Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự văn học |
Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ |  Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
  Ghi chú trong ngày | Thơ Mỗi Ngày | Nhật Ký | Chân Dung | Jennifer Video 


15.1.2013


Tết Quý Tỵ

*


*

Epitaph on a Tyrant

Perfection, of a kind, was what he was after,
And the poetry he invented was easy to understand;
He knew human folly like the back of his hand,
And was greatly interested in armies and fleets;
When he laughed, respectable senators burst with laughter,
And when he cried the little children died in the streets.

January 1939

Bia mộ Bác Hát

Bảnh, thật bảnh - kiểu đó - đó là cái mà Hắn tìm
Và thơ Hắn phịa ra - hoặc chôm của Tẫu – thì thật dễ hiểu
Hắn rành sự khùng điên của con người như lưng bàn tay
Hắn rất quan tâm tới những binh đoàn kéo nhau ra tiền tuyến
Khi Hắn cười, cả bộ sậu Bắc Bộ Phủ bò ra cười
Và khi Hắn khóc những đứa trẻ chết như rạ ở đường phố Xề Gòn

In Memory of W B. Yeats

(d.January 1939)

I

He disappeared in the dead of winter:
The brooks were frozen, the air-ports almost deserted,
And snow disfigured the public statues;
The mercury sank in the mouth of the dying day.
O all the instruments agree
The day of his death was a dark cold day.

Nhà thơ biến mất vào trong cái chết của mùa đông
Những con suối đóng băng, những phi trường gần như hoang tàn
Và tuyết huỷ hoại những pho tượng công cộng
Thời tiết [Thần Méc cua] chìm vào trong miệng của ngày chết
Ôi, tất cả những công cụ thì đều đồng ý
Ngày nhà thơ mất đi là một ngày lạnh giá, âm u

Time that is intolerant
Of the brave and innocent,
And indifferent in a week
To a beautiful physique,

Worships language and forgives
Everyone by whom it lives;
Pardons cowardice, conceit,
Lays its honours at their feet.

Time that with this strange excuse
Pardoned Kipling and his views,
And will pardon Paul Claudel,
Pardons him for writing well.

W.H. Auden (1)

Thời gian vốn không khoan dung
Đối với những con người can đảm và thơ ngây,
Và dửng dưng trong vòng một tuần lễ
Trước cõi trần xinh đẹp, 

Thờ phụng ngôn ngữ và tha thứ
Cho những ai kia, nhờ họ, mà nó sống;
Tha thứ sự hèn nhát và trí trá,
Để vinh quang của nó dưới chân chúng.

Thời gian với nó là lời bào chữa lạ kỳ
Tha thứ cho Kipling và những quan điểm của ông ta
Và sẽ tha thứ cho… Gấu Cà Chớn
Tha thứ cho nó, vì nó viết bảnh quá!

Hà, hà!


Ta về cho kịp độ Xuân sang

Ông về thì ông cứ về, ai cấm đâu?

TTY viết “ta về”, là ta đi tù về, ông nhập nhằng, như tâm địa của ông nhập nhằng, chán thế!

Note: Có lẽ dùng từ “điếm thúi” đúng hơn từ “nhập nhằng”.  (1)
NQT

(1)

GNV từng lèm bèm, sở dĩ đám tinh anh Bắc Kít, không có lấy 1 mống, đau vì một “Miền Nam Sâu Thẳm” biến thành “Cánh Ðồng Bất Tận”, chiều chiều đĩ lượn như muỗi rừng U Minh, ấy là vì một nửa bộ óc của chúng, dù bảnh cỡ Nobel Toán, bị liệt.
Cũng thế, là ở đám tinh anh hải ngoại, thí dụ, bộ lạc Cờ Lăng. Không những không đau, chúng còn mừng: nếu không có cuộc chiến tàn khốc, làm sao chúng… sống sót, trở thành chứng nhân của lịch sử, tố cáo Cái Ác của VC, làm sao có được cơ ngơi như hiện nay ở Mẽo: Chúng ông tới đây rồi là chúng ông không đi đâu nữa như đám này đã từng tuyên bố.

Cái sự thành công của băng đảng Cờ Lăng, và cái sự làm chủ cả nước Mít của băng đảng Mafia Ðỏ, có cái gì đó làm chúng ta hoảng sợ, và, ghê tởm.
Thứ nhất, nó chứng minh, cuộc chiến Mít nuốt sạch những ai thực sự đám dương đầu với nó, thực sự mong muốn, đó là cuộc chiến sau cùng của Mít, một khi đất nước qui về một mối, thì tha hồ mà xây cái nhà Mít. 

Thứ nữa, nó chứng minh, đây là cuộc chiến của chỉ những đám Bắc Kít với nhau, nào là Bắc Kít / PXA, vô Nam từ hổi nảo hồi nào, do mảnh đất quê hương Hải Dương của cha ông của ông ta đói quá, không nuôi nổi 1 cộng đồng cứ ăn rồi lại đẻ mãi ra [điều này không phải Gấu, mà là cái tay viết về PXA, trên tờ The New Yorker phán], rồi Bắc Kít/ Tô Hoài, một kẻ đã từng tới thiên đàng Miền Nam, trở lại đất Bắc, và mỗi lần nhớ tới là thèm… , rồi tới đám Bắc Kít di cư, trong có tên “Người của chúng ta ở Paris”, có Gấu, ông số 1, và ông số 2. Và tất nhiên, đám Bắc Kít sinh Bắc tử Nam, đám Bắc Kít sống sót sau cùng theo xe tăng vô Dinh Ðộc Lập.
Cả 1 lũ Bắc Kít đánh nhau loạn xà ngầu, gây họa cho cả thế giới.

Khủng khiếp thật!
Ðó là hai mặt, phải và trái, của cuộc chiến Mít.

Đâu phải tự nhiên mà bộ lạc Cờ Lăng vồ liền "Koestler Mít" [VTH] với Darkness at Noon?
Cũng thế, là Bên Thắng Nhục của anh tà lọt Ô Sin.

Ngày đầu năm trên quê mẹ (Trần Kiêm Đoàn)

Gấu cũng… về:

Giận dữ lưu vong

Và Gấu bước xuống bến tầu Xề Gòn
Dưới cơn mưa Xề Gòn thật mịn màng
Về với thành phố quá đỗi đổi thay
30 năm nội chiến từng ngày
Gấu  không làm sao nhận ra
Những nơi chốn mà Gấu đã từng lớn lên
Những khuôn mặt cố giải thích 

Nhưng bến tầu thì vẫn bến tầu
Những ống khói tầu thì vẫn mệt lả
Nơi Gấu ném mẩu thuốc cuối cùng xuống dòng sông thì cũng vưỡn còn
Tôi ra đi nơi này vưỡn thế! 

Có lẽ nếu Gấu đừng đi, và cứ lì ở lại
Và sống với Xề Gòn từng trận hỏa tiễn VC réo ngang đầu
Từng trận B52 rải thảm quanh thành phố
Sau cùng Gấu sẽ trưởng thành
Và biết ‘nhà’ nghĩa là cái quái gì (1)



*

*


Thơ Mỗi Ngày

Beckett, portrait

HOW BECKETT DID IT

Strong Points

(1) First lines. From his earliest novel, "Murphy" (1938), Beckett set his own tone: "The sun shone, having no alternative, on the nothing new." (2) Pauses. Without Beckett, Pinter could never have created his sinister tension. He marks the silences as "[Pause]" or "[Silence]", each becoming something palpable. (3) Compassion. Within these grey landscapes, his characters flicker with warmth – even if it is just Estragon and Vladimir looking on in helpless horror at Lucky’s enslavement by Pozzo.

Những điểm mạnh

1. Những dòng đầu.
Từ cuốn tiểu thuyết đầu tay, “Murphy”, ông đã vạch ra, đặt để, đóng dấu… giọng văn riêng của mình:
 “Mặt trời chiếu, đâu có cách nào khác, về cái chuyện chẳng có gì mới”.
2. Những đoạn ngưng. Không có Beckett, [nhà soạn kịch, Nobel văn chương, người Anh] Pinter không thể nào, chẳng bao giờ có được cái sức căng thẳng nham hiểm, quỉ quái của mình. Beckett điểm những cú lặng như “[Ngưng]”, “[Im lặng]”, mỗi cú trở thành một cái gì có thể vỗ vỗ, sờ sờ được.
3. Lòng cảm thông. Với quang cảnh kịch xám xịt như thế, những nhân vật của ông long lanh, óng ánh sự ấm áp – ngay cả nếu chỉ có, nếu chỉ còn có thế: Estragon và Vladimir nhìn một cách ghê rợn, tên chủ Pozzo hành hạ gã tà lọt Lucky.

Golden Rule

Never to compromise. Estragon’s trousers have to fall all the way down at the end of "Godot". The action and dialogue of "Play" has to be repeated, by actors who are up to their necks in urns. Whole novels can go by without a paragraph break. Both his novels and plays require concentration, and a stomach for repetition. But they reward the persistent

Luật Vàng

Không bao giờ, chớ khi nào thỏa hiệp, cấm cái trò ông mất “củ” kia, thì bà chìa “của” nọ. Quần Estragon tụt dài dài, tụt suốt, cho tới khi chấm dứt “Godot”. Hành động và đối thoại của “Play” phải lập lại, bởi những nghệ sĩ, diễn viên mà tro than [Lò Thiêu, Lò Cải Tạo] ngập tới tận cổ. Trọn những cuốn tiểu thuyết cứ thế mà đi, đếch cần 1 đoạn ngưng, nghỉ, gẫy. Cả kịch lẫn tiểu thuyết của Beckett đòi sự chú tâm, xoáy vô, chốt vô… và 1 cái dạ dày, cho sự lập lại.
Nhưng thật xứng đáng, chúng ban thưởng cho chúng ta, sự khăng khăng, cố chấp, “thua, thua nữa, thua cho bảnh!”

Đừng thành công, Alain phán, là vậy!

Trên Người Kinh Tế có bài viết về kịch Pinter, thật tuyệt. Và 1 bài nữa, cũng về “hồi nhớ”, cũng thật tuyệt; cả hai 1 cách nào, liên quan tới “hồi nhớ và lịch sử”, tức đề tài của “Bên Thắng Nhục”

Harold Pinter’s “Old Times”
Ah yes, I remember it well
A mysterious play about the tricks of memory returns to London

Memory
Remember, remember

New understanding is emerging of memory and forgetfulness

IRENEO FUNES, a character in a story by Jorge Luis Borges, has a strange affliction.  He forgets nothing, a condition that makes him incapable of analytical thought. Fiction, of course. But it emphasizes a point.  The memory is an evolved structure with a job to do. That job is to preserve its owner and help him or her reproduce. Perfection is not required, only adequacy. Indeed, selective forgetting of the useless is as important as selective remembering of the useful. And much of this winnowing takes place during sleep, as two papers in this week's Nature Neuroscience observe. One of these papers is a review of previous work, by Robert Stickgold of Harvard University and Matthew Walker of the University of California, Berkeley. They propose that the process of sleep acts as a form of triage-first choosing what to retain, and then selecting how it will be retained. The other paper, by Dr Walker and his colleague Bryce Mander, ompares the process in the young and the old. One of the studies Dr Stickgold and Dr Walker examine in their review (a study which was, as it happens, led by Dr Walker) found that sleep does indeed help people discard information they have been told to forget. The more frequently someone experiences waves of brain activity known as sleep spindles, the more his brain scraps items that it is supposed to. Rather than forget passively, then, the brain seems to shed memories actively. Sleep also helps guide memories intended to be retained down particular paths-remembering patterns, for example, as opposed to facts. In two other studies the reviewers examined, some 15-month-old babies had been exposed to patterns of fake grammar in which the first syllable of a nonsensical word predicted the last. Only those who napped within four hours were able to recognise the pattern later that day or the next. The paper by Dr Walker and Dr Mander looked further into the matter of forgetting, by comparing the process in the young and the old. Eighteen people in their teens and 20s, and 15 in their 60s and 70S, were taught nonsensical word pairs, tested on them almost immediately, and then tested again after a night's sleep. The oldsters scored worse than the youngsters in the immediate test, which was no surprise. What was notable was that, after sleep, oldsters' brains seemed to retain even less material than youngsters'. Those who retained the least had slept less deeply. This poor sleep, in turn, was linked to the shrinking of part of their brain, brought on by ageing. Old people do not, of course, need to remember as much new material as the young do, because they are already familiar with so much of what they experience. So it may be that their inability to form new memories is not a bug, but a feature.
 In Borges's story that matter is never put to the test. Ireneo Funes dies at the age of 21 .+

The Economist
2, Feb, 2013


Note: Bài viết nào của The Economist - dù là 1 bài khoa học như bài này, cũng bắt đầu bằng 1 hình ảnh, trích dẫn, giai thoại…. văn học!

Nhân vật của Borges đếch quên cái gì hết nhưng với điều kiện khiến anh ta không thể phân tích sự kiện The memory is an evolved structure with a job to do: Hồi nhớ là 1 cấu trúc tiến hóa với 1 “job” để mà làm!
Cả hai câu trên đ
ều áp dụng ngay bong vào trường hợp tà lọt Osin!

“Đại tự sự”, “khẩu sử” cái con khỉ!
Hà, hà!

Dốt quá, không phân tích được sự kiện. Thiếu tầm nhìn, vision, tư cách, đạo hạnh số không - thì vụ HA đó - vậy mà đòi vô địa ngục VC!



Cô Trà


Tác phẩm đầu tay

Mù Sương

*

Người ta chỉ ưa đọc tác phẩm đầu của mỗi nhà văn. Tôi hiểu câu đó như vầy, người đọc chỉ ưa khám phá  ra cái phần yếu của tác phẩm. Trong Mù Sương, có cái yếu, tất nhiên, nhưng là của... 1 thiên tài.
Như Tây Thi nhăn mặt!
Đâu có ai bắt chước được!
Hà, hà!


Joseph Roth, như tiểu thuyết gia, là từ báo chí, qua vai ký giả. Tương tự Garcia Marquez, nhưng, nếu, với Garcia Marquez, ông phải dựa vào [phịa ra thì cũng được] cái gọi là hiện thực huyền ảo, thì Roth có sẵn cả 1 đế quốc Áo Hung, tha hồ mà tung hoành. Anh tà lọt Osin không có được cái "vision" này, thành ra mớ hổ lốn của anh chẳng thể trở thành 1 tác phẩm, về cả hai mặt báo chí lẫn giả tưởng. Và, như Gấu phán, cái mà Mít cần, là … giả tưởng, chứ không phải... sự thực lịch sử! 

Một giả tưởng, chẳng cần dài, cỡ Y Sĩ Đồng Quê của Kafka.

Viên y sĩ bị lừa, có ngay ở ngoài đời, là nhà văn DTH.

Cảnh DTH ngồi khóc ở hè đường Sài Gòn, thì đâu có khác gì anh y sĩ già ngửa mặt lên trời than, ta bị lừa, bị lừa!

Chúng ta cứ thử tưởng tượng, nếu không có nhân vật… Tường, mà NMG khăng khăng phán, tớ phịa ra, thì liệu có Mùa Biển Động?
Cái số phận của HPNT, như bây giờ, phải chăng là do NMG phịa ra, rồi biến thành… hiện thực? 

Garcia Marquez, trả lời phỏng vấn, không tin có sự khác biệt giữa báo chí và giả tưởng, nhưng theo Gấu, hai món này khác hẳn nhau. Lấy ngay trường hợp của chính ông, khi viết Chuyện 1 người thuỷ thủ đắm tầu, The story of a shipwrecked sailor, như trong Second Read, là thấy. Đọc, Gấu lại nhớ tới cú ngụy tạo đầu độc tù VC ở Phú Lợi của…  VC.
Cả 1 cuộc chiến có thực, với bao nhiêu con người bỏ mạng, và số phận cả 1 đất nước bốn ngàn năm văn hiến biến thành... không, bắt đầu bằng 1 cú ngụy tạo!


Tribute to Phạm  Duy

Pleiku - Chút Gì Để Nhớ

Bài này mới thần sầu. GCC khám phá ra tác giả HH, qua bài này.
Trong bài viết, Pleiku là thành phố tưởng tượng, vì đã tới đó bao giờ đâu. Nhưng mấy nơi chốn kia thì có thực, vì đã từng thăm viếng.
Dùng cái thực để dựng lên cái ảo, thế mới tuyệt. 

"Khói củi ướt nhóm trong lò bốc lên màu xám trong buổi chiều đầy hơi nước biển mù mù như sương"
Thực.

Em Pleiku má đỏ môi hồng. Ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông. Nên tóc em ướt. Nên mắt em ướt. . . Đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy Pleiku trong bài thơ của Vũ Hữu Định, Phạm Duy phổ nhạc.
Ảo 

Được Ông Gấu khen thì đúng là lên thiên đàng!

Tks again
Take care
NQT



Ghi chú trong ngày

Viết bên lề "Bên Thắng Nhục

NQL: “Những bức ảnh dưới đây cho chúng ta nhìn lại Chiến tranh Việt nam từ lúc Mỹ leo thang can thiệp đầu những năm 1960 đến lúc chính quyền Sài Gòn cũ sụp đổ”. Denverpost chỉ giới thiệu một câu vậy thôi nhưng xem phóng sự ảnh dưới đây ta thấy cả cuộc chiến tranh Việt Nam đã được dựng lại rất sinh động và xác thực, thật tuyệt vời! Cảm ơn KTS Võ Thanh Lân đã gửi cho đường link và Bs Nguyễn Hải Phong đã dịch phóng sự ảnh này. (Đọc tiếp…)

Những bức hình dưới đây, thì cả thế giới đều biết từ khuya rồi, tính sinh động, xác thực thì cũng thế, nhưng cái xác thực, trước và sau những tấm hình, thì lại đếch có.

Xác thực thứ nhất, chính VC nhử Mẽo vô Nam Việt Nam, để có cớ xâm lăng, bằng cú ngụy tạo đầu độc tù Phú Lợi.
Xác thực thứ nhì, 3 triệu người xác thực chết, để tạo ra xác thực là 1 nước VC bây giờ, muốn bắt ai thì bắt.

Khoe khoang thành quả 30 Tháng Tư hoài, sao không khoe nhục nhã?
Có 1 cái blog mà phải khóa lại, sao không khoe? (1)

Commemoration is always the adaptation of memory to the needs of today.
Tsvetan Todorov

Tưởng nhớ, hoài niệm…  luôn luôn là sự sửa lại hồi ức cho hợp với nhu cầu hiện tại.

Cynthia Ozick trích dẫn, trong bài viết “Who owns Anne Frank?" (1)

V/v loạt bài viết dài dài bên lề "Bên Thắng Nhục", có 1 chi tiết cần hiệu đính: Gấu Cà Chớn mới biết đây thôi, anh tà lọt O Sin là Bắc Kít chính cống Bà Lang Trọc. Trước, Gấu nghĩ là anh này, đệ tử của Hồ Tôn Hiến, Nam Kít!

Sorry. NQT

Trong bài giới thiệu, introduction, cho cuốn Second Read, James Marcus, trích dẫn nhận xét của Nabokov, kể cũng lạ, curious enough, người ta không thể đọc 1cuốn sách mà chỉ có thể đọc lại nó “one cannot read a book: one can only reread it”.
Tất nhiên Nabokov nói về giả tưởng, về 1 cuốn tiểu thuyết. Nhưng nhận xét của ông áp dụng OK, cho báo chí, cho 1 tác phẩm phi-giả tưởng.
Tất nhiên cuốn của Osin, khó mà “đọc lại” được!

Và điều này liên quan đến câu phán của Đức Phật, đức hạnh ít nhất thì cũng như...  Ta, thì mới dám bò vô địa ngục VC!
Vấn đề cuộc chiến Việt Nam, rất cần 1 tên VC chính hiệu, viết, theo cái nghĩa, vẫn của Phật, kẻ buộc chuông mới có thể cởi chuông được. Sở dĩ cuốn Nỗi Buồn Chiến Tranh được ca ngợi, là còn hàm ý đó. Cái văn rất cần, cái đạo hạnh lại càng cần hơn.
TV sẽ giới thiệu 1 số bài viết liên quan tới "vấn nạn" Bên Thắng Nhục: Mỹ mới là mẹ của đạo hạnh [Brodsky], mọi nghệ thuật thứ thiệt là chính trị [Tout art véritable est politique. Toni Morrison].

Thầy Cuốc không làm sao bỏ được cái trò bịp thiên hạ. Lần Thầy viết về VP thì lôi Barthes ra khoe, nào cái biểu đạt, cái bị biểu đạt… VP biết gì mấy cái thứ này, vì ông viết truyện ngắn, tiểu thuyết, mắc mớ gì tới ký hiệu học. Bây giờ, viết về Osin và mớ bài phỏng vấn, Thầy lôi “khẩu sử, hậu hiện đại, lẩn đại tự sự” ra trộ thiên hạ. Rõ ràng là bịp, với dân pro, hoặc có chút hiểu biết, làm sao mà mớ tài liệu ở dưới dạng thô thiển như thế mà lại liên quan tới văn học, tới cái gọi là viết [‘l’écriture, writing]. “Khẩu sử” cái con khỉ. Mũi lõ có câu, đừng tin nhà văn, hãy tin câu chuyện kể, tức cuốn sách được viết ra, tức 1 cuốn tiểu thuyết.
Tiểu thuyết liên quan gì đến ba thứ tài liệu là những cuộc phỏng vấn nhảm, bữa nay nói thế này, mai nói thế khác, của mấy tên VC học hành thì cũng lớp 1 như Hồ Tôn Hiến? Chúng không có độ khả tín. Chỉ 1 câu nói, Ngụy chúng mi còn cái gì để mà bàn giao, mà hết tên này, đến đến kia, nhận là tác giả, làm sao mà tin cậy vào lủ VC được? Chúng co khi nào nói thật đâu?
Bởi vậy, Mít chúng ta cần, là 1 tác phẩm văn học, thứ thiệt, mang tính chính trị, đúng như nhà văn Mẽo, da đen, Nobel văn chương, Toni Morrison phán.
Thầy Cuốc phán, Bên Thắng Nhục, 1 cuốn sách hay.
Thầy đâu phán, giá trị.
Hay thì “rắm ai vừa mũi người đó”. Gấu thấy đếch hay – qua tư cách của anh ta mà suy ra - thành ra đếch đọc.


Cali Nov 2012 With HA

Anh Môn

Trong Sổ Tay, NB, dưới cái tít “Halo and Horn” [nghĩa của cụm từ này cũng giống như “pro & contra” của Sến Cô Nương, “halo”, chào mừng, “horn”, cái sừng, để đâm cho mi 1 phát!] của tờ TLS, số Jan 4, 2013, điểm những nhân vật văn chương xuất hiện theo dòng thời gian, JC [người phụ trách] viết, thì cũng là 1 cách để đánh giá, ai còn ai mất [chìm vào quên lãng đúng hơn], và nếu 2012 là năm tưởng niệm John Cheever, vẫn ngon cơm [GCC không hề biết đến ông này], và sự mất giá của Lawrence Durrell [ông này thì lại rất rành, BHD chẳng đã mang 1 cuốn của ông đến tặng Gấu đúng ngày sinh nhật, lần thứ 30 mà cũng là lần thứ nhất, sau khi thoát chết vì mìn VC, cùng với lời đề tặng, bằng tiếng Tẩy, "Je serai ta femme", và, em quên béng liền sau đó, cả Gấu lẫn lời đề tặng], và phán, 1 năm ủ ê, và phán tiếp, năm tới 2013, chắc là khá hơn.
Quả thế, 1913 là năm Albert Camus ra đời.
Cho tới nay, chàng vẫn là số 1, a great force in world literature một “thế lực” lớn -
từ này thuổng của 1 thi sĩ - trong văn chương thế giới, một “haloed figure” so với đồng hương, kẻ thù của chàng, a horned counterpart, là Sartre. Cả hai đều rành nhiều môn võ công giang hồ, viết giả tưởng, kịch, triết, và báo chí, [cả hai đều còn là editor]. Sự nổi danh dài dài của Camus là nhờ giả tưởng, và trong khi Satre vưỡn được coi là triết gia, thì Camus, "thôi rồi, anh ơi".
 “Hồi này, bạn có đọc Kẻ Nổi Loạn của ông ta không”? JC đặt câu hỏi cho độc giả, và tự trả lời, "cuốn này đúng là second-hand patchwork, đồ bá láp. Và nếu bạn ý muốn phản biện, thì chúng tôi, TLS, sẽ rất hân hạnh!"
Vẫn theo JC, những tiểu luận đầu tay của Camus có vẻ như bị lơ là, bỏ qua, chúng thật chói sáng, và là những tác phẩm suy tư, meditative works, về Algeria, và được xb tại đây vào thập niên 1930. Hai tác phẩm [thần sầu], Noces [Mít, tờ Văn trước 1975, Trần Thiện Đạo, hình như vậy, dịch là Giao Cảm] và L’Envers et l’endro
it, [hình như cũng đã được tờ Văn dịch, Bề mặt và bề trái], cả hai đều bị chế ngự [dominated] bởi mặt trời. Nhưng cái chói sáng nhất của chúng đối với độc giả, vẫn theo JC, là sự thông minh ở tác phẩm đầu tay của 1 kẻ tập tành viết, the debutant’s intelligence.

Và, bây giờ, tới lượt Le Grand Meaulnes & Yvonne de Quiévrecourt, và Sad Seagull & GNV, "chói sáng" cùng với năm 2013!

*

Kẻ nào viết rõ ràng thì có độc giả. Kẻ nào viết hũ nút thì có thợ “còm”.
Hand-made gift from TV Reader
Tks. NQT

Henri Alain-Fournier là tiền thân của Camus, trong vai trò người hùng của tuổi trẻ.

Cuốn Anh Môn xb năm 1913:

Mặc dù nổi tiếng như thế đó, Anh Môn, 100 tuổi tính đến năm nay, 2013, là 1 tuyệt tác đang gặp hiểm nguy, bị tiêu trầm, chìm vào quên lãng. Du khách hành hương viếng thăm căn nhà thời ấu thơ của Alain Fournier, gần Lộ Đức, ngày càng mỏng dính [thưa thớt, nếu biết tiếng Mít, dịch từ “thin” của tiếng Hồng Mao].
Những ngày này độc giả Anh, Mẽo thường chọn tiểu thuyết Tẩy, thứ có mùi triết Tẩy, hiện sinh hiện xiếc, [thí dụ, đến ngay Cô Tư, miệt vườn Cà Mâu xứ Mít, mà văn còn có mùi hiện sinh - cái gì ở giữa hai ngón cái - nữa là!]
Một thập niên trước đây, Tobias Hill ghi nhận, sách sống sót nhờ một hệ thống rỉ tai bằng tiếng Tầu, “a barely audible system of Chinese whispers”.
Tại sao nhiều độc giả Anh lại hờ hững với cuốn sách, được một số những nhà văn thuộc loại số 1, được kính trọng, nể vì của Ăng Lê, trân trọng, và có ông còn nhận tác giả của nó, là Thầy của mình, như Fowles?
Và, với những độc giả coi Anh Môn như sách gối đầu giường, thì là do đâu?
Do cách viết, do văn phong, giản dị, "viết như không viết"?
Một câu chuyện tình thời mới lớn không làm sao quên được, mang chất hoài cổ, lãng mạn, vãi linh hồn?
Với những fans khác, tình tiết ly kỳ, tính thơ của ngôn ngữ?
Rất nhiều độc giả bị hớp hồn bởi cái gọi là “buồn vào hồn không tên”, một nỗi u hoài, bi ai, toát ra từ một thứ thơ xuôi, như 1 nhà phê bình nhận xét, “như sương mù bên trên bãi tha ma”.
Một phần, còn do cuộc đời của chính tác giả, một cuộc đời lãng mạn, và cái chết trẻ của ông, và câu chuyện về người đàn bà đã gợi hứng cho ông.
*

-Em tìm để từ biệt anh. Oanh ngừng đợi phản ứng của Kiệt - Trước khi không còn được gặp anh, em muốn...
Kiệt lặng người....
TTT: MCNK

There is among all your memories one which has now been lost beyond recall.
J.L. Borges: Limits
Trong tất cả hồi ức của mi, có một, mất tăm, tích, không làm sao nhớ lại được.

Gấu không làm sao nhớ lại được khuôn mặt của Sad Seagull, sáng bữa đó, ở quán cà phê Starbucks, hay ở 1 quán ăn ở Quận Cam, buổi chiều hôm đó.
Tính ghé tiệm sách, nhưng em đổi ý.
Khi ăn xong, anh cũng không còn nhớ, ăn món gì, em nhìn trời, nhìn đồng hồ, nói trễ quá, phải trả xe cho người bạn….

To love a scene so much and yet to miss someone so essential to it was doubly heartbreaking
Damned to Fame, the Life of Samuel Beckett

Bây giờ thì GNV hiểu ra tình cảnh đưa đến ý định chấm dứt đời mình ở bên ngoài Phước Lộc Thọ, buổi chiều hôm đó.

Đó là do yêu quá yêu cái cảnh buổi sáng ngồi cà phê Starbucks với Sad Seagull, và nhớ đến phát khùng Sad Seagull mà hình ảnh của cô đóng chặt vĩnh viễn vào cái buổi sáng lần đầu tiên gặp mặt đó, và như câu phán ở trên, nỗi đau như được nhân gấp đôi lên, và càng thêm chán chường những ngày còn lại, quá vô vị, nhàm chán…

Buổi sáng hôm đó, em lo hết. Tất tả đi kiếm chỗ ngồi, sau cùng kiếm được 1 cái bàn ở ngoài trời, thật gió, thật lạnh [Cali mấy bữa đó, lạnh sợ còn hơn cả Canada!], rồi tất tả xếp hàng mua cà phê, tất tả bưng ra, Gấu già ngồi 1 chỗ, chẳng làm gì hết, ngắm em tất tả…. Em chừa cái ghế có cái cột che gió cho Gấu già, ngồi kể chuyện tuổi thơ của em, Gấu lắng nghe, thật cảm động, đến quên cả cái chuyện em rét run, anh chàng Mít, cũng đứng tuổi, ngồi bàn kế, thừa cơ em đứng dậy, bèn kéo cái ghế của em vào 1 chỗ khuất gió, rồi gật gù nhìn Gấu thông cảm, ra ý, đúng ra mi phải làm việc đó, nhưng thôi già rồi, ta làm giùm!


Đại Lục Kim Dung


Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu