Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự văn học |
Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ |  Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
  Ghi chú trong ngày | Thơ Mỗi Ngày | Nhật Ký | Chân Dung | Jennifer Video 


8.10.2013

*

Thêm Nguyễn Hà Trỵ [chống gậy] (1)  

Ai Tín

Tôi biết là các anh chị giáo chức của các trường Trung học Tây Ninh, Long Khánh, Thủ Đức, Nguyễn bá Tòng, Bùi Thị Xuân, và bạn bè ....đều đã hay tin này, vì bà xã AnhTrỵ (chị Nguyệt) đã gọi tôi khoảng 8 giờ sáng Chủ Nhật 6 /10/13 cho biết anh Trỵ đã vĩnh viễn ra đi lúc 4 giờ sáng sau hơn 10 tuần điều trị tại Fountain Valley Medical.
Gia đình sẽ phát tang vào Thứ Bảy, 12/10 và sẽ hoả thiêu trưa Chủ Nhật 13/10/13 tại Orange County Cali. USA.
Tôi được gặp anh Trỵ lần chót tại BV chiều 01/09/13  cùng  2 bạn học từ 60 năm trước, là Lãng và Quyên.
Cám ơn anh Oánh.
Cũng xin thông báo tin buồn này đến anh Lâm Hữu Trãi, anh Phạm Văn Hàm, anh Nguyễn Quốc Trụ....là những người bạn thân thiết từ thuở học trò.
Xin cùng hiệp ý cầu nguyện cho hương linh Bạn Nguyễn Hà Trỵ được an nhiên, siêu thoát về miền Cực Lạc.  

VBTuyến

Note: NHT còn là bạn từ thuở học trò của thi sĩ Cao Thoại Châu, tức Cao Đình Vưu.
Nhân đây, thêm tên vô, cùng cầu chúc linh hồn bạn Trụy sớm siêu thoát, và xin chia buồn cùng tang quyến

Tin Văn /NQT & bạn của NHT


Thơ Mỗi Ngày

Obscurely Occupied

You are the Lord of the maimed,
The one bled and crucified
In
a cellar of some prison
Over which the day is breaking.

You inspect the latest refinements
Of cruelty. You may even kneel
Down in wonder. They know
Their business, these grim fellows

Whose wives and mothers rise
For the early Mass. You, yourself,
Must hurry back through the snow
Before they find your rightful

Place on the cross vacated,
The few candles burning higher
In your terrifying absence
Under the darkly magnified dome.

Charles Simic 

U tối bận rộn

Người là Chúa Tể của những kẻ bị thương tật
Người chảy máu, bị đóng đinh trên cây thập tự
Ở nơi tầng hầm một nhà tù nào đó
Bên trên ngày ló dạng

Người kiểm tra những trau truốt sau cùng
Của sự độc ác.
Người có thể quỳ xuống, ngạc nhiên lẩm lẩm
Chúng quả là quá rành nghề của chúng,
Những tên nhẫn tâm, ác nghiệt này

Vợ của chúng, mẹ của chúng
Dậy sớm, cho Lễ Sớm
Người, chính Người
Phải vội vã trở lại, băng qua tuyết
Trước khi họ tìm sự công bằng chính trực của Người

Hãy để trước cây thập tự bỏ trống
Vài cây đèn cầy, cháy thật cao
Cao hơn cả sự vắng mặt khủng khiếp của Người
Dưới vòm trời phóng lớn tối thui.

Note: Bài thơ này cực kỳ…  u tối. Chỉ bằng mấy dòng thơ Simic bèn dẫn ra 1 Ông Trời “bỏ chạy, vắng mặt, ẩn giấu" [Dieu caché], khi xẩy ra Lò Thiêu.
Đọc Simic, GCC cứ sờ sợ, là vậy!

BAMBOO GARDEN

Bad luck, my very own, sit down and listen to me:
You make yourself scarce for months at the time
Making preparations for some new calamity,
Then come to shake me awake some dark night,

Wiping the sweat off your face, asking
For a glass of water, while mumbling something
About how a mixed bag of misery and laughter
Is all that I can expect from a life like mine,
While I listen, none the wiser like a blind man 

Holding a fortune cookie in a Chinese restaurant
And waiting for a waiter to come along
And read it to him, but there isn't one coming,
'Cause it's late and the Bamboo Garden is closed.

Vườn Tre

Vận rủi "rất" rất riêng của ta, hãy ngồi xuống, và lắng nghe ta nói:
Mi làm mặt lạnh, làm mặt sợ mấy tháng nay,
Như thể mi đang sửa soạn 1 cú tai ương mới nào đó
Rồi thì một đêm âm u, tới đánh thức ta dậy

Lau mồ hôi trên mặt
Hỏi xin ta ly nước lạnh
Trong lúc lẩm bẩm cái con mẹ gì đó,
Hình như là về
Làm thế nào trộn cái khốn cùng của dân Mít
và tiếng cười sảng khoái của đám đại gia Đỏ
Và có phải đó là tất cả những gì mà một tên
Gấu Cà Chớn mong ước, trong cõi đời của mi?

Trong lúc Gấu ngồi lắng nghe, chẳng khôn ngoan gì hơn 1 anh mù
Tay cầm cái kẹo trong có câu thần chú may rủi, hậu vận ở 1 tiệm ăn Tầu
Đợi người bồi đi ngang để đọc cho mà nghe.
Nhưng chẳng có ma nào
Bởi là vì đã quá khuya, và Vườn Tre đã đóng cửa.

*

A Kite for All Seasons

It glides on hot days,
In Fall it sways with the leaves,
But always a kite.

tạm dịch:
Một con diều cho mọi mùa
Nó lượn trong ngày nóng
Nó đong đưa với lá Thu
Nhưng vẫn là con diều

Khi có những con người, tuy là người nhưng mang bộ da tắc kè, đổi màu theo hoàn cảnh, một đứa trẻ lớp Ba đã nhìn thấy đặc tính của con diều, tuy có thể bay trong mọi mùa, nhưng diều vẫn là diều.
Năm sau, 2007, khi 8 tuổi, Aline lại được giải thưởng trong cuộc tranh tài Reflections, một cuộc thi về nghệ thuật và viết văn do Hội Phụ huynh và Giáo chức Quốc Gia (National PTA) bảo trợ, với bài thơ về nơi ở của loài gấu trúc panda là núi Mỹ Sơn bên Trung Quốc: “Mei Shan Mountain, my special haven.” Bài thơ có bốn câu kết luận đáng chú ý:

And a panda’s opinion
Is always equal
(Or even better) than the truth
And wisdom of a human’s view 

tạm dịch: 

Và ý tưởng của một con panda
Thì bao giờ cũng bằng
(Hay còn khá hơn) là sự thật
Và sự khôn ngoan theo loài người. 

Có những người là tượng trưng cho lạc hậu, từ tư tưởng tới hành động, vỗ ngực xưng mình là “đỉnh cao trí tuệ loài người,” nhận xét của cô bé 8 tuổi thật đáng suy nghĩ.
DTT

Hai bài thơ nhỏ, của 1 em bé Mít, ở Mẽo, hay. Nhưng cái hay của nó, bị cái dở của anh Mít, già, qua lời còm nhảm nhí của anh ta, làm cho mờ, đục đi. Làm Gấu nhớ đến trẻ em Bắc Kít học Toán, mà em Sến đã từng kể lại.

Bài đầu, phải dịch đúng như trật tự từ của nó:

A Kite for All Seasons

It glides on hot days,
In Fall it sways with the leaves,
But always a kite.

Một con diều cho Mọi Mùa

Nó bay lượn trong những ngày nóng
Mùa Thu, nó đong đưa cùng những cái lá
Nhưng luôn luôn là cánh diều

Có cái gì mắc mớ đến cắc kè đâu?
Cái đầu bịnh hoạn, đọc cái gì cũng bịnh hoạn là thế.

Bài sau cũng thế. Dịch nhảm + cái đầu hư, làm hư mẹ bài thơ.

Chán! [Thuổng xì tai Thầy Kuốc]

Đọc thơ, thì đừng có suy nghĩ. Pessoa khuyên như vậy.
Đầu óc bình thường, cũng đừng suy nghĩ.
Đầu óc bịnh thì tốt nhất, đừng đọc thơ!

*

*


Seagulls are flying close to the ground.
They say this means it's going to rain.
But it's not raining yet. Right now
There are seagulls close to the ground
Flying-that's all.

Likewise, when there's happiness,
They say sadness is on its way.
Perhaps, but so what? If today
Is full of happiness, where
Does sadness fit in?

It doesn't. It belongs to tomorrow.
When it comes, then I'll be sad.
Today is pure and good. The future
Doesn't exist today. There's a wall
Between us and it.

Enjoy what you have, drunk on being!
Leave the future in its place.
Poems, wine, women, ideals-
Whatever you want, if it's what is,
Is for you to enjoy.

Tomorrow, tomorrow ... Be, tomorrow,
What tomorrow brings you. For now
Accept, be ignorant, and believe.
Keep close to the ground, but flying,
Like the seagull.

FERNANDO PESSOA-HIMSELF

18 MAY 1934

Hải Âu bay là là trên mặt đất
Người ta nói, sắp mưa.
Nhưng chưa mưa. Vào lúc này,
Hải Âu bay là là trên mặt đất
Bay. Vậy đó. 

Khi hai đứa hạnh phúc,
"Tụi nó" cảnh cáo, nè, coi chừng cái buồn nó tới kia kìa!
Có lẽ. Nhưng rồi sao?
Nếu bữa nay, hai đứa vui tràn đầy,
Buồn chui vô bằng lối nào?
Chỗ nào chứa nó? 

Nó đếch vô được. Nó thuộc về ngày mai
Khi nó tới, OK, hai đứa lúc đó, bèn buồn!
Bữa nay thì trong veo. Tươi rói.
Tương lai đâu phải là… hôm nay?
Có 1 bức tường phân chia hai đứa với nó. 

Hãy chấp nhận.
Hãy ngu si hưởng thái bường.
Và tin tưởng.
Cứ bay là là trên mặt đất.
Bay!
Như Hải Âu của Gấu! 

Hà, hà!


En attendant Nobel 2013 
Trong khi chờ Nobel 2013

Pamuk's Nobel is a family affair

The Anger of the Damned
Orhan Pamuk, translated by Mary Isin

Ghi chú trong ngày

Một Kafka Khác

A Different Kafka
by John Banville 

Note: Tay này, John Banville , nhà văn số 1, phê bình, điểm sách cũng số 1.
Phê bình gia Mít, ít khi viết điểm sách, vì lười đọc, và đọc, cũng đếch biết viết 1 bài điểm sách cho ra hồn!
Đó là sự thực.

Thử đếm coi, Thầy Kuốc điểm sách của ai, khui ra được nhà văn nào. Mũi lõ cũng không, mà mũi tẹt lại càng không?
Thầy Phúc thì cũng rứa.
Nữ phê bình gia viết bằng tiếng Tẩy, DCT, cũng thế.
TK y chang.

GCC ư? Nhiều lắm.
Bảo Ninh, thí dụ, Gấu phát giác ra, ở hải ngoại, và cái ông BN mà Gấu viết, cũng khác ông ở trong nước.
Vầng Trăng Góa, Gấu chỉ ra.
Nhà dzăng đang lú lên, Bà Tám nào đó, cũng GCC phát giác!
Hà, hà!
Miêng, Mai Ninh, Trần Thanh Hà, Trần Thị NgH... Gấu đều trân trọng viết về họ.
 

Of course, Kafka is not the first writer, nor will he be the last, to figure himself as a martyr to his art—think of Flaubert, think of Joyce—but he is remarkable for the single-mindedness with which he conceived of his role. Who else could have invented the torture machine at the center of his frightful story “In the Penal Colony,” which executes miscreants by graving their sentence—le mot juste!—with a metal stylus into their very flesh?

Lẽ dĩ nhiên, Kafka đâu phải nhà văn đầu tiên, càng không phải nhà văn cuối cùng, nhìn ra mình, lọc mình ra, như là 1 kẻ tuẫn nạn, vì cái thứ nghệ thuật mà mình chọn lựa cho mình: “dziếc dzăng”!
Hãy nghĩ tới Flaubert, hãy nghĩ tới Joyce [Xém 1 tí là thêm tên GCC vô!]. Nhưng ông bảnh nhất, khác hẳn mấy tay kia, là, loay hoay hì hục, chỉ chúi vô có mỗi cú đó, với “cái mình, cái đầu, cái tim của mình” [the single-minded] chỉ xoáy vô có mỗi chỗ “ấy ấy”, và từ đó, tìm ra, nhận ra vai trò của mình, "nhà dzăng".
Làm sao có thằng cha nào, ngoài Kafka ra, phịa ra được cái máy tra tấn người ở trung tâm câu chuyện đáng sợ “Ở thuộc địa trừng giới" [xém thêm cái tên của nó, là Xứ Mít bi giờ!], nó hành quyết những tên “ly khai, dám chống lại Đảng VC”, bằng cách dùng cây kim châm khắc mẹ bản án [le mot just], vô da vô thịt họ.

“Kim chích vô thịt thì đau” là theo nghĩa này đấy!

Kafka, “the poet of his own disorder”


Bức Màn Sắt

*

“Tôi đọc Orwell, ở dưới đáy địa ngục Tẫu”
Chỉ có cách xé nước Tẩu ra thành 20 nước, thì mới thoát!

Vì một và 100 bài ca

ENGLISH TITLE FOR A SONG AND A HUNDRED SONGS

AUTHOR LIAO YIWU

ORIGINAL LANGUAGE CHINESE

TRANSLATOR WEN HUANG 

"As the country was whipped into a frenzy," writes the Chinese poet Liao Yiwu near the beginning of this memoir, "I took pride in my coolheadedness." It was 1989. Students were protesting across China, but Liao remained indifferent. Then in early June the army opened fire in Tiananmen Square. Something in him changed, and he wrote a protest poem called "Massacre".
He was locked up in Chongqing, and this book—written three times because the authorities kept stealing his manuscripts—is a shocking document of the daily horrors of life in a Chinese prison, subject to guards who were often sadistic. In the most grotesque moment—and there are hundreds—he is sodomised with an electric baton. The sadism even spreads to the prisoners. Liao lists a "menu" of tortures dished up in the cells. "Noodles in a Clear Broth" involves eating toilet paper soaked in urine. "Sichuan-Style Smoked Duck" ends with the victim’s penis being burnt. Like several inmates, Liao tries to commit suicide by smashing his head against the wall.

"I found myself trapped", he says, "in an invisible kingdom ruled by blood and iron." It’s the best sentence in the book, showing Liao’s gift for a lyrical line, which is sometimes marred by lumps in the translation. "Stinky scumbags", for one, doesn’t ring entirely true as a cell-block insult. But what stands out is Liao’s calm reporting, mirroring his trauma’s terrifying regularity. The darkness is so deep that redemptive sparks blaze like magnesium. One night he sees a young death-row inmate called Little surrounded by his friends, "cuddling him like loving fathers". 

New Harvest, out now

"Khi xứ sở bị tẩn đến biến thành khùng điên", nhà thơ Tẫu Liao Yiwu viết, ở gần khúc mở ra cuốn hồi ký của mình, "tôi đếch thèm để ý đến". Đó là năm 1989. Đám sinh viên theo nhau xuống đường. Kệ cha tụi bay, ông làm mặt lạnh với cái đầu của chính mình. Rồi đầu tháng Sáu, xe tăng quân đội nhân dân Tẫu bắn vào nhân dân Tẫu, ở Thiên An Môn. Có cái gì thay đổi ở trong ông, Và ông đi 1 bài thơ, đặt tên là “Tàn Sát”.
Nhà nước Tẫu ném ông vô tù. Và cuốn sách - viết ba lần, vì bị cớm Tẫu chôm đi chôm lại, là 1 tài liệu gây sốc về cuộc sống thường nhật ghê rợn ở nhà tù Tẫu, lũ quản giáo đa số là những tên sa đích.


Đi tìm phê bình gia Mít

Con chào bác,

Cho phép con được xưng hô vậy vì con chỉ đáng tuổi con cháu của bác thôi. Qua bạn bè con được biết trên trang chủ của bác có nhắc tới tên con, như sau:
V/v Salinger Mít….
Những nhận xét này đi liền với đoạn sau, nói về con trên báo Tiền Phong.
Nguyễn Bình Phương nói….
Vậy con mạo muội viết email này cho bác để nói rằng trong đời con chưa viết tác phẩm nào tên là Cô Gái Chơi Cờ hay Tởm. Có lẽ bác nhầm con với một anh Phan An khác lớn tuổi hơn và từng có tiếng tăm trên mạng cách đây chừng 5-6 năm chăng?
Đây là blog của anh ta,…. [deleted] ….
Còn đây là blog của con http://360.phanan.net. Con tin là chỉ cần đọc song song vài đoạn bác sẽ thấy văn phong hoàn toàn khác nhau.
Vậy con mong bác kiểm tra lại giúp, để rõ là thứ nhất, con không viết gì về cô gái tởm và thứ hai, con chưa từng ăn cắp cái gì trên đời.
Cảm ơn bác,
Phan An
*

Có lẽ chú đang nhầm hai nhân vật với nhau:
Phan An dính dáng đến Romain Gary là bút danh của một anh sinh tầm đầu 70.
Phan An hiện nay đang được báo chí nói đến nhiều là Phan An tức Cầm Bùi, chủ của một trang web tên là lacai.org và là tác giả hai cuốn sách gần đây.

CVD


NQT, tôi, thành thật xin lỗi Phan An, vì do trùng tên. Và rất mừng, vì được xin lỗi, vì nếu không, đau quá!
Một tài năng như thế, không lẽ làm 1 việc như thế.

Tks both of U.
NQT

V/v  Ký ức.

*

GCC @ Lý Kiến Cắn [Trúc]'s Van Hoa Magazine, Little Saigon.

Fall of Saigon

*

25 Mar 1975, Saigon, South Vietnam - 3/25/1975 - Saigon, South Vietnam - Willie Vicoy, UPI staff photographer, depicted wearing a Hawaiian shirt alone in Saigon. - Image by © Bettmann/CORBIS

Chỉ cần lèm bèm về “thời của mình”, và “hiện tại chán nản” là đủ tuyệt vời rồi!

Tks. Take Care. NQT

*

Lúc này vưỡn còn cờ VNCH (a)

Commemoration is always the adaptation of memory to the needs of today.
Tsvetan Todorov

Tưởng nhớ, hoài niệm…  luôn luôn là sự sửa lại hồi ức cho hợp với nhu cầu hiện tại.
Cynthia Ozick trích dẫn, trong bài viết “Who owns Anne Frank?"

Nếu thế, trong ký ức của Bắc Kít, liệu có nên vờ thời kỳ tem phiếu, cho nó hợp với nhu cầu Mít hiện đại?

Nhưng khốn nạn thay, Bắc Kít được nặn lên từ ký ức đó, như em Tẫu, Yiyun Li, phán:

You were not who you were, but what you were rationed to be.
Mi đâu phải là mi, mi là cái mà tem phiếu nhào nặn thành.


HCM by Karnow

KILLING GOLIATH

When General Vo Nguyen Giap assembled his army from North Vietnam's poorest villages, Westerners watched with contempt. But Giap's tactical genius turned the guerrillas into a sharp anti-imperialist weapon. His mastery of jungle tactics and battlefield psychology terrified and eventually defeated the French and Americans. Western scorn was replaced with horror and, as time passed, respect. 

France undervalued ... the power [Ho] wielded. There's no doubt that he aspired ... to become the Gandhi of Indochina. 

JEAN SAINTENY, De Gaulle's special emissary to Vietnam, 1953

*

"Of course, he was a formidable adversary.... By his own admission, by early 1969, I think, he had lost, what, a half million soldiers? He reported this. Now such a disregard for human life may make a formidable adversary, but it does not make a military genius...".

William Childs Westmoreland

Đúng rồi ông ta là 1 địch thủ khủng khiếp... Như chính ông ta thừa nhận, vào đầu năm 1969, ông ta nướng nửa triệu tên VC. Một cái sự coi mạng người rẻ như bèo như thế, có thể làm nên 1 địch thủ khủng khiếp, nhưng đéo phải 1 thiên tài quân sự!

Hà, hà!

The Sinister Spirit sneered: 'It had to be!'
And again the Spirit of Pity whispered, 'Why?'

Trước khi xẩy ra cú tấn công
[Điện Biên Phủ]

5 Tháng Giêng [1954]

Tôi luôn cảm thấy mình có tí ti tội lỗi, khi làm một nhà du lịch dân sự, ở những vùng thần chết ngự trị: nói cho cùng, một cái gã còn được gọi là một người, không nên đi tham quan một thảm họa, ngoại trừ là nhân viên cứu trợ - một con người cảm thấy mình là 1 nhà “thấu thị”, a “voyeur”, trước bạo lực, như tôi cảm thấy, trong một cú tấn công [của VC] ở Phát Diệm, hai năm trước đây. Ở đó, bạo lực đã có mặt rồi: một ngôi chợ cháy, những căn nhà bị tàn phá, con phố dài vắng hoe không người qua lại, hay bén mảng, vì sợ bị bắn xẻ. Nó cũng hiện diện trên con kênh đầy xác người đến nỗi nước không thể chảy được, với một cái thuyền lính nhẩy dù ở mép kênh. Nó cũng tới thăm tận nhà, qua những chuyến hành quân kiểm tra, khi một bà mẹ và đứa con trai còn nhỏ của bà, mất mạng, khi bị kẹt giữa hai luồng đạn đối nghịch,

Họ để lại cơn hốt hoảng nào, cho đám dân làng sống giữa hai lằn đạn như thế?
Tôi đã từng cảm thấy cơn hốt hoảng này, lần bị lọt vào giữa, một bên Việt Minh, và một bên là lực lượng Lê Dương.
Tôi tự bảo mình, tôi thù ghét chiến tranh, tuy nhiên, tôi lại mò tới đây – làm một kẻ 'thấu thị' với những mánh mung của mình .
Graham Greene

Còn 1 hồi nhớ khác nữa mà tôi cảm thấy thật khó mà vờ đi được, là 24 tiếng đồng hồ sặc mùi tận thế là đây, mà tôi trải qua ở Điện Biên Phủ, vào tháng Giêng 1954. Chín năm sau, tôi được tờ Sunday Times đi 1 đường hỏi thăm, và đề nghị viết, về 1 “trận đánh quyết định”, tùy tôi chọn, tôi bèn nghĩ ngay tới DBP.

Mười lăm trận quyết định trên thế giới, là cái tít thật là cổ điển mà Edward Creasy đã ban cho cuốn sách của Sir, vào năm 1851. Nhưng thật đáng ngờ, là trong 15 trận đó, có một, bảnh, “quyết định”, như là “Điên Biên Phủ”, vào năm 1954. 

Điện Biên Phủ không chỉ là hồi chuông báo tử cho quân đội Pháp, mà hơn thế nhiều! Nó đánh dấu chấm hết mọi hy vọng ăn cướp của Tây Phương đối với Đông Phương! Chín năm sau trận đánh, khi tờ Thời Báo Chủ Nhật gợi ý, tôi nghĩ liền đến trận đánh thần sầu này.

Võ tướng quân đọc mà chẳng sướng mê tơi sao? (1)


IS PARIS BATHING?


Fuentes: Tiểu thuyết

John Le Carré's Page

*

le Carré: Bản tiếng Tây của bản tiếng Anh, trên TV.
Nhà văn quá, dưới mắt điệp viên. Điệp viên quá dưới mắt nhà văn.

The fiction of John le Carré
Giả tưởng của le Carré
Ngày 23 Tháng Giêng, 1963, Kim Philby, gián điệp Anh (cộng tác viên một thời cho Người Kinh Tế) chuồn qua Xô Viết. Chín tháng sau, “Điệp Viên Từ Miền Lạnh" ra lò.
Giả tưởng, tất nhiên, nhưng hình như nó còn thực hơn cả sự thực, phản chiếu một thực tại rộng lớn hơn, cái gọi là Cuộc Chiến Lạnh.
Bảnh hơn nữa, nó xuất  hiện, và sau đó, tiểu thuyết điệp viên thay đổi hẳn, không còn như trước nữa.

Cuốn tiểu thuyết mở ra với cảnh Alec Leamas, điệp viên Anh, phụ trách một đơn vị phản gián ở Bá Linh, chờ 1 đệ tử, biệt kích ném qua Đông Đức, bị cháy, và phải bỏ chạy, qua Trạm kiểm soát Charlie. Ngay từ câu “rất” đầu tiên, là cái viết của Le Carré, như 1 con rắn độc, thò mỏ ra chơi 1 phát. Những xen, cảnh thì được chiếu sáng theo kiểu cà giựt, bằng “flashpoint” [điểm hỏa, tia loé]. Nhân vật thì được phác họa bằng những câu sắc, lẹ. Câu văn ngắn, điểm đúng huyệt. Tình tiết rắc rối, không dễ mò, nhưng không bao giờ lâm vô tình trạng quá tải, với những nhân vật phụ, những cú xoắn thừa thãi, hay khúc ngoặt không cần thiết.
Không giống tiểu thuyết gián điệp “James Bond 007”, thế giới của le Carré gân guốc, chai sạn, và rặt một màu u tối. Leamas tự mình chuốc rượu mình, trong những căn phòng tù mù, bàn ghế không phải không bày mà gần như đếch có. Đờn bà thì câm, nếu không muốn nói là nín khe, trầy trụa, không phải thứ lụa là gấm vóc của Ian Fleming. Xa vời cái thứ hoành tráng, say đắm, những điệp viên của le Carré thì, bằng những từ của Leamas, "tuồng ảo hóa đã bày ra đấy, toàn 1 lũ khùng điên, ba trợn, phản bội, những tên sa đích, ghiền rượu,  những kẻ thắp sáng cuộc đời thối rữa của chúng, bằng cách chơi trò cao bồi vs mọi da đỏ”, “a squalid procession of vain fools, traitors…pansies, sadists and drunkards, people who play cowboys and Indians to brighten their rotten lives”.
Cái sự “trần thùi lụi” này làm cho thế giới của những tên ma quỉ, gián điệp hai mang của le Carré, nếu không “xác thực”, thì “đáng tin”, như chính ông viết, trong lời bạt, 50 năm sau khi nó được xb lần thứ nhất. Cái viết ông mắc nợ rất nhiều từ 1 bậc thầy khác, trong giới viết truyện điệp viên bảnh tỏng, Graham Greene, và tác phẩm thần sầu của ông này, “Brighton Rock”, xb năm 1938. Nhưng cái vẻ gân guốc, chai sạn của “Tên Điệp Viên Từ Miền Lạnh” còn có thể tìm thấy ở trong 1 giả tưởng khác, cũng xuất hiện vào thời kỳ này. Năm năm trước đó, Allan Sillitoe viết về cuộc sống của giai cấp lao động ở Nottingham, trong “Saturday Night, Sunday Morning”, đã làm độc giả phát sốt với những miêu tả những vụ phá thai ở những con phố sau, những chiều tối trải qua trong những quán rượu, bằng tiền trợ cấp thất nghiệp. Vào năm 1956, John Osborne viết “Nhìn lại với Cáu Giận”, “Look Back in Anger”, một vở kịch hiện thực xoay quanh một anh chàng trẻ tuổi cáu giận, bất mãn. Tiểu thuyết của le Carré xoay quanh một chuyện khác, và nó phản chiếu một vết nứt rạn rộng hơn, về thời hậu chiến Anh, và mở ra 1 đường viết khác về cuộc sống ở xứ sở này.
Chẳng bao lâu sau khi cuốn tiểu thuyết xb, le Carré nghỉ chơi với sở ngoại giao và chỉ lo viết. Chừng 20 cuốn tiếp theo, kể cả cuốn mới ra lò, đầu năm nay, 2013, “Một Sự Thực Thanh Nhã.” Tất cả đều có thứ văn phong căng thẳng, và xoáy vào chi tiết. Nhưng “Điệp viên từ Miền Lạnh” kể như bảnh nhất. Gần 30 năm sau khi Bức Tường Bá Linh sụp đổ, cuốn tiểu thuyết của le Carré vẫn làm độc giả nhức nhối với Cuộc Chiến Lạnh, sự bất lực và dối trá của nó. Cuốn tiểu thuyết nhắc nhở chúng ta, 1 giả tưởng, thứ thật bảnh, có thể tra hỏi, về chuyện, nhà nước làm ăn ra làm sao.
Prospero
*
Lần kỷ niệm lần thứ 100, năm sinh của Greene [1904-1991], tác phẩm của ông được xb toàn bộ [chắc thế], mỗi cuốn kèm 1 bài biết thật bảnh.
Coetzee, trong tập tiểu luận của ông, chọn Brighton Rock [Introduction, ấn bản Penguin, New York, 2004] Theo ông, đây là tác phẩm nghiêm trọng đầu tiên của Greene, his first serious novel, theo nghĩa, viết với những ý nghĩ nghiêm trọng.

GG rất mê mấy dòng thơ dưới đây:

Our interest's on the dangerous edge of things.
The honest thief, the tender murderer,
The superstitious atheist.
[Nỗi quan hoài của chúng ta, là vào sát na sợi tóc nguy hiểm, ở mép bờ.
Tên trộm lương thiện, tên sát nhân dịu dàng. kẻ vô thần mê tín].
Robert Browning,
« Bishop Blougram's Apology »
[Lời xin lỗi của Bishop Blougram]

Pamuk, cũng mê, bệ làm đề từ cho cuốn Tuyết (1)

*

Thầy của le Carré, là Greene. Thầy của Greene, là Conrad.
Nếu phải chọn đề từ cho toàn bộ tác phẩm, Greene chọn câu trên, theo Coetzee.

Thế giới của Greene, 'Greeneland', là một miền đất trong đó, những con người bất toàn, imperfect, chia năm xẻ bảy, divided, như bất cứ một vẹn toàn, integrity, trong khi niềm tin bị thử thách ở mức tới hạn, their belief tested to the limit, và Thượng Đế, nếu có, thì đánh bài chuồn, nếu không muốn nói, đi trốn, ở ẩn, hidden.

*

Coetzee, có thể nói, là 1 người dẫn GCC vô văn chương thế giới hiện đại, như là 1 phê bình gia, nhà điểm sách, lương tâm của 1 thời, cùng với những đấng như Steiner. Đọc ông rất thú, vì thể nào bạn cũng kiếm thấy 1 ý, 1 câu thần sầu của ông, chiếu rọi 1 tác giả.

Thí dụ, khi ông viết về Walter Benjamin, và nhìn ra hai tác phẩm khổng lồ về điêu tàn của thế kỷ 20, ngó nhau:

Từ một khoảng cách, tuyệt tác của Benjamin, kỳ cục thay, gợi nhớ một điêu tàn lớn lao khác của văn học thế kỷ 20, "Thi khúc" ("Cantos"), của Pound. Cả hai tác phẩm đều được chiết ra từ những năm tháng đọc sách theo kiểu cú vọ (jackdaw reading). Cả hai đều được dựng nên từ những mẩu đoạn và những trích dẫn, và trung thành với một thẩm mỹ học hiện đại bậc cao, về hình ảnh và dàn dựng. Cả hai đều có tham vọng kinh tế và đều nằm dưới sự chứng giám của những nhà kinh tế (một bên là Marx, và một bên là Gesell và Douglas). Cả hai tác giả đều có đầu tư vào trong những ngành cổ học, và cả hai đều đánh giá quá cao sự thích nghi của chúng đối với thời đại của chính họ. Chẳng người nào biết, khi nào thì dừng. Và cả hai, sau cùng đều tiêu ma vì con quái vật là chủ nghĩa phát xít. Với Benjamin, là một kết cục bi đát. Với Pound, ô nhục.

Ông viết về Paul Celan, mà chẳng tuyệt sao:

Celan là thi sĩ ngọn tháp Âu Châu ở những thập niên giữa thế kỷ 20, người mà, thay vì chuyển hóa thời của mình – ông đếch có hứng đó – thì xử sự như một cây roi điện xả hết luồng điện cực kỳ khủng khiếp chứa chất trong nó, của thời của mình.
Tuyệt!
Celan is the towering European poet of the middle decades of the 20th century, one who, rather than transcending his times – he had no wish to transcend them – acted as a lightning rod for their most terrible discharges.

Đâu có như phê bình gia Mít. Hoặc dởm, hoặc bịp.
Và đều đếch có tí lương tâm: Bỏ nước ra đi, tố cáo VC chán, lại mò về, làm như đếch có chuyện gì xẩy ra!

Nhà văn vào thời này, Tây hay Đông, nếu đúng là thứ thiệt, gắn bó với viết lách, nói chung, đều thật rành cái thế giới của họ, không chỉ như nhà văn, mà còn như là nhà phê bình, điểm sách. Coetzee là 1 trong thứ đó. Trong bài giới thiệu tập tiểu luận thứ nhì của ông Inner Workings, người viết, Dereck Attridge, đã đặt ra câu hỏi, và trả lời, chúng ta cần gì đọc phê bình điểm sách của một tiểu thuyết gia bậc thầy đã đoạt Nobel? Điều gì khiến chúng ta tò mò muốn đọc thứ đó?

Gấu mê đọc tiểu luận của Coetzee. Tiểu thuyết, mua gần như đủ cả, và thường là cả hai, tiếng Anh và tiếng Tẩy, nhưng chỉ đọc "Ô Nhục", tính đọc thêm cuốn, lấy khung cảnh St Petersburg, để vinh danh sư phụ của ông, là Dostoiesky: The Master of St Petersburg.

Tiểu thuyết của Coetzee, sự thực, cũng pha tiểu luận. V/v Văn phong, phải là cái tay trên Intel, khi chỉ ra, tính hà tiện để chảy máu mắt, khi viết của Coetzee.
Nhà văn Mít chưa ai hiểu ra được điều này. Chữ đầy ra đấy, tại sao hà tiện. Họ đâu có biết, viết, thừa 1 chữ, là hỏng 1 chữ đã được viết ra, vì không trân quí nó!

THE SAVAGE THRIFT OF J.M. COETZEE

 Tính tằn tiện dã man của J.M. Coetzee

Ghi chú về 1 giọng văn: Simon Willis khui ra 1 giọng văn gầy còm, không có tí mỡ, và đe dọa.

30.4.2012

by David Remnick

Aleksandr Solzhenitsyn, tiểu thuyết gia chính trị quan trọng nhất của thế kỷ 20, mất ngày 3 Tháng Tám 2008, thọ 89 tuổi.
Vài tuần sau khi chôn ông, nhà nước Nga của Putin làm 1 cú thật đểu cáng, [a sly, even cynical gesture] đổi tên 1 cái phố lớn nhất của VC Nga, ở Moscow, thành tên của Solz. Và còn làm 1 tấm plaque vinh danh những thành tựu văn học của ông, kế ngay bảng tiệm McDomald, trên cùng con phố!

Bà vợ góa của nhà văn, Natalia Solzhenitsyn kiên nhẫn ôm những trớ trêu của lịch sử. Tuần lễ vừa rồi, bà tới Triển Lãm Sách Mẽo, ở trung tâm Javits Center, vì một dự án tưởng niệm quan trọng hơn nhiều: Thành lập một kho dự trữ hồ sơ văn học gồm tất cả những gì, từ tuổi thơ bị đóng đinh thập tự của Solz, tới hàng ngàn trang bản thảo viết tay của ông, trong có bản thảo Quần Đảo Gulag mà bạn bè đã chôn giấu từ 20 năm ở vùng quê Estonia, bên ngoài tầm tay của KGB.

Alexa Ranking, June 4, 2012

Tin Văn: 1,242,390
Gió To: 1,475,097
Da Mùi: 1,874,281

Một mình một ngựa mà trùm thiên hạ, thế mới ghê chứ!
Hà, hà!
Lâu lâu thì cũng phải cho GCC phởn 1 tí chứ!
Cứ.... Lò Thiêu hoài, mệt quá!

TV có nhiều cộng tác viên “thầm lặng”, chứ 1 mình GCC, sức mấy mà bảnh như thế!
Tks all.
NQT

Ở Việt Nam, có một điều rất chi thú vị: tôi nhận ra là tuyệt đại đa số người ta rất hãi, rất dị ứng, rất nổi da gà da vịt trước những gì không hiểu được ngay sau một lần đọc. Mọi thứ phải thật là uốn éo dễ hiểu sáng quắc cơ. Thói này tôi gọi thẳng luôn tên là chứng bạo dâm bệnh lý: một người đọc "trí thức" ở Việt Nam luôn luôn có xu hướng đè bẹp tác giả, muốn đọc ai đó viết hay nhưng phải thấp thấp một tí, ẻo ẻo một tí, để mình được ở hơn, ở trên. Thế cho nên ngày nay chính là mảnh đất màu mỡ cho những người như Lê Hoàng hay Nguyễn Quang Lập :d Cách thức này không giúp gì cho việc tiếp cận, đọc thực sự những người như Coetzee. Hic, giải thích khó nhỉ, các bác cứ thử bỏ khoảng mấy tháng để lần mò theo một cuốn sách nào đó của Benjamin thì có thể lờ mờ hiểu tôi muốn nói gì.
Blog NL

Vẫn chuyện phê bình, điểm sách, do nhà văn, tiểu thuyết gia viết.
Tờ NYRB, nhân kỷ niệm 50 năm, trình ra những bài viết cũ, của những tác giả đã từng cộng tác. Số 10.10.2013, trích đoạn bài của Hilary Mantel, viết về Naipaul, Oct 24, 2002. Tuyệt, nếu vừa đọc vừa nhìn về xứ Mít.
Trích đoạn thôi, đọc, đủ thú rồi. TV sẽ dịch, như 1 cách đọc xứ Mít, nơi Naipaul gọi là, những xã hội được làm có 1 nửa, “half-made societies".

GCC đọc Mantel mới đây thôi, sau khi bà đoạt liền tù tì hai Booker Prize, hai cuốn tiểu thuyết, cùng đề tài, cùng 1 dạng, tiểu thuyết lịch sử.
Đọc bài viết về bà, 1 cách nào đó, là biết khá rành về Naipaul - cái tinh tuý của ông, phải nói như vậy mới đúng: Cuốn Sách của Thế Giới của Naipaul.



Cao Bồi

The assault began on 13 March 1954, and Dien Bien Phu fell on 7 May, the day before the delegates turned at last from the question of Korea to the question of Indo-China.
But General Giap could not be confident that the politicians of the West, who showed a certain guilt towards the defenders of Dien Bien Phu while they were discussing at such length the problem of Korea, would have continued to talk long enough to give him time to reduce Dien Bien Phu by artillery alone.
So the battle had to be fought with the maximum of human suffering and loss. M. Mendes-France, who had succeeded M; Laniel, needed his excuse for surrendering the north of Vietnam just as General Giap needed his spectacular victory by frontal assault before the forum of the Powers to commit Britain and America to a division of the country.


The Sinister Spirit sneered: 'It had to be!'
And again the Spirit of Pity whispered, 'Why?'

Cuộc tấn công bắt đầu này 13 Tháng Ba 1954, và DBP thất thủ ngày 7 Tháng Năm, trước khi các phái đoàn, sau cùng rời vấn đề Korea qua số phận Đông Dương.
Nhưng Tướng Giáp không thể yên trí, chính trị gia Tây Phương - vốn cảm thấy có tí tội đối với những người chống giữ DBP, khi họ lèm bèm quá lâu về Korea - bi giờ kéo dài cuộc cò cưa, đủ thời giờ cho ông, chỉ dùng pháo, đủ san thành bình địa lòng chảo DBP.
Và thế là trận DBP đi vào cuộc nướng người....  Thủ Tướng Tẩy cần xin lỗi, về cái sự đầu hàng VC Bắc Kít, còn Tướng Giáp, cần chiến thắng huy hoàng, trước khi những thế lực Tây Phương kéo Mẽo và Anh vô bàn hội, để xẻ thịt xứ Mít.

Con ma nham hiểm Bắc Kít, Con Quỉ Chuồng Lợn của Kafka, bèn cười khinh bỉ: Phải thế thôi!
Và Linh Hồn Trắc Ẩn của một miền đất, bèn thì thầm, Tại sao?

Graham Greene: Ways of Escape


LIFE DURING WARTIME

Khe Sanh,1968

In Memory of Borges

**

*

Cuốn này, mua lần qua Paris, tá túc nhà bạn Kiệt Tấn. Cuối thiên niên kỷ, gặp lại bạn quí HPA.
Đúng 13 truyện ngắn. Con số 13, “tình cờ”, hay "tàn khốc” thì cũng thế, vì như nhau, như Borges phán. Nhưng ông không nói thêm, độc giả mua, thì tình cờ, hay tàn khốc, cho dù như nhau?

ÉPILOGUE

Écrire une préface à des contes qui n'ont pas encore été lus est une tache presque impossible, puisqu'elle oblige à analyser des situations dont il convient de ne pas dévoiler la trame. Je préfère done m'en tenir a un épilogue.
    Le premier récit reprend le vieux thème du double, qui inspira si souvent la plume, toujours heureuse, de Stevenson. En Angleterre son nom est
fetch ou, de facon plus littéraire, wraith of the living; en Allemagne, doppelgaenger. Je soupconne que l'une de ses premières désignation fut celle d'alter ego. Cette apparition spectrale aura sans doute été un reflet renvoyé par un métal ou par l'eau, ou simplement par la mémoire, qui fait de chacun de nous un spectateur et un acteur. It me fallait faire en sorte que les interlocuteurs fussent assez distincts pour être deux et assez semblables pour n'être qu'un. Dois-je avouer que l’idée de cette histoire me vint en Nouvelle-Angleterre, au bord du fleuve Charles, dont les eaux froides me rappeterent le lointain cours du Rhone?
    Le thème de l'amour intervient tres souvent dans mes vers, mais pas dans ma prose, qui ne presente d' autre exemple qu'
Ulrica. Les lecteurs remarqueront sa parente formelle avec L'Autre.
   
Le Congrès est peut-être la fable la plus ambitieuse de ce livre; son thème est celui d'une enterprise tellement vaste qu'elle finit par se confondre avec le cosmos et avec la somme des jours. Le début, par son opacité, peut imiter celui des fictions de Kafka; la fin cherche à s'élever, sans doute en vain, jusqu'aux extases de Chesterton ou de John Bunyan. Je n'ai jamais mérité semblable révelation, mais j'ai essaye de la rêver. En cours de route, j'ai introduit, selon mon habitude, des traits autobiographiques.
    Le destin qui, dit-on, est imperméable ne me laissa pas en paix que je n'aie perpétré un conte posthume de Lovecraft, écrivain que j'ai toujours considéré comme un pasticheur involontaire d'Egar Allan Poe. J'ai fini par céder; mon lamentable fruit s'intitule
The are more things.
    La Secte des Trente
consigne, sans le moindre document à l'appui, l'histoire d'une hérésie possible.
   
La nuit des dons est peut-être le récit le plus innocent, le plus violent et le plus exalté qu'offre cet ouvrage.
   
La bibliothèque de Babel (1941) imaginait un nombre infini de livres; Undr et Le miroir et le masque, des littératures séculaires qui ne comportment qu'un seul mot.
   
Utopie d'un homme qui est fatigué est, a mon sens, la pièce la plus honnête et la plus mélancolique de la série.
    J'ai toujours été surpris par l'éthique obsessionnelle des Américains du Nord;
Le Stratagème cherche à illustrer ce trait de caractère.
    Malgré John Felton, Charlotte Corday, l'opinion bien connue de Rivera Indarte (“C'est une oeuvre pie que de tuer Rosas”) et l'hymne national uruguayen (“Pour des tyrans, le poignard de Brutus”), je n'approuve pas l'assassinat politique. Quoi qu'il en soit, les lecteurs du crime solitaire d'Arredondo voudront savoir ce qu'il advint de lui. Luis Melian Lafinur demanda sa grâce, mais les juges Carlos Fein et Cristobal Saloanac le condamnerent à un mois de réclusion cellulaire et à cinq ans de prison. Une des rues de Montevideo porte aujourd'hui son nom.
    Deux objets essentiellement différents et également inconcevables forment la matière des demiers contes.
Le disque, c'est le cercle euclidien, qui ne comporte qu'une seule face; Le livre de sable, un volume au nombre infini de pages.
    J'espère que ces notes hâtives que je viens de dicter n'épuiseront pas l'intérêt de ce livre et que les rêves qu'il contient continueront à se propager dans l'hospitalière imagination de ceux qui, en cet instant, le referment.

J.L.B.

Buenos Aires, 3 février 1975.