Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự văn học |
Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ |  Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
  Ghi chú trong ngày | Thơ Mỗi Ngày | Nhật Ký | Chân Dung | Jennifer Video 


27.6.2013
Joseph Brodsky

Brodsky phán:

Xuyên suốt cuộc đời 1 người, Thời gian nói [address] với Con Người trong muôn vẻ, variety, ngôn ngữ; ngôn ngữ của sự ngây thơ, tình yêu, niềm tin, kinh nghiệm, lịch sử, ... Trong những ngôn ngữ đó, ngôn ngữ của tình yêu rõ ràng là một lingua franca, ngôn ngữ bắc cầu. Bộ từ điển của nó, its vocabulary hấp thụ, nuốt, absorb, tất cả những tiếng nói khác, other tongues, và sự phát ra của nó, its utterance, thí dụ, anh thương em, làm hài lòng, gratify, một chủ thể, a subject, cho dù vô tri vô giác, inanimate, cỡ nào. Bằng cách thốt ra như thế, anh thương em, chủ thể sướng điên lên, và cái sự sướng điên lên đó, nói lên, làm vọng lên, echoing, cả hai chiều: chúng ta cảm nhận những đối tượng của những đam mê của chúng ta, và cảm nhận Lời Chúa [Good Book’s suggestion], và Chúa là gì, as to what God is. Tình yêu thiết yếu là một thái độ được gìn giữ, maintain, bởi cái vô cùng đối với cái hữu hạn. Sự đảo ngược, the reversal, tạo nên, hoặc niềm tin, hay thi ca.

Đoạn trên, theo GCC, là cơ bản thiết yếu, của thơ Brodsky.
Nói rõ hơn, thơ của ông là thơ tôn giáo, thơ của một nhà thơ Ky Tô. Chính vì thế, GCC khó nhập vô thơ ông, vì là 1 tên ngoại đạo. GCC viết ra, để phúc đáp 1 vị độc giả, tại sao Gấu lèm bèm hoài về Brodsky mà không dịch thơ Brodsky! (1)


Adam Zagajewski


Zbigniew Herbert


Milosz


Charles Simic

The Dictionary

Maybe there is a word in it somewhere
to describe the world this morning,
a word for the way the early light
takes delight in chasing the darkness
out of store windows and doorways

Another word for the way it lingers
over a pair of wire-rimmed glasses
someone let drop on the sidewalk
last night and staggered off blindly
talking to himself or breaking into song.

Từ điển

Có thể có một từ, đâu đó, trong đó
diễn tả thế giới sáng nay
một từ, theo đó, tia sáng sớm sủa,
sướng điên lên, khi truy đuổi bóng tối,
ra khỏi những khung cửa sổ, những lối ra vô, nơi cửa tiệm, kho hàng. 

Một từ khác, qua đó, nó nấn ná, bịn rịn, với cặp kiếng, gọng bằng dây,
mà một người nào đó, bỏ rơi trên lối đi, đêm qua,
lảo đảo như 1 anh mù, lèm bèm với chính mình, hay bật thành bài ca.

Note: Trên The New Yorker số mới nhất, July 1st, 2013.
Gấu chưa mua tờ này, nhưng thấy trên Blog NL nên bê về đây.

Còn bài này cũng thú lắm:

June 25, 2013
Vasily Grossman: Loser, Saint [Kẻ Thua, Vì Thánh]
Posted by Sam Sacks

Note: Nhân trong bài viết của NL nhắc tới Borges & Tư & Từ Điển, bèn đi thêm bài này.

On Acquiring an Encyclopedia

Here's the huge Brockhaus encyclopedia,
with those many crammed volumes and an atlas,
here is Germanic dedication,
here are neo-Platonists and Gnostics,
the first Adam is here and the Adam of Bremen,
the tiger and the Tartar,
painstaking typography and the blue of oceans,
here are time's memory and time's labyrinths,
here are error and truth,
here the protracted miscellany more learned than any man,
here the sum total of all late hours kept.
Here, too, are eyes of no use, hands that lose their way,
pages unreadable,
the dim semishade of blindness, walls that recede.
But also here is a habit new
to that long-standing habit, the house,
a drawing-card and a presence,
the mysterious love of things-
things unaware of themselves and of us.

-A.S.T. 

Jorge Luis Borges: Selected Poems, [Penguin Classics]

PRODIGY 

I grew up bent over
a chessboard.

I loved the word endgame.

All my cousins looked worried. 

It was a small house
near a Roman graveyard.
Planes and tanks
shook its windowpanes. 

A retired professor of astronomy
taught me how to play. 

That must have been in 1944. 

In the set we were using,
the paint had almost chipped off
the black pieces. 

The white King was missing
and had to be substituted for. 

I'm told but do not believe
that that summer I witnessed men
hung from telephone poles. 

I remember my mother
blindfolding me a lot.

She had a way of tucking my head
suddenly under her overcoat. 

In chess, too, the professor told me,
the masters play blindfolded,
the great ones on several boards
at the same time. 

Người Phi Thường

 

Tôi lớn lên, trên
một cái bàn cờ 

Tôi mê cái từ tàn cuộc 

Tất cả bà con họ hàng đều tỏ ra buồn lòng. 

Ðó là 1 căn nhà nhỏ
ở gần một nghĩa địa Ba Lan
Máy bay và xe tăng
lắc lắc mấy khung cửa sổ của nó 

Một vị giáo sư thiên văn về hưu
dạy tôi chơi cờ 

Hẳn là năm 1944

Bộ cờ của chúng tôi
Quân đen tróc sơn gần hết 

Tướng Trắng, mất
Phải thay bằng một mẩu gỗ 

Tôi nghe kể nhưng không tin
rằng mùa hè năm đó, tôi chứng kiến những người đàn ông
treo trên những cột điện thoại 

Tôi nhớ mẹ tôi đã
bịt mắt tôi khá nhiều lần

Bà luôn luôn có cái cách của bà
bất thình lình cuốn đầu tôi
trong chiếc áo khoác của bà 

Trong cờ tướng, thì cũng vậy, vị giáo sư biểu tôi
những bậc thầy chơi cờ mắt bịt kín,
những bậc đại sư phụ thường chơi,
cùng một lúc vài cuộc cờ. (1)

Charles Simic

Còn điều này nữa trong quá khứ mà chỉ mới đây thôi tôi mới nhận ra, nó đóng góp vào cái sự “dai như đỉa”, kiên trì mần thơ, đó là tình yêu của tôi dành cho môn chơi cờ. Tôi học chơi cờ vào thời gian chiến tranh ở Belgrade, sư phụ là 1 vị giáo sư thiên văn về hưu, tôi khi đó 6 tuổi, và chỉ vài năm tiếp theo, tôi trở thành một cao thủ, nghĩa là, chơi đủ bảnh để hạ không chỉ tất cả đám con nít cùng tuổi,  mà còn rất nhiều đấng trưởng thành lối xóm. Những đêm mất ngủ đầu tiên trong đời, tôi nhớ lại, thì đều là do những ván cờ bị thua hành, khi tôi chơi lại chúng ở trong đầu. Cờ ám tôi và biến tôi trở thành ngoan cố, kiên cường. Ngay từ lúc còn bé tí như thế đó, mà tôi đã không thể nào quên nổi một nước cờ đi lầm, một trận cờ thất bại nhục nhã. Tôi cực mê những trận cờ mà đôi bên cùng lâm vào cái thế gọi là “tàn cờ”, mỗi bên chỉ còn vài quân, và mỗi nước đi, vào lúc đó, mới cực kỳ ý nghĩa làm sao. Ngay cả bây giờ, khi đối thủ của tôi là một chương trình máy tính (tôi gọi nó là “Thượng Đế”), đánh bại tôi 9 trong 10 trận, tôi không chỉ kinh sợ cái thông minh trên cơ của nó, nhưng còn nhận ra, những lần thua của tôi mới thú vị làm sao so với những lần thắng hiếm hoi. Những thứ thơ mà tôi viết, phần lớn là ngắn, và đòi hỏi sửa đi sửa lại, chắp chắp, vá vá hoài hoài, bất tận – thường gợi lên ở nơi tôi những trận cờ. Sự thành công của chúng tùy thuộc từ ngữ và hình ảnh được đặt đúng thứ tự, và những kết thúc của chúng thì không tránh được, và ngạc nhiên, như một cú chiếu bí lịch lãm.

Ui chao, Gấu lại nhớ lần thi Tú Tài Hai, ngồi trong phòng thi, chỉ nhớ những con xe, con mã, và kết quả là rớt, phải đến kỳ hai mới qua được.

Cũng như Simic, Gấu thuộc loại cao thủ, trong lớp tài tử, không phải thứ nhà nghề. Nhưng chỉ đến khi ở trong trại tị nạn Thái Lan, gặp 1 tay, vốn là bộ đội Cụ Hồ, và được tay này chỉ giáo, cờ của Gấu mới vượt hẳn lên 1 bực, và gần như chưa gặp được địch thủ, kể từ đó!

Một lúc chơi vài cuộc cũng là cái thú của Gấu, khi làm trang Tin Văn, và chính vì thế, làm bạn đọc bực mình, bài nào cũng nham nhở, chẳng bài nào hoàn tất!

Hà, hà!

Old Soldier

By the time I was five,
I had fought in hundreds of battles,
Had killed thousands
And suffered many wounds
Only to rise and fight again.

After the bombing raid, the sky was full
Of flying cinders and birds.
My mother took me by the hand
And led me into the garden
Where the cherry trees were in flower.

There was a cat grooming herself
Whose tail I wanted to pull,
But I let her be for a moment,
Since I was busy swinging at flies
With a sword made of cardboard.

All I needed was a horse to ride,
Like the one hitched to a hearse,
Outside a pile of rubble,
Waiting with its head lowered
For them to finish loading the coffins.

Charles Simic

Lính Già

Vào lúc năm tuổi
Gấu đã trải qua hàng trăm trận đánh
Làm thịt hàng ngàn tên VC
Và đau đớn vì rất nhiều vết thương, trong có cú nhà hàng nổi Mỹ Cảnh,
Một mình đợp hai trái mìn của BVVC của Gấu là ĐH
Chỉ để lại bật dậy và chiến đấu tiếp

Sau trận oanh tạc, bầu trời thì đầy những xỉ than bay và chim
Mẹ Gấu cầm tay Gấu
Dẫn ra ngoài vườn
Nơi những cây anh đào đang nở rộ

Có một con mèo tự liếm mình,
Mà cái đuôi thì Gấu muốn kéo
Nhưng thôi tha cho nó
Bởi là Gấu đang bận rộn chém lũ ruồi
Bằng cây gươm làm bằng giấy bìa

Tất cả những gì Gấu cần, thì là 1 chú ngựa để cưỡi
Như chú ngựa nhà đòn,
Ở ngoài đống gạch vụn,
Đợi, với cái đầu thấp xuống
Để chất quan tài


Thơ Mỗi Ngày

I

Bia kỉ niệm từng hồi thổn thức
Đường vân đá hoa thấm từng vết máu
Niềm tin và tuổi xuân
Ngã sóng xoài dưới xích sắt xe tăng
Câu chuyện đông phương cổ xưa ấy
Bỗng muốn nhỏ xuống từng giọt tươi rói 

Thư tín:

Câu chuyện đông phương cổ xưa ấy
Bỗng muốn nhỏ xuống từng giọt tươi rói
DV

Ancient story of the East
leaks out new hope unexpectedly

Câu chuyện cổ của Đông Phương
Làm bật ra hy vọng mới một cách không ngờ [unexpectedly]

Trong câu này không có ý nào nói về hi vọng, mà chỉ nói lên một ý là : Câu chuyện cổ xưa của Phương Đông (những chuyện như giết chóc đổ máu, phần thư, khu nho...) như muốn nhỏ xuống, tươi roi rói như những giọt máu hôm nay.

Thử đọc, câu trong nguyên tác: 突 然 (đột nhiên) (tươi mới) 欲 滴 (dục tích : muốn/chực nhỏ xuống),
diễn đạt thành:
Bỗng muốn nhỏ xuống từng giọt tươi rói.  

Bác coi lại từng đoạn rồi trao đổi tiếp nghen bác.
Tks bác.

- Câu này có gì đó tương tự câu của Trần Mộng Tú: Giọt mưa trời khóc ngàn năm trước.....  :)
DV

Tks
NQT

Quả là có sự tương tự giữa,

Câu chuyện đông phương cổ xưa ấy
Bỗng muốn nhỏ xuống từng giọt tươi rói
Liu Xiaobo

Giọt mưa trời khóc ngàn năm trước
Sao còn ướt trên lưng bàn tay
TMT

Tuy nhiên, có sự "khác biệt vô cùng khác biệt", liên quan tới thơ [TMT] và tới cái ác.

Để giải thích ý thơ của TMT, ta có câu trả lời của Brodsky: 

Chúng là một cách tái cấu trúc thời gian - ngàn năm trước nối lại với phút giây này, giây phút thần kỳ giọt lệ trời biến thành giọt lệ người: They are "a means of restructuring time". (1)

Trong bài giới thiệu tập thơ của Akhmatova, ông nói rõ hơn:

...  phép làm thơ, prosody, là “repository of Time within language” [nơi chôn cất, ký thác của Thời Gian ở trong ngôn ngữ]…. Chúng [những câu thơ] sẽ sống sót, bởi vì ngôn ngữ thì già hơn nhà nước, và phép làm thơ luôn sống sót lịch sử.
Có khi nó chẳng cần lịch sử [it hardly needs history]; tất cả những gì nó cần, là thi sĩ.


Đừng, đừng, chẳng bõ, chẳng đáng:
Un lunatique du Non


Flaubert


Ghi chú trong ngày

*

MANDELA'S UNSHAKABLE CONVICTIONS
Niềm tin không lay chuyển của Mandela


Selecting A Reader
Chọn Một Quyển Thơ

Lý Ốc BR phiên dịch (1)

Note: A reader, một độc giả, mới đúng, theo GCC. Tinh thần bài thơ cũng theo nghĩa đó.
Nhà thơ chọn cho mình 1 nữ độc giả, nghèo, tính mua tập thơ, nhưng lại tiếc tiền, vì cần giặt cái áo, hơn thơ.
[Reader còn có nghĩa "độc bản", thí dụ George Steiner: Độc Bản (A Reader 1984) (2)

Tôi biết tên dịch giả Trịnh Y Thư đã lâu từ quyển Đời Nhẹ Khôn Kham của Milan Kundera. (3)

Theo như GCC được biết, thì cái tít này của NTV. Anh có nói với GCC  về vụ này.
Anh được dịch giả tặng 10 cuốn “Đời nhẹ khôn kham”, có lẽ là 1 cách để cám ơn cho mượn cái tít?
Và anh có cho GCC 1 cuốn!

Nêu ở đây, như cái dấu hỏi.

Vả chăng, trong tiếng Việt, “đồ chơi”, là để dịch từ “toy”, thí dụ như...  “sex toys”.
Còn văn chương, nó có thể là "trò chơi", "cuộc chơi", như từ “endgame", trong bài thơ của Simic, trên, sao lại "đồ chơi" được?
Khó hiểu quá, cả với VP & TYT.
NQT

TB: Bản dịch rất dở, ấy là nói về "gò" tiếng Việt. NQT


When going home with Oẳn Tà Roằn?

Quách Thoại by LHP

Thoại's Summer
Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu
Benjamin: Kẻ tản bộ, đi rong.

[Benjamen: Mystic, Marxist, man of letters


Cali 2012 With H/A