Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự văn học |
Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ |  Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
  Ghi chú trong ngày | Thơ Mỗi Ngày | Nhật Ký | Chân Dung | Jennifer Video 


31 May 2014

  
Happy Mother's Day

Maya Angelou: a titan who lived as though there were no tomorrow

America has not just lost a talented Renaissance woman and a gifted raconteur– it has lost a connection to its recent past

The poet and memoirist Maya Angelou died on May 28th, at the age of eighty-six. A civil-rights activist and a professor at Wake Forest University, Angelou—born on April 4, 1928, in St. Louis, Missouri—was the author of works including “I Know Why the Caged Bird Sings,” and received awards including the National Medal of Arts and the Presidential Medal of Freedom. Her public life spanned decades and included a nomination for the Pulitzer Prize, as well as dozens of honorary degrees.
The New Yorker



21 May 2014

Happy Mother's Day

Evening Walk

You give the appearance of listening
To my thoughts, O trees,
Bent over the road I am walking
On a late summer evening
When every one of you is a steep staircase
The night is slowly descending.

The high leaves like my mother's lips
Forever trembling, unable to decide,
For there's a bit of wind,
And it's like hearing voices,
Or a mouth full of muffled laughter,
A huge mouth we can all fit in
Suddenly covered by a hand. 

Everything quiet. Light
Of some other evening strolling ahead,
Long-ago evening of silk dresses,
Bare feet, hair unpinned and falling.
Happy heart, what heavy steps you take
As you follow after them in the shadows 

The sky at the road's end cloudless and blue.
The night birds like children
Who won't come to dinner.
Lost children in the darkening woods. 

-Charles Simic

Đi dạo vào buổi chiều tối

Tụi mi làm ra vẻ
Lắng nghe Gấu suy tư,
“Ôi lũ cây bên đường,
Nhớ rừng,
Cùng thi nhau vươn cao
Như muốn trút hết nỗi buồn lên trời.”
Từng đứa mi cố rạp mình xuống mặt đường, như nấc thang,
Theo bước Gấu đi
Vào một chiều tối muộn
Và đêm thì đang chầm chậm xuống 

Những chiếc lá cây ở trên cao thì giống môi của bà má Gấu
Suốt đời run rẩy, không thể nào quyết định,
Bởi là vì trong tí gió
Như có những giọng người
Hay là một cái miệng đầy tiếng cười tắc nghẹn
Một cái miệng như miệng bà Âu Cơ chứa cả lũ Mít
Bất thình lình bị một bàn tay bụm chặt 

Mọi vật yên tịnh
Ánh sáng của một buổi chiều tối khác
Lang thang phía trước mặt
Buổi chiều tối của thời xa xưa chắc là trước 1975, trong những cánh áo dài lụa
Chân trần, tóc xỏa xuống,
Trái tim hạnh phúc, những bước chân nặng nề nào bạn bước đi
Khi bạn theo chúng vào những vùng tối

Bầu trời ở cuối con lộ thì không có mây, màu xanh
Những con chim đêm thì giống như những đứa trẻ
Ham chơi bỏ bữa ăn tối.
Những đứa trẻ thất lạc trong những khu rừng tối xẫm. (a)


*

A New Étranger

One of the most widely read French novels of the twentieth century, Albert Camus’s L’Étranger, carries, for American readers, enormous significance in our cultural understanding of midcentury French identity. It is considered—to what would have been Camus’s irritation—the exemplary existentialist novel.

Yet most readers on this continent (and indeed, most of Camus’s readers worldwide) approach him not directly, but in translation. For many years, Stuart Gilbert’s 1946 version was the standard English text. In the 1980s, it was supplanted by two new translations—by Joseph Laredo in the UK and Commonwealth, and by Matthew Ward in the US. Ward’s highly respected version rendered the idiom of the novel more contemporary and more American, and an examination of his choices reveals considerable thoughtfulness and intuition.

Each translation is, perforce, a reenvisioning of the novel: a translator will determine which Meursault we encounter, and in what light we understand him. Sandra Smith—an American scholar and translator at Cambridge University, whose previous work includes the acclaimed translation of Irène Némirovsky’s Suite Française—published in the UK in 2012 an excellent and, in important ways, new version of L’Étranger.


THE WILLOW

And a decrepit bunch of trees.

Pushkin

I grew up where all was patterned and silent,
In the cool nursery of the age, itself young;
I didn't like human words, spoken or sung,
But I understood what the wind meant.
I liked burdock and nettles but the willow tree,
The silver willow, I liked especially.
It lived gratefully with me till now
And with its weeping branches seemed
To make dreamlessness like something dreamed.
It's hard to believe I outlived it somehow.
There's a stump. And in alien tongues, other willows
will
Be saying whatever it is they say
Under our skies, under theirs. I'm completely still.
It's as if my brother had died today.

1940

Anna Akhmatova

Liễu

Và một nhúm cây già

Pushkin

Tôi lớn lên khi tất cả đều tỏ ra gương mẫu và im lặng
Trong cái thời đại mát mẻ của vườn ươm cây, chính nó thì cũng trẻ măng;
Tôi không ưa tiếng người, nói cũng thế, mà hát thì lại càng chính thế;
Nhưng tôi hiểu, gió nghĩa là gì.
Tôi mê burdock, tầm ma, nhưng đặc biệt, liễu, cực mê liễu bạc
Tôi sống thật biết ơn cùng với nó cho tới bây giờ
Và với những nhánh liễu rưng rưng, thì một điều gì không mơ mộng cũng trở thành mộng mơ
Thật khó mà tin được tôi sống dai hơn nó, cho tới lúc này.
Một cái gốc cây. Và trong những âm điệu ngoại lai, những loài liễu khác sẽ nói bất cứ điều gì chúng nói
Dưới bầu trời của chúng ta, dưới bầu trời của chúng.
Tôi nín thinh.
Như thể người anh của tôi mất bữa nay.
….

Naturally enough, poems of this sort couldn't be published, nor could they even be written down or retyped. They could only be memorized by the author and by some seven other people since she didn't trust her own memory. From time to time, she'd meet a person privately and would ask him or her to recite quietly this or that selection as a means of inventory. This precaution was far from being excessive: people would disappear forever for smaller things than a piece of paper with a few lines on it. Besides, she feared not so much for her own life as for her son's who was in a camp and whose release she desperately tried to obtain for eighteen years. A little piece of paper with a few lines on it could cost a lot and more to him than to her who could lose only hope and, perhaps, mind.

The days of both, however, would have been numbered had the authorities found her "Requiem," a cycle of poems describing an ordeal of a woman whose son is arrested and who waits under prison walls with a parcel for him and scurries about the thresholds of state's offices to find out about his fate. Now, this time around she was autobiographical indeed, yet the power of "Requiem" lies in the fact that Akhmatova's biography was too common. This Requiem mourns the mourners: mothers losing sons, wives turning widows, sometimes both as was the author's case. This is a tragedy where the choir perishes before the hero.

The degree of compassion with which the various voices of this "Requiem" are rendered can be explained only by the author's Orthodox faith; the degree of understanding and forgiveness which accounts for this work's piercing, almost unbearable lyricism, only by the uniqueness of her heart, herself and this self's sense of Time. No creed would help to understand, much less forgive, let alone survive this double widowhood at the hands of the regime, this fate of her son, these forty years of being silenced and ostracized. No Anna Gorenko would be able to take it. Anna Akhmatova did, and it's as though she knew what there was in store when she took this pen name.

At certain periods of history it is only poetry that is capable of dealing with reality by condensing it into something graspable, something that otherwise couldn't be retained by the mind. In that sense, the whole nation took up the pen name of Akhmatova-which explains her popularity and which, more importantly enabled her to speak for the nation as well as to tell it something it didn't know. She was, essentially, a poet of human ties: cherished, strained, severed. She showed these evolutions first through the prism of the individual heart, then through the prism of history, such as it was. This is about as much as one gets in the way of optics anyway.

These two perspectives were brought into sharp focus through prosody which is simply a repository of Time within language. Hence, by the way, her ability to forgive-because forgiveness is not a virtue postulated by creed but a property of time in both its mundane and metaphysical senses. This is also why her verses are to survive whether published or not: because of the prosody, because they are charged with time in both said senses. They will survive because language is older than state and because prosody always survives history. In fact, it hardly needs history; all it needs is a poet, and Akhmatova was just that.

-JOSEPH BRODSKY 


30.4.2014

Paradise Motel

Millions were dead; everybody was innocent.
I stayed in my room. The President
Spoke of war as of a magic love potion.
My eyes were opened in astonishment.
In a mirror my face appeared to me
Like a twice-canceled postage stamp. 

I lived well, but life was awful.
there were so many soldiers that day,
So many refugees crowding the roads.
Naturally, they all vanished
With a touch of the hand.
History licked the corners of its bloody mouth. 

On the pay channel, a man and a woman
Were trading hungry kisses and tearing off
Each other's clothes while I looked on
With the sound off and the room dark
Except for the screen where the color
Had too much red in it, too much pink. 

Charles Simic 

Phòng Ngủ Thiên Đàng

Ba triệu Mít chết
Mọi Mít đều ngây thơ,
Đếch tên nào có tội
Gấu ngồi trong phòng
Ba Dzũng, Tông Tông Mít,
Giao liên VC, y tá dạo ngày nào
Lèm bèm về Cuộc Chiến Mít
Như về Thần Dược Sex
Gấu trợn mắt, kinh ngạc
Trong gương, Gấu nhìn Gấu
Chẳng khác gì một con tem bị phế thải tới hai lần

Gấu sống được, nhưng đời thì thật là khốn nạn
Ngày đó đó, đâu đâu cũng thấy lính
Ui chao Mít di tản đầy đường
Lẽ tất nhiên tất cả biến mất,
Chỉ nhìn thấy bóng dáng 1 tên VC
Lịch sử Mít liếm góc mép đầy máu của nó

Trên băng phải trả tiền,
Một người đàn ông và một người đàn bà
Trao đổi những cái hôn thèm khát
Xé nát quần áo của nhau
Gấu trố mắt nhìn
Âm thanh tắt và căn phòng tối
Trừ màn hình,
Đỏ như máu
Hồng như Đông Phương Hồng

Chế Lan Viên thường nhắc câu này của Tế Hanh, không ghi xuất xứ :

Sang bờ tư tưởng ta lìa ta,
Một tiếng gà lên tiễn nguyệt tà.

Câu thơ diễn tả tâm trạng người nghệ sĩ thời Pháp thuộc bước sang đời Cách mạng sau 1945, phải “lột xác” để sáng tác, lìa bỏ con người trí thức tiểu tư sản, mong hòa mình với hiện thực và quần chúng. Câu thơ có hai mặt : tự nó, nó có giá trị thi pháp, tân kỳ, hàm súc và gợi cảm. Là câu thơ hay. Nhưng trong ý đồ của tác giả, và người trích dẫn, thì là một câu thơ hỏng, vì nó chứng minh ngược lại dụng tâm khởi thủy. Rõ ràng là câu thơ trí thức tiểu tư sản suy thoái. Gậy ông đập lưng ông. Đây là một vấn đề văn học lý thú.

Đặng Tiến tưởng nhớ Tế Hanh

Tuyệt!

Thơ Mỗi Ngày

Underground Poems

Poems on the Underground The Wider World
 

Two Poems Written at
Maple Bridge
Near Su-Chou

Maple Bridge Night Mooring

Moon set, a crow caws,     
        frost fills the sky
River, maple, fishing-fires
        cross my troubled sleep.
Beyond the walls of Su-chou
        from Cold Mountain temple
The midnight bell sounds
        reach my boat.

           written c. AD 765

Chang Chi

Translated by Gary Snyder

At MapLe Bridge

Men are mixing gravel and cement
At Maple bridge,
Down an alley by a tea-stall
From Cold Mountain temple;
Where Chang Chi heard the bell.
The stone step moorage
Empty, lapping water,
And the bell sound has travelled
Far across the sea.
            written AD 1984


Gary Snyder

Phong Kiều Dạ Bạc

 

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

Đỗ Thuyền Đêm Ở Bến Phong Kiều

Trăng tà chiếc quạ kêu sương
Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San

Tản Đà dịch

Poems on the Underground Seasons 

Wet Evening in April

The birds sang in the wet trees
And as I listened to them it was a hundred years from now
And I was dead and someone else was listening to them.
But I was glad I had recorded for him
The melancholy.

Patrick Kavanagh       

Chiều Ướt, Tháng Tư

Chim hót trên cành ướt
Và Gấu nghe chim hót, vào lúc, cách lúc này, một trăm năm.
Tất nhiên, Gấu thì ngỏm rồi, và một ai đó đang nghe chim hót
May cho người này là Gấu có ghi lại giùm cho anh ta hay chị ả
Nỗi buồn

 

Winter Travels

who's typing on the void
too many stories
they're twelve stones
hitting the clockface
twelve swans
flying out of winter

tongues in the night
describe gleams of light
blind bells
cry out for someone absent
entering the room
you see that jester's
entered winter
leaving behind flame

Bei Dao

Translated by David Hinton with Yanbing Chen

Du ngoạn Mùa đông

người gõ lên quãng không
rất nhiều chuyện
chúng là mười hai hòn đá
gõ lên mặt đồng hồ
mười hai con thiên nga
bay ra khỏi mùa đông

những giọng nói trong đêm
mô tả những tia sáng
chuông mù
khóc ai đó vắng mặt

đi vô phòng
bạn sẽ thấy, của anh hề
đi vô mùa đông
để lại đằng sau ngọn lửa

Bắc Đảo


Rilke

THE FIRST ELEGY

Who, if I cried out, would hear me among the Angels?
Orders? and even if one of them pressed me
suddenly to his heart: I'd be consumed
in his more potent being. For beauty is nothing
but the beginning of terror, which we can still barely endure,
and while we stand in wonder it coolly disdains
to destroy us. Every Angel is terrifying.

Ai, nếu tôi kêu lớn, sẽ nghe, giữa những Thiên Thần?
Những Thiên Sứ? và ngay cả nếu một vị trong họ ôm chặt tôi vào tận tim:
Tôi sẽ bị đốt cháy trong hiện hữu dữ dằn của Người.
Bởi là vì, cái đẹp chẳng là gì, mà chỉ là khởi đầu của ghê rợn,
chúng ta vẫn có thể chịu đựng, và trong khi chúng ta đứng ngẩn ngơ,
thì nó bèn khinh khi hủy diệt chúng ta.
Mọi Thiên Thần thì đều đáng sợ.

Rilke

For me, the happy owner of the elegant slim book bought long ago, the Elegies represented just the beginning of a long road leading to a better acquaintance with Rilke's entire oeuvre. The fiery invocation that starts “The First Elegy” - once again: "Who, if I cried out, would hear me among the Angels' / Orders? And even if one of them pressed me / suddenly to his heart: 1'd be consumed / in his more potent being. For beauty is nothing / but the beginning of terror, which we can still barely endure" -had become for me a living proof that poetry hadn't lost its bewitching powers. At this early stage I didn't know Czeslaw Milosz's poetry; it was successfully banned by the Communist state from the schools, libraries, and bookstores-and from me. One of the first contemporary poets I read and tried to understand was Tadeusz Rozewicz, who then lived in the same city in which I grew up (Gliwice) and, at least hypothetically, might have witnessed the rapturous moment that followed my purchase of the Duino Elegies translated by Jastrun, might have seen a strangely immobile boy standing in the middle of a side- walk, in the very center of the city, in its main street, at the hour of the local promenade when the sun was going down and the gray industrial city became crimson for fifteen minutes or so. Rozewicz's poems were born out of the ashes of the other war, World War II, and were themselves like a city of ashes. Rozewicz avoided metaphors in his poetry, considering any surplus of imagination an insult to the memory of the last war victims, a threat to the moral veracity of his poems; they were supposed to be quasi-reports from the great catastrophe. His early poems, written before Adorno uttered his famous dictum that after Auschwitz poetry's competence was limited-literally, he said, "It is barbaric to write poetry after Auschwitz"-were already imbued with the spirit of limitation and caution.

Adam Zagajewski: Introduction

Với tôi người sở hữu hạnh phúc, cuốn sách thanh nhã, mỏng manh, mua từ lâu, “Bi Khúc” tượng trưng cho một khởi đầu của con đường dài đưa tới một quen biết tốt đẹp hơn, với toàn bộ tác phẩm của Rilke. “Bi Khúc thứ nhất” - một lần nữa ở đây: “Ai, nếu tôi la lớn - trở thành một chứng cớ hiển nhiên, sống động, thơ ca chẳng hề mất quyền uy khủng khiếp của nó. Vào lúc đó, tôi chưa biết thơ của Czeslaw Milosz, bị “VC Ba Lan”, thành công trong việc tuyệt cấm, ở trường học, nhà sách, thư viện, - và tất nhiên, tuyệt cấm với tôi. Một trong những nhà thơ cùng thời đầu tiên mà tôi đọc và cố hiểu, là Tadeusz Rozewicz, cùng sống trong thành phố mà tôi sinh trưởng, (Gliwice), và, có thể chứng kiến, thì cứ giả dụ như vậy, cái giây phút thần tiên liền theo sau, khi tôi mua được Duino Elegies, bản dịch của Jastrun - chứng kiến hình ảnh một đứa bé đứng chết sững trên hè đường, nơi con phố trung tâm thành phố, vào giờ cư dân của nó thường đi dạo chơi, khi mặt trời xuống thấp, và cái thành phố kỹ nghệ xám trở thành 1 bông hồng rực đỏ trong chừng 15 phút, cỡ đó – ui chao cũng chẳng khác gì giây phút thần tiên Gấu đọc cọp cuốn “Bếp Lửa”, khi nó được nhà xb đem ra bán xon trên lề đường Phạm Ngũ Lão, Sài Gòn – Thơ của Rozewicz như sinh ra từ tro than của một cuộc chiến khác, Đệ Nhị Chiến, và chính chúng, những bài thơ, thì như là một thành phố của tro than. Rozewicz tránh sử dụng ẩn dụ trong thơ của mình, coi bất cứ thặng dư của tưởng tượng là 1 sỉ nhục hồi ức những nạn nhân của cuộc chiến sau chót, một đe dọa tính xác thực về mặt đạo đức của thơ ông: Chúng được coi như là những bản báo cáo, kéo, dứt, giựt ra từ cơn kinh hoàng, tai họa lớn. Những bài thơ đầu của ông, viết trước khi Adorno phang ra đòn chí tử, “thật là ghê tởm, man rợ khi còn làm thơ sau Lò Thiêu”, thì đã hàm ngụ trong chúng, câu của Adorno rồi.

*

Note: Có 1 sự trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng thật ly kỳ thú vị, không chỉ về cái cảnh Gấu chết sững trong nắng Sài Gòn, khi đọc cọp – khám phá ra - Bếp Lửa, khi cuốn sách được nhà xb Nguyễn Đình Vượng cho đem bán xon trên hè đường Phạm Ngũ Lão, nhưng còn ở điều này: Cuốn sách Bếp Lửa đã sống lại, từ tro than, bụi đường Xề Gòn.
Gấu đã viết như thế, về Bếp Lửa, từ năm 1972
Giả như nó không được đem bán xon, liệu có tái sinh?
Quá tí nữa, giả như không có cuộc phần thư 1975, liệu văn học Miền Nam vưỡn còn, và được cả nước nâng niu, trân trọng như bây giờ?


Samuel Beckett
The eleventh story


KAFKA WAS BORN IN A building on the square of Prague's Old Town on July 3, I883. He moved several times, but never far from the city of his birth. His Hebrew teacher recalled him saying, "Here was my secondary school, over there in that building facing us was the university, and a little further to the left, my office. My whole life-" and he drew a few small circles with his finger "-is confined to this small circle."

The building where Kafka was born was destroyed by a great fire in I889. When it was rebuilt in 1902, only a part of it was preserved. In 1995, a bust of Kafka was set into the building's outer wall. A portent of the Prague Spring, Kafka was finally recognized by the Czech communist authorities, hailed as a "revolutionary critic of capitalist alienation."

In a letter to a friend, he wrote: "There is within everyone a devil which gnaws the nights to destruction, and that is neither good nor bad, rather, it is life: if you did not have it, you could not live. So what you curse in yourself is your life. This devil is the material (and a fundamentally wonderful one) which you have been given and which you must now make use of. . . . On the Charles Bridge in Prague, there is a relief under the statue of a saint, which tells your story. The saint is sloughing a field there and has harnessed a devil to the plough. Of course, the devil is still furious (hence the transitional stage; as long as the devil is not satisfied the victory is not complete), he bares his teeth, looks back at his master with a crooked, nasty expression and convulsively retracts his tail; nevertheless, he is submitted to the yoke. . . ."

Kafka ra đời tại một building ở quảng trường Cổ Thành Prague, ngày 3 Tháng Bẩy, 1883. Ông di chuyển vài lần, nhưng không bao giờ ra khỏi thành phố. Ông thầy dạy tiếng Hebrew còn nhớ là vị học trò của mình có lần nói, “Đây là ngôi trường trung học của tôi, ở chỗ kia kìa, trong cái toà building đối diện chúng ta, là đại học, xa tí nữa, về phía trái, là văn phòng của tôi. Trọn đời tôi” – ông học trò khua vòng vòng ngón tay – “thì đóng khung ở trong cái vòng tròn nho nhỏ này”.

Tòa nhà nơi Kafka ra đời, bị một trận cháy lớn tiêu hủy vào năm 1889. Khi xây cất lại vào năm 1902, chỉ 1 phần được giữ lại. Vào năm 1995, một bức tượng nửa người của ông được dựng lên trong toà nhà, tường phía ngoài. Một điềm triệu của Mùa Xuân Prague, Kafka sau cùng được nhà cầm quyền CS Czech công nhận, như là một “nhà phê bình cách mạng về sự tha hóa của chế độ tư bản”.

Trong 1 lá thư cho bạn, Kafka viết, luần quần trong bất cứ 1 ai, là một con quỉ, nó gậm đêm, đến tang thương, đến hủy hoại, và điều này, đếch VC, và cũng đếch Ngụy, hay đúng hơn, đời Mít là như thế:
Nếu bạn đếch phải như thế, thì bạn đếch phải là Mít!
Bạn không thể sống, đúng hơn.

Còn quỉ này là… hàng – như trong cái ý, Nam Kít nhận họ, Bắc Kít nhận hàng – và bởi thế, hàng này mới thật là tuyệt vời, "ơi Thi ơi Thi ơi", một em Bắc Kít chẳng đã từng nghe, đến vãi lệ, 1 giọng Nam Kít, phát ra từ cặp loa Akai, tặng phẩm-chiến lợi phẩm của cuộc ăn cướp - Bạn ăn cướp và bây giờ bạn phải sử dụng nó, làm cho nó trở thành có ích… Trên cây cầu Charles Bridge ở Prague, có một cái bệ, bên dưới 1 bức tượng thánh, nó kể câu chuyện của bạn. Vị thánh trầm mình xuống một cánh bùn, kéo theo với ông một con quỉ. Lẽ dĩ nhiên, con quỉ đếch hài lòng, và tỏ ra hết sức giận dữ (và đây là ý nghĩa của ẩn dụ, một khi mà con quỉ cuộc chiến Mít chưa hài lòng, dù có dâng hết biển đảo cho nó, thì chiến thắng đỉnh cao vưỡn chưa hoàn tất), nó nhe răng, tính ngoạm lại sư phụ của nó 1 phát!
*

Bắc Đảo dùng từ như thể ông ta vật lộn đời mình với chúng [Ông] kiếm ra đường, để nói với tất cả chúng ta.

NYRB

Thiên tài Bắc Đảo và cơn hăm dọa của ông ta, là ở trong cái sự liền lạc, không mối nối, không sứt mẻ, nhưng thật là hài hòa, khi thực hiện cuộc hôn nhân giữa ẩn dụ và chính trị: ông là 1 chiến sĩ, 1 tên du kích, đúng hơn, trong 1 cuộc chiến đấu ở mức ngôn ngữ.

Chicago Tribune


Two Cities by A

CRACOW

CITIES THAT ARE too beautiful lose their individuality. Some of the southern towns cleaned up for tourists remind one more of glossy photo ads than of organic human settlements. Ugliness creates individuality. Cracow cannot complain of a dearth of infelicitous, heavy, melancholy places.

Những thành phố đẹp quá mất mẹ nó căn cước cá nhân của chúng. Một vài thành phố phía Nam rửa ráy làm sạch chúng, để chào đón khách du lịch làm nhớ tới những tấm bưu thiếp, những tấm biển quảng cáo hơn là những nơi cư ngụ của bầy đàn con người. Cái xấu xí tạo căn cước cá nhân. Cracow chẳng có gì để mà phàn nàn, về những nơi chốn, địa điểm không may, bất hạnh, nghèo nàn, dơ dáy, nặng nề, buồn ơi là buồn của nó.
Ui chao, đọc 1 phát là bèn nhớ liền những con hẻm, Hẻm Đội Có, Xóm Mả Đỏ, Xóm Gà, Ngã Ba Chú Ía… của Xề Gòn của Gấu Cà Chớn!


April 15, 2014 5:38 pm

‘Capital in the Twenty-First Century’, by Thomas Piketty (1)

Note: Cuốn này, đang được thổi dữ lắm. Tác giả là 1 anh Tẩy

Capital in the Twenty-First Century, by Thomas Piketty, translated by Arthur Goldhammer, Harvard University Press RRP£29.95/Belknap Press RRP$39.95, 696 pages

French economist Thomas Piketty has written an extraordinarily important book. Open-minded readers will surely find themselves unable to ignore the evidence and arguments he has brought to bear.

Capital in the Twenty-First Century contains four remarkable achievements. First, in its scale and sweep it brings us back to the founders of political economy. Piketty himself sees economics “as a subdiscipline of the social sciences, alongside history, sociology, anthropology, and political science”. The result is a work of vast historical scope, grounded in exhaustive fact-based research, and suffused with literary references. It is both normative and political. Piketty rejects theorising ungrounded in data. He also insists that social scientists “must make choices and take stands in regard to specific institutions and policies, whether it be the social state, the tax system, or the public debt”.

Second, the book is built on a 15-year programme of empirical research conducted in conjunction with other scholars. Its result is a transformation of what we know about the evolution of income and wealth (which he calls capital) over the past three centuries in leading high-income countries. That makes it an enthralling economic, social and political history.

Among the lessons is that there is no general tendency towards greater economic equality. Another is that the relatively high degree of equality seen after the second world war was partly a result of deliberate policy, especially progressive taxation, but even more a result of the destruction of inherited wealth, particularly within Europe, between 1914 and 1945. A further lesson is that we are slowly recreating the “patrimonial capitalism” – the world dominated by inherited wealth – of the late 19th century.

Some argue that rising human capital will reduce the economic significance of other forms of wealth. But, notes Piketty, “‘nonhuman capital’ seems almost as indispensable in the twenty-first century as it was in the eighteenth or nineteenth”. Others argue that “class warfare” will give way to “generational warfare”. But inequality within generations remains vastly greater than among them. Yet others suggest that intragenerational mobility robs rising inequality of earnings of significance, particularly in the US. This, too, is false: the rise in inequality of earnings in the US over recent decades is the same however long the period over which earnings are traced. High-school dropouts rarely become chairman of GE.

An important finding is that the ratio of wealth to income in Europe has climbed back above US levels, notably in France and the UK. Another is the notably big recent rise in the income shares of the top 1 per cent in English-speaking countries (above all, the US) since 1980. Perhaps the most extraordinary statistic is that “the richest 1 percent appropriated 60 percent of the increase in US national income between 1977 and 2007.” Technology and globalisation can hardly explain this, since both were at work in all high-income countries. In all, the two most striking conclusions are the rise of the “supermanager” in the US and the return of patrimonial capitalism in Europe.

Third, Piketty uses simple economic models to explain what is going on. He notes, for example, that the huge rise in labour earnings at the top of US income distribution is overwhelmingly explained not by sports stars or entertainers but by increases in remuneration of managers. He argues that this is the result of the falls in marginal taxation, which have increased the incentive to bargain for higher pay, reinforced by changes in social norms. The alternative view – that the marginal productivity of top managers has exploded – is, he asserts, unpersuasive, partly because the marginal product of a manager is unmeasurable and partly because overall economic performance has not improved since the 1960s.

More interesting is Piketty’s theory of capitalist accumulation. He argues that the ratio of capital to income will rise without limit so long as the rate of return is significantly higher than the economy’s rate of growth. This, he holds, has normally been the case. The only exceptions from the past few centuries are when a sizeable part of the return on wealth is expropriated or destroyed, or when an economy has opportunities for exceptionally fast growth, as in postwar Europe or the emerging economies today.

This theory is built on two pieces of evidence. One is that the rate of return is only modestly affected by the ratio of capital to income. In the language of economists, the “elasticity of substitution” between capital and labour is far greater than one. In the long run, this seems plausible. Indeed, an age of robotics might further raise the elasticity.

The other is that, at least in normal times, capitalists save a sufficiently large share of their returns to ensure that their capital will grow at least as fast as the economy. This is especially likely to be true of the seriously wealthy, who are also likely to enjoy the highest returns. Small fortunes are eaten; big ones are not. The tendency for capital to grow faster than the economy is also more likely when the growth of the economy is relatively slow, either because of demographics or because technical progress is weak. Capital-dominated societies also have low-growth economies.

Fourth, Piketty makes bold and obviously “unrealistic” policy recommendations. In particular, he calls for a return to far higher marginal tax rates on top incomes and a progressive global wealth tax. The case for the latter is that the reported incomes of the richest are far smaller than their true economic incomes (the amount they can consume without reducing their wealth). The rich may even take themselves outside any fiscal jurisdiction, so enjoying the fiscal position of aristocrats of pre-revolutionary France. This fact blunts one of the criticisms of the book’s reliance on pre-tax data: over time, the ability of individual countries to redistribute resources towards the middle and bottom of national income distributions might dwindle away to nothing.

Yet the book also has clear weaknesses. The most important is that it does not deal with why soaring inequality – while more than adequately demonstrated – matters. Essentially, Piketty simply assumes that it does.

One argument for inequality is that it is a spur to (or product of) innovation. The contrary evidence is clear: contemporary inequality and, above all, inherited wealth are unnecessary for this purpose. Another argument is that the product of just processes must be just. Yet even if the processes driving inequality were themselves just (which is doubtful), this is not the only principle of distributive justice. Another – to me more plausible – argument against Piketty’s is that inequality is less important in an economy that is now 20 times as productive as those of two centuries ago: even the poor enjoy goods and services unavailable to the richest a few decades ago.

For me the most convincing argument against the ongoing rise in economic inequality is that it is incompatible with true equality as citizens. If, as the ancient Athenians believed, participation in public life is a fundamental aspect of human self-realisation, huge inequalities cannot but destroy it. In a society dominated by wealth, money will buy power. Inequality cannot be eliminated. It is inevitable and to a degree even desirable. But, as the Greeks argued, there needs to be moderation in all things. We are not seeing moderate rises in inequality. We should take notice.

Martin Wolf is the FT’s chief economics commentator


GGM Tribute


Joseph Roth Page

*

Thánh Văn Cao

Với những độc giả Việt Nam thường quan tâm tới văn học Việt Nam, và số phận hẩm hiu của những nhà văn An Nam khổ như chó, nhất là của những người thuộc nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, đặc biệt là Văn Cao: họ đều mang bóng dáng những nhân vật của Roth, đều cưu mang những đề tài của Roth. Chúng ta cứ tự hỏi, tại sao ông [Roth] không thể đi Mẽo: hãy giả dụ một ông Văn Cao di cư vào Nam, và sau đó vượt biên rồi nhập tịch Mẽo, là thấy ngay sự tiếu lâm của nó!

Đề tài cuốn Vị Khách Mời Của Trái Đất [Tarbaras, The Guest on Earth], của Roth, thật hợp với Văn Cao, nhưng với rất nhiều khác biệt. Đây là câu chuyện, một ông giết người sau đó trở thành thánh, và vì ông giết người, sau thú tội, và là người độc nhất thú tội, nên mới trở thành thánh!

*

Joseph Roth:
Đường Ra Trận Mùa Này
Đẹp Lắm!
On The Wrong Side of History

Về Phía Ngụy

Joseph Roth, như tiểu thuyết gia, là từ báo chí, qua vai ký giả. Tương tự Garcia Marquez, nhưng, nếu, với Garcia Marquez, ông phải dựa vào [phịa ra thì cũng được] cái gọi là hiện thực huyền ảo, thì Roth có sẵn cả 1 đế quốc Áo Hung, tha hồ mà tung hoành. Anh tà lọt Osin không có được cái "vision" này, thành ra mớ hổ lốn của anh chẳng thể trở thành 1 tác phẩm, về cả hai mặt báo chí lẫn giả tưởng. Và, như Gấu phán, cái mà Mít cần, là … giả tưởng, chứ không phải... sự thực lịch sử!

Một giả tưởng, chẳng cần dài, cỡ Y Sĩ Đồng Quê của Kafka.

Viên y sĩ bị lừa, có ngay ở ngoài đời, là nhà văn DTH.

Cảnh DTH ngồi khóc ở hè đường Sài Gòn, thì đâu có khác gì anh y sĩ già ngửa mặt lên trời than, ta bị lừa, bị lừa!

Chúng ta cứ thử tưởng tượng, nếu không có nhân vật… Tường, mà NMG khăng khăng phán, tớ phịa ra, thì liệu có Mùa Biển Động?
Cái số phận của HPNT, như bây giờ, phải chăng là do NMG phịa ra, rồi biến thành… hiện thực? 

Garcia Marquez, trả lời phỏng vấn, không tin có sự khác biệt giữa báo chí và giả tưởng, nhưng theo Gấu, hai món này khác hẳn nhau. Lấy ngay trường hợp của chính ông, khi viết Chuyện 1 người thuỷ thủ đắm tầu, The story of a shipwrecked sailor, như trong Second Read, là thấy. Đọc, Gấu lại nhớ tới cú ngụy tạo đầu độc tù VC ở Phú Lợi của…  VC.
Cả 1 cuộc chiến có thực, với bao nhiêu con người bỏ mạng, và số phận cả 1 đất nước bốn ngàn năm văn hiến biến thành... không, bắt đầu bằng 1 cú ngụy tạo!

Truyện ngắn: Mission Impossible
Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu

Khí hậu ẩm ướt trong thế giới tiểu thuyết NDT

Những ngày sau này, kể từ ngày quán cà phê La Pagode phải đóng cửa để sửa chữa, chỗ gặp mặt dễ dàng và quen thuộc của một số bạn bè quen thuộc không còn nữa. Cũng không còn trông thấy một bóng dáng gầy ốm, gầy ốm đến nỗi không thể gầy ốm hơn được nữa, lọt thỏm trong chiếc ghế bành thấp và rộng…

Như thế, khi Gấu quen NDT, Quán Chùa vẫn còn những chiếc ghế bành thấp và rộng, tường nhà hàng, những bệ bê tông thấp, bạn đang đi trên hè đường, nhảy 1 phát, là vô bên trong, và nếu như thế, thì vụ sửa chữa, là để biến nhà hàng thành 1 nơi an toàn hơn, sau cú VC đặt mìn nhà hàng nổi Mỹ Cảnh.

Sau cú đó, ông trưởng đài liên lạc VTD thoại quốc tế, tọa lạc trên tầng lầu trên cùng, tòa building số 5 Phan Đình Phùng SGN đề nghị ông Tổng giám đốc Bưu Điện, cũng là 1 trong những ông thầy của Gấu, khi học trường Quốc Gia Bưu Điện, chuyển đám Mẽo đi nơi khác. Một trung tâm dành cho lính Mẽo nói chuyện với gia đình được thành lập - Gấu nhớ, tên gồm hai chữ IH [?], tại đường Nguyễn Huệ - và Trung Tâm Báo Chí, Press Center, ở đâu khu rạp REX, dành cho đám ký giả. Trước, tất cả đều lên Đài VTD để thực hiện những cú gọi.