above your bed to-night.

Wallace Stevens


*

Black Stone on White Stone
I will die in Paris on a rainy day:
on a day I can already remember.
I will die in Paris-and I don't mind-
perhaps on a Thursday in autumn, like today.

It will be a Thursday, because today, Thursday, as I write
these lines, the bones in my arms ache badly,
and never before, in all my road, have I felt
myself as lonely as I do today

Cesar Vallejo is dead, everyone kept hitting him,
even though he had done nothing to them.
They hit him hard with a stick, and hard

also with a rope; his witnesses
are the Thursday and the bones of his arms,
the loneliness, the rain, the roads ...

Robert Hass [translated]
Đá Đen trên Đá Trắng


Tớ sẽ chết ở Paris vào một ngày mưa
Vào một ngày mà tớ nhớ.
Tớ sẽ chết ở Paris – và tớ chẳng thèm để ý-
Có thể một ngày Thứ Năm, vào Mùa Thu, như bữa nay

Nó sẽ là Thứ Năm, bởi là vì bữa nay, Thứ Năm, khi tớ viết
Những dòng này, tay tớ đau ơi là đau
Trước đây, chưa từng, trên mọi ngả đường, tớ cảm về mình
Cô đơn thê thảm đến cỡ này

Cesar Vallejo đã chết, và mọi người tiếp tục nện hắn
Mặc dù hắn chẳng làm gì họ
Họ nện hắn bằng gậy, thật mạnh
Và bằng roi; người chứng của hắn, là Thứ Năm, xương xẩu của hắn,
Nỗi cô đơn, mưa, những con đường…

Bài thơ được in trong tập di cảo. Một trong những điều nhức nhối, ám ảnh hoài hoài, là, ông quả thực chết ở Paris.
Đời của ông cũng chẳng có chút gì gọi là dễ dãi. Lớn lên ở một làng vùng Andean, ngoại vi thành phố Lima, học đại học ở thủ đô, ở đó, ông bị bỏ tù vì những hoạt động chính trị.
Ông rời Lima đi Paris vào năm 1923, nơi ông sống nghèo khổ, trau giồi nghệ thuật của mình.
Rất xúc động, dấn mình vào Cuộc Nội Chiến Tây Ban Nha, gia nhập lực lượng Cộng Hòa TBN, chiến đấu hết mình vì nó, mang thông điệp, tiền bạc giữa Paris và Barcelona. Cuộc sống gian khổ đánh gục ông. Ông chết vì bịnh, không rõ nguồn gốc, có thể do di căn từ hồi còn nhỏ, và chết ở Paris, 1937.

By César Vallejo

Translated by Rebecca Seiferle 

I will die in Paris with a rainstorm,
on a day I already remember,
I will die in Paris—and I don't shy away—
perhaps on a Thursday, as today is, in autumn.

       It will be Thursday, because today, Thursday, as I prose
these lines, I've put on my humeri in a bad mood,   
and, today like never before, I've turned back,
with all of my road, to see myself alone.

       César Vallejo has died; they kept hitting him,   
everyone, even though he does nothing to them,
they gave it to him hard with a club and hard

       also with a rope; witnesses are
the Thursday days and the humerus bones,   
the solitude, the rain, the roads. . .


Lướt Tin Văn

Review

A Place in the Country
Walser by Sebald

The Genius of Robert Walser
http://www.nybooks.com/articles/archives/2000/nov/02/the-genius-of-robert-walser/
J.M. Coetzee
November 2, 2000 Issue

Was Walser a great writer? If one is reluctant to call him great, said Canetti, that is only because nothing could be more alien to him than greatness. In a late poem Walser wrote:

I would wish it on no one to be me.
Only I am capable of bearing myself.
To know so much, to have seen so much, and
To say nothing, just about nothing.

Walser, nhà văn nhớn?
Nếu có người nào đó, gọi ông ta là nhà văn nhớn, 1 cách ngần ngại, thì đó là vì cái từ “nhớn” rất ư là xa lạ với Walser, như Canetti viết.
Như trong 1 bài thơ muộn của mình, Walser viết:

Tớ đếch muốn thằng chó nào như tớ, hoặc nhớ đến tớ, hoặc lèm bèm về tớ, hoặc mong muốn là tớ
Nhất là khi thằng khốn đó ngồi bên ly cà phê!
Một mình tớ, chỉ độc nhất tớ, chịu khốn khổ vì tớ là đủ rồi
Biết thật nhiều, nhòm đủ thứ, và
Đếch nói gì, về bất cứ cái gì

[Dịch hơi bị THNM. Nhưng quái làm sao, lại nhớ tới lời chúc SN/GCC của K!]

Walser được hiểu như là 1 cái link thiếu, giữa Kleist và Kafka. “Tuy nhiên,” Susan Sontag viết, “Vào lúc Walser viết, thì đúng là Kafka [như được hậu thế hiểu], qua lăng kính của Walser. Musil, 1 đấng ái mộ khác giữa những người đương thời của Walser, lần đầu đọc Kafka, phán, ông này thuổng Walser [một trường hợp đặc dị của Walser]."
Walser được ái mộ sớm sủa bởi những đấng cự phách như là Musil, Hesse, Zweig. Benjamin, và Kafka;  đúng ra, Walser, trong đời của mình, được biết nhiều hơn, so với Kafka, hay Benjamin.

W. G. Sebald, in his essay “Le Promeneur Solitaire,” offers the following biographical information concerning the Swiss writer Robert Walser: “Nowhere was he able to settle, never did he acquire the least thing by way of possessions. He had neither a house, nor any fixed abode, nor a single piece of furniture, and as far as clothes are concerned, at most one good suit and one less so…. He did not, I believe, even own the books that he had written.” Sebald goes on to ask, “How is one to understand an author who was so beset by shadows … who created humorous sketches from pure despair, who almost always wrote the same thing and yet never repeated himself, whose prose has the tendency to dissolve upon reading, so that only a few hours later one can barely remember the ephemeral figures, events and things of which it spoke.”

Viết mỗi ngày
Thời Sự

2.45 chiều 12/11 tại đồn CA phường Xuân La. Luật sư Trần Vũ Hải đứng trên ban công tầng 2 nói vọng xuống sân, với hàng chục dân oan và nhà hoạt động nhân quyền: "Sáng nay họ bắt tôi trước mặt vợ tôi, con tôi, lôi tôi lên xe như một con chó, con lợn. 10 người mặc thường phục, không giấy tờ, không lệnh bắt. Tôi sẽ chờ ông Nguyễn Đức Chung để làm rõ việc này. Tôi cần họ ký vào biên bản xác nhận họ bắt giữ người trái pháp luật, làm rõ ai là người ra lệnh bắt tôi".

Bà con vỗ tay hưởng ứng. Sau đó, CA và dân phòng bắt đầu bu lại, tìm cách xua mọi người ra khỏi sân, với lý do: "Đây là trụ sở của chúng tôi, nhà riêng của chúng tôi".

Doan Trang's photo.

Note: Nhà nước Vẹm hiện nguyên hình, nhà nước của 1 lũ côn đồ. Ở ngay thủ đô của chúng, chúng muốn bắt ai là bắt.
Đây là hiện tượng giẫy chết, nhưng cho tới lúc chúng chết, là cũng còn nhiều gian khổ.
Đây cũng là đòn nhơ bửn của Vẹm, từ khi “mới ra đời”, thời kỳ 45. Bắt cóc, thủ tiêu, ám sát, sử dụng côn đồ…  khi đổ bể thì kêu là “quần chúng tự phát”.

Ui chao, như thể ông già của Gấu, trước khi bị tên học trò làm thịt, đã nhìn ra cảnh tượng hiện tại, và để lại cho đám con của ông, niềm hãnh diện, tự hào, tụi mi không phải là con của 1 tên Vẹm!
Tks. Dad!


Lữ Giang vs RFA

Bài thân hữu gửi.
Tks VBT. NQT

V/v ông Diệm bị làm thịt. Theo GCC, Diệm chết vì không chịu cho Mẽo đổ quân, và làm trái ý Mẽo, là chúng thịt.
GCC đã có kinh nghiệm vụ này, khi làm bồi Mẽo, và đã kể ra rồi, trên TV. Chúng tới xứ Mít, đầy thiện ý, biểu không nghe, là thịt.
Đây là đề tài của cuốn Người Mỹ Trầm Lặng.
Bắc Kít nắm được
tẩy Mẽo, mới phịa ra cú đầu độc tù, nhân đó, thành lập MTGP. Mẽo hoảng quá, nhảy vô, Diệm cản, thịt!

Pico, đệ tử của Greene, giải thích:
It points out that innocence and idealism can claim as many lives as the opposite, fearful cynicism.

Một tên Yankee mũi lõ tới một nơi ở hải ngoại, đầu đầy ắp những ý tưởng về dân chủ và như thế nào, anh ta sẽ dậy một nền văn hóa cũ kỹ, cổ xưa, hết thời rồi một cách bảnh hơn - thì cứ nói huỵch toẹt ra ở đây, đường lối, cách hành xử, lối sống Mẽo. Một tên Hồng Mao đợi anh ta ở đó, bảo vệ chính anh ta, trước cái ý nghĩ khùng điên ba trợn như thế, bằng cách khuyên anh ta đừng để ý đến cái gì hết. Và giữa họ là 1 em Mít thơm như Mít, sẵn sàng nghe hai anh mũi lõ khuyên bảo, và hưởng lợi được, từ cả hai 
    "Người Mẽo trầm lặng" của GG, được viết năm 1955, và đặt để ở Việt Nam, lúc đó là nơi đang xẩy ra cuộc nổi dậy của lực lượng bản xứ, chống lại chế độ thực dân thuộc địa của Pháp. Lồng vào, hoặc phủ lên, tam giác tình, là 1 tam giác, với ba đỉnh Mỹ, Âu và Á, với những nhân vật, như là những biểu tượng, những con người bình thường bị lôi cuốn vào đó với những đau thương, nhức nhối của họ. Lạ, là tính tiên tri của cuốn tiểu thuyết….
    Nhưng đó không phải là lý do tôi đọc đi đọc lại “Người Mỹ Trầm Lặng”, như nhiều cuốn khác của GG, và luôn có nó cùng với tôi, như 1 cuốn thánh kinh cá nhân. Rõ ràng là, nếu bạn lang thang trong 1 thành phố Saigon hiện đại, như tôi đã làm, bạn có thể thấy cái tam giác tình của GG diễn ra ở mọi khách sạn khác. Và nếu bạn nghĩ đến Iraq, Afghanistan, và đâu đó, elsewhere, bạn thấy đường ven của cùng 1 câu chuyện.
    Điều cuốn sách thọi tôi, sâu thẳm hơn, riêng tư hơn nhiều. Cuốn tiểu thuyết đòi hỏi mọi người trong chúng ta, muốn cái gì từ 1 nơi chốn hải ngoại, và toan tính gì với nó. Nó chỉ ra, cái ngây thơ và cái lý tưởng có thể làm thịt rất nhiều mạng người, như cái đối nghịch với nó, cái đểu cáng đáng sợ. Và nó nhắc nhở tôi rằng, thế giới thì rộng lớn nhiều so với những ý nghĩ tư tưởng của chúng ta về nó, và như thế nào, người thiếu phụ ở trong cuốn sách, cái cô Phượng, sẽ luôn luôn ở bên ngoài một vòng ôm của 1 tên mũi lõ.  Nó còn ôm trọn những mảnh miểng hiểu biết - cái nền của tôi -  Á, Anh, Mẽo – vào trong cùng thai đố.


Giấc mơ lớn của Mẽo, từ đó, cái mầm của Người Mỹ Trầm Lặng  bật ra, khi Greene, trên đường trở về Sài Gòn, sau khi qua một đêm với tướng Leroy, Hùm Xám Bến Tre, như ông viết, trong Tam thập lục kế tẩu vi thượng sách, Ways of Escape.
"Cách đây chưa đầy một năm, [Geeene viết năm 1952], tôi đã từng tháp tùng Le Roy, tham quan vương quốc sông rạch, trên chiến thuyền của ông ta. Lần này, thay vì chiến thuyền, thì là du thuyền, thay vì dàn súng máy ở hai bên mạn thuyền, thì là chiếc máy chạy dĩa nhạc, và những vũ nữ.
Bản nhạc đang chơi, là từ phim Người Thứ Ba, như để vinh danh tôi.
Tôi dùng chung phòng ngủ với một tay Mẽo, tùy viên kinh tế, chắc là CIA, [an American attached to an economic aid mission - the members were assumed by the French, probably correctly, to belong to the CIA].  Không giống Pyle, thông minh hơn, và ít ngu hơn [of less innocence]. Anh ta bốc phét, suốt trên đường từ Bến Tre về Sài Gòn, về sự cần thiết phải tìm cho ra một lực lượng thứ ba ở Việt Nam.
Cho tới lúc đó, tôi chưa bao giờ cận kề với giấc mộng lớn của Mẽo, về những áp phe ma quỉ, tại Đông phương, như là nó đã từng, tại Phi Châu.
Trong Người Mỹ Trầm Lặng, Pyle nhắc tới câu của tay ký giả York Harding – cái mà phía Đông cần, là một Lực Lượng Thứ Ba – anh ta xem có vẻ ngây thơ, nhưng thực sự đây chính là chính sách của Mẽo. Người Mẽo tìm kiếm một nhà lãnh đạo Việt Nam không tham nhũng, hoàn toàn quốc gia, an incorruptible, purely nationalist Vietnamese leader, người có thể kết hợp, unite, nhân dân Việt Nam, và tạo thành một thế đứng, một giải pháp, đối với Việt Minh CS."
Greene rất chắc chắn, về nguồn của "Người Mỹ trầm lặng":
"Như vậy, đề tài NMTL tới với tôi, trong cuộc nói chuyện trên, về 'lực lượng thứ ba', trên đường vượt đồng bằng sông Cửu Long, và từ đó, những nhân vật theo sau, tất cả, [trừ một, Granger], là từ tiềm thức bật ra."

Ways of escape


Nhân chuyện Miến Điện, Mít mong được như họ. Khó lắm. Có thể vô phương. Miền Nam đã từng có dân chủ như Miến Điện, người dân đi bầu, người họ chọn, y chang Miến Điện, còn hơn Miến Điện, bởi vì Miến Điện còn khổ dài dài với vấn đề “nội thương” tôn giáo, sắc dân. Nhìn như thế, mới ra tội ác của đám VC nằm vùng. Cái chết của VC là còn do mắc míu với Tẫu. Bởi thế mà Tẩy vẫn khoe CS Mít có gốc Tẩy. Chỉ 1 khi HCM trốn thoát sự canh chừng của Cớm Tẩy, qua Moscow, rồi ăn lương Cớm Liên Xô, theo lệnh Xì về TQ, là kể như xong.


Mít vs Lò Thiêu Người
Sách Báo

*

*

Quà Noel. Tính đi Mẽo chơi, thăm bạn, vé mắc quá, Noel mà, Gấu Cái lắc đầu, no money. Đành cầm tí tiền còm đi "sáchping".
Cuốn “microscripts” khủng lắm. Đây là 1 cách viết do Walser phịa ra. Phương pháp “vi-viết”, micro-script method
Walter Benjamin không biết tới cách viết này, khi viết về Walser.
Mới ra lò, 2012.
Từ từ, TV khoe hàng tiếp!

*


*
Note: “Ba tì”, sách cũ.
Cuốn này, chắc là trong nước chưa được đọc.
"Bóng Đêm giữa ban ngày", được, cả bản dởm, lẫn bản thực.
Tin Văn post bài viết của… Nguyên Ngọc Niên Xô, người khám phá ra Solz, mà như ông kể, đang nằm, đọc vài dòng “Một Ngày”, bèn nhỏm dậy, tắm rửa 1 phát, đi 1 bộ đồ lớn, rồi ngồi vô bàn...
Gấu đoán, NN chắc cũng làm như thế, khi phát giác Tướng Về Hưu?
Thì NN cũng là 1…  Tướng Về Hưu, suốt đời sống bằng máu của kẻ khác, và bằng thịt lợn vỗ béo bằng thai nhi!

*

Alexander Tvardovsky, chủ biên tờ Novy Mir, vào năm 1961,
chỉ ít lâu trước khi trải qua trọn một đêm không ngủ, đọc bản thảo của một tác giả vô danh
[Hình từ D.M Thomas: Solz. thế kỷ ở trong ta]

Nhưng câu chuyện của ông không phải của chỉ đơn độc một thế kỷ. Khi Alexander Tvardovsky, chủ biên tờ Novy Mir cho người vời nhà văn vô danh tới, để thảo luận về bản thảo "Một ngày trong đời Ivan Denisovich", trên đường tới gặp, Solz bèn ghé Quảng trường Strastnaya, đứng bên dưới tượng Pushkin, chơi một pô hình, một phần, mong thi sĩ phù hộ [support: hỗ trợ], một phần, hứa hẹn: Đàn em biết con đường phải đi theo. Và sẽ đếch thèm xin thuận buồm xuôi gió! [I knew the path I must follow and would not stray from it].
Một thứ cầu nguyện, theo Thomas.
Không phải theo kiểu thường nhân ghé đứng chụp hình kế bên Shakespeare, vừa tưởng niệm vừa hưởng tí vinh dự: Solz nhìn ở Pushkin như người đồng thời của mình.
Nhưng cái cử chỉ, hành động ghé tượng Pushkin đã khiến Thomas có một vision về cuốn sách mình sẽ viết. Nó làm ông nhớ đến bài thơ hách xì xằng của Pushkin, Kỵ Sĩ Đồng, 1833.
Ui chao, lạ làm sao, nó làm Gấu nhớ tượng Đức Thánh Trần và ngón tay của Người chỉ ra cửa biển Vũng Tầu!

NB. Dân trong nước đọc Một ngày trong đời Ivan Denisovitch rất nhiều là khác, hoặc bản dịch trước 1975 của Sài Gòn, hoặc bản dịch gần đây của Đào Tuấn Ảnh.
Blog NL


Thu 2015


NOVEMBER 8 [1998]

A Canadian Poet: Roo Borson

The Toronto poet Roo Borson was born in California but has lived her adult life in Canada and publishes her books there. They are not easily available in American bookstores, though she's become one of the best-known Canadian poets of her generation. She's a clear writer, clear-minded with a dark and musical imagination. I look forward to each of her books. Her latest, Intent, or The Weight of the World, is published by McClelland and Stewart in Toronto. Ask your local bookstore to order it.
Autumn
One night goes on longer than the rest, never so long,
whiled away. Then dawn.
Goodbye, insects. Hollow casings on the windowsill,
a dainty leg among the spice jars.
Goodbye, marigolds, the earth will not wait for you.
Trains hurtle by at the edge of cities,
the taste of bourbon, a mouthful of leaves.
Above everyone's dining-table a chandelier burns.
Now the luxurious old wine can be uncorked,
the slicing of meat and bread, uncorked,
and in the black panes life goes on.

And here's one, a quick notation for the end of daylight savings:
2 A.M.
2 A.M., and the clocks have been turned
one hour backwards. Summer's gone,
like rage or pleasure, the
possum we caught rolling,
drunk on garbage,
over the fence one morning,

and now the rain:
a glimpse, sometimes,
as of a second chance-
not fully fallen into sleep,
to be awakened.

Robert Hass: Now & Then

Note: Ở Canada, đồng hồ vặn ngược lại 1 tiếng, vào mùa lạnh, và họ gọi đó là "the end of daylight savings".

Nhà thơ Toronto Roo Borson sinh ở California nhưng sống cuộc đời người lớn ở Canada, và cho xb những cuốn sách của bà ở đó. Khó mà tìm thấy chúng ở nhà sách ở Mẽo, mặc dù bà được coi nhà 1 trong những nhà thơ Canada nổi tiếng của thế hệ của bà. Bà là 1 người viết trong sáng, đầu óc sáng sủa với một trí tưởng tượng âm u và nhạc điệu. Tôi thường trông ngóng sách của bà. Cuốn mới nhất, Intent or The Weight of the World, do nhà McClelland and Stewar ở Toronto, xb. Hãy hỏi những nhà sách địa phương.

Mùa Thu

Một đêm dài hơn đêm còn lại, nhưng không bao giờ quá dài
Trong lúc lang thang, lạc loài, đâu đó. Rồi thì là rạng đông
Giã biệt, côn trùng. Bao bì rỗng trên kính cửa sổ,
Một cái chân xinh xắn giữa những chai lọ gia vị.
Giã biệt, cúc vạn thọ, mặt đất sẽ chẳng đợi mi đâu
Những chuyến xe lửa rít lên ầm ầm ở mép bìa những thành phố
Một vị bourbon, một miệng đầy lá
Trên mặt bàn ăn của mọi nhà, một ngọn đèn chùm tỏa sáng
Lúc này, một chai rượu chát sang trọng, có tuổi, được khui
Những lát thịt, lát bánh được cắt
Trong những vuông vải đen thui, đời cứ thế tiếp tục.

2 giờ sáng

Hai giờ sáng. Vặn đồng hồ ngược lại
Một giờ. Mùa hè kể như đi đứt
Như cơn điên giận, hay niềm hoan lạc
Con chồn chúng ta bắt gặp, cuộn tròn,
Say mèm, nơi thùng rác, hàng rậu, vào buổi sáng

Và bây giờ, thì là mưa:
Thoáng 1 phát, đôi khi,
Như cơ may thứ nhì -
Chưa hoàn toàn bị giấc ngủ đánh gục
Bèn thức dậy.

[Thì để hửi mưa, chứ làm gì nữa,
Cái gì gì, vai em tròn dưới mưa
Ướt bao nhiêu cũng vừa]
    *

Dregs
This afternoon it rains, as never before; and I don't
want to live, heart.

This afternoon's sweet. Why shouldn't it be?
Dressed in grace and grief; dressed like a woman.

This afternoon in Lima, it rains. And I remember
the cruel caverns of my ingratitude;
my block of ice upon her poppy
stronger than her "Don't be this way!"

My violent black flowers; and the barbaric,
atrocious stoning; and the glacial space.
And with scalding oils, the silence
of her dignity will make the final point.

So this afternoon, as never before, I go
with this owl, this heart.

And other women pass by; and seeing me so sad,
they take a little bit of you
from the steep furrow of my profound sorrow.

This afternoon it rains, it pours. And I don't
want to live, heart!

Black Stone on White Stone

I will die in Paris on a rainy day:
on a day I can already remember.
I will die in Paris-and I don't rnind-
perhaps on a Thursday in autumn, like today.

It will be a Thursday, because today, Thursday, as I write
these lines, the bones in my arms ache badly,
and never before, in all my road, have I felt
myself as lonely as I do today

Cesar Vallejo is dead, everyone kept hitting him,
even though he had done nothing to them.
They hit him hard with a stick, and hard

also with a rope; his witnesses
are the Thursday and the bones of his arms,
the loneliness, the rain, the roads ...
 
Note: Bài thơ thứ nhì, là từ bài viết về nhà thơ Peru César Vallejo, của Robert Hass, do chính Hass dịch, trong Now & Then.
Cuốn thơ, second hand, GCC mua, vì bài viết tuyệt vời của Robert Hass.
Không xin 1 tí Paris, mà xin được chết ở đó, và được thật, như Robert Hass viết:

The poem was published in a posthumous collection of his poems, Poemas Humanos, in 1939. One of the haunting things about it is that he did die in Paris. His life had not been easy. He grew up in an Andean village outside of Lima and went to the university in the capital, where he was jailed for his political activities. He left Lima for Paris in I923, where he lived in poverty and practiced his art. He was intensely moved and engaged by the Spanish Civil War and threw himself into the defense of the Spanish republic with furious energy, often carrying messages and money back and forth from Paris to Barcelona. It's thought that this wore him down. In any case, he died of a fever of unknown origin, perhaps the recurrence of a childhood illness, in Paris in I937.

Le philosophe André Glucksmann est mort

André Glucksmann, thuộc trào lưu "triết học mới", trong những năm 1970; tác giả cuốn "La Cuisinière et le mangeur d’hommes, Essai sur l'État, le marxisme, et les camps de concentration" ("Bếp ăn và kẻ ăn thịt người, Luận về Nhà nước, chủ nghĩa Marx, và những trại tập trung", nhà xb Seuil, 1975). Ông còn là một trong những thành viên của Ủy Ban kêu gọi "Một Chiếc Tầu Cho Việt Nam", thời gian 1979, gồm Jean-Paul Sartre, André Glucksmann, Raymon Aron, và một số thành viên khác như Bernard Kouchner, người sáng lập tổ chức "Y Sĩ Không Biên Giới".
Le philosophe est décédé à Paris dans la nuit de lundi à mardi. Il avait 78 ans.
http://tempsreel.nouvelobs.com/societe/20151110.OBS9190/le-philosophe-andre-glucksmann-est-mort.html

Assistant de Raymond Aron à la Sorbonne, il participe aux événements de mai 1968 et publie ses premiers ouvrages consacrés à la géopolitique - "Le Discours de la Guerre" (L'Herne, 1967), "Stratégie et Révolution en France" (1968). Il porte le courant maoïste pendant les années 1970 avant de rompre avec le marxisme en 1975 après avoir lu "L'Archipel du goulag" de Soljenistyne. Vient alors "La Cuisinière et le mangeur d’homme" (Seuil, 1975) qui se vend à des dizaines de milliers d'exemplaires.

Classé parmi les "nouveaux philosophes", il devient un visage connu du grand public et plaide auprès de Valérie Giscard d'Estaing pour la cause des "boat people" en 1979.

bateau victim

1979: Ba triết gia Jean-Paul Sartre, André Glucksmann, và Raymon Aron trong cuộc họp báo "Một con tầu cho Việt Nam" [Un bateau pour le Viêtnam].
[Hình từ báo Văn Học Pháp, Magazine Littéraire, số đặc biệt 1966-1996: La passion des idées, đam mê tư tưởng.]

30.4.2005

Ba mươi năm sau, những nhà tân triết gia, còn lại gì?

*

26 Tháng sáu,1979: Một Con Tầu Cho Việt Nam.
Vô Elysée xin xỏ. OK. Trở ra.


* *

Foreword: A Mix of Silk and Iron

Liu Xia's poems are inevitably lyrical and inescapably documentary. They take her real life and put it on poetic record. Their sentences oppress, their images are both matter-of-fact and full of despair:

When the show is over,
I stay on stage with myself:
one of me is tearful
the other laughing loudly.

Or: "I've been looted."
Or: "My mind is filled with straw."
Or: "You love your wife and are proud she stays with you."

    Of course, we realize this woman is the wife of Liu Xiaobo, the Nobel laureate from China and that country's most famous political prisoner, now in his fifth year of his eleven-year sentence. His crime: the Charter 08 manifesto, which far from making aggressive demands offered measured, even cautious suggestions for converting China's communist, one-party system into a free and humane society. For that, he was given eleven years of prison, and his wife is subjected to constant surveillance, house arrest, isolation. Day in and day out she is unable to take a single step that goes unwatched. And this is the
merciless substance of these poems, their point of departure.
    Meanwhile, the regime is not content to torment Liu Xia alone for her husband's outspokenness, but has extended its retribution to other family members. To unsettle her further, they have arrested Liu Xia's brother on a ridiculously trumped-up charge. Despotism plain and simple.
I    n her poem "Snow," the author evokes her brother's birthday. I freeze on the inside when I read the sentence:

it must be hard to be my brother.

    Out of this pain come the pangs of conscience, the creeping guilt, simply because nothing can be done about the groundless punishment this big state is inflicting on this small brother, this "little
brother" who was born on the "Day of Great Snow." Simple contrasts on a steep poetic slope. Clear in their helplessness, lapidary but still tender. A quiet imploring is also a loud clamor. Liu Xia's poems are a mix of silk and iron. Because while iron political despotism rules outside, intimacy with all its hardships reigns within, the enigma of strong emotion.
    Over and over we read about time, "the ladder of time."
    Or: "Death from twenty years ago returns- / it comes and goes
like time."
    Here in these poems, time is exactly what it is in the everyday life of the author: stolen by the state. No matter how many details we examine, the longer we look at the particulars, we cannot escape the horrifying insight: the full length of stolen time is nothing less than stolen life.
    Liu Xia's poetry is about self-assertion in a stolen life. Her poems possess a dignity that always manages to arise anew whenever it is battered down.

HERTA MULLER

Translated from the German by Philip Boehm

Cần Cô Đơn by CHK

It is only when a child is alone that he starts to become an adult, and it is only when a person is alone that he can achieve maturity. Loneliness is essential for adults. It encourages independence, and needless to say, the ability to endure loneliness is indispensable for strengthening character within social situations.


thoi_su/2013_Nobel_Waiting.html

Note: Bài trên, đầu tháng, "top 10".

Sở dĩ Gấu được NMG mời viết cho Văn Học, trả nhuận bút, tháng tháng, một trăm đô Mẽo một đường Tạp Ghi, là vì "Người" có lần gật gù xoa đầu Gấu, ông "được" lắm, chưa từng bao giờ gọi đám trong nước là "văn nô"!
Đám nhà văn VC mừng là vậy. “Nhân loại” vẫn còn cần đến chúng ta. Hãy viết sao, làm bật ra nỗi đau của dân Mít, là OK.
Trong những lời khen Mạc Ngôn, Gấu mê nhất của Updike, trong bài “Tre Đắng”.
Đúng là tri kỷ của Mạc Ngôn và của cái phần nhân loại Á Châu đời đời bị Cái Ác Á Châu hành hạ, dọc theo suốt lịch sử. Cả hai thế giới, cũ, và thế kỷ 20, thì đều là những hắc điếm, nhà thổ, của làm thịt người, tra tấn, đói khát, và - đối với tập thể dân quê, lao động quá độ, quá sức con người, thật là dã man, tàn bạo. Cả hai loại nhân vật được đưa vô tiểu thuyết thì đều là những con người yếu ớt, không trưởng thành nổi. Tuy nhiên, không giống như ba thứ nhân vật can đảm hơn, dấn thân hơn, ở trong những cuốn biên niên giả tưởng, họ sống sót để kể ra những câu chuyện của họ. Sự yếu đuối của họ, tự buông xuôi, và chất thơ ca tự nhiên mà cả hai đều có thể có được, thì bèn dõng dạc nói "Không" với những xã hội đã làm cho cuộc sống trên trái đất trở thành địa ngục.
Những xã hội tồi tệ không khuyến khích con người trưởng thành, làm người.

Lần theo link, Sến phán về Mạc Ngôn:

Lời biện bạch cho vinh quang

*

Liu Xia, wife of 2010 Nobel Peace Prize winner Liu Xiaobo, reacts emotionally to an unexpected visit by journalists from The Associated Press at her home in Beijing, China, on Thursday, Dec. 6, 2012. Liu trembled uncontrollably and cried Thursday as she described how her confinement under house arrest has been absurd and emotionally draining in the two years since her jailed activist husband was named a Nobel Peace laureate. Photo: Ng Han Guan / AP

 
“We live in such an absurd place. It is so absurd. I felt I was a person emotionally prepared to respond to the consequences of Liu Xiaobo winning the prize. But after he won the prize, I really never imagined that after he won, I would not be able to leave my home. This is too absurd. I think Kafka could not have written anything more absurd and unbelievable than this.”

"Chúng tôi sống ở 1 nơi cực phi lý. Quá phi lý. Tôi cảm thấy mình là 1 con người được sửa soạn, về mặt cảm xúc, đáp ứng với những hậu quả việc chồng tôi được Nobel. Nhưng sau khi ông được Nobel, tôi thực sự không thể nào tưởng tượng tôi không thể rời căn nhà của mình. Điều này quá phi lý. Tôi nghĩ Kafka cũng chẳng thể viết 1 cái gì phi lý, không thể tin được như là điều này"

Note: Nhìn bức hình thì GCC lại nhớ đến Gấu Cái, lần đi thăm nuôi ở Đỗ Hòa.
Do bặt tin nhà, nhớ nhà quá, hoảng quá, Gấu Già bèn vượt Trại, và, tất nhiên, bị tóm, bị tống vô Tổ Trừng Giới, ăn cơm hẩm với thịt cọp, bị phù thũng.

Gấu Cái, sau khi lo cho thằng lớn ra khỏi khám Chí Hòa - vượt biên, thế chố Gấu, bị tóm vô Bình Triệu, khi ghé Thủ Thiêm - đi thăm chồng lần đầu, vừa nhìn thấy thằng chồng cà chớn, thấy mập mạp, tính cười, nhưng chợt hiểu ra, bèn méo xệch, y chang bà Liu Xia, hình trên!

Hà, hà!

It is only when a child is alone that he starts to become an adult, and it is only when a person is alone that he can achieve maturity. Loneliness is essential for adults. It encourages independence, and needless to say, the ability to endure loneliness is indispensable for strengthening character within social situations.

Chỉ một khi đứa trẻ cô đơn thì nó mới bắt đầu trở thành người lớn, và chỉ một khi 1 con người cô đơn thì nó mới có thể hoàn tất cái trưởng thành. Cô đơn là cần thiết cho những kẻ trưởng thành. Nó khuyến khích sự tự chủ, độc lập, và khỏi cần nói, cô đơn là không thể thiếu, để làm mạnh mẽ, dẻo dai nghị lực, trong những hoàn cảnh xã hội.


Ui chao, đọc thì bèn nhớ tới bài này, của 1 vị độc giả thân hữu. 

Re: Kierkegaard

Friday, November 20, 2009 4:27 AM
Bai nay tuyet qua di, toi thich lam... trong bai nay co kho^i tu tuong de khai thac va viet rat hay...
Tac gia Rolheiser thi sa^u sa+c qua mu+c sau sa+c!

Gởi bác Gấu bài Cultivating Loneliness nhé... người phàm tục như tôi phải chờ tan vỡ “mộng” mới quý cô đơn. Người thấy xa, thấy sâu như Kierkegaard thì quý cô đơn ngay từ đầu đời.

Viết đàng hoàng đi...
Độc giả TV

Tks. NQT
*
Nuôi dưỡng tâm hồn cô tịch

18-06-2006

Trong những thế kỷ gần đây, ít ai chạm đến cõi lòng con người một cách sâu xa như triết gia Đan-mạch, Soren Kierkegaard. Có nhiều lý do, một số rõ nét và một số không rõ nét. Rất nhiều người công nhận Kierkegaard là một người thông minh hiếm có.
Tuy nhiên lý do chính Kierkegaard có thể chạm đến cõi lòng chúng ta một cách sâu xa và khác thường có lẽ không phải do trí thông minh của ông mà do nỗi đau khổ của chính ông, đặc biệt là nỗi cô đơn. Albert Camus đã từng nói rằng chỉ trong cô độc cô đơn chúng ta mới tìm được mối dây ràng buộc chúng ta lại với nhau trong cộng đoàn. Kierkegaard thấu hiểu điều này và ông đã đi đến tận cùng tâm điểm của nó nên ông nuôi dưỡng một cách tích cực nỗi cô đơn của mình
Khi còn trẻ, ông cũng đã rơi vào lưới tình sâu đậm và, cũng đã có lúc ông dự định kết hôn với một người phụ nữ mà ông yêu say đắm. Tuy nhiên đến một lúc, khi cái giá cảm xúc đối với bản thân mình quá lớn và - (như câu chuyện đời ông đã hé cho thấy) – cái giá cảm xúc đó đối với người phụ nữ kia còn lớn hơn, ông đành từ hôn và quyết định sống độc thân quãng đời còn lại của mình. Lý do của ông là gì?      
Ông cho rằng những gì ông phải cống hiến cho cuộc đời xuất phát nhiều từ nỗi cô đơn của chính mình, và ông chỉ có thể chia sẻ sâu đậm nỗi cô đơn với những người trong cô đơn khi ông cảm nhận được nỗi cô đơn đó. Ông trực cảm, cô đơn sẽ cho ông chiều sâu. Dù quan niệm này có thể đúng hay sai, nhưng ông cho rằng hôn nhân ở phương diện nào đó có thể làm ông chệch hướng hay sao nhãng khỏi chiều sâu đó, dù chiều sâu đó làm cho ông đau khổ.      
Tôi ngờ nhiều người trong chúng ta sẽ cười lập luận của ông. Hôn nhân thì khó là thần dược để trị bệnh cô đơn, và một mình nó, nỗi cô đơn không bảo đảm làm cho tâm hồn có một chiều sâu. Cũng thế, nhiều người trong chúng ta sẽ phê phán điều tưởng chừng là ngụ ý của chuyện này, rằng cách nào đó, về mặt nội tâm, đời sống độc thân cao hơn đời sống hôn nhân, như thể đời sống hôn nhân là chướng ngại cho chiều sâu tâm hồn.      
Tuy nhiên, có một phần nào đó trong tâm hồn chúng ta, trọng tâm huyền bí của chúng ta, mà, tôi ngờ, sẽ hiểu rõ tại sao Kierkegaard làm điều này. Điều Kiergaard hiểu - dĩ nhiên là không hoàn hảo, vì – điều này luôn luôn có phần huyền bí nào đó, - là nối kết giữa nỗi cô đơn và điều huyền bí, nỗi khát khao và tính mật thiết, tình chăn gối.      
Điều này có nghĩa là gì? Bằng cách nào chúng ta nối kết với người khác trong cô đơn, khao khát? Việc chúng ta được nối kết một cách huyền bí với nhau có nghĩa là gì?        
Thánh Tô-ma A-qui-nô đã gợi ý có hai con đường để hợp nhất với một điều gì đó hay một ai, đó là: qua chiếm hữu thực thụ và qua ao ước. Chiếm hữu thực thụ thì dễ hiểu, là tiếp xúc cụ thể, hợp nhất thực sự, nhưng làm sao chúng ta nối kết được với ai hay điều gì qua ao ước?        
Trong cuốn tiểu thuyết đoạt giải Booker, Con đường đói khổ cùng cực (The Famished Road), nhà văn Ben Okri tả một người mẹ Ni-giê-ri-a mắng mỏ đứa con trai quá bất an đã ám ảnh trong giấc mơ của bà: “Bước ra khỏi giấc mơ của mẹ! Đó không phải là chỗ của con! Mẹ đã lấy ba rồi!” Thật là một lời la mắng lạ lùng - rầy la người khác vì họ xuất hiện trong giấc mơ của mình! Nhưng con người huyền bí trong chúng ta hiểu điều này. Trong nỗi bất an và cô đơn, cũng như trong lời cầu nguyện cho nhau, chúng ta thường ám ảnh giấc mơ và tâm trí người khác một cách cũng sâu đậm như khi tiếp xúc qua thân xác.
Hơn thế nữa, khi thấu hiểu nỗi cô đơn của mình, chúng ta sẽ thấu hiểu giấc mơ của người khác. Kierkegaard hiểu điều này và lo ngại rằng nếu hôn nhân gây trở ngại cho nỗi cô đơn của ông thì cũng sẽ gây trở ngại cho khả năng ông đi vào giấc mơ của chúng ta. Dù lập luận của Kierkegaard có thể thiếu sót, chúng ta cũng không thể cãi lẽ với kết quả. Ông thật sự đã đi vào giấc mơ chúng ta và tiếp tục ám ảnh mạnh mẽ tâm thức nhiều người. Lời của ông đã giúp chữa lành, mang lại sức mạnh, đức tin và can đảm cho nhiều người.
Tại sao? Một phần vì nó có tính cách huyền bí và chúng ta cảm nhận nó bằng – trái tim nhiều hơn là bằng trí óc. Có thể hiểu được điều này, dù chỉ một phần: Nỗi cô đơn của chúng ta là phương tiện đặc ân, để qua đó chúng ta đi vào trái tim mình. Lắng nghe nỗi cô đơn của chính mình là cách để chúng ta tiếp xúc tiếp xúc với chính mình. Như cha Henri Noiwen nói, khi thấu hiểu được nỗi khát khao của chúng ta mà ta nhận thấy thì chẳng còn điều gì xa lạ với chúng ta (tầm cao cả, vĩ đại, lòng tham, lòng quảng đại, hụt hẫng, niềm vui, khả năng sát hại, khả năng chết cho người khác, tính ích kỷ, lòng thánh thiện.) Mọi cảm xúc và tiềm năng của con người nằm trong trái tim phức tạp đầy khiếm khuyết của chúng ta. Trong nỗi cô đơn và khao khát, chúng ta bắt đầu nhìn thấy chính mình.
Và khi thấm nhập sâu xa với chính mình thì chúng ta mới thấm nhập được vào người khác. Khi để nỗi cô đơn của chính mình ám ảnh mình thì khi đó chúng ta mới bắt đầu, trong ý nghĩa đẹp nhất của câu này, ám ảnh giấc mơ của nhau. Trong cô đơn và khát khao, lòng cảm thông được sinh ra. Khi không có điều gì xa lạ với mình, thì lúc đó cũng chẳng có ai là xa lạ với mình và lời nói chúng ta sẽ bắt đầu có sức mạnh chữa lành người khác.
Khi được hỏi: “Thi sĩ là ai?” Kierkegaard trả lời: “Thi sĩ là người bất hạnh, người giấu nỗi đau khổ sâu xa trong tâm hồn, nhưng đôi môi được tạo ra để làm sao khi cất lên lời than van hay kêu thét, nó nghe như một bản nhạc hay.”
Cô đơn là những gì làm cho chúng ta trở thành thi sĩ, nhà huyền bí, nghệ sĩ, triết gia, nhạc sĩ, người chữa lành, người thánh thiện.


Thu Bắc Việt

    Thơ Mỗi Ngày

*

THE POEM THAT TOOK THE PLACE OF A MOUNTAIN
There it was, word for word,
The poem that took the place of a mountain.

He breathed its oxygen,
Even when the book lay turned in the dust of his table.

It reminded him how he had needed
A place to go to in his own direction,

How he had recomposed the pines,
Shifted the rocks and picked his way among clouds,

For the outlook that would be right,
Where he would be complete in an unexplained completion:

The exact rock where his inexactnesses
Would discover, at last, the view toward which they had edged,

Where he could lie and, gazing down at the sea,
Recognize his unique and solitary home.
Bài thơ chiếm trái núi

[Dịch] theo kiểu dùi đục chấm mắm cáy, “mô tà mô” [mot-à-mot, word for word]
Thì đúng là, bài thơ đá đít trái núi, và chiếm chỗ của nó.

Nó thở không khí của trái núi
Ngay cả khi cuốn sách ở trên bàn biến thành bụi

Nó nhắc nhở, bài thơ cần, ra làm sao, như thế nào
Một nơi chốn để đi, theo cái hướng của riêng nó

Như thế nào, nó tái cấu trúc những ngọn thông
Bầy biện lại những hòn đá, và kiếm ra con đường đi của nó, giữa những đám mây

Viễn cảnh mà nói, thì OK
Một khi mà nó hoàn thiện, trong cái hoàn thiện không thể nào giải thích được

Đúng cục đá, khi cái không đúng của nó
Sẽ khám phá, vào lúc sau cùng, cái nhìn mà theo đó, chúng xen vô

Nơi nó sẽ nằm, và nhìn xuống biển
Nhận ra căn nhà độc nhất, cô đơn của nó.

Note: Bài thơ thần sầu, tuyệt cú mèo.
Gấu dịch hơi bị nhảm, nhưng "có còn hơn không", hà, hà!


Zbigniew Herbert

A TALE

The poet imitates the voices of birds
he cranes his long neck
his protruding Adam's apple
is like a clumsy finger on a wing of melody 

when singing he deeply believes
that he advances the sunrise
the warmth of his song depends on this
as does the purity of his high notes 

the poet imitates the sleep of stones
his head withdrawn into his shoulders
he is like a piece of sculpture
breathing rarely and painfully

when asleep he believes that he alone
will penetrate the mystery of existence
and take without the help of theologians
eternity into his avid mouth 

what would the world be
were it not filled with
the incessant bustling of the poet
among the birds and stones

Zbigniew Herbert

 

Một câu chuyện

Thi sĩ bắt chước tiếng chim
anh ta dướn cái cổ dài
trái táo Adam lồi hẳn lên
như 1 ngón tay vụng về trên cánh giai điệu

khi hát, anh thực tin
anh đi trước mặt trời mọc
bài ca ấm áp là nhờ vậy
cũng nhờ vậy, sự tinh khiết của những nốt nhạc cao

thi sĩ bắt chước giấc ngủ của những hòn đá
cái đầu của anh ta tụt vô vai
trông anh chẳng khác chi một mẩu điêu khắc
thở, hiếm hoi và đau đớn làm sao

khi ngủ, anh ta nghĩ chỉ mình anh ta
nhập vô được sự bí mật của hiện hữu
và đợp được vĩnh cửu vào trong
cái miệng thèm thuồng của mình
đếch cần sự trợ giúp của mấy đấng thần học

thế giới sẽ ra làm sao
nếu không được làm đầy bằng những tiếng lèm bèm
không ngừng của thi sĩ Gấu Cà Chớn

Pico Iyer

Greene provided surprising support for colonialism, suggesting the relativity of his political beliefs. Elsewhere he wrote: 'the writer should always be ready to change sides at the drop of a hat. He stands for the victims, and the victims change? (1) In an article for Paris Match he took a more Olympian view:

    It is a stern and sad outlook and, when everything is considered, it represents for France the end of an empire. The United States is exaggeratedly distrustful of empires, but we Europeans retain the memory of what we owe to Rome, just as         Latin America knows what it owes to Spain. When the hour of evacuation sounds there will be many Vietnamese who will regret the loss of the language which put them in contact with the art and faith of the West. The injustices committed by     men who were harassed, exhausted and ignorant will be forgotten and the names of a good number of Frenchmen, priests, soldiers and administrators, will remain engraved in the memory of the Vietnamese: a fort, a road intersection, a                 dilapidated church. 'Do you remember,' someone will say, 'the days before the Legions left?'

    Speaking of Pyle, Fowler says: 'What's the good? he'll always be innocent, you can't blame the innocent, they are always guiltless. All you can do is control them or eliminate them. Innocence is a kind of insanity.'?" There is a fearful price to pay for Pyle's righteous innocence, an innocence linked with power, the power of America. In Greene's view, the innocent do harm to the innocent: 'Is there any solution here the West can offer?' he wrote in his Indo-China diary, and added, 'the bar tonight was loud with innocent American voices, and that was the worst disquiet'.

Norman Sherry: The Life of Graham Greene Volume 2: 1939-1955. Chương: Chằng ai ở giữa được. No Man is Neutral

(1) The Portable Graham Greene, ed Stradfort p. 609. [Ghi chú của Norman Sherry]

Nhà văn nên sẵn sàng đổi bên khi nón tai bèo, cái cờ MTGP bị dục xuống bùn.
Phạm Quỳnh, ngay cả khi bị Vẹm làm thịt, vẫn tin rằng xứ Mít rất cần thằng Tẩy mũi lõ, như GG, ở đây, ca ngợi Tẩy.
Trở lại huyền thoại “cục gạch hồng” của “Bác” người ta kể lại một câu chuyện “tếu” như sau:

“Một phái đoàn Hà Nội được thành lập, lên đường đi Paris, quyết tâm cao tìm cục gạch. Đến Pháp, họ tới ngõ làm bánh mì ngày xưa, thăm hỏi, lục lọi nhiều nơi, nhiều ngày, nhưng không ai nghe nói đến cục gạch của 'Bác.' Cuối cùng họ gặp một bà đầm đầu tóc bạc, móm mém ở một góc phố. Kiên nhẫn, nhân viên trong phái đoàn lập lại những câu hỏi về cục gạch.
-Các ông nói là các ông đi tìm cục gạch để sưởi ấm những đêm Đông tại nhà trọ, ngõ này của ông Nguyễn?
-Vâng ạ, chúng cháu đang tìm cục gạch đó ạ.
-Thế thì: Cục gạch, mà các ông đang đi tìm chính là... tôi đây!

Chuyện cục gạch của 'Bác Hồ'
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=217158&zoneid=97
Tạp ghi Huy Phương

Note: Ông số 2, Trùm bộ lạc Cờ Lăng, thì thuổng thơ của ông số 1

Bi giờ ông vua viết Tạp Ghi của hải ngoại, 1 cây viết chủ lực của tờ Người Vịt, thuổng TV!

 Nhân viết về ông Hồ thời kỳ đói rét ở Paris ngày nào, Gấu sực nghĩ đến huyền thoại về viên gạch đã từng mang lại chút ấm áp cho Bác.
Tình cờ , và thú vị làm sao, Gấu được đọc một mẩu chát trên một diễn đàn, liên quan với vụ việc này. Xin post lại, có bỏ đi một số chi tiết cá nhân.
-Bạn... ơi, bạn sang Pháp lâu chưa, hay bạn đang ở nước nào thế? Mình chưa được đến thăm nhà Bác Hồ ở Paris, nhưng cô giáo tiếng Pháp của mình bảo rằng tên phố Bác ở ngày xưa là Compoint cơ, thế có đúng không hả bạn.
-Thế bạn TT có biết sự tích viên gạch sưởi ở ngõ Công - Poăng không? Hay cực!
-Mình chỉ biết Bác Hồ dùng gạch để sưởi ấm mùa đông thôi, mình không biết sự tích hòn gạch ấy thế nào bạn ạ. Bạn có thể kể cho mình được không?
 -Khéo bác...  lại kể chuyện bác mang hòn gạch lấy từ cái lò gạch sinh ra Chí Phèo sang Pháp cũng nên
-Ừ, vậy tớ kể chuyện viên gạch ngõ Công Poăng cho  các bạn nghe nhá.

Đầu những năm 70' của thế kỷ XX, sau khi Người đã qua đời được vài năm, một tổ công tác chính trị được thành lập. Đa số các thành viên của tổ là các khoa học gia về bảo tồn, bảo tàng, lịch sử và khảo cổ học. Đó là tiền thân của Bảo tàng HCM sau này.
Nhiệm vụ của tổ công tác là đi khắp đất nước, và một số địa điểm ngoại quốc để sưu tầm tư liệu, vật dụng hàng ngày... của Người trong thời gian Người bôn ba hải ngoại để tìm đường cứu nước. Một nhóm công tác đặc biệt được cử sang Pháp cũng không ngoài mục đích đó.
Một nhiệm vụ cụ thể của nhóm công tác là tìm hiểu về sự thực chuyện viên gạch Người dùng để sưởi ấm mùa đông khi Người đang là anh thanh niên 25 tuổi đẹp trai nhưng nghèo khổ ở Paris, sống ở nhà số 9 ngõ Công Poăng. Nhà số 9 Công Poăng tầng dưới là quán cà phê, tầng trên Người thuê ở, người làm nghề rửa ảnh. Phòng kê vừa một cái giường, hai cái ghế một cái bàn con.
Nhóm công tác đã phỏng vấn nhiều người dân sống trong khu vực này cùng thời với sự kiện viên gạch, và kết quả là không có người dân nào biết về sự kiện này.
Đến ngày cuối cùng trong thời gian làm việc. Nhóm công tác tình cờ gặp một bà cụ già 70-80 tuổi nhăn nheo móm mém nhưng vẫn còn giữ lại một chút nhan sắc thời trẻ sống tại nhà số 11 ngõ Công Poăng. Khi được hỏi về sự kiện viên gạch Người dùng sưởi ấm trong mùa đông giá rét ở Paris, bà cụ già công nhận là có biết chuyện này. Nhóm công tác mừng rỡ và đề nghị bà cụ giúp đỡ để tìm lại viên gạch để mang về Việt Nam, bà cụ gật đầu mỉm cười duyên dáng và nói:
- "Viên gạch đó chính là tôi đây!"

Thảo Trường, hồi chưa đi xa, mê giai thoại lắm, anh mail, hỏi thăm bà đầm, Gấu trả lời, chắc là biệt kích của Vẹm làm thịt rồi!
Gốc gác của giai thoại này, là từ 1 website ở trong nước. Do Gấu chôm về Tin Văn, bài gốc bèn bị delete, cái tay moderator bị bay chức, không hiểu có còn bị gì thêm không.
Bữa trước GCC có lèm bèm về đấng này, viết bất cứ cái gì, là bèn giở giọng đạo đức, và quái làm sao, làm Gấu nhớ tới Primo Levi, nhưng rõ ra là, 1 thật, 1 giả.
Tếu thế!

Thì cũng cùng giọng ông số 2.

Writing is, in the end, that oddest of anomalies: an intimate letter to a stranger.”
Viết, quái nhất trong những quái: Lá thư riêng tư cho... một kẻ lạ, người dưng, nước lã!

― Pico Iyer

“Perhaps the greatest danger of our global community is that the person in LA thinks he knows Cambodia because he's seen The Killing Fields on-screen, and the newcomer from Cambodia thinks he knows LA because he's seen City of Angels on video.”
Cái nguy hiểm nhất của cộng động toàn cầu, là, ngồi ở LA phán, tớ biết Cam bốt, vì mới xem phim “Cánh đồng giết người”. Và 1 tên Cam bốt mới nhập Mẽo phán, tớ biết LA, vì mới coi video “Thành phố của những thiên thần”

― Pico Iyer (1)

“Ông số 2”, ngồi ở Quận Cam, chẳng đã ngậm ngùi phán, Sài Gòn có người chết đói, ngay bên hông Chợ Bến Thành!

(a)

Hình ảnh 1 người chết đói ở hông Chợ Bến Thành, GCC đọc trong bài viết của ông số 2, khi vừa mới ra hải ngoại.
Thế là nhớ hoài.  

Trên Tin Văn còn 1 giai thoại về Bác Hồ, và cái này thì hoàn toàn của Gấu.
Hồi ở công trường cải tạo Đỗ Hòa, Nhà Bè, Gấu thoát chết nhờ mua được cái chân Y Tế Đội, chuyện này kể rồi. Nhưng để sống, có tí văn nghệ thoải mái, thì là nhờ tài quay phim [kể chuyện chưởng, chuyện tiếu lâm]. Tiếng đồn đến tay mấy đấng TNXP chức sắc nông trường. Thế là 1 bữa mấy ảnh nhậu, cho người kêu Gấu. Gấu ra điều kiện, kể thì kể, nhưng đừng bắt tội, nhe. OK.
Cái chuyện tiếu lâm này, cũng đã từng kể trên TV, thực sự, là từ 1 phim ngoại quốc, Gấu coi từ hồi nào, trong có 1 nhân vật, thù ông bố quá, và anh ta, làm nghề sửa xe hơi, cứ mỗi lần cầm cái búa gõ lên cái xe bị đụng méo mó, là bèn nghĩ, đang gõ lên đầu ông già mình!
Có 1 đội banh Miền Bắc, thi đấu trận nào thắng trận đó, và đám phóng viên mới hỏi ông bầu, sao hay vậy. Ông bầu bèn trả lời, mỗi lần ra quân là tôi kêu cả đám tới, dặn, chỉ 1 câu.
Câu gì mà ghê vậy?
Tụi mi mỗi lần đá trái banh, thì cứ tưởng tượng, đó là đầu Bác Hồ!
Chuyện này, thì cũng giống chuyện, giả như hồi đó đó, Bác làm bồi tầu, rửa chén không sạch, bị đại bàng đánh chết, như cháu ngoan Bác Hồ, Đỗ Đăng Dư, thì thật đỡ khổ cho dân Mít, của NLT

Lướt Tin Văn
Nơi cuộc chiến bắt đầu

*

Xác Đại Dâm Tăng Rasputin

Trong lời mở ra cuốn tiểu sử Solzhenitsyn, D.M. Thomas nhớ lại cảnh tượng, ngồi uống vodka với một tay mật vụ, cựu đại tá KGB, đã về hưu, và được nhà nước ban cho nhiệm vụ 'đánh bóng' hình ảnh đất mẹ, ở hải ngoại.
Cả hai ngồi tại khách sạn Helsinki, nhìn ra biển đóng băng phía bên ngoài. Khi được hỏi, ông nghĩ sao về một hình ảnh mở ra cuộc cách mạng Nga.

"Hình ảnh nào ư?", ông ta gật gù, nhìn ra Vịnh Phần Lan.

Vài tuần trước đó, con tầu phà Estonia đã chìm ở ngoài đó, đem theo cùng với nó hàng ngàn người. "Crắc" một cách, rồi cứ thế chìm xuống, nhẹ nhàng, êm ru bà rù. Cả hai cùng đồng ý, đó là hình ảnh tuyệt vời, để diễn tả sự tận cùng của Chủ Nghĩa Cộng Sản.

Nhưng hình ảnh khởi đầu?

Sự cứu rỗi cuối cùng

Hình ảnh mở ra Cách Mạng Nga là cái chết của Rasputin, qua bình chọn của tay cựu mật vụ KGB. (1)

Hình ảnh mở ra Cuộc Cách Mạng Mùa Thu, của dân Mít, có lần Gấu đề nghị, là cái chết của Đỗ Đức Phin, dưới tay nhà thơ, nhạc sĩ, kiêm đao phủ thủ Văn Cao.
Và Thiên Thai bặt tiếng kể từ sau đó.

****

Vẫn là nó. Nhưng không phải là nó!”

Câu trên là của ông Tổng Giám Đốc Bưu Điện - và còn là một trong những ông Thầy dạy Gấu, khi học trường Quốc Gia Bưu Điện - phán về sếp trực tiếp của GCC, sau khi ông ra khỏi bịnh viện và trở về Bưu Điện làm việc lại.
Ông bị mất khẩu súng, trong vụ mìn Mỹ Cảnh, GCC đã lèm bèm nhiều lần rồi.

Sở dĩ nhắc lại, là vì trong cái “memoir” viết về cuộc vây hãm Sarajevo, có 1 anh chàng phóng viên, trở về lại Berlin, trở về lại căn phòng của mình, và, xỏ vô quần, và, cái quần tuột ra khỏi anh ta.

Thoạt đầu, anh ta nghĩ, đếch phải quần của mình, nhưng nhìn lại thì đúng là quần của mình. Và anh ngộ ra, mình thì vẫn là mình, đếch mất cái chó gì cả - tất nhiên, súng vưỡn còn – nhưng, một cách nào đó, về thể chất lẫn tinh thần, anh ta đếch còn như xưa!

Đúng là tình cảnh của Gấu. Sau cú Mỹ Cảnh, tuy súng ống còn nguyên, nhưng có 1 cái gì đã mất đi, theo nó.

2015 Nobel prize in literature

Mít vs Lò Thiêu Người

Suy nghĩ hoài cả tuần lễ , rồi chắc phải kêu gọi hiến kế tùm lum mới tìm ra được cái lý do để đối phó với giới luật sư và công luận đây. Ai là luật sư từ nay chạy xe ngoài đường đừng có gây bụi nhé. Tổ cha cái bọn .....bụi.

Danh sách 7 người đánh 2 LS không có ai là công an xã hết. Khà khà. Thách thức dư luận đến thế là cùng.

TPO - Liên quan đến việc 2 luật sư bị đánh trên địa bàn huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội sau khi rời khỏi nhà bị hại Đỗ Đăng Dư. Tại buổi họp báo ngày…
tienphong.vn

Sách Báo

*
manhhai
Vietnam war Photo - Fall of Saigon, April 1975
Marcus, gmp3157 and 5 more people faved this

    ngao5 7h
    13-4-1975, trực thăng CH-47 Chinook di tản binh sĩ Sư đoàn 18 bộ binh và gia đình ra khỏi Xuân Lộc. Ảnh: Dirck Halstead

GCC biết Dirck Halstead trở lại Việt Nam làm phóng sự di tản cho Time, quá trễ, qua Nhung, cũng 1 chuyên viên Bưu Điện, cũng làm part time cho tụi báo chí Mẽo, đúng ngày Dương Văn Minh ra lệnh Mẽo cút khỏi Miền Nam. Đến khách sạn anh ở, ở đường Nguyễn Huệ, anh nói, cầm cái camera theo tao, lên trực thăng, ra hạm đội 7, hết C.130 rồi, Gấu không thể bỏ gia đình, lắc đầu, anh móc túi lấy hết số tiền Ngụy còn lại giúi vô tay Gấu, miệng nói bye, bye. Gấu xuống Ngã Sáu, làm 1 shot, chắc phải 2, rồi về nhà nằm phê!
Mới nhận mail của Dirck, liền tức thì:

From:
Date: Thursday, July 21, 2005 11:36:18 PM
To: Nguyen_Quoc_Tru
Subject: Re:
It's wonderful to hear from you Tru. How are you?
We missed you at the reunion in Saigon in May.

Cuộc hội ngộ vào tháng Năm, the reunion in Saigon in May, là vào năm 1985, khi VC kỷ niệm Mười Năm Đại Thắng Mùa Xuân. Mời mấy anh ký giả Mẽo tới, trong có Dirck.
Hai Lúa lúc đó ở trong Trại Bà Bèo, sau chuyến đi Vàm Láng thất bại, như đã kể sơ sơ trong một bài viết.
Khi về được Sài Gòn thì lễ lạc đã qua. Tình cờ gặp Tám, nhân viên phòng tối. Anh nói, thằng Dirck hỏi thăm mày, nhưng tao với nó phải đứng xa nhau cả mười mấy thước, ở ngay trước Tòa Đô Chính, chỗ bùng binh phun nước.
Sợ mấy ảnh, đầy đường lúc đó.
Tám nói, cũng là tình cờ tao nhìn thấy thằng Dirck từ đằng xa. Chính nó kêu tao.
Tám, nhân viên phòng tối, trốn lính, suốt ngày đêm đóng đô tại văn phòng UPI. Bữa đó, cuồng cẳng quá, mò ra ngoài, lang thang mấy snack bar kế bên văn phòng tại đường Ngô Đức Kế, phía đi ra Nguyễn Huệ, bị tóm liền.
Bữa sau, Hai Lúa xuống văn phòng, gặp Tư Râu, người chuyên đưa hình lên Đài cho HL chuyển đi. Anh nói, mở mấy ngăn kéo riêng của thằng Tám, thấy toàn xú chiêng, quần lót của bướm!
Dirck cũng từng đề nghị với Hai Lúa, mày có muốn đi làm tại văn phòng UPI Tokyo, tao lo cho. Đó là lúc cuộc chiến "hứa hẹn những điều khủng khiếp".
Lạ một điều, Hai Lúa chưa từng có ý định rời bỏ Sài Gòn, chờ cho cuộc chiến qua đi, rồi lại mò về. Đi tu nghiệp hai năm thì được. Nhưng do làm UPI, HL từ bỏ một hai cơ hội tu nghiệp Huê Kỳ. Nhớ lại, lúc đó, chỉ mong được đi Tây.
Cho Gấu tí Paris
Để Gấu làm thi sĩ!
Đại khái vậy!
Chuyến đi "liên can" tới lễ kỷ niệm 10 năm đại thắng Mùa Xuân, của những người CS. Người bạn đi cùng ông già mang theo những danh sách, những bản tin, những tài liệu về miền Nam sau mười năm, phóng sự về những sĩ quan đi học tập, tình cảnh vợ con ở nhà, và ... MIA.
Bài Surprise là do một độc giả Tin Văn [ĐLK, cộng tác viên thường trực của Tin Văn, đúng hơn], chuyển cho. Nhờ vậy, liên lạc được với Dirck. Tks. Hai Lúa.