Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự văn học |
Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ |  Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
  Ghi chú trong ngày | Thơ Mỗi Ngày | Nhật Ký | Chân Dung | Jennifer Video 



29.11.2013



*

by iPad

Richie & Jennifer 's Christmas Garden

Thu Canada 2013


Bằng cách nào tôi bỏ Phố Miguel

Gửi Sài Gòn, và quãng đời sa sẩy tuyệt vời của tôi.
NQT



*

Note: Bài thơ thật tuyệt, post, rồi quên, chưa dịch (1)

Robert Hass: Now & Then         

NOVEMBER 21 [1999]

Thanksgiving: Daniel Halpern


Anyone who has had a newborn arrive in their life knows how powerful and hard to describe the emotions are. Twentieth-century poets have mostly stayed away from them. They are too frail. They are not mammal grief and rage, even though they can turn into grief and rage. (That's what King Lear is about.) And the example of the tradition of domestic and familial poetry in Victorian America has not encouraged us. It made the subject seem impossible to approach without sentimentality. Language makes the distinction: we speak of anger and desire as "feeling," the tender and uneasy stuff around the helplessness of infants, and the impulse to protect children we call "sentiment." And it's probably well that we do. Because they are frail emotions, and they are capable of turning into something quite savage. Nevertheless it is a deep thing, the wonder (and fear) at the arrival of a newborn child, and the process of-hard to know how else to say it-falling in love that parents go through with this creature given into their care. How do you talk about it?
    Daniel Halpern, in his new book Something Shining (Knopf), takes the subject on. He's my editor, and an old friend, and a poet I've been reading for twenty years or more. I've always thought of him as a poet on the model of the Roman poet Horace, with a poised and immensely civilized mind for the life we live, its large and small panics and decorums, and a civilized balance in his verse, in which orderliness can sometimes seem sinister and wry, and sometimes seem a gift, the kind of gift social being can give to one another, like a well-set table. Reading him has, over the years, made for very good company, this intelligence that is reasonably disenchanted, keeps an eye on the decades as they pass, the telling particulars in the social habits of a generation, its ardors, suavities, and defeats.
    And now this book that requires another kind of poise. How do you write about the whole business of becoming a parent, and about the way this attachment, this profound and life-defining tenderness and wonder, grows in us. He goes straight to it, and succeeds, I think. Have a look:

After the Vigil

They turn up, no longer nameless,
their bodies clear, so nearly pure
they appear in morning light transparent.

They turn up and one day look at you
for the first time, their eyes sure now
you are one of theirs, surely here to stay.

They turn up wearing an expression of yours,
imitating your mouth, the smile perfected
over years of enduring amusing moments.

They turn up without a past, their fingers,
inexact instruments that examine what carpets
their turf, what they inherit through blood.

They turn up with your future, if not in mind
very much in the explosive story of their genes,
in gesture foreshadowing the what's-to-come.

They turn up with your hair-albeit not much
of it-something in the color, the curl of it
after the bath, its bearing after sleep.

They turn up already on their own, ideas
of their own, settling on their own limits,
their particular sense of things.

They turn up and we have been waiting,
as they have without knowing. They turn
into this world, keeping their own counsel.
 


FEBRUARY I  [1998]

Một nhà thơ Ba Lan: Adam Zagajewski

Một trong những thơ đương thời mà tôi mê, là Adam Zagajewski, một nhà thơ Ba Lan, sống ở Paris, thành viên của thế hệ "Solidarity". Hai tập thơ, và hai tập tiểu luận của ông, là những tác phẩm [đầy tính] tưởng tượng, và ngạc nhiên, về chính trị, và nghệ thuật. Mới đây, ông có nửa năm làm thầy ở Houston. Và ở đây, 1 bài thơ, từ cuốn mới ra lò của ông, Chủ nghĩa thần bí cho những người mới bắt đầu, là từ kinh nghiệm này. Một bài thơ về 1 cái đầu lừ khừ, vào cái giờ chạng vạng, khi ý thức lập loè như ánh đèn của viên phi công:

Houston, 6 P.M.

Âu Châu đã ngủ rồi, ở bên dưới cái khăn choàng xộc xệch, thô kệch
Của những biên giới,
Và những hận thù cũ, xưa: Pháp làm ổ tới Đức,
Bosnia trong vòng tay của Serbia.
Lobely Sicily trong biển xanh da trời

Mới đầu buổi chiều, ở đây, đèn đã thắp,
Và mặt trời u tối nhạt nhòa dần.
Tôi một mình. Đọc tí tí, nghĩ tí ti.
Nghe ti ti tí âm nhạc.

Tôi ở nơi, có tình bạn,
Nhưng không có một người bạn, nơi say mê,
Nở rộ không cần sự thần kỳ
Nơi người chết cười ha hả. 

Tôi một mình là bởi vì Âu Châu đang ngủ.
Tình yêu của tôi ngủ trong một căn nhà cao ở ngoại vi Paris.
Ở Krakow và ở Paris bạn bè của tôi,
Lội qua cùng con sông lú, lấp, quên lãng.

Tôi đọc và nghĩ; trong một bài thơ tôi thấy câu này,
“Có những cú đánh thật khủng khiếp… Đừng hỏi!”
Tôi đếch hỏi, tất nhiên.
Một chiếc trực thăng làm vỡ mẹ buổi chiều êm ả.

Ở đây không có những loài chim “nightingales” hay “blackbirds”.
Với tiếng hót buồn, ngọt của chúng
Và bắt chước mọi tiếng người.

Thơ vời chúng ta tới với cuộc sống, với sự can đảm
Đối diện cái bóng lớn mãi ra.
Bạn có thể đưa mắt nhìn một cách bình thản Trái Đất
Như một phi hành gia tuyệt hảo?

Dưng không,
Từ biếng nhác vô hại,
Từ Hy Lạp của những cuốn sách
Từ Jerusalem của hồi tưởng;
Bất thình lình xuất hiện
Một hòn đảo của một bài thơ, không có người ở;
Một tên [thuyền trưởng] Cook mới
Sẽ có một ngày, khám phá ra nó.

Âu Châu thì đã ngủ rồi.
Những con thú của ban đêm,
Ảm đạm, và tham lam
Dọn vô, mở cuộc giết
Chẳng mấy chốc Mẽo cũng ngủ.

Người dịch là Clare Cavanagh. Một bài thơ không đơn giản. Rắc rối, phải nói thế - lưu vong, mất mát, ở 1 nơi mà anh ta chẳng cảm thấy chân của mình dính vào đất, hay, như một mầm hạt, loay hoay tìm cách trổ rễ; cảm quan sắc bén về bạo động của lịch sử, cái lừ đừ của nhịp sống của chúng ta, như 1 đáp ứng [tương quan], với bạo lực đó, "chuyện thường ngày ở huyện" liên quan đến “ngũ khoái” của chúng ta (ăn ngủ, đi đứng…). Cảm quan của Zagajewski về quyền năng nghệ thuật - của những cuốn sách, âm nhạc, thơ ca – thì chẳng hề tiếu lâm khôi hài, hay mỉa mai châm biếm. Trong tác phẩm của ông, Trái đất thuộc về cái bóng, thơ, về can đảm và ánh sáng. Nhưng trong bài thơ này, thơ là 1 hòn đảo, không người ở, chờ được khám phá, và trong khúc thơ chót, những con vật của đêm bèn tiến vô. Quả là 1 bài “Ru mãi ngàn năm" khá khủng khiếp!

“Có những cú khủng khiếp… Đừng hỏi”, là dòng thơ thứ nhất, dùng làm tựa đề cho bài thơ, từ tập thơ đầu tiên của nhà thơ lớn, người Peru, César Vallejo, mất năm 1938, nhan đề “Los Heraldos Negros”,  “Những thiên sứ đen”. Cuốn thơ và bài thơ đều rất đáng tìm đọc. Còn chi tiết này: Có loài chim hét, blackbird, ở Texas, nhưng không phải Turdus merula, the European blackbird, một loài chim hét Âu Châu, hót rất hay.

Tiểu luận và thơ của Zagajewski thì thật đáng đọc. Cả hai thì đều sáng ngời, thông minh một cách sắc sảo, chất khôi hài ở trong đó thì được chắt ra từ cuộc gặp gỡ của Đông Âu với lịch sử, và cũng đầy niềm vui bất ngờ. “Chủ nghĩa thần bí dành cho những kẻ mới bắt đầu” có những phẩm chất đó, và, cũng còn có, một nỗi buồn rầu liên lỉ, như thể, khi lịch sử, qua một bước ngoặt đáng khuyến khích của nó, như ở Ba Lan, những cảnh sắc chán chường mà chúng ta cưu mang ở trong chúng ta, và của thế giới, tiếp tục “u u”, những âm vang, với bạo lực và nỗi khốn cùng, ở đâu đó, được làm mới, và trở nên sáng sủa hơn.


Zbigniew Herbert
Why The Classics

Tại sao những nhà cổ điển.

Tôi chọn bài thơ này sau tí ngần ngừ. Tôi không coi dây là bài thơ bảnh nhất của tôi, cũng không coi nó đại diện cho chương trình thơ tôi. Tôi nghĩ, nó có hai đức hạnh: giản dị, khô ráo, và “nói lên” vấn đề rất cận kề trái tim tôi, đếch cần hoa lá cành, hay văn vẻ.
….

Cái nhìn của chủ nghĩa lãng mạn, nhà thơ phải phơi trần vết thương của mình ra, kể lể về những bất hạnh, [về nỗi cô đơn của bầy ngựa hoang, thân  phận nhược tiểu da vàng...  trong cuộc chiến Mít, thí dụ] vuỡn còn được nhiều người hưởng ứng vào những ngày này, mặc dù những thay đổi về văn phong, và khiếu thưởng ngoạn.
Phổ cập mà nói, thì "nó" [chủ nghĩa vãi linh hồn] phán, nghệ sĩ có quyền thiêng liêng với cái chủ quan, tao là bố thiên hạ, tao số 1....


Ghi chú trong ngày

Akhmatova: Nửa Thế Kỷ Của Tôi

*

Dante

Chàng đếch thèm trở lại
Ngay cả sau khi mất
Thành phố Hà Lội của chàng
Rời bỏ, chàng đi thẳng một mách
Vì chàng mà tôi hát bài hát này
Đêm. Một bó đuốc. Nụ hôn sau cùng.
Bên ngoài, âm thanh số mệnh – Như gió hú
Từ Địa Ngục, chàng gửi cho nàng một lời trù ẻo.
Ở Thiên Đàng, nàng vẫn giữ chàng ở trong đầu
Chàng không bước chân trần, muộn trong đêm
Bị quyến rũ, như 1 tên tội đồ
Qua Hà Lội - phản bội, đầy hờn oán
Thành phố chàng chân thành ao ước.

Bài thơ trên, kỳ cục thay - tuyệt vời thay - làm liên tưởng tới nhà thơ tội đồ gốc Bắc Kít, trong bài thơ nhớ vợ; cũng cái giọng ngôi thứ nhất, cũng chỉ là riêng tư, mà trở thành “sử thi” của lũ Ngụy.

Bài thơ thần sầu nhất của Thơ Ở Đâu Xa: Bài Nhớ Thi Sĩ

Đâu có phải tự nhiên mà đám sĩ quan VNCH lại phổ thơ, và đi đường tụng ca, khi còn ở trong tù VC.

Mỗi ông thì đều có 1 bà vợ như vậy.


JFK vs Diem & Nhu

Cái chết của Diệm & Nhu, là cái chết được báo trước, như của “anh em nhà K”!

*

*



Tôi là 1 kẻ sống sót, 1 cách nào đó. Steiner nói về cái chuyện, nhờ ông bố Bắt Kít, Do Thái, khôn tổ cha mà thoát Lò Thiêu!
Trung Uý Kiệt, trong MCNK cũng nhờ ông bố Bắc Kít, quá khôn, tống đi du học, cho khỏi phải chết vì cuộc chiến Mít, sau đành bò về để chết vì đạn của Ngụy, do lầm là VC!

Proust, viết "Đi Tìm Thời Gian Đã Mất", là cũng đo đếch được nhỏ máu ngón tay, viết đơn tình nguyện, tham gia cuộc chiến.
Ít người để ý đến nguyên nhân này. Trong số về Proust của tờ Lire, trên, có dành 1 trang cho đề tài này. Cuốn "Về phía Swann" ra lò đúng chiều hôm trước, của ngày nổ ra cuộc chiến 14 Nov 1913, với lời khuyên ngắn, gọn, "Hãy đọc cuốn này, rồi chết", thuổng ý của GCC, trong “Lần Cuối Sài Gòn”:

Đừng yêu sớm quá, nếu muốn chết trẻ!

Hà, hà!

Cả sự nghiệp viết lách của Steiner, là do đau quá, đếch được chết ở Lò Thiêu. Đó là “sự thực”, và cũng ít người nhận ra, kể cả Vargas Llosa, khi viết về ông, và gọi là 1 thứ “enfant terrible” của thế kỷ.

Nhìn như thế, thì MCNK là lời xin lỗi của Trung Uý Kiệt, ở ngoài đời, khi phán, chưa từng bắn 1 phát súng nào, trong cuộc chiến lấy đi 3 triệu con người.

*

Paris Match. 21 &27 Nov 2013:
Bức hình này - Simone Veil đưa mấy đứa cháu về thăm nơi cũ -  bị “chồng”, với 1 tấm khác, trong cuộn phim.

Mỗi ngày 1 bức hình: Trở lại Lò Thiêu.

*

Simone Weil khác Simone Veil, một chính trị gia Pháp, sống sót Lò Thiêu.
Paris Match 13 & 19 Janvier 2005


The Triumph of an Underground Man

Rachel Polonsky

The Bridge Over the Neroch and Other Works


NXH's Poems of the Night

Đi tìm phê bình gia Mít

Ways of Escape


*
Camus 100

*

TLS, số Nov 8 2013, có hai bài về Camus. Một, trên, và một, là trong Sổ Ghi NB [Notes Book, chắc hẳn?]. Trong NB, tờ báo thú nhận, đã bỏ qua (overlook) cuốn Kẻ Xa Lạ, khi nó vừa ra lò, 1942, và cho biết, cuốn sách thường bị coi là tác phẩm đầu tay của Camus, sự thực, thứ ba, sau L'Envers et l'endroit, và Noces. Thú nữa, người điểm Dịch Hạch, La Peste, khi nó ra lò, vô danh, hóa ra là Gabriel Marcel, thường được coi là nhà hiện sinh Tẩy thứ nhất, the first French existentialist!
Toàn những chi tiết thú vị.


Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu