Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự | Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
 Thơ Mỗi Ngày | Chân Dung | Jennifer Video
Nhật Ký Tin Văn / Viết mỗi ngày/Sách & Báo Mới


1 2 3 4 5 6 7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
31
33
34
35
36



Last Page

Thông báo:

Nestcape Composer không cho paste & copy nữa!
Chắc là phải qua FB luôn!
Sorry
NQT
Viết trên Tin Văn, có cái thú, là cùng lúc, có thể nhảy từ bài này qua bài khác, giống như 1 mình, chơi mấy bàn cờ tướng. Trước, paste & copy còn nguyên link, bây giờ lại làm lại link từng bài, mệt quá. Chắc là GCC sẽ chỉ giữ có front page.
Thì cứ tạm như thế, chờ kiếm thợchuyên làm website

TTT 10 years Tribute
V/v Không trả lời điện thoại.

Gấu cũng đã từng bị ông anh không trả lời điện thoại, và hình như cũng đã lèm bèm trên TV rồi. Đó là lần Nguyễn Đông Ngạc từ Montreal xuống, và trong khi nhậu nhẹt, anh ngỏ ý muốn làm lại nhà xb Sóng, thế là Gấu bèn gợi ý, để gọi điện thoại cho TTT, xem ông có tính in cái gì không, giá mà được cuốn Ung Thư, thì hết xẩy con cào cào. Thế là phôn, gặp vợ ông. Bà nói, anh ra ngoài mua tờ báo, mà có cần không, Gấu bèn trả lời, có NDN tính hỏi thăm anh.
Bà nói, lát gọi lại. Lát gọi lại, không ai bắt máy.
Hôm sau, gọi, gặp ông anh. Ông xạc cho 1 trận. Cấm không được cho ai số dt, cấm giới thiệu ông này, ông nọ….

VL, đúng ra là phải rất rành cái lý do tại sao, TTT nhờ VL, v/v tiền tạm ứng.
Đâu có phải ai cũng được TTT nhờ cậy, hà, hà!
Không lẽ quên cái vụ TTT gật gù phán, cái “cú” đó VL xử sự rất đẹp ư?
Cú nào, ra sao, thì thật khó viết ra ở đây.

MT cũng quê TTT, v/v bỏ chốn giang hồ gió tanh mưa máu, là Tiểu Sài Gòn.
Cũng nhờ có tiền nhuận bút tập Thơ Ở Đâu Xa, của TPK. Ông có nói với Gấu vụ này.
Mới qua, tao đâu có biết thơ, ai mà mua, thế là cầm tiền, thế là đi.
Nếu biết, chắc vẫn ở Tiểu Saigon?


Marina Tsvetaeva

from In Memory of Marina Tsvetaeva

It's as hard to imagine
you don't exist
as to imagine you a miser-millionaire
among starving sisters.

What can I do for you? Say.
There's a quiet reproach
in the way
you've gone your way.

Losses are riddles. In vain
I try to find
an answer.
Death has no outline.

Half-words, tongue-slips, delusion -
and only
faith in resurrection
by way of direction.

Winter makes a splendid memorial:
a glimpse of twilight,
add currants, pour on wine
- and there's your remembrance meal!

An apple tree in a drift, the town
wrapped in snow,
seemed all year long
to be your grave, your headstone.

Pasternak


Tưởng tượng rằng
    Em không hiện hữu
    Cũng khó như tưởng tượng rằng
    Em là một triệu phú keo kiệt
    Giữa đám chị em đang chết đói

    Tôi có thể làm gì được cho Em ? Để coi .
    Phải có một cách nào đó thật thầm lặng
    Như cách em đã chọn con đường em đi
    Mất mát là những câu đố . Trong bất lực
    Tôi cố tìm
    Một lời giải.
    Cái Chết đâu có mang một dáng hình nào

    Chỉ là những từ ngữ lửng lơ, những câu nói ngớ ngẩn, những tư tưởng mơ hồ
    Và chỉ có niềm thành tín vào sự tái sinh
    Là đưa đường chỉ lối
    Mùa đông là đài kỷ niệm tuyệt vời:
    Chút thấp thoáng của hoàng hôn
    Bỏ thêm vào những quả nho, rót một dòng rượu vang
    Và chừng đó đủ để dọn một bữa ăn hồi nhớ cho em

    Một cây táo đang xô giạt, thành phố
    đang cuộn mình trong tuyết
    Dường như suốt năm trường
    Đã trở thành ngôi mộ của em, bia đá của em

K dịch theo bài anh gởi ( không đầy đủ, thiếu mấy đoạn đầu, thiếu đoạn sau) , kèm theo đây .
Đồng thời, gởi anh truyện ngắn của Murakari từ New Yorker, có thể anh đã đọc rồi .

Có một bài "dịch" thơ Pasternak khác, của một người khác, dài hơn, rõ hơn, dễ hiểu hơn :

http://www.friends-partners.org/friends/culture/literature/20century/pasternak/tsvetaeva.html(opt,mozilla,unix,english,,new)


In Memory of Marina Tsvetaeva

Dismal day, with the weather inclement.
Inconsolably rivulets run
Down  the porch in front of the doorway;
Through my wide-open windows they come.

But behind the old fence on the roadside,
See, the public gardens are flooded.
Like wild beasts in a den, the rainclouds
Sprawl about in shaggy disorder.

In such weather, I dream of a volume
On the beauties of Earth in our age,
And  I draw an imp of the forest
Just for you on the title-page.

Oh, Marina, I'd find it no burden,
And the time has been long overdue:
Your sad clay should be brought from Yelabuga
By a requiem written for you.

All the triumph of your homecoming
I considered last year in a place
Near a snow-covered bend in the river
Where boats winter, locked in the ice.

What can I do to be of service?
Convey somehow  your own request,
For in the silence of your going
There's a reproach left unexpressed.

A loss is always enigmatic.
I hunt for clues to no avail,
And  rack my brains in fruitless torment:
Death has no lineaments at all.

Words left half-spoken, self-deception,
Promises, shadows-all are vain,
And  only faith in resurrection
Can give the semblance of a sign.

Step out into the open country:
Winter's a sumptuous funeral wake.
Add  currants to the dusk, then wine,
And  there you have your funeral cake.

The apple-tree stands in a snowdrift
Outside. All this year long, to me,
The snow-clad city's been a massive
Monument  to your memory.

With your face turned to meet your Maker.
You yearn for Him from here on Earth,
As in the days when those upon it
Were yet to appreciate your worth.

1943
        Translated by Alex Miller

Tks. NQT

Penguin Russian Poetry
   
Yevgeny Yevtushenko (b. I932)

Yevgeny Alexandrovich Yevtushenko was born in Siberia, to a family of mixed Russian, Ukrainian and Tatar ancestry. His father was a geologist, his mother a singer; both his grand- fathers had been arrested during Stalin's purges. In 1961 he published 'Babi Yar', about the Nazi massacre of Kiev Jews. This poem - set to music by Shostakovich in his Thirteenth Symphony - was all the more controversial for addressing not only the massacre itself, but also Soviet anti-Semitism. The authorities had refused to allow a memorial for the Jewish victims; Babi Yar had come to epitomize not only the Shoah itself, but also official attempts to suppress its memory.
    Yevtushenko's greatest popularity was during the late 1950s and 1960s. Brodsky and others accused him of hypocrisy, of being outspoken enough to win attention but taking care never to endanger his privileged position. This seems harsh: though no dissident, he certainly did more good than harm.
    Yevtushenko has also worked in film, as an actor and as a writer/director. In 1993 he published a large anthology, Twentieth-Century Russian Poetry. He is now working on a multi-volume anthology, in Russian, of poetry from the eleventh to the twentieth century.

Loss


Russia has lost Russia in Russia.
Russia searches for itself       
            like a cut finger in snow,
            a needle in a haystack,
like an old blind woman madly stretching her hand in fog,
searching with hopeless incantation for her lost milk cow.
We buried our icons.
            We didn't believe in our own great books.
            We fight only with alien grievances.

Is it true that we didn't survive under our own yoke,
becoming for ourselves worse than foreign enemies?
Is it true that we are doomed to live only in the silk
nightgown of dreams, eaten by moths?-
            Or in numbered prison robes?

Is it true that epilepsy is our national character?
Or convulsions of pride?
            Or convulsions of self-humiliation?
Ancient rebellions against new copper kopeks,
against such foreign fruits as potatoes are
now only a harmless dream.

Today's rebellion swamps the entire Kremlin
            like a mortal tide -
Is it true that we Russians have only one unhappy choice?
The ghost of Tsar Ivan the Terrible?
            Or the Ghost of Tsar Chaos?
So many imposters. Such 'imposterity'.

Everyone is a leader, but no one leads.
We are confused as to which banners and
slogans to carry.
And such a fog in our heads
            that everyone is wrong
            and everyone is guilty in everything.

We already have walked enough in such fog,
in blood up to our knees.
Lord, you've already punished us enough.
Forgive us, pity us.
Is it true that we no longer exist?
Or are we not yet born?
We are birthing now,
but it's so painful to be born again.

(1991)

James Ragan and Yevgeny Yevtushenko

Answer
I'm certainly not a Sibyl;
my life is clear as a stream.
I just don't feel like singing
to the rattle of prison keys.
(1930s)

Anna Akhmatova
Robert Chandler
Trần Hồng Tiệm
18 hrs

trả lời

tôi hoàn toàn không phải là đồng cốt
cuộc đời tôi trong vắt tựa suối nguồn
mà đơn giản tôi không muốn hát
dưới tiếng leng keng của khóa nhà tù
những năm 1930
anna akhmatova

Ответ
И вовсе я не пророчица,
Жизнь моя светла, как ручей.
А просто мне петь не хочется
Под звон тюремных ключей.
1930-е годы
Анна Ахматова

‪#‎thodichdonga‬ ‪#‎thongadonga‬

Note: Bản tiếng Anh, cũng vậy.
Có tí khác, tôi không muốn hát theo tiếng leng keng...

Do đọc ba chớp ba nháng, nên dịch trật.
Bài thơ Pasternak tưởng niệm Tsvetaeva cũng dịch trật, nhờ bạn K sửa giùm
Tks all and sorry abt that
NQT


Trả lời
Tôi chắc chắn không phải là 1 Sybil;
Đời tôi thì trong sáng như là con suối
Tôi chỉ không thích nghe
Tiếng leng keng của chùm chìa khoá
Nhà tù

Mayakovsky in the Year 1913

Although I didn't know your days of glory
I was present at your tempestuous dawn
and today I'll take a small step back in history
to remember, as I'm entitled to, times gone.
With every line, your words increased in power!
Unheard-of voices gathering in swarms!
Those were no idle hands that threw up such towering
and menacing new forms!
Everything you touched suddenly seemed
somehow altered, different from before,
and whatever you destroyed, remained
that way, and in every syllable the roar
of judgement. Often dissatisfied, alone,
driven on by an impatient fate,
you knew how fast the time was nearing when
you'd leap, excited, joyful, to the fight.
We could hear, as we listened to you read,
the reverberating thunder of the waters
and the downpour squinted angrily as you slid
into your wild confrontations with the city.
Your name, in those days unfamiliar, flashed
like streaks of lightning through the stuffy hall.
It's with us still today, remembered, cherished
throughout the land, a thundering battle call.
 
(1940)
Anna Akhmatova
Peter Oram

Hai đấng này, đám Hội Nhà Văn Bắc Kít rất rành. Nhà văn Bùi Ngọc Tấn, khi bị nhà nước của ông bỏ tù, cũng cố mang theo thơ Maia, để lấy hứng viết Chuyện Kể năm 2000.
Tôi sẽ giơ cao tờ chứng minh thư Đảng
 Là toàn tập thơ bônsêvích tôi làm"?

 (CKN 2000, trang 106)
Ngay khi hải ngoại lên cơn sốt CK2000, là Gấu đã cảnh cáo liền tù tì.
Nhưng chỉ đến khi BNT cám ơn nhà nước bỏ tù ông, mà ông gọi đó là chính sách pha lê hóa hậu phương, nhờ vậy ăn cướp được Miền Nam, thì Gấu đành ngửa cổ lên trời than, đấng này hết thuốc chữa!
Vậy mà bà phê bình gia Thụy Khuê khen rầm trời, trên Văn Vịt!

Cái sự đọc mấy đấng như BNT này, cần phải rất ư cẩn thận, theo GCC.
Một đấng bị Đảng đầy đi tù mà vẫn cám ơn Đảng, nhờ Đảng mà “chúng ta” thống nhất đất nước, đuổi Mỹ Ngụy bỏ chạy tán loạn, nhờ vậy mà có 1 đất nước như hiện nay, liệu một BNT như vậy, sẽ nhỏ 1 giọt nước mắt, cá sấu cũng được đi, cho nửa, rồi cả đất nước?
W.G. Sebald, nhà văn Đức, trong cuốn Campo Santo, có đi 1 đường về nước Đức, văn chương Đức hậu chiến:
Đếch làm sao tưởng niệm được!
Đâu có phải "vô tư" mà GCC đề nghị tên già NN, cởi trần, bò ra nghĩa trang Ngụy, quỳ, sám hối,
"tưởng niệm"?

Đám tinh anh Bắc Kít thường vẫn tự hào, rất rành văn chương Nga, nhưng cái biết của chúng, thiếu hẳn 1 mảng cực kỳ quan trọng, là mảng văn chương truyền tay, rỉ tai, bởi vì không ai dám ghi xuống mặt giấy. Và mảng này cực mạnh. Để GCC kể trường hợp Osip Mandelstam, và cách cư xử của bạn hữu của ông, để chứng minh 1 điều, Bắc Kít không hề có thứ văn chương này. Thầy của chúng, là Liên Xô có, nhờ vậy mà họ có những ngôi sao ngàn đời rực rỡ, như Akhmatova, Tsvetaeva, Brodsky…
Bùi Ngọc Tấn khiêm tốn coi ông là kẻ cam chịu lịch sử.
Có thể, nhân vật của ông, thì được, nhưng không thể có thứ nhà văn cam chịu lịch sử. Nhân vật trong Tàn Ngày, Remains of the Day, cam chịu lịch sử, cúc cung phục vụ chủ, cuối cùng khám phá ra chủ đã bán mình cho Tẫu/Nazi!

* &   

Cái tít cuốn hồi ký của bà vợ của nhà thơ Osip Mandelstam, Hope Against Hope, là 1 kiểu chơi chữ, "Hi Vọng Chống Lại Hy Vọng". Tên của bà, Nadezhda, tiếng Nga, có nghĩa là “hi vọng”.
Phần thứ nhì có tên là "Hy Vọng Dã Dời, Hope Abandoned".
Bà viết về cái thế giới “pha lê hoá” của xứ của Bà:
Chúng tôi sống giữa những người biến mất vào lưu vong, lao động khổ sai, và những thế giới khác, và giữa những người đầy họ [We lived among people who vanished into exile, labor camps, or other worlds, and also among those who sent them there”.]
Có 1 câu hỏi cực kỳ dễ dàng vậy mà cực kỳ khó trả lời, đối với những người như Bùi Ngọc Tấn, khi ông cho rằng phải “pha lê hóa” Miền Bắc, như thế thì mới thắng được cuộc chiến.
Nhưng thắng cuộc chiến để như bây giờ ư?
Thành ra bà Nadezhda mới phân ra hai loại viết, một của bà, và một của những người viết báo cáo. They all write that is, they wrote reports for the secret police.
Bao nhiêu con người đã chết vì pha lê hóa, ông đâu biết.
Gấu tất nhiên cũng không biết, nhưng ở Liên Xô, 20 triệu.
Bà vợ biết chồng chết, khi được gọi lên Bưu Điện để nhận lại thùng quà bà gửi, the addressee is dead, người nhận đã chết, và bà dành cuộc đời còn lại của mình  để gìn giữ tác phẩm của chồng.

Văn chương mà Bùi Ngọc Tấn viết, cho những người “cam chịu lịch sử”, mũi lõ chúng gọi là văn chương người chứng, và thường là hồi ký, thí dụ của bà vợ Osip Mandelstam. Trên báo nhà, Queen’s Quarterly, a Canadian Review, Summer, 2014, trong “Viết Sự Thực trước Quyền Lực, Writing Truth to Power”, tác giả Kenneth C. Dewar viết về Hồi Ký Cách Mạng của Victor Serge, hồi ký về ông chồng nhà thơ Osip Mandelstam, Hy Vọng Chống Lại Hy Vọng, của bà vợ Nadezhda, và hồi ký của Alexander Herzen [1812-1870], My Past and Thoughts. Ông này cũng như Serge, một nhà cách mạng, xã hội… một người tù, và 1 tên lưu vong.

Steiner phán vHồi Ký của bà vợ nhà thơ Osip Mandelstam

REVIEWING THE MEMOIR in the New Yorker, the critic George Steiner wrote, "Nothing one can say will either communicate or affect the genius of this book. To pass judgment on it is almost insolence - even judgment that is merely celebration and homage" (December 26,1970). If memoirs are about bearing witness to one's time, few better examples can be found than the three I've discussed here. Coming to the end of Mandelstam's after reading the first two, one feels one has reached the pinnacle of the genre. At the same time, one is reminded that, during the times in which all three were written, an international community of political disposition and literary taste transcended the geopolitical divide between Russia and the West. I don't think, in 2014, that it exists any longer.

KENNETH C. DEWAR is Professor Emeritus in the Department of History at Mount Saint Vincent University. ~

Từ "viết sự thực trước quyền lực", chứng thực thời của mình, "bearing witness to one's time"... biến thành "cam chịu lịch sử", là cái nước Mít bi giờ!

NQT

Nói cái gì về cuốn Hồi ký này thì đều là láo xược, và chẳng hề ảnh hưởng đến tính thiên tài của cuốn sách. Steiner phán!
Ui chao, giá câu này dành cho CKN200, thì tuyệt quá!



*  

Hình Dirck Halstead Sếp UPI của GCC
manhhai
Vietnam war Photo - Fall of Saigon, April 1975
Marcus, gmp3157 and 5 more people faved this

    ngao5 7h
    13-4-1975, trực thăng CH-47 Chinook di tản binh sĩ Sư đoàn 18 bộ binh và gia đình ra khỏi Xuân Lộc. Ảnh: Dirck Halstead

GCC biết Dirck Halstead trở lại Việt Nam làm phóng sự di tản cho Time, quá trễ, qua Nhung, cũng 1 chuyên viên Bưu Điện, cũng làm part time cho tụi báo chí Mẽo, đúng ngày Dương Văn Minh ra lệnh Mẽo cút khỏi Miền Nam. Đến khách sạn anh ở, ở đường Nguyễn Huệ, anh nói, cầm cái camera theo tao, lên trực thăng, ra hạm đội 7, hết C.130 rồi, Gấu không thể bỏ gia đình, lắc đầu, anh móc túi lấy hết số tiền Ngụy còn lại giúi vô tay Gấu, miệng nói bye, bye. Gấu xuống Ngã Sáu, làm 1 shot, chắc phải 2, rồi về nhà nằm phê!

T
Guardian giới thiệu cuốn đầu tay của 1 tác giả người Việt, và phim Tận Thế là Đây.
Cũng tờ này, đăng bài của Đinh Linh, chê hết lời, cũng phim này, mà đấng này
gọi là Khải Huyền Dối Trá.
Nhớ, khi được hỏi, Coppola trả lời, "Tận Thế là Đây", Việt Nam
.

GT/khai_huyen doi_tra.html

Gấu có lẽ là người đầu tiên nhắc đến sự liên hệ giữa Trái Tim của Bóng Đen, của Conrad, và phim Tận Thế là Đây, của Coppola, trong giới Mít, do đọc một bài viết về Conrad trên tờ Người Nữu Ước, những ngày còn giữ mục Tạp Ghi cho báo Văn Học của NMG, cc 1997-98.

Tên bài viết nguyên là: Ngài là Mr. Kurtz, tôi đoán thế? [I presume]. Gấu bèn đổi thành Ngài là Đồ Phổ Nghĩa, tôi đoán vậy
Sự liên hệ giữa truyện và phim, là do tác giả bài viết nêu ra:

Độc giả khó thể quên, cảnh tượng Marlow, trên boong tầu, chiếu ống nhòm, tới những vật mà ông miêu tả là những đồ trang điểm, ở trên ngọn những con sào, gần nhà Kurtz, và rồi ông nhận ra, mỗi món đồ trang trí đó là một cái đầu lâu - đen, khô, mi mắt xụp xuống, cái đầu lâu như đang ngủ trên ngọn con sào. Những người chưa từng đọc cuốn truyện, cũng có thể nhìn thấy cảnh này, bởi vì nhà đạo diễn Francis Coppola đã mượn nó, khi chuyển Heart of Darkness vào trong phim Tận Thế Là Đây, Apocalypse Now.

Nhưng, chỉ đến khi đọc bài của Đinh Linh, bản tiếng Việt, do Lê Đình Nhất Lang dịch, từ bản tiếng Anh, đăng trên Guardian, trong đó, có nhắc đến câu phán của Coppola: Tận Thế là Đây "là" Việt Nam, thì Gấu này mới hiểu ra là, tay đạo diễn này, cũng nhìn ra, như Gấu đã từng nhìn ra, [và phách lối, kiêu ngạo, tưởng rằng chỉ có độc nhất Gấu nhìn ra chân lý!] (b)

*

 

TTT 10 years Tribute
Một Bóng Đêm Giữa Ban Ngày Khác
Speaking in tongues
Why do writers abandon their native language?
Mar 14th 2016, 12:35 by E.W.
IN 2012, Jhumpa Lahiri moved to Rome and began a period of self-imposed linguistic exile from English.

Tại sao nhà văn bỏ tiếng mẹ đẻ của mình?
Với Mít, thì cũng dễ hiểu. Cứ đeo kính vô là đọc được sách. Cứ viết bằng tiếng nước người là thành văn chương.
Với Linda Lê, bà phải chọn tiếng Tẩy, vì không có cách nào khác. Với Sebald, nhà văn Đức, viết bằng tiếng Đức, nhưng nước Đức không coi ông thực sự là nhà văn Đức, và chính ông cũng không nghĩ ông là nhà văn Đức.
Với cái đám nhà văn Mít viết bằng tiếng Tẩy, khác, Gấu không tin, chúng viết bằng bất cứ tiếng gì mà có độc giả được
Đây là điều Steiner phán, trong Phép Lạ Hổng, For let us keep one fact clearly in mind: the German language was not innocent of the horrors of Nazism. (Hãy minh bạch một điều: ngôn ngữ Đức không thơ ngây vô tội trước những điều ghê gớm, tởm lợm của chủ nghĩa Nazi.)

Trên tờ NYRB số mới nhất, March 24, 2016, có bài của Tim Parks, điểm cuốn In Other Words, của nữ văn sĩ này
http://www.nybooks.com/articles/2016/03/24/jhumpa-lahiri-lavventura/

*  

Khi viết về Cô Tú, GCC có phán, người tình của Cô là tiếng Việt, hàm ý, cô là người Việt, chồng sĩ quan VNCH, tử trận, lấy chồng Mỹ sau đó, không thể quên tiếng Việt, xứ Việt…. thì vẫn nằm trong dòng lưu đầy vs quê nhà.
Với em này, em mê tiếng Ý lạ hoắc, và tìm thấy trong đó tình yêu, như em viết:

Khi bạn yêu, bạn muốn sống hoài hoài. Tương tự tôi mê tiếng Ý. Tôi không muốn chết, vì chết là chấm dứt khám phá ngôn ngữ. Mỗi từ mới mỗi ngày để học. Như thế, tình thực thì là thiên thu bất tận
When you're in love, you want to live forever. You want the emotion, the excitement you feel to last. Reading in Italian arouses a similar longing in me. I don't want to die, because my death would mean the end of my discovery of the language. Because every day there will be a new word to learn. Thus true love can represent eternity.

Bài trên Người Kinh Tế so sánh cô
với Beckett:

Unlike Beckett, Ms Lahiri made her name in English from the start. But on reflection, she, too, acknowledges that she’s “trying to get away from something.” English had become fraught territory, a source of her anxiety as a writer—“a consuming struggle, a wrenching conflict.” And if Beckett was burdened by his failure in English, Ms Lahiri is burdened by the spectre of her success: “I became a writer in English. And then, rather precipitously, I became a famous writer. All of my writing comes from a place where I feel invisible,” she explains. “But a year after my first book was published, I lost my anonymity.” English, constrained by expectation and accomplishment, seems to have become unworkable and overused. Italian offers a clean slate, a language unencumbered by familiar voices, including her own. She has declined even to translate "In Other Words" back into English herself. Perhaps most importantly, in a new language, Ms Lahiri is free to fail, and perhaps, like Beckett, to sin.



Trang Bolano

A PERFECT STORY

A while ago, at a lunch with Nicanor Parra, the poet made mention of the stories of Saki, especially one of them, "The Open Window," which is part of the book Beasts and Super Beasts. The great Saki's real name was Hector Hugh Munro and he was born in 1870 in Burma, which in those days was a British colony. His stories, heavily seasoned with black humor, generally belong to the genre of horror and supernatural fiction, so popular among the British. When World War I broke out, Saki enlisted as a volunteer, a fate he could surely have avoided by virtue of his age (he was over forty), and he died fighting at Beaumont-Hamel in 1916.
    During that long postprandial conversation, which lasted until nightfall, I thought about a writer of the same generation as Munro, though stylistically he was very different: the great Max Beerbohm, who was born in London in 1872 and died in Rapallo, Italy, in 1956, and who, in addition to stories, wrote novels, newspaper pieces, and essays, without ever giving up two of his first loves: drawing and caricature. Max Beerbohm may be the paradigm of the minor writer and the happy man. In other words: Max Beerbohm was a good and gracious soul. When we finally took our leave of Nicanor Parra and the Caleuche and returned to Santiago, I thought about the story that I believe is Beerbohm's best, "Enoch Soames," which was included by Silvina Ocampo, Borges, and Adolfo Bioy Casares in the magnificent and often hard to find Antologia de la literatura fantastica [Anthology of Fantastic Literature]. Months later I reread it. The story is about a mediocre and pedantic poet whom Beerbohm meets in his youth. The poet, who has written only two books, one worse than the next, befriends the young Beerbohm, who in turn becomes an involuntary witness to his misfortunes. The story thus becomes not just a testament to the life of all poor fools who in a moment of madness choose literature, but to late nineteenth-century London. Thus far, of course, it's a comic tale, vacillating between naturalism and reportage (Beerbohm appears under his real name, as does Aubrey Beardsley), between satire and the broad brushstrokes of costumbrismo. But suddenly everything changes, absolutely changes. The critical moment comes when Enoch Soames, lost in thought, glimpses his mediocrity. He's seized by despair and apathy. One afternoon Beerbohm runs into him at a restaurant. They talk, and the young narrator tries to cheer up the poet. He points out that Soames's financial situation is all right, he can live on his income for the rest of his life, maybe he just needs a holiday. The bad poet confesses that all he wants to do is kill himself and that he would give anything to know whether his name will live on. Then someone at the next table, a man with the look of a scoundrel or miscreant, asks permission to join them. He introduces himself as the Devil and he promises that if Soames sells him his soul he'll send him into the future, say one hundred years, to 1997, to the British Library Reading Room where Soames often goes to work, so he can see for himself, in situ, whether his name has stood the test of time. Despite Beerbohm's pleas, Soames accepts. Before he leaves he agrees to meet Beerbohm again at the same restaurant. The next few hours are described like something out of a dream-a nightmare-in a Borges story. When at last they meet again, Soames is as pale as death. He really has traveled to the future. He couldn't find his name in any encyclopedia, any index of English literature. But he did find the Beerbohm story called "Enoch Soames," in which, among other things, he's mocked. Then the Devil comes and takes him away to hell, despite Beerbohm's efforts to stop him. In the last lines there's still a final surprise, having to do with the people Soames claims to have seen in the future. And there's yet another surprise, this one much smaller, concerning paradoxes. But these two final surprises I'll leave to the reader who buys the Antologia de fa literatura fantdstica or who rifles through libraries in search of it. Personally, if I had to choose the fifteen best stories I've read in my life, "Enoch Soames" would be among them, and not in last place.

Roberto Bolano: Between Parentheses

Truyện ngắn tuyệt hảo
Theo Bolano, truyện ngắn tuyệt hảo, là
"Enoch Soames" của Max Beerbohm, trong cuốn truyện quái dị, do Borges & friends biên tập.
Thú vị làm sao, GCC có cuốn này.


Book of Fantasy

The Tower of Babel


' ... the story about that hole in the ground, that goes down nobody knows where, has always fascinated me rather. It's Mahomedan in form now; but I shouldn't wonder if the tale is a long way older than Mahomet. It's all about somebody they call the Sultan Aladin; not our friend of the lamp, of course, but rather like him in having to do with genii or giants or something of that sort. They say he commanded the giants to build him a sort of pagoda rising higher and higher above all the stars. The Utmost for the Highest, as the people said when they built the Tower of Babel. But the builders of the Tower of Babel were quite modest and domestic people, like mice, compared with old Aladin. They only wanted a tower that would reach heaven, a mere trifle. He wanted a tower that would pass heaven, and rise above it, and go on rising for ever and ever. And Allah cast him down to earth with a thunderbolt, which sank into the earth, boring a hole, deeper and deeper, till it made a well that was without a bottom as the tower was to have been without a top. And down that inverted tower of darkness the soul of the proud Sultan is falling for ever and ever.'

G. K. Chesterton

English essayist, novelist and poet. Born in London in 1874; died in 1936. He published a vast amount of work, always lucid yet ardent. He wrote and revived literary styles including novels, literary criticism, lyric poetry, biography, polemic, detective stories. He is the author of essays on Robert Browning (1903) G. F. Watts (1904) and Charles Dickens (1906). His books include Heretics (1905); The Man Who Was Thursday (1908); Orthodoxy (1908); Manalive (1912); Magic (1913); The Crimes of England (1915); A Short History of England (1917); The Uses of Diversity (1920); Father Brown Stories (1927); Collected Poems (1927); The Poet and the Lunatics (1929); Four Faultless Felons (1930); Autobiography (1937); and The Paradoxes of Mr. Pond (1936).

The Shadow of the Players

In one of the tales which make up the series of the Mabinogion, two enemy kings play chess while in a nearby valley their respective armies battle and destroy each other. Messengers arrive with reports of the battle; the kings do not seem to hear them and, bent over the silver chessboard, they move the gold pieces. Gradually it becomes apparent that the vicissitudes of the battle follow the vicissitudes of the game. Toward dusk, one of the kings overturns the board because he has been checkmated, and presently a blood-spattered horseman comes to tell him: 'Your army is in flight. You have lost the kingdom.'

- EDWIN MORGAN

Bóng Kỳ Thủ

Một trong những truyện của chuỗi truyện Mabinogion, hai  ông vua kẻ thù ngồi chơi cờ, trong  lúc trong thung lũng kế đó, hai đạo binh của họ quần thảo, làm thịt lẫn nhau. Giao liên, thiên sứ…  liên tiếp mang tin về, họ đếch thèm nghe, chúi mũi vô mấy con cờ bằng vàng. Rõ ràng là tuồng ảo hoá bày ra ở thung lũng nhập thành một với tuồng cờ tướng. Sau cùng, vào lúc chập tối, 1 ông vua  xô đổ bàn cờ, khi bị chiếu bí, đúng lúc đó, tên kỵ sĩ từ chiến trường lao về, thưa hoàng thượng, VC lấy mẹ mất Xề Gòn  rồi!

Hà, hà!

*****

Trong bài viết của Bolano, ông có nhắc tới những truyện ngắn của Saki.
Trên TV cũng đã nhắc tới ông này, qua giới thiệu của Graham Greene.


  *

'Bored to the point of murder' ...
HH Munro. Photograph: Time Life Pictures/Mansell Collection

Saki

Trong Gánh Nặng Tuổi Thơ,  Greene nhắc tới Munro, [một trong ba ông, mỗi ông tìm mỗi cách hất bỏ gánh nặng tuổi thơ, hai ông kia là Kipling, và Dickens], và tự hỏi, không biết ông lấy ở đâu ra bút hiệu Saki.

Bài viết trên Guardian giải thích:

Hector Hugh Munro's pen-name refers either to the cupbearer in the Rubáiyát of Omar Khayyam, which is spoken of disparagingly in more than one of his stories, or a type of South American monkey. I prefer to think it was the latter: not only did Saki have an abiding love for animals, but his mischievousness and capability for sudden viciousness are traits that seem, at least to my limited zoological knowledge, eminently monkey-like. [Saki là từ tác phẩm của Omar Khayyam, chỉ một sĩ quan hầu rượu, hoặc, một thứ khỉ Nam Mỹ]
*
Greene viết, bất hạnh, tuyệt vời thay, trợ giúp, aid, hồi ức, [Gấu đã từng dịch ẩu là, bất hạnh là thuốc bổ của hồi ức]. Và những truyện ngắn hay nhất của Munro thì tất cả đều là về thơ ấu, sự hóm hỉnh, ẩu tả, anarchy, cũng như là sự độc ác, và bất hạnh của nó.
Even when Saki is not writing explicitly "horrific" stories, however, the unease is present. His stories are more subtle variations on what William Burroughs, writing of Naked Lunch, described as the "frozen moment when everyone sees what is on the end of every fork". Or as VS Pritchett put it, "Saki writes like an enemy. Society has bored him to the point of murder. Our laughter is only a note or two short of a scream of fear."
Saki
Ngay cả khi Saki không viết về [tuổi thơ] kinh dị, thì vẫn thật nhức nhối khi đọc ông... Saki viết như một kẻ thù. Xã hội làm ông buồn bực đến nỗi chỉ muốn làm thịt một kẻ nào đó. Độc giả đọc ông, "thi thoảng" bật ra một tiếng cười, ấy là do quá sợ!
*
-Sơ Dạ Hương, tại sao?
-Một cái tên mượn từ Lâu Đài Họ Hạ, truyện Hoffmann, Vũ Ngọc Phan dịch. Trong đó chỉ có một từ, là thực.
Phỏng vấn Gấu
*
Có nhiều những hao hao rất giống nhau trong quãng đầu đời giữa Kipling và Saki, và phản ứng của Saki đối với sự cơ cực, thì gần Kipling hơn là Dickens. Kipling sinh ở Ấn Độ. H.H. Munro, [tôi không khoái cái bút hiệu Saki không biết lấy ở đâu ra của ông, nghe vô duyên làm sao!], sinh ở Burma, [Miến Điện]. Cuộc sống gia đình của những đứa trẻ như thế thì luôn bị đổ vỡ. Những nỗi cơ cực Kipling và Munro ghi lại cũng là những kinh nghiệm của đám con cái nhân viên dân sự, hay sĩ quan phục vụ tại những xứ sở thuộc địa tại Đông phương: một chiếc tắc xi đưa đến một căn nhà bà con lạ hoắc, đồ đạc lỉnh kỉnh khui ra, miếng ăn nước uống không làm sao nuốt trôi, và 4 năm trời xa cách bố mẹ, thiếu vắng sự thương yêu vỗ về chăm sóc, chỉ 4 năm thôi mà dài bằng cả một thế hệ [4 tuổi, thì là một đứa bé, 8 tuổi, đã là một cậu con trai]. Kipling tả nỗi ghê rợn của thời gian này ở trong những cuốn như Baa, Baa Black Sheep - một câu chuyện mặc dù cái vẻ tình cảm của nó, nhưng thật khó mà đọc nổi: Những lời cầu nguyện của bà cô, những trận đòn, lá bài với từ “LIAR” [Tên Nói Dối] ở mặt sau, sự quờ quạng do bị bỏ mặc không biết bấu víu vào đâu cứ thế lớn dần và sau cùng, là nổi loạn
Có một điều gì thật hao hao giống tuổi thơ của Gấu, ở những dòng trên.
Quái thế.
Gấu cũng từng có những chuyến di chuyển như thế, tuy có tí khác: Ông cụ hồi còn sống, làm hiệu trưởng một trường tiểu học, không ưa Tây, nên bị chúng đì, không bao giờ được ở yên chỗ, di chuyển liên tục. Trong những kỷ niệm của Gấu, có những cảnh nằm ngủ tại nhà ga, chờ xe lửa giữa đống hành lý.
Thế rồi ông cụ bị một đấng học trò làm thịt, và những năm tháng bất hạnh sau đó chính là cái tuổi thơ mất mát của Gấu, y chang những dòng trên đây.














Trang NQT

art2all.net


&

Lô cốt trên đê làng
Thanh Trì, Sơn Tây