Second-handed,
nhưng quá OK. Đi liền hai cái cực ngắn của tác giả gối đầu giường của
Linda Lê.
Cuốn Kafka, có 1 cuốn, mua lâu rồi, liền khi ra hải ngoại, khi làm nghề
bán bảo
hiểm nhân thọ. Mua cuốn này vì bài viết của Updike, chưa kể phần notes,
thần sầu,
thường là trích từ Nhật Ký, cho biết Kafka viết chúng khi nào.
Đi Bác sĩ khám
cái cổ, tiện ghé tiệm sách cũ.
MADNESS
A postman
was suspended in Lend because for years he had not delivered any letter
that he
thought contained sad news or, in the nature of things, any of the
cards
announcing a death that carne his way, but had burned them all in his
own home.
The post office finally had him committed to the lunatic asylum in
Scherrnberg,
when he goes around in a postman's uniform and continually delivers
letters that
are deposited by the asylum's administration in a letter box specially
built
into one of the walls of the asylum and that are addressed to his
fellow
patients. According to reports, the postman asked for his uniform as
soon as he
was committed to the lunatic asylum in Scherrnberg so as
not to be driven mad.
CARE
A post
office official who was charged with murdering a pregnant woman told
the court
that he did not know why he had murdered the pregnant woman but that he
had
murdered his victim as carefully as possible.
In response to all the presiding judge's questions, he always used the
word carefully,
whereupon the court proceedings against him were abandoned.
Updike chọn
hai truyện ngắn tiêu biểu, two introductory parables. Một, tất nhiên
phải là…
Trước Pháp Luật. Một, với ông là, Thông điệp Hoàng gia, An Imperial
Message.
Nhân tiện giới
thiệu 1 ngụ ngôn thật ngắn của Hasidism, mà theo Updike, có thể ảnh
hưởng lên Kafka:
A man who
was afflicted with a terrible disease complained to Rabbi Israel that
his
suffering interfered with his learning and praying. The rabbi put his
hand on
his shoulder and said: "How do you know, friend, what is more pleasing
to
God, your studying or your suffering?"
[Martin
Buber, Tales of the Hasidim, Vol. II]
Một tín
hữu phàn nàn với
vị thầy tu gia đình của mình, con bị dính bịnh... kín, đau quá,
không làm sao cầu nguyện được.
Vị thầy tu bèn an ủi, có khi Chúa hài lòng vì thấy con đau, hơn là thấy
con cầu nguyện Ngài!
Cuốn này, mới
ra lò, 2015, GCC tính mua, rồi không tính mua, vì túi tiền, cuối
cùng đành
bệ về!
Nghĩa là, tuyệt lắm!
Bishop là một nữ thi sĩ
Mẽo. Toibin, tiểu thuyết gia. Vậy mà chính là nhờ
thơ của
Bishop mà Toibin trở thành tiểu thuyết gia. Đây là cuốn đệ tử vinh danh
Thầy.
In this
book, novelist Colm Toibin offers a deeply personal introduction to the
work and
life of one of his most important literary influences-the American poet
Elizabeth Bishop. Ranging across her poetry, prose, letters, and
biography,
Toibin creates a vivid picture of Bishop while also revealing how her
work has
helped shape his sensibility as a novelist and how her experiences of
loss and exile
resonate with his own. What emerges is a compelling double portrait
that will
intrigue readers interested in both Bishop and Toibin. ForToibin, the
secret of
Bishop's emotional power is in what she leaves unsaid. Exploring
Bishop's
famous attention to detail, Toibin describes how Bishop is able to
convey great
emotion indirectly, through precise descriptions of particular
settings,
objects, and events. He examines how Bishop's attachment to the Nova
Scotia of
her childhood, despite her later life in Key West and Brazil, is
related to her
early loss of her parents-and how this connection finds echoes in
Toibin's life
as an Irish writer who has lived in Barcelona, New York, and elsewhere.
Beautifully
written and skillfully blending biography, literary appreciation, and
descriptions
of Toibin's travels to Bishop's Nova Scotia, Key West, and Brazil, On
Elizabeth
Bishop provides a fresh and memorable look at a beloved poet even as it
gives
us a window into the mind of one of today's most acclaimed novelists.
Colm Toibin
is the author of eight novels, three of which have been shortlisted for
the Man
Booker Prize: The Blackwater
Lightship, The Master
(the Los Angeles Times Novel
of the Year), and The Testament of
Mary. His other novels include Nora Webster and
Brooklyn. He is the Irene and Sidney B. Silverman Professor of the
Humanities at
Columbia University, a regular contributor to the New York Review of Books, and
a contributing editor at the London
Review of Books. Cuốn này thuộc tủ sách "nhà văn viết về nhà văn".
Nhắc tới
Bishop thì lại nhớ tới bài thơ Hai Hòn Bi của Ông Số 2. Nhảm thế.
Ấy là vì hai
bài thơ thật giống nhau, mà một thật, một dởm. Tếu thế!
Từ từ GCC kiếm lại, trình
bà con đọc chơi!
CHC: Thay mặt độc giả Sóng,
thành thật cảm ơn anh Đỗ Quý Toàn và xin anh cho độc giả đọc lại một
bài thơ
của anh. Bài gì có câu: “hai đứa ngồi đó như hai hòn bi” ấy. Tưởng cũng
nên hỏi
anh xuất xứ bài này.
ĐQT: Bài
này được nhiều người biết vì anh Phạm Duy phổ nhạc hay quá xá. Vì anh
mà nhiều
người gọi tôi là “thi sĩ hai hòn bi”. Viết vào khoảng năm 1959 in
lần đầu
trên báo Ngàn Khơi khoảng 1960-1961. Ngày đám hỏi tụi tôi, năm
1964, tôi
đọc cho bạn bè nghe. Anh Phạm Duy có ở đó, bảo đưa anh đem về. Một tuần
sau anh
gặp tôi ở đường Lê Lợi dừng lại hát cho tôi nghe liền. Nghe chị Thái
Thanh hát
ở Đêm Màu Hồng đã lắm.
Gấu đã kể về, cả thành phố Sài
Gòn có 1 dạo khổ vì “hai hòn bi” của
nhà thơ, sáng nào cũng ra rả trên Ðài Phát Thanh Sài Gòn. (1) Bây giờ
lại
lôi ra để
mà làm khổ độc giả TV nữa, thì kỳ quá. Nhưng, cũng chỉ là tình cờ, Gấu
đọc bài
viết của Charles Simic, điểm 1 tập thơ của Elizabeth Bishop, trên số
báo NYRB,
27 Tháng 4, 2006, ông có trích dẫn một bài thơ của Bishop, xem ra có
thể so sánh
với bài “hai hòn bi”, ở cái vẻ tự nhiên của nó, nhưng với 1 độc giả
tinh ý, thì
một bên là giả đò, một bên là thực sự.
It is marvelous
to wake up
together
At the same
minute; marvelous to
hear
The rain
begin suddenly all over
the roof,
To feel the
air suddenly clear
As if
electricity had passed
through it .
From a black
mesh of wires in the
sky.
All over the
roof the rain hisses,
And below,
the light falling of
kisses.
An
electrical storm is coming or
moving away;
It is the
prickling air that wakes
us up.
If lightning
struck the house now,
it would run
From the
four blue china balls on
top
Down the
roof and down the rods
all around us,
And we
imagine dreamily
How the
whole house caught in a
bird-cage of lightning
Would be
quite delightful rather
than frightening;
And from the
same simplified point of view Of night and
lying flat on one's back All things
might change equally easily, Since always
to warn us there must be
these black Electrical wires dangling. Without
surprise The world
might change to something
quite different, As the air
changes or the
lightning comes without our blinking, Change as
the kisses are changing without our thinking.
Simic phán:
Ðiều mà
Bishop mê nhất trong thơ là tính tự nhiên của giọng thơ. “Phải thật có
tài mới làm
cho nó thật tự nhiên”, bànói. Bà không
hề sợ nghe có vẻ sến, và tin vào những từ bình thường, để làm ra thứ
thơ siêu phàm.
[What she
most admired in poetry was the naturalness of tone. "It takes great
skill
to make it seem natural," she said. She was never afraid of sounding
flat,
trusting ordinary words to make sublime poetry].
Ðọc hai bài
thơ, đều là thơ tình, của Bishop và của Ông số 2, thì chúng ta sẽ thấy
ngay, một
bên làm ra vẻ tự nhiên, và một, tự nhiên.
(1)
Ông Số Hai
là một thi sĩ. Thơ của ông đã từng được phổ nhạc. Không phải nhạc sĩ
nào cũng
được hân hạnh phổ thơ của ông. Mà phải là một thứ thầy, chuyên phổ thơ
của những
nhà thơ thầy.
Bạn đọc chắc
là đoán ra nhà nhạc sĩ đại tài, nhất là trong cái việc phổ thơ.
Tuy nhiên đại
tài hay không đại tài, vẫn có lần thất bại, và nhè đúng vào bài thơ của
Ông Số
Hai. Nghĩa là chẳng ai thèm nhớ cả thơ lẫn nhạc. Hai Lúa này nhớ, có
một dạo,
đài phát thanh Sài Gòn ngày nào cũng chơi bản nhạc phổ thơ của ông.
Chuyện đó xưa
lắm rồi, từ hồi ông mới bước chân vào làng, nhanh chân cũng chẳng thua
Hai Lúa,
[ông cùng học Nguyễn Trãi, Hà Nội, với Hai Lúa, cùng năm, chỉ không
cùng lớp],
mà nếu có sau HL thì cũng chỉ chừng vài tiếng, hoặc vài ngày! Nghĩa là,
ông
cũng thuộc vào thế hệ văn học thập niên 1960 của Sài Gòn, độc nhất,
tuyệt nhất,
của văn học của chúng ta, như một nhà thơ trong nước cảm thán.
Cựu trào như
thế, mà cho tới bi giờ chẳng ai thèm nhớ một câu văn, một bài thơ nào
của
"ổng" cả!
Có lẽ chính
vì vậy, khi Khi Tôi Chết Hãy Ném Thây Tôi Xuống Biển của nhà thơ Du Tử
Táo nổi
lên như cồn, Ông Số Hai phán, bài thơ này, ai làm mà chẳng được!
Cựu trào như
thế, nhưng may mắn cho Hai Lúa, cả đời chưa từng phải nhắc tới nhà thơ
lớn này
một lần nào. Có lỡ gặp nhau, thì cũng đành gật đầu, hoặc kẹt lắm, bắt
tay cho
nó đỡ trơ, đỡ chuế, cho cả hai bên!
Vậy mà bi giờ
đành phải chiếu cố tới nhà thơ, cũng là sự vạn bất đắc dĩ!
From good to
evil is one quaver
Từ tốt tới xấu
là một cái run rẩy
Russian
Proverb
D.M. Thomas
trích dẫn, trong Solzhenitsyn, một
thế kỷ ở trong ta.
Bài thơ này,
ai làm mà chẳng được.
Đúng như thế,
và đây là một trong những chân lý của văn chương, theo đó, những bài
thơ hay
cho chúng ta cái cảm giác tuyệt vời, là, khi đọc, mình có cảm tưởng,
mình thừa
sức làm bài thơ như vầy. Nhưng từ "mình dư sức làm câu này", tới
"bệ luôn câu này về nhà mình", là cả một... sát na!
Bỏi vì ông số
2 không cho biết những bài thơ “có lúc thét lên, nghe đọc thấy rùng
mình” của ông,
nội dung nó ra làm sao, phản chiến, thù hận Mỹ Nguỵ, phò VC… khiến kiểm duyệt của VNCH không cho xb, phải
in ronéo, và cái đám sinh viên bạn ông có HPNT trong đó không, thành ra
độc giả
cũng đành chỉ biết có vậy. Tuy nhiên những nhận xét về thơ tự do, về
nhóm Sáng
Tạo của ông, qua bài phỏng vấn, theo Gấu, nhảm, theo nghĩa, ba vạ, huề
vốn. Ðiều
này chứng tỏ ông không thể là 1 thi sĩ của cái thời của ông, như những
nhà thơ
của thời đó, như Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, thí dụ, và cũng không
thể thuộc,
cũng lớp này, nhưng làm thơ trễ hơn, như Nguyễn Xuân Thiệp, vẫn thí dụ
[có thể ông
này đã từng làm thơ trước khi đi tù, nhưng nhờ đi tù mà thơ nổi hẳn
lên, đại khái
như thế]. “Hai hòn bi” thì thời nào cũng làm được, nhưng thứ thơ “khóc
thét lên,
rùng cả mình”, nếu sự thực ông có làm, thì tiếc quá, vì có ai được
thưởng thức đâu!
Ðể đỡ tiếc,
chúng ta đành đọc Milosz: Nào, bây giờ tôi có ý định nói về kinh nghiệm
thơ
trong một thời gian và nơi chốn cực kỳ chi tiết, xác định. Thời gian
1939-1945.
Nơi chốn: Ba Lan.
Thành thực mà
nói, Gấu này chưa từng gặp 1 thi sĩ bốc phét về thơ của mình như Ông Số
2 này,
thơ "nghe như thét lên, nghe rùng cả mình", cả 1 chế độ Ngụy sợ quá,
kiểm duyệt, không
cho xb, phải in lén bằng ronéo.
Trong khi đó thì rẻ rúng thơ của thi sĩ bạn thân
của mình, và chôm thơ của thi sĩ "bạn quí" của ông ta, Ông Số 1!
Có thể có người
nghĩ Gấu thù hằn ông ta! May quá, không có chuyện đó!
Cái sự chửi
như "ba dòng thác cách mạng của VC”, ở trên trang TV, là 1 cú đánh chót
của
Gấu, gọi hứng từ đám“mafia Do Thái”,
trao giải Nobel văn chương, dựa trên câu của Walter Benjamin, mọi tài
liệu về
văn minh là 1 tài liệu về dã man: Bởi vì chỉ có mỗi 1 cách, lôi cái
đống kít ở
dưới chân tượng đài văn minh dởm bốn ngàn năm văn hiến ra, quậy cho nát
bấy
lên, rồi bắt chước NH của NHT, nhét vô miệng đám tinh anh Mít, cả ở
trong lẫn
ngoài nước, may ra mới có sự thay đổi! (1)
Chuyện Tình
[Hai Hòn Bi]
Thơ Đỗ Quý
Toàn
Ôi anh yêu
em vì em biết nói
Em đã biết
thưa em còn biết gọi
buổi sáng trời
mưa khiến anh nhớ em
bây giờ trời
nắng anh nhớ em hơn
ngồi xuống
đây đi nghe chim đang hót
đồng cỏ bàn
tay trời cao mắt ướt
khi ngó nhau
thôi còn biết nói gì
hai đứa ngồi
đó như hai hòn bi
có cánh hoa
đẹp anh hái cho em
em không
thèm nhận anh chết cho xem
và anh sẽ
khóc miên man suốt ngày
ôi chả bao
giờ buồn như bữa nay
này em yêu
quý em có biết nghe
trên cánh đồng
cỏ có con bò kia
nó kêu “bò”
“bò” và nó ăn cỏ
trời hôm nay
cao, yêu em, hỡi gió
và trên đỉnh
đồi có cây to tướng
ở một cành
ngang có một tổ kiến
có con đi ra
có con đi vào
trời hôm nay
nắng, yêu em xiết bao
này em yêu dấu
em nào có hay
hồi nãy trên
trời có con chim bay
có con chim
nó bay qua trên trời
trời xanh đến
thế đôi mình lứa đôi
*
Trích tạp
chí Sóng, số 71 phát hành vào
tháng 4 năm 1988
Ghi chú:
1/ Tạp chí
Sóng (ISSN 08222-4266)là tờ báo
của
thuyền nhân ViệtNam (The Vietnamese
Boat People’s Magazine), Chủ nhiệm Nguyễn Tăng Chương (nhà giáo). Chủ
bút: nhà
vănMinh Đức Hoài Trinh. Tòa soạn đặt tại
thành phố Toronto Canada. Hiện nay báo đã đình bản.
2/ Nhà thơ Đỗ
Quý Toàn còn dùng các bút danh Vương Hữu Bột, Đạo Cấy, Ngô Nhân
Dụng…Hiện ông sống
và làm việc tại Hoa Kỳ. Từng giữ chức Chủ bút tạp chí Thế Kỷ 21 trong
nhiều
năm. Bạn đọc có thể gặp bài viết của ông đều đặn trên tạp chí Thể Kỷ
21. Người
Việt Oline qua các bài bình luận chính trị, kinh tế,văn học,câu chuyện
bàn tròn
vv…
Tác phẩm in
tại hải ngoại: Yêu Con, Dạy Con Nên
Người Việt (tiểu luận, 1988), Cỏ Và
Tuyết
(thơ, 1989), Đổi Mới Kinh Tế (biên khảo), Tìm Thơ Trong Tiếng Nói (biên
khảo,
1992)
Nguồn: Trang
Luân Hoán
Bài thơ của
Bishop, TV đã dịch ra tiếng Mít, để kiếm sau
A
society
that has more justice is a society that needs less charity. -Ralph
Nader, 2000 Một xã hội
nhiều công lý đếch cần đến lòng thương hại, từ thiện, hay cái gọi là
“thương người
như thể thương thân”!
GCC, điếc đặc
nhạc cổ điển, nhưng cái tên Chostakovitch, lại thêm inédit, chưa từng
in ấn, intime,
cõi thầm kín…. làm sao bỏ qua!
Quả là không
bõ công mua. Chỉ nội bức thư dưới đây.
GCC nhớ hoài
hai giai thoại về ông này. Một, là thời gian thất sủng, chỉ chờ Cớm VC
Niên Xô
[KGB] tới bắt, ông bèn nằm hành lang, nhà của mình, để cho vợ con không
đau lòng
vì cảnh bi thương này!
Tuyệt. Chỉ 1
chi tiết như thế là thấy Bắc Kít không có tên nào làm được!
Thứ nhì, ông
này đếch thèm ký tên vô danh sách kêu gọi Bắc Bộ Phủ Cẩm Linh thả
Brodsky, sau
khi hỏi, tên thi sĩ này có phải đã từng gặp tụi [ký giả] Tây Phương.
Nghe nói,
có, thế là ông ta lắc đầu, gặp tụi nó là bị mua rồi, hỏng rồi!
[Trong trò
chuyện với Brodsky của Volkov có kể chuyện này]
Số này tuyệt
lắm. Nói tới bản nhạc thần sầu của ông, Symphonie 7, Leningrad.
Tớ rõ ràng
là sống quá dai, quá cả cái thời của tớ!
Shostakovich
vào Viện Âm Nhạc Petrograd năm 1919 khi ông 13 tuổi, và là một trong
những học
trò xuất sắc nhất về soạn nhạc của trường Petersburg. Ông cũng đam mê
không khí
văn chương của thành phố. Vở opera đầu tiên của ông, Cái Mũi, dựa theo
một chuyện
kể phi lý của Gogol về cái mũi của một nhân viên, rời chủ của nó để
sống một cuộc
sống tự lập, cuối cùng bị cảnh sát bắt. Vở opera có thể được thưởng
thức như là
một câu chuyện châm biếm về quyền lực và nỗi sợ do nó gây nên. Vào năm
1936,
Stalin đi dự một buổi trình diễn vở opera của ông Phu nhân Macbeth ở
Quận
Mtsensk, và tỏ vẻ bực bội, dấu hiệu mở đầu chiến dịch dữ dội của Đảng
nhằm chống
lại mọi hình thức nghệ thuật đi ra ngoài dòng hiện thực xã hội chủ
nghĩa.
Leningrad trở thành mục tiêu đầu tiên của "Đại Khủng Bố". Sau vụ ám
sát Kirov, trùm đảng bộ Leningrad (1934), có thể là do Stalin, nhằm có
cớ cho
cuộc thanh trừng những phần tử đối lập trong thành phố, những cuộc bắt
bớ hàng
loạt đã diễn ra. Shostakovich đã khéo léo lắm mới thoát khỏi, và vẫn
giữ được sự
trung thực. Trong một cuộc phỏng vấn, ông tuyên bố Bản Giao Hưởng Thứ
Năm, được
trình diễn lần đầu, tháng Mười Một 1937, là về "một người đàn ông với
những
cảm nghĩ của anh ta", nhưng những khán thính giả cắt nghĩa, đây là một
tác
phẩm về Khủng Bố. Tất cả đều biết rằng, chỉ lát nữa sau khi ra khỏi
rạp, một
vài người trong số họ sẽ bị ném vào tù, hay bị xử tử. Bản Giao Hưởng
Thứ Bẩy,
viết để tặng những người dân thành phố bị quân đội Đức vây hãm, được
trình diễn
lần thứ nhất tại đây vào tháng Tám 1942, trước một đám thính giả, lả vì
đói và
lạnh. Được truyền thanh khắp nước Nga và được Stalin khôn khéo sử dụng,
như một
bằng chứng về tinh thần yêu nước của người dân Leningrad, nhưng tác giả
của nó
đã tâm sự với một số bạn thân, bản giao hưởng không chỉ là một cáo
trạng đối với
chủ nghĩa phát xít, mà đối với mọi chủ nghĩa đàn áp. Âm nhạc của ông đã
kết
tinh hình ảnh mới của thành phố, như là một nạn nhân. Đây là điều
Akhmatova đã
làm, trong những vần thơ dưới hầm của bà.
RUINED CHOIRS
How did Shostakovich's music
survive Stalin's Russia?
For genuine
dissidents, such as Solzhenitsyn and
Brodsky, Shostakovich was part of the problem. In an interview,
ironically,
with Solomon Volkov, Brodsky attacked the effort to locate "nuances of
virtue" in the gray expanses of Shostakovich's later life. Such a career
of compromise, Brodsky said, destroys a man instead of preserving him.
"It
transforms the individual into ruins," he said. "The roof is gone,
but the chimney, for example, might still be standing." Cái trò ‘dạng háng’, ‘biển
một
bên, tớ một bên’… huỷ diệt một con người thay vì giữ được nó… Nó biến
con người
thành tro than, điêu tàn… Mái nhà thì mất mẹ nó rồi, nhưng cái ống
khói, có thể
vưỡn còn!
Note: Cái đoạn gạch đít ở
trên, áp dụng vào đám tinh anh Bắc Hà [HC, LD... trừ Hữu Loan], thật
hợp!
Late at
night, Ragin broods
over his condition: "I am serving a bad cause, and I receive a salary
from
people whom I deceive. I am dishonest. But then I am nothing by myself,
I am
only a small part of a necessary social evil. . . . It is the fault of
the time
I live in." He finds solace in the thought that suffering is universal
and
that death destroys all human aspirations in the end. Immortality, he
says, is
a fiction. When he dies, of a sudden stroke, he is mourned by no one.
At that
point, the resemblance to Shostakovich breaks down.+ (b)
Cái tiệm bán
báo Tẩy hóa ra cũng có sách Tẩy, chắc là thứ thay vì dục bỏ, thì bày
bán. Vớ được
cuốn trên, của 1 tay bác sĩ Tẩy, làm việc tại trại tị nạn Thái Lan,
MSF, Bác sĩ
không biên giới.
Có cả 1 chương về Miền Nam hấp hối.
Ông
ta đúng ra là không nên
đứng kế bên lãnh tụ.
Đang loay hoay viết về Nguyễn
Tuân, được tin Tố Hữu mất, tôi cứ lẩn thẩn tự hỏi, không hiểu có bức
hình nào
chụp tác giả Tàn Đèn Dầu Lạc, tức Nguyễn Tuân, đứng kế bên Mặt Trời
Chân Lý
Chói Qua Tim, tức Tố Hữu, trong một dịp đại lễ nào đó?
Hay "tệ" hơn nữa,
đứng kế bên ông Hồ?
*
"Ông ta đúng là không
nên đứng kế bên Khrushchev". Câu này của Volkov, khi phải nhận định về
nhà
soạn nhạc lừng danh Shostakovich, trong một lần trò chuyện với nhà thơ
Brodsky,
xung quanh đề tài nhà thơ đưa ra: Khi bạn bắt đầu chơi trò "biên tập"
[editing] đạo hạnh, đạo đức của bạn – rằng cái này được phép, cái kia
không
được, vào những ngày như thế đó – như vậy là bạn đã đánh đu với tinh,
đã mấp mé
bên bờ thảm họa.
Volkov kể lại, một lần ông
cần vài bức hình nhà soạn nhạc, từ thư khố nhà nước. Tuy đã phải trả
tiền
trước, nhưng một "phu nhân sắt" (an iron lady) vẫn kiểm tra từng tấm,
và chừa lại ba, hình nhà soạn nhạc đứng kế bên Khrushchev. Phu nhân sắt
cũng
chẳng thèm mất công giải thích. Tôi [Volkov] bắt buộc phải hiểu rằng
nhà soạn
nhạc không nên đứng kế bên lãnh tụ, vào thời gian mà ông ta là một
người không
thể chấp nhận được (persona non grata). Đọc
bài viết của Trần Dần, về
thơ Tố Hữu, (được đăng lại trên talawas.org), vào đúng thời của ông ta
– tức là
không thể chấp nhận được đó – tôi mới thấy thế nào là hào khí Nhân Văn
Giai
Phẩm, và cùng với nó, cái gọi là sĩ khí Bắc Hà.
Note: "Ý kiến
ngắn", trên, Gấu viết cho ta là gì
nhân nghe tin Tố Hữu ngỏm. Ta là gì cho
biết, sẽ đăng.
Khi đăng, Gấu đọc, thấy bị
thiến mấy chữ "tệ" hơn nữa.
Cáu quá, meo hỏi. Bà chủ quán
xin lỗi, nói, đệ tử tự ý thiến.
Đúng ra, bà phải đăng trên ta là gì, xin lỗi độc giả ta là gì.
Gấu đâu cần bà xin lỗi?
Nay, post lại, và xin lỗi độc
giả ta là gì, về cái phần sơ sót của
Gấu. NQT
Nhân viết về nhà soạn lừng danh, bèn đọc lại đoạn trò chuyện giữa
Volkov và Brodsky. Nhà thơ khẳng định, 1 người như Shostakovich không
thể đứng kế bên, bất cứ ai. Kút không, Xì không, và Lenin, lại càng
không!
Brodsky. So
you see how it all works out. Shostakovich and Khrushchev no longer
possible,
Shostakovich and Stalin still not possible, Shostakovich and Lenin
never
possible. I think that may even be for the better. For Shostakovich, at
any
rate.
Volkov.
Well, with Shostakovich-it's a complicated matter.
Brodsky.
What's so complicated about it? He could have done perfectly well
without all
that, to be blunt.
Volkov: Với Shostakovich, tình hình có vẻ rắc rối.
Brodsky: Rắc rối cái con mẹ gì. Ông ta thừa sức làm như thế, cỡ như ông
ta!
GCC chẳng đã
từng phán, 1 tên thi sĩ bảnh, cực bảnh như Hoàng Cầm, thí dụ, thừa sức
để lắc đầu
với Tố Hữu, tao đếch viết [tự kiểm]. Cái thế giá của ông ta, cho ông
ta, làm được
như thế. Cũng thế với Nobel Toán. Ông ta thừa sức ị vào mặt nhà nước
như DTH, rồi
bỏ đi Mẽo dạy học, đứa nào dám đụng đến ông ta?
Đoạn tiếp theo sau mới
thú. Brodsky được nhà nước Liên Xô o bế, ông gạt phắt, tao đếch thèm!
Nếu hiểu
Shostakovich, theo như cách giải thích của Brodsky, về thế giá của ông
nhạc sĩ thiên
tài như ông ta, thì không thể có lời than vớ vỉn sống quá cả thời của
mình được:
Thư gửi Isaac
Glikman
Moscou, 2 Tháng
Hai, 1967
Tôi suy
nghĩ
hoài về đời sống, cái chết, và nghề nghiệp/sự nghiệp. Khi nghĩ tới mấy
đấng nổi
tiếng, tôi đi đến kết luận, tất cả đám họ đã không chết đúng lúc. Thí
dụ: Mussorgsky
chết sớm/trẻ/yểu. Người ta cũng có thể nói như thế về Pouchkine, về
Lermontov, và
vài người khác nữa. Trong khi đó, Tchaikovsky đúng ra phải chết sớm. Do
chết
trễ, cái
chết của ông, đúng hơn, những ngày cuối đời của ông thực là thảm khốc.
I thought I wasn’t much of a fan of
crime fiction, until I remembered what great reading pleasures in
recent years
have come from the likes of Raymond
Chandler, Patricia
Highsmith – oh, and Richard Price.
Even so, I never considered
Georges Simenon, even when he was reissued in the UK recently by Penguin Modern
Classics, and in the US by NYRB Classics.
His Oates-like
prolificness – 400 or so books, half
of them novels – means the prospect of quality must be vanishingly
small. But I
decided to investigate after John Banville recommended him – and this
title in
particular – in a recent interview.
Borges cũng
đã từng viết về đề tài này. Đúng hơn, về "Wakefield", một truyện ngắn
của Hawthorne: Một ông chồng, tự dưng biến mất, thực ra là, để muớn 1
căn phòng
ở khách sạn, gần gần nhà mình, rồi sống ở đó, lâu lâu hóa trang qua loa
dơ
măng, trở về nơi chốn cũ.
Thế rồi một buổi chiều, Borges điện
thoại, và OK ghé thăm chúng tôi, dùng cơm.
Tuy chưa từng gặp lần nào, nhưng thái độ của Borges thực là cởi mở. Ông
vừa từ Concord
trở về, và cho biết, rất ngưỡng mộ Hawthorne, thèm được thăm căn nhà
ngày nào
của Hawthorne. Và Borges đã quỳ xuống, ở ngay bực thềm căn nhà,
mặc dù
trời lạnh, tuyết đầy.
Và Borges hỏi tôi, đã từng đọc
“Wakefield”?
Tôi chưa đọc “Wakefield”, và Borges bèn tóm tắt cho tôi nghe, bằng
tiếng Tẩy.
Một người đàn ông, nói với vợ, mình
phải rời thành phố chừng đôi ngày. Và ông ta bèn từ giã vợ, với 1 nụ
cười ngây
ngô [a “sourrire idiot” – Bạn còn nhớ nụ cười của Trung Uý Kiệt, với bà
vợ,
trong MCNK: “Ngửng lên hắn lại nhìn nàng. Nàng giữ nguyên vẻ mặt thách
thức.
Hắn thở phì, nhắm mắt rồi bỗng cười. Nụ cười lặng lẽ, mở rộng, lay động
khuôn
mặt ngẩn ngơ”].
Ra đường, đi được vài bước, người đàn ông chợt đứng sững, tự hỏi chính
mình, đi
ư, giang hồ vặt ư? Quận Cam ư, San Diego ư?
Đi xa làm quái gì cơ chứ? Có ai thèm gặp ta nữa đâu?
Hà, hà!
Thế là ông chồng bèn ghé 1 khách sạn
cũng quanh quẩn khu đó, muớn 1 căn phòng, tính ngày hôm sau, thì về lại
với bà
vợ già!
Ngày hôm sau Wakefield bèn tự hỏi chính mình, về làm gì bây giờ, mai về
không
được ư?
Thế là
người đàn ông bèn dời cái ngày
trở về gặp lại vợ già, nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm!
Cải trang “qua loa dơ măng”, ông chồng nhiều lần đi qua căn nhà của
mình, có
lần, từ xa, nhìn thấy bà vợ già…
Và “ông ta” nhận ra 1 điều, trước chưa từng nhận ra, hay để ý tới, ui
chao, Gấu
Cái già đi quá nhiều rồi!
If Lewis Carroll hadn’t written “Alice
in Wonderland,” we would have needed to invent another way to describe
our
strange journeys on the Internet.
Nếu Lewis Carroll không viết Alice lạc vô xứ Thần Tiên, chúng ta hẳn
phải phịa ra 1 cách khác để diễn tả cái trò lướt net
Trong số báo
"Những tên bại hoại, biến thái", thần sầu, với GCC, là bài viết về
Nabokov.
Đọc
1 phát, là bạn bèn nhớ đến… Sến, nhất là
cái truyện ngắn "Ám Thị", nhân vật chính là anh mù làm nghề đấm bóp.
Gấu đọc AT,
chỉ nghĩ tới ám ảnh sex liên quan đến vấn đề khiếm thị, nhưng bài viết
trong số
báo chỉ ra cái hợp đồng âm u, mờ ám, pacte trouble, giữa tác giả và độc
giả.
Và
sex, chỉ là tên đầy tớ của nghệ thuật [làm tình & làm văn chương!]
Tuyệt!
Thầy của Sến
quả đúng là Nabokov. Đếch phải Grass, và tất nhiên, không thể là Kafka!
Such
simmering bliss
Vladimir Nabokov's
letters to his wife are ethereal rather than earthy, and portray the
world as
almost painfully beautiful
Thư gửi vợ của Nabokov thì lãng đãng như mây trời, ít mùi trần thế, tục
lụy, và miêu tả 1 thế giới đẹp một cách đau thương nhức nhối!
ERIC NAIMAN
Vladimir Nabokov
LETTERS TO
VERA
Translated
by Olga Voronina and Brian Boyd
864pp.
Penguin Classics. £30.
978
0141192239
Em thân yêu,
anh phải làm gì để cho cuộc đời này đẹp thêm lên nhiều, cho em?
My love,
what can I do so things will be better for you?
Nhà văn: Lũ…
[th]biến th[daz]ái?
Chúng tớ bị kết án, phải chống lại VC! [Obs]
Số Obs 21 & 27 Mai,
2015 có cái nhật ký Paris những ngày Nazi của... Quán Chùa, La
Pagode, thú lắm:
Malraux ư ?
Mới bị tó vô Trung tâm Ba Tuyển Mộ Nhập Ngũ, Quang Trung!
BHD [Alice] của Lewis
Carroll [TLS May 15, 2015].
Em ra lệnh, phải có 1 cuốn
sách viết về tôi, và thế là nhân loại được đọc "Alice lạc vô Xứ Thần
Tiên"!
-Trí nhớ của
tôi chỉ hoạt động một chiều. Tôi chỉ nhớ chuyện này chuyện nọ, một khi
nó đã xẩy
ra. Alice nói. -Thật đáng thương cho thứ trí
nhớ chỉ làm việc
giật lùi. Hoàng hậu nói. -Bà nhớ hay nhất, là về những
chuyện gì? -Ô, những chuyện (sẽ) xẩy ra
vào tuần sau, tiếp
theo tuần sắp tới. Hoàng hậu thản nhiên trả lời.
Tôi muốn kể về cái lần tôi gặp
Borges. Tôi được bà bạn Victoria
Ocampo mời dùng bữa trưacó Borges cùng
dự, và được phái đi đón ông, tại Thư Viện Quốc Gia, để đưa ông tới căn
phòng của
bà, bởi vì ông mắt ông mù không còn nhìn thấy đường. Ngay khi cánh
cửa thư
viện đóng lại phía sau, là chúng tôi bắt đầu nói chuyện văn chương.
Borges nói
tới ảnh hưởng của G. K. Chesterton, và của Robert Louis Stevension ở
hậu thời ở
nơi ông. Thơ xuôi của Stevenson ảnh hưởng lớn lên tôi, ông cho biết.
Nhân
tiện, tôi châm vô 1 cú. Robert Louis Stevenson ít nhất là đã từng làm
thơ, và ít
nhất, tôi còn nhớ một bài của ông ta. Một bài thật là bảnh. Viết về tổ
tiên. Ðã từng xây những ngọn hải đăng lớn nơi bờ biển Scotland, và tổ
tiên là một
đề tài ruột của Borges.
Bài thơ bắt đầu:
Ðừng nói với tôi chuyện,
tôi chẳng khoái sinh con đẻ cái,
để nối giái tông đường, và,
thay vì vậy,
thì đánh bài chuồn ra biển
Những cái tháp mà chúng ta xây, và những ngọn đèn mà chúng ta thắp
Ðể chơi ở nhà với tờ giấy như một đứa bé.
Con phố Buenos Aires đông
người, quá ồn. Borges dừng lại ở hè
đường, đọc trọn bài thơ cho tôi nghe, không hỏng một từ. Sau bữa ăn dễ
chịu,
ông ngồi tại sô pha và lèm bèm tới chỉ về văn chương Anglo-Saxon, tung
ra những
tảng lớn, như những khúc cây. Tôi chịu, không thể theo kịp. Nhưng nhìn
vào mắt
ông khi đọc những tảng lớn thơ văn đó, tôi hết sức ngạc nhiên về cái sự
biểu
hiện của chúng. Chúng chẳng có chi là mù lòa. Nhìn, có cảm tưởng, như
thể,
chúng nhìn vào chính chúng, một cách thật là kỳ cục, và chúng thật là
bảnh,
thật thanh lịch, cao nhã.
Borges, tất nhiên cũng có cùng một cảm nghĩ như vậy về tổ tiên, về
những “gauchos” trong quá khứ. Những truyện ngắn hậu thời của ông, thì
đầy những
câu chuyện về những “gauchos”, một trong đó, ông viết, “Thì cũng như
những con
người của một vài xứ sở thờ phụng và cảm thấy tiếng gọi của biển, người
Á Căn Ðình
chúng tôi hú vọng về những cánh đồng bạt ngàn sôi reo dưới móng ngựa."
Ông là một người đàn ông can đảm cùng mình. Thời kỳ đệ nhị Peron, một
lần, khi ông
sống cùng dưới mái nhà với bà mẹ già, thì có 1 cú phôn bí ẩn. Một
giọng đàn ông,
“Chúng ông tới làm thịt mi, và bà mẹ của mi ngay bi giờ.” Bà cụ Borges
trả lời,
“ta chín chục bó, tới lẹ lên không không kịp, còn thằng con ta, nó thì
mù, chuyện
dễ ợt”. Giai thoại này theo tôi đưa ra 1 bức tranh toàn cảnh về gia
đình ông.
Lần
nào cũng như lần ấy, và thật nhiều lần, mỗi lần giở 1 cuốn sách của
ông, tôi đều
tìm thấy những câu, mà một thằng nhà văn như tôi, cũng từng có kinh
nghiệm viết
lách, thì thấy, cũng chẳng khác gì kinh nghiệm của tôi!Ông gọi, viết là một “giấc mơ
được dẫn dắt”, và
trong một dịp, ông viết:
“Ta đếch viết cho một thiểu số
được chọn lọc, chúng là cái chó gì
mà viết cho chúng, ta cũng đếch viết cho một thực thể lý tưởng ưa nịnh
hót, được
biết dưới cái tên “Quần Chúng”. Cả hai lũ khốn, trừu tượng, đó, ta đều
không
tin, tuy chúng thật là đáng quí đối với những tên mị dân. Ta viết cho
chính ta,
và cho bạn bè của ta, và ta viết để làm dịu thời gian trôi qua."
Phán như thế,
thành ra, bất cứ
1 nhà văn, thứ thiệt, thì đều cảm
thấy ông thật gần gụi với họ
Extract
from
a talk at the Anglo-Argentine Society, London, 1984. Extracted from In Memory of Borges, edited by Norman
Thomas di Giovanni
'A
turning point': victims of the My Lai massacre, March 1968. Photograph:
Ronald L. Haeberle/Time & Life Pictures/Getty Image
Tabucchi's
last collection, Time Ages in a Hurry
(2009), now published in English translation,
declares its theme with admirable dispatch in the opening lines:
I asked him
about the old days, when we were still so young, naive, hot-headed,
silly,
green. A little bit's still there, except the young part, he answered.
Tôi hỏi ông
ta, GCC, về “những ngày ở Sài Gòn”, khi chúng ta còn trẻ ơi là trẻ,
hùng hục
như trâu nước… “Thì vưỡn còn đó, nhưng thiếu cái phần hùng hục như trâu
nước”,
ông ta trả lời.
Trong bài viết,
tác giả có kể ra là, chính là do quá mê bài thơ tiệm thuốc lá, The Tobacco Shop, của
Pessoa, khi còn là
sinh viên ghé Paris, qua bản dịch tiếng Tây, mà “thiên tài tiếu lâm
trầm trọng”
Tabucchi bèn cố học tiếng Tấy Bán Nhà, để đọc Pessoa.
Bài thơ này, như bạn đọc
TV đã biết, là bài thơ mà GCC coi như là tuyệt vời nhất của Pessoa.
Bài viết tuyệt,
nhưng không cho đọc free. GCC có tờ báo, nhưng lười quá, chưa scan được
hầu quí
độc giả!
Il faut savoir
voir Lisbonne pendant le temps exact d'un sanglot. La voir tout
entière, par
exemple, dans la première lumière du matin. Ou la voir complètement
dans le
dernier reflet du soleil sur la Rua da Prata. Puis pleurer. Parce que,
même si
c'est la première fois qu'on la voir, on a l'impression d'y avoir déjà
vécu
toutes sortes d'amours tronquées, d'illusions perdues et de suicides
exemplaires.
Vous marchez pour la première fois dans les rues de Lisbonne et vous
avez à chaque
coin le vague souvenir d'y être déjà passé. Quand ? Vous ne savez pas.
Mais
vous êtes déjà venu ici avant d'y aller pour la première fois.
Ôi chao giá
như
viết nổi như dòng như trên đây. Về Sài Gòn
Phải nhìn Sài gòn vào đúng thời gian của một tiếng nấc! Rồi cứ thế mà
nức nở.
Mà nước mắt ngắn, nước mắt dài.
Bởi vì, cho dù chỉ nhìn nó lần đầu, bạn vưỡn có cảm tưởng đã sống hết
những
cuộc tình thê lương của mình ở đó.
Ôi ôm em trong tay mà đã nhớ em những ngày sắp tới.
Bởi vì bạn phải ở Sài Gòn rồi, sau đó mới đến Sài Gòn, lần đầu.
During the Arab uprisings and
afterwards, Camus was somehow planted among the crowds
On January 4 1960, the Algerian-born
French novelist and philosopher Albert Camus died in a car accident in
France.
He left a grave in that country, his books to the world, and a curious
legacy
in the Arab world.
His best-known novel, L’Etranger,
first published in 1942, focuses on the story of Meursault, a French
Algerian
who, after attending his mother’s funeral, kills an unnamed Arab. The
Arab
political left has long held the murder of that unnamed man, casually
killed on
a beach, against Camus. (The late scholar Edward Said referred to
Meursault as
a “sign of the colonial unconscious”.) It’s a symbolic murder, of
course, for
Arabs in the novels of Camus are mere shadows, anonymous people,
reaching an
apogee of invisibility in La Peste and L’Etranger.
Only in Le
premier homme, Camus’s final — posthumous — novel does the reader
finally
come across a flesh-and-blood Arab with a first name of his own.
Resentment against Camus in Algeria was
reinforced by his stand during the Algerian war of liberation of the
1950s. The
author of L’homme révolté was silent while the Algerians were
fighting
French colonialism, until he made his famous, much-distorted statement
in
Stockholm in 1957, on receiving the Nobel Prize for literature:
“Between
justice and my mother, I choose my mother.”
The Absurdism Camus described, the hymn
to courage in the face of what cannot be explained, the challenge to
totalitarianism,
will not be perpetuated by the Arab intelligentsia of the generation
that
witnessed decolonisation. The Arab revolutionary is not Camus’s homme
révolté and Camus is largely absent from our school handbooks.
Today, Islamism thrives as a philosophy
of life and death in the Arab world, a way of thinking born of the
crash of
independences, the collapse of the progressives and the failure of an
alternative philosophy to religious revival. In the early 1990s, at an
Islamist
students’ meeting in an Algerian university, voices were heard
clamouring for
Camus’s death, despite the fact that he was already long dead.
What blame is now levelled at the
philosopher? No longer the Arab’s murder in L’Etranger, but
God’s murder
in L’homme révolté and Le mythe de Sisyphe. Absurdism
is an
attack on God. Algerian Islamists, the first to have made an attempt at
restoring the caliphate and planning a coup in the name of Allah, have
developed a strange obsession with Camus, the colonial born under
Allah’s sun,
on Algerian land, whose philosophy is imbued with the strange sincerity
of a
godless saint. They have a dim perception that Camus, through
Absurdism, is
laying bare what is tentatively being hidden under the cover of
preaching and
prayer. It’s a strange reversal. In the sun of the desert, the jihadist
kills
Meursault, who has become a tourist lying in the shade under the rocks,
by the
seaside or the swimming pools.
Since the Tunisian spring of 2011, the
revolutionary has also been Arab. During the uprisings and afterwards,
Camus
was somehow planted among the crowds. At least his books were, or a
phrase, or
a turn of mind, or a way of facing up to the political absurdity of
dictatorships. Or at least L’homme révolté was. The concept of
revolt
that the writer held up high as a destiny is now going through
political
revival.
Camus, however, is not the father of
the Arab spring. He may just offer a way out of the dilemma that
revolutionaries have been locked in for generations: if I rebel,
Islamists will
take power; if I don’t, dictators will stay in power. This is an absurd
trap
indeed for what stands clearly out of Camus’s work is the need to
engage in an
all-out, in-depth struggle: toppling both dictators and gods. It is no
use
cutting off the president’s head if the religious facet goes
unreformed, if
there is no confrontation with it. Revolution will not be complete in
the Arab
world unless it involves both heaven and earth — that is, political
power and
Islamist or religious dictatorship.
Kamel Daoud is author
of ‘The Meursault Investigation’, shortlisted for the 2014 Prix
Goncourt, which
is published in English on July 2 by Oneworld. This piece was
translated by
Yamina Hellal
Bài viết, đề ngày May 29, 2015 5:38 pm,
của chính tác giả cuốn sách.
Và cuốn sách, như chúng ta biết, được Goncourt năm
sau [Le journaliste et romancier algérien Kamel Daoud a reçu ce mardi 5
mai le
prix Goncourt du Premier roman pour «Meursault, contre-enquête» (Actes
Sud).]
Như vậy, tờ báo đăng bài này cũng không biết điều này, sau khi cho
đăng, nếu chúng
ta đọc dòng chót:
Kamel Daoud is author of ‘The Meursault
Investigation’,
shortlisted for the 2014 Prix Goncourt, which is published in English
on July 2
by Oneworld. This piece was translated by Yamina Hellal.
Theo GCC, đọc bài điểm trên Người Kinh
Tế, thú hơn bài này!
WHEN Albert Camus first published his best known
work,
“L’Étranger” in 1942, Algeria was still a colony of France, and “the
Arab” killed by the book’s anti-hero, Meursault, had no name. Seventy
years on, that omission is rectified in a scorching debut novel that is
sure to become an essential companion to Camus’s masterpiece. He was
called Musa.
“The Meursault Investigation” by Kamel Daoud, an
Algerian journalist, is a biting, profound response to French
colonialism. It is also a lamentation for a modern Algeria gripped by
pious fundamentalism. And it has earned the author both the 2015 Prix
Goncourt for best first novel and a Facebook fatwa
from a minor Muslim cleric calling for his death.
The book starts as a caustic, rambling monologue
told by
an old man in a bar to an appropriately nameless French expat. The
narrator is Musa’s younger brother, Harun; he says he and his mother
are “the only genuine heroes of that famous story”. Night by night he
unwinds his version of the tale Camus told, seeking justice for Musa,
condemning the “insulting brevity” of a scene in which the victim did
not even merit a name.
To Musa’s brother, the murderer and the famous
writer
are one and the same; in his telling, reality and fiction slip and
collide. The book’s brilliance lies in the gradual way Mr Daoud reveals
Harun to be a perfect mirror: the tragic double of Meursault/Camus. The
plot of his story is similarly twinned with that of Camus’s work.
Harun’s own crime and the consequent condemnation set off reverberating
echoes. “Maman died today,” Camus’s original opening line, becomes
“Mama’s still alive today.”
The reader begins to grasp that Harun is as much a
stranger in his liberated country as Meursault once was. Both men are
consumed by the violence of colonialism and its legacy. Harun has no
use for the imams of his neighbourhood. “Religion”, he quips, “is
public transportation I never use.” In Mr Daoud’s story Harun is duly
hounded, not by the priest who harangues Meursault, but by “a whole
pack of religious fanatics”. When the ghost of Camus sidles up from the
back of the bar, the old man wryly notes: “Ha, ha, I’m his Arab. Or
maybe he’s mine.”
If Camus’s writing is “capable of giving air facets
like
diamonds”, as Harun says, Mr Daoud’s prose is propulsive and charged.
The pages glitter with memorable phrases. This brave book is a
vertiginous response to a century of trauma. But read the Frenchman’s
version first.
Correction: We got our opening lines
muddled.
Camus started “L’Étranger” with “Maman died today”,
not “Maman died yesterday” which was our original suggestion.
Sorry about that. This was changed on May 29th 2015.
Cuốn
"Cho tôi xin
một chiếc vé đi tuổi thơ" của Nguyễn Nhật Ánh vừa được dịch và điểm
trên
một tờ báo văn học có tiếng ở Mỹ: Anjali
Vaidya on Ticket to Childhood: A Novel (Los Angeles Review
of
Books 28-5-15) - Xin lỗi các nhà phê bình Việt
Nam nha: Tôi ít khi thấy một bài phê bình nào bằng tiếng Việt, về một
tác giả
Việt Nam, mà sâu sắc và có kiến văn rộng rãi như bài phê bình này! Source
Note:
Phán
như thế, thì ít ra cũng dịch bài điểm sách ra tiếng Mít, để cho độc giả
cùng đánh
giá.
Gấu, tò mò, đọc bài viết, và có ý kiến ý cò, không đúng.
Tờ Điểm Sách
LA thực sự cũng không có tiếng, so với, thí dụ Điểm Sách Nữu Ước, NYRB.
Thứ nữa,
tác giả so “Cho tôi 1 vé đi…. “ của NNA, là cùng dòng với "Hoàng Tử Bé"
của St
Ex.
Cái này thì đại nhảm,
vưỡn theo GCC!
Cuốn của St Ex, tuy viết
cho con nít,
nhưng thực sự là dành cho đám già, và có thể, còn có tí khùng.
Bởi thế Giàng Búi
mới quá mê, và bèn dịch!
NNA đâu có tí nào... khùng?
Tuy nhiên, vấn
đề là, ở xứ Mít như hiện nay, đàn bà con nít thì đều bị nhà nước dùng
vào món hàng
xuất khẩu, đều cực “bất hạnh”, dùng từ của Thầy Kuốc, cái trò “vừa nhắm
mắt vừa
mở cửa”, “cho tớ 1 vé…. đi thiên đàng”, nó giống như nhục mạ họ, và nhà
văn, hoặc
là mù, hoặc là giống như con lừa, thấy con hổ, bèn chúi đầu vô bụi,
chân sau đá
lia lịa. Mê đọc ngôn tình, mê hiện thực huyền ảo, mê sách sex, mê sách
dành cho
con nít, là tự đánh lừa chính mình, theo GCC.
Cái gì gì,
sau Lò Cải Tạo mà còn làm thơ thì thật là dã man. [Văn chương Việt Nam
25 năm vừa
qua là phiên bản nhiệt đới gió mùa của câu văn khét tiếng của Adorno:
"Còn
làm thơ sau Auschwitz thì thật man rợ". Blog NL]
Albert
Camus-Political Journalist: Democracy in an Age of Terror
Our
twentieth century is the century of fear.... We live in terror.
-ALBERT
CAMUS,
"The
Century of Fear" (Combat, November 19, 1946)
I have
always believed that if people who placed their hopes in the human
condition
were mad, those who despaired of events were cowards. Henceforth there
will be
only one honorable choice: to wager everything on the belief that in
the end
words will prove stronger than bullets.
Tôi
luôn luôn tin rằng,
nếu những kẻ đặt hy vọng vào phận người - khùng,
thì những kẻ quá chán sự kiện, hèn.
Từ đó, chỉ có 1 chọn lựa cực bảnh: Húc đầu vô mọi chuyện, với niềm tin,
sau
cùng chữ mạnh hơn đạn.
-ALBERT
CAMUS,
"Toward
Dialogue" (Combat, November 30, 1946)
Nadine
Gordimer
chọn Sách Trong Năm 2007: Camus @ Combat:
Non-fiction - Camus at
"Combat": Writing 1944-1947 by Albert Camus, edited by
Jacqueline Levi-Valensi (Princeton):
editorials and other texts, letters, published at high personal risk by
Camus
in what began as an underground newspaper during the German of
Occupation of
France. Every line totally charged with extraordinary synthesis of
passionate
conviction and objectivity in intellectual force that distinguishes
Camus's
creative talent in his novels, The Plague and The Outtsider.
As
editor and journalist, he writes on the premiss, good for during the
Occupation
and prescient for our present he did not live to see: " ... the end of
ideologies is upon us, that is, the end of absolute utopias that
destroy
themselves owing to the heavy price they eventually exact when they
seek to
become part of historical reality". After the war, he wrote on Algeria
what held good for other colonial empires as well: "The failure to
peacefully put an end to colonialism in the aftermath of World War II
... a
serious, if not the most serious, failure of French democracy itself'.
… Loại không giả
tưởng, tôi chọn cuốn “Camus tại báo Combat", gồm những bài bình
luận, và những bài viết khác, xuất hiện vào lúc thật nguy hiểm cho
người viết,
trên tờ nhật báo chui tại một nước Pháp bị Nazi chiếm đóng. Mỗi dòng
viết, chứa
trong nó, sự tổng hợp kỳ tuyệt, của niềm tin say mê và của tính khách
quan,
trong một sức mạnh trí tuệ, chính nó làm rạch ròi ra cái tài năng sáng
tạo của
Camus, ở trong những cuốn tiểu thuyết, Dịch Hạch và Kẻ Xa
Lạ. Vừa
là chủ bút vừa là ký giả, ông viết, về tiền đề, tốt cho thời kỳ [nước
Pháp bị]
Chiếm Đóng, và còn là một dự báo cho thời hiện tại của chúng ta mà ông
chẳng
còn sống để chứng nghiệm: “… sự cáo chung của những ý thức hệ đè lên
chúng ta,
nói rõ hơn, sự cáo chung của những không tưởng tuyệt đối, chúng tự huỷ
chúng,
và trong khi tự huỷ, chúng còn đòi cái giá nặng nề khi muốn có phần
trong thực
tại lịch sử”. Sau chiến tranh, ông viết về Algeria, điều được coi là
tốt, không
chỉ cho cựu xứ sở thực dân thuộc địa này mà còn cho những đế quốc thực
dân
thuộc địa khác: “Sự thất bại không kết thúc một cách hoà bình chủ nghĩa
thực
dân thuộc địa, sau khi Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt… là một thất bại
nghiêm trọng,
nếu không muốn nói, tối nghiêm trọng, cho chính nền dân chủ của nước
Pháp”.
* Cuộc chiến chống Mẽo,
có rất nhiều “uẩn khúc”, và sau đây là
những gợi ý
của "Gấu nhà văn", liên quan tới cuộc thánh chiến thứ nhì này.
Thứ nhất, tụi mũi lõ không rành
lịch sử dân Mít.
Cuộc chiến thứ nhì liên quan
tới gốc gác của giống dân Mít, và, có thể nói, dân Mít không làm sao
tránh khỏi
cuộc chiến này. Có dân Mít, là để thực hiện cuộc chiến đó!
Về cái vụ liên can đến gốc
gác, thì em Rose, Bông Hồng, trong Y Sĩ đồng quê của Kafka, có đưa ra
một lời
giải thích. Em người làm nói với ông chủ của em, khi ông chủ cần cặp
ngựa để thắng
cái xe, để đi một lèo vượt Trường Sơn, cứu con bịnh thập tử nhất sinh
Miền Nam,
và trong cơn mệt mỏi giận dữ tìm hoài không ra cặp ngựa, lối xóm cũng
chẳng ai
cho mượn, bèn đạp cái cánh cửa chuồng lợn đánh rầm một cái, cửa mở
tung, và con
quỉ chuồng lợn xuất hiện, cùng cặp ngựa:
-Ông chủ mà cũng không biết
trong nhà của mình có gì!
Dân Miền Bắc không hề nghĩ đến,
chẳng bao giờ thắc mắc về một con quỉ nằm ở trong đáy sâu, trong xương,
trong hồn,
trong tủy họ, cho đến khi đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào, thì nó mới nhe
nanh múa vuốt
xuất hiện, hà, hà, ăn cướp mà dám nói giải phóng hử, hử!
* Viên
y sĩ đá cánh cửa bật tung, và "giải thoát" (deliver: sinh nở, giải
thoát) - trước sự sững sờ của ông - người chăn và hai con ngựa, từ nơi
chuồng
heo. Như sự xuất hiện của cái mũi, từ ổ bánh mì, trong chuyện của
Gogol, sự xuất
hiện của người chăn và hai con ngựa trong "Y sĩ Đồng quê" đã được miêu
tả hầu như là một cơn đẻ (as a birth): người chăn ngựa bò ra "bằng bốn
chân",
hai con ngựa, "con nọ tiếp con kia, bốn chân lẳn vào mình..." Cắn vào
má Rose là hành động đầu tiên của người chăn ngựa, vì vậy mà viên y sĩ
gọi anh
là "đồ súc vật". Tính dâm tà của anh, và vụ xâm phạm cô gái thực sự
mang tính thú vật. Viên y sĩ có thể nghe "cánh cửa nhà tôi long ra từng
mảnh
dưới những cú đập của tên chăn ngựa". Cùng lúc, tên chăn ngựa đóng vai
quen thuộc của quỉ dữ, trong chuyện dân gian, đề nghị một chuyện trao
đổi ma
quái. Tên giữ ngựa/con quỉ như từ dưng không trồi lên, dụ khị
(offering) thân
chủ của nó: mày muốn được cái đó hả, thì đây này; nhưng, cái mà con quỉ
lấy đi
còn quí giá, còn ý nghĩa hơn nhiều. Viên y sĩ nói: ta sẽ không đổi
chuyến đi với
cái giá cô gái. Nhưng một khi ông chấp nhận đôi ngựa, "định mệnh đã an
bài"! Tchekhov
và
Kafka
Bạn
cũng có thể hình dung ra
con quỉ, là anh láng giềng độc địa, mày cần cặp ngựa ư, OK, và cung cấp
cho anh
bộ đội Cụ Hồ đủ thứ trên đời, luôn cả mấy sợi lông chim mà cũng ‘made
in China’,
và đến khi làm thịt được thằng em Nam Bộ, mới hà, hà, nào đảo đâu,
núi đâu,
gái đâu, Bô Xịt đâu…. ?
ĐIỂM NÓNG
Trong nửa sau thế kỷ 20, Việt Nam là điểm nóng nhất trong cuộc chiến
tranh lạnh
giữa hai khối tư bản và cộng sản. Đầu thế kỷ 21, Việt Nam, một lần nữa,
lại trở
thành một điểm nóng nhất trong cuộc chiến tranh lạnh giữa hai nền kinh
tế lớn
nhất thế giới: Trung Quốc và Mỹ.
Nói về vị trí của Việt Nam trên bản đồ
thế giới, hầu hết các cuốn sách giáo khoa về địa lý đều cho đó là một
vị trí
ngã ba của các nền văn minh lớn. Trên thực tế, từ góc nhìn địa chính
trị, chúng
ta chỉ thấy toàn là những bất hạnh. Bất hạnh trong cuộc chiến tranh
1954-75 thì
đã rõ. Còn những bất hạnh sắp tới trên Biển Đông thì chưa ai biết được.
Nước
Mít, lúc thoạt đầu chỉ có xứ Bắc Kít, tức đồng
bằng sông Hồng. Rồi ăn hoài, đẻ hoài, bị ngăn chặn ở phía Bắc bởi anh
Tẫu thành
ra cứ phải mở mãi ra phía Nam. Trong lịch sử làm nên cái bất hạnh của
nó, là
lịch sử của không biết bao nhiêu giống dân khác bị giống Bắc Kít làm
thịt.
Đến
khi hết các giống dân khác, thì làm thịt thằng em ruột của
nó.
Cái
bất hạnh nếu có, thì nằm trong máu Bắc Kít.
Thằng Tẫu là kẻ thù ngàn đời của nó. Vậy mà nó dâng cả vợ con cho Tẫu,
để làm thịt cho bằng được thằng em ruột của mình.
Sử gia mũi lõ
coi trường hợp của xứ Mít, sự tạo thành của nó, và kết quả như bây giờ,
là sự… trả thù của địa lý.
Vết thương hình chữ S, với
xứ Mít
*
Karnow,
trong bài viết về Bác Hồ, trong số báo đặc biệt của Time, có nhắc đến câu
trả lời của Võ Tướng Quân, về cuộc chiến Mít. Đánh, kéo dài trăm năm,ngàn năm, vưỡn đánh, chết hàng trăm triệu,
cũng bỏ. Và ông ta cho rằng Võ Tướng Quân, có thể là tướng giỏi, nhưng
đếch tiếc
mạng người!
Gấu cũng
nghĩ như vậy, nhưng sau đó, nhận ra là, VNG, khi trả lời Karnow, không
phải với
tư cách 1 vị tướng, mà chỉ như 1 tên Bắc Kít, với giấc mộng tuyệt vời
của giống
dân này, được ông Trời sinh ra để hoàn thành nó. Đây là cái "thème"
Savior biến
thành Devil mà Tin Văn lèm bèm hoài, thuổng từ D.M. Thomas, khi viết
tiểu sử
Solzhenitsyn.
Tương tự,
khi Bùi Tín trả lời Dương Văn Minh, chúng ông lấy sạch rồi, mi còn gì
mà bàn
giao: từ trái tim “đen thui” của ông bật ra câu này, như ao ước của Võ
Tướng
Quân, chẳng khác!
V/v “chẳng
khác”, D.M. Thomas giải thích, Quỉ và Chúa đổi chỗ cho nhau. Giấc mơ
đẹp giải
phóng thống nhất đất nước biến thành cơn điên khùng ăn cướp Miền Nam,
rồi cứ thế,
cứ thế, ăn cướp cả nước, biến đất Mít cái hậu môn của thế giới, anus
mundi, biến
thế giới thành bãi đánh hàng!
Đâu chỉ một
Võ Tướng Quân, màbất kỳ 1 tên Bắc Kít đều
mong xả thân vì chiến thắng Miền Nam. Vì giấc mơ tuyệt vời nhờ nó mà có
giống Mít.
Cái kết quả
sau cùng làm 1 tên Mít nào, có lương tâm, là đều nhận ra. Giấc mộng đẹp
chính là
Quả Lừa Lớn, Sự Trả Thù của… địa lý: Vết thương hình chữ S!
Bao nhiêu
giống dân
bị Mít làm cỏ, mới có giấc mộng lớn/quả lừa lớn đó! (a)
Thầy Kuốc
có
biết gì đâu. Gấu đã chứng tỏ nhiều lần, Thầy cực dốt, nhờ số phận run
rủi mà lên
Thầy, cũng 1 thứ Xuân Tóc Đỏ của thời đại. Có lần Thầy phán, gì thì gì,
dân Mít
phải biết ơn VC, nhờ VC mà thắng cả hai thằng đế quốc đầu sỏ!
Đau nhất, là
thắng nó, thành ra đất nước mới ra nông nỗi như vầy. Đau nhất, như Gấu
đã nhiều
lần lèm bèm, vì cả hai thằng đều không muốn gây chiến, mà VC bắt buộc
chúng phải
gây chiến. Làm gì có 1 chế độ chính trị nào thực sự yêu đất nước của
mình, mà lại
như lũ VC.
Gấu biểu tên
già NN ra nghĩa địa Ngụy sám hối, là vì lý do đó. Phải có 1 tên làm 1
việc như
thế, như 1 nghi lễ cầu xin ông Trời tha thứ cho dân Mít, may ra mới có
sự thay đổi.
The only true exile
is the writer who lives in his own country
Julio Cortázar
Tên nhà văn
lưu vong thứ thiệt độc nhất, là kẻ sống trên chính quê hương của nó.
Đúng như thế!
GCC này chẳng đã từng
phán, bạn ngồi vào bàn viết, là bạn biến thành lưu vong!
Số báo này, “báo nhà”, có 1 bài tuyệt lắm, nó nói về nước Niên Xô,
nhưng đúng
là nói về xứ Mít, bởi là vì cái Hội Nhà Thổ gốc của nó là ở Niên Xô!
THE
RITUALISTS
In May,
approaching the city, I
saw men
fishing in the backwash
between the
slips, where at the time
no ship lay.
But though I stood
watching
long enough, I didn't see
one of them
catch anything
more than
quietness, to the formal
rhythms of
casting-that slow dance.
-William
Carlos Williams
May, 18, 1940
Nghi thức
Tháng Năm, tới
gần thành phố
Tôi nhìn thấy
những người câu cá
Ở nơi những
dòng nước ngược
Khu bến tầu
Vào lúc đó,
không có tầu thuyền đậu
Tôi đứng coi
quá đủ lâu
Chẳng thấy đấng
nào vớ được chú cá nào
Ngoài cái sự
im ắng
Cái vũ điệu
chầm chậm
Của nghi lễ
câu.
GCC mua cuốn
Những Năm 40, The New Yorker, là cũng có nghĩ về cuộc chiến nhớn, hiện
đang kỷ niệm.
Tính đọc,
cùng lúc, nhớ lại kỷ niệm cuộc chiến Mít, nhất là những ngày Mậu Thân
của Gấu,
của những người như Gấu, và của Sài Gòn.
Cũng là 1 thứ "chim mồi". Đọc người, viết ta!
Bèn giới thiệu
1 bài điểm sách, đọc Chuông Gọi Hồn Ai, của Hemingway
CLIFTON
FADIMAN
ERNEST
HEMINGWAY CROSSES THE BRIDGE
OCTOBER 26,
1940 (ON “FOR WHOM THE BELL TOLLS”)
IT’S NOT INACCURATE
TO SAY that Hemingway's For Whom the
Bell Tolls is A Farewell to
Arms
with the
background, instead, the Spanish Civil War. The hero, Robert Jordan, a
young
American Loyalist sympathizer, recalls to mind Frederic Henry. Like
Henry, he
is anti-heroically heroic, anti-romantically romantic, very male,
passionate,
an artist of action, Mercutio modernized. Though the heroine, Maria,
reminds
one rather less of Catherine Barkley, the two women have much in
common. Also,
in both books the mounting interplay of death and sex is a major theme,
the
body's intense aliveness as it senses its own destruction. But there, I
think,
the resemblance ends. For this book is not merely an advance on A
Farewell toArms. It
touches a
deeper level than any sounded in the author's other
books.
It expresses and releases the adult Hemingway,
whose voice was first heard in the groping To Have and Have Not. It is
by a
better man, a man in whom works the principle of growth, so rare among
American
writers.
The story
opens and closes with Robert Jordan lying flat on the pine-needle floor
of a
Spanish forest. When we first meet him he is very much alive and
planning the
details of his job, which is to join forces with a band of Spanish
guerrillas
and with their aid blow up an important bridge at the precise instant
that will
most help the Loyalist advance on Segovia. When we last see him he has
fulfilled his mission and is facing certain death. Between the opening
and
closing pass three days and three nights. Between the opening and
closing pass
a lifetime for Robert and Maria and something very much like a lifetime
for the
reader. "I suppose," thinks Robert, "it is possible to live as
full a life in seventy hours as in seventy years." The full life lived
by
Robert and Maria spills over into your own mind as you read, so the
three days
and three nights are added to your life, and you are larger and more of
a
person on page 471 than you were on page 1. That is one test of a
first-rate
work of fiction. For
Whom the
Bell Tolls is about serious people engaged in serious actions.
The word
"serious" (a favorite among Spaniards) occurs again and again. The
thoughts of Robert, even at his most sardonic, are serious thoughts.
"There are necessary orders that are no fault of yours and there is a
bridge and that bridge can be the point on which the future of the
human race
can turn. As it can turn on everything that happens in this war." It is
a
stern and grave reflection, sterner, graver than anything in A Farewell
to
Arms. The title itself is part of a grave reflection, from the
sermons
of John
Donne. That we may see on what a new and different level of emotion
Hemingway
now works, I quote the sentence from which the title is taken: "No man
is
an Iland, intire of it selfe; every man is a peece of the Continent, a
part of
the maine; if a Clod bee washed away by the Sea, Europe is the lesse,
as well
as if a Promontorie were, as well as if a Mannor of thy friends or of
thine
owne were; any mans deathdiminishes me, because I am involved in
Mankinde; And
therefore never send to know for whom the bell tolls; It tolls for
thee."
This
utterance (I suppose it is one of the greatest sentences in English) is
about
death and says yes to life. That men confer value on life by feeling
deeply
each other's mortality is the underlying theme of the novel. Here is
something
other than Hemingway's old romantic absorption in death, though growing
out of
it. Remember that For Whom the Bell
Tolls is an anti-Fascist novel.
"Any
mans death diminishes me, because I am
Trên TV đã giới
thiệu Anne Enright, được Booker với cuốn "The Gathering", từ
Faulkner, “Trong Khi Nằm Hấp Hối”, mà ra.
(1)
Cuốn này tờ Người Kinh Tế khen dữ lắm. Cường tướng không có nhược binh.
Thầy Faulkner, sao trò dở được. Nếu có chăng, chỉ 1 GCC!
Không có nổi 1 cuốn tiểu thuyết lận lưng!
Note: GCC mới tậu được mấy
cuốn. Mới ra lò, có. Cũ có.
Cũ có cuốn của Jelinek,
Nobel văn chương. Đọc lời giới thiệu bìa sau, là đã quá mê rồi. (1)
Và
"Ru", của 1 em, cũng dân Canada, viết văn bằng tiếng Tẩy.
(1) Vào cuối
thập niên 1950. Một người đàn ông tản bộ trong 1 công viên ở Vienna.
Ông bị bốn
tên du đãng choai choai đánh đập, không phải vì tiền, hay vì bất cứ
điều
gì ông đối
xử với chúng, nhưng chỉ vì chúng ngạo mạn, lố lăng, và rất ư hài lòng
về chúng.
Cái sự ngạo mạn này là cách của chúng, để phản ứng lại cái thây ma đang
thối rữa
ra, là 1 nước Áo, nơi mọi người đều có 1 cái tủ áo, trong đó giấu kín
những câu
chuyện Nazi, thói hư bại hoại, và lòng thù hận người nước ngoài của họ.
THE
RITUALISTS
In May,
approaching the city, I
saw men
fishing in the backwash
between the
slips, where at the time
no ship lay.
But though I stood
watching
long enough, I didn't see
one of them
catch anything
more than
quietness, to the formal
rhythms of
casting-that slow dance.
Dans
"Meursault, contre-enquête", le journaliste et romancier algérien
proposait une relecture de "l'Etranger" de Camus.
Le journaliste et romancier algérien Kamel Daoud a
reçu ce mardi 5 mai le
prix Goncourt du Premier roman pour «Meursault, contre-enquête» (Actes
Sud).
Dans ce spin-off de «l’Etranger», Daoud fait parler le frère de l’Arabe
tué par
Meursault dans le livre d’Albert Camus. Il donne un nom à cet illustre
inconnu,
Moussa, et raconte son histoire - manière de relire un classique sous
l’angle
du non-dit colonial. L’autre côté de l’histoire, en somme.
Dans une récente interview au «New Yorker», Daoud,
célèbre en Algérie pour ses chroniques
tonitruantes, présente son livre comme «une
manière d’analyser l’œuvre de Camus, […] de la faire relire
par un
Algérien et par des lecteurs d’aujourd’hui.»
Il ne faudrait pas résumer le roman à cette seule
démarche. Il a sa propre
histoire à raconter, celle de Haroun, le frère de Moussa. Il parle sa
propre
langue, bien plus ronde que la camusienne. Mais c’est bien l’ouverture
du
roman, dans laquelle le narrateur reproche à Camus d’avoir glosé sur
l’absurdité de la condition humaine en taisant la violence de la
condition
coloniale, qui s’est imposée comme le texte le plus fort paru l’année
dernière.
Sorti en 2013 en
Algérie
et en juin dernier chez nous, le roman de Kamel Daoud a connu un très
joli
succès. Il a notamment été finaliste du grand Goncourt, en novembre, et
a reçu le prix des Cinq
Continents. Aujourd’hui, tandis
que son
auteur se trouvemenacé par un appel à la
fatwa, il s’exporte. Il paraîtra
en juin aux Etats-Unis, où «l’Etranger»est un classique révéré,
sous le titre «The Meursault
Investigation».
L'Académie
Goncourt a par ailleurs remis d'autres prix. Le prix de la
Poésie/Robert Sabatier,
lui, va à William Cliff, et celui de la Nouvelle à Patrice Franceschi
pour «Première personne du singulier» (Points Seuil).
WRITERS LOST IN THE DISTANCE
Những
nhà văn mất vào quãng xa
Cách đây mấy
bữa, Juan Villoro và tôi bèn nhớ lại mấy tên nhà văn quan trọng thuở
mới nhớn của
chúng tôi, và bây giờ chìm vào quên lãng, những nhà văn 1 thời ở trên
đỉnh, độc
giả nhiều như muỗi rừng U Minh, thế mà bi giờ chịu nỗi ghẻ lạnh, vô ơn
của,
cũng cùng thứ độc giả - thì cứ nói trắng ra, thứ tệ hại - chẳng làm sao
mà ngửi
ra được 1 tí khói nhà hàng xóm, tức không làm sao gây được tí quan tâm
cho 1 thế
hệ mới những vì độc giả.
Lẽ tất
nhiên, chúng tôi đang nói về Henry Miller, Thầy của Thầy, Thầy của
Triết Gia
PCT, một thiên tài của Miền Nam ngày nào. Vào những ngày của ông,
Bolano viết,
tên của ông ở trên miệng, trên môi mọi người ở xứ Tây Bán Nhà, nhưng
danh vọng
của Miller, có lẽ là còn do hiểu lầm:
Có lẽ cả 1 nửa
con số những độc giả mua sách của ông đã ước mong, vớ được, không phải
sách văn
học, mà là dâm thư.
Điều này
cũng dễ hiểu, Tây Bán Nhà là 1 xứ chịu đựng chế độ kiểm duyệt của
Franco và nhà
thờ cả 1 nửa thế kỷ.
Đây chính là
điều mà Durrell viết, khi ca tụng bạn mình, đãvượt
hàng rào phân biệt, 1 bên là văn học, nghệ
thuật, và1 bên, là rác rưởi, bướm biếc,
cái số ta số tiếc,
"một lần cho tất cả."
Thú, là
Durrell ban cho bạn mình cái nick “Hòn Đá Hạnh Phúc”. Đúng hòn đá,
trong bài
thơ của Simic, nói về 1 tên Gấu Cà Chớn, hăm hở vượt Vũ Môn, biến thành
Rồng, đếch
bao giờ chết, ở trên.
The Happy Rock
1945
HENRY MILLER
is still more or less unknown to the general public of England and
America. It
is not entirely his fault in spite of the fact that the proportion of
so-called
"unprintable" words employed in the construction of his three great
books (Tropic of Cancer, Black Spring, Tropic of Capricorn) is fairly
high (1).
It is, in fact, due entirely to the power and vehemence of his purely
descriptive
writing that he is as well known as he is. The abashed literary gents
of the
thirties who turned in horror from brutal descriptions of Parisian
brothel life
in Tropic of Cancer suddenly found themselves impaled upon passages of
miraculous prose about subjects dearer to them-Matisse, Proust, the
Seine:
flights of prose which seemed incontestably the work of a genius. Thus
it is
that Miller has got two distinct publics-those who deplore his Brooklyn
predilections in subject but feel that he cannot be ignored without
loss of
literary face; and those few who can see him in the round as a figure
in
American literature who steps straight up beside Whitman and Melville."
Certainly there is no doubt that this towering, shapeless, sometimes
comic figure
completely overtops the glazed reflections cast by those waxworks of
contemporary American fiction - Hemingway, Dos Passos, Faulkner.(3) In
Miller
you have someone who has crossed the dividing line between art and
kitsch once
and for all.
Je me
rappelle maintenant comment le chauffeur se pencha au-dehors pour
regarder vers
le fleuve, du côté de Passy. Un regard si sain, si simple, un regard
approbateur, comme s'il se disait à lui-même: «Ah! le printemps arrive!
» Et
Dieu sait, quand le printemps arrive à Paris, le plus humble mortel a
vraiment
l'impression qu'il habite au paradis !
MILLER
Tôi bây giờ
nhớ lại cái cảnh anh tài xế taxi nghiêng người ra ngoài xe, nhìn về
hướng sông,
từ phía Passy. Một cái nhìn thánh thiện, đơn giản, và mới “xoa đầu hài
lòng làm
sao”! Như
thể anh ta đang nói với chính mình: “Ui chao Mùa Xuân về rồi.” Và
Thượng Ðế
thì cũng chẳng thể nào hiểu ra được, khi Mùa Xuân trở về lại với Paris,
thì một
đấng con người nhún nhường, bình thường, tầm thường, đôn hậu, nhân hậu
và cảm động,
cái thứ sinh vật phải đi đến cái chết đó, vào lúc đó, nó cảm thấy thực
sự đang ở
Thiên Ðàng!
V/c dâm thư.
Quả thế thực. GCC, lần, tìm, đọc Miller, là để mò những khúc thần sầu.
Mà không chỉ
mình Gấu.
Updike, đã từng chửi 1 tên phê bình, khi viết về Miller, bỏ sót 1
xen thần sầu, kể về 1 thằng bé học dương cầm, khi biết cô giáo tính cầm
tay cậu
dậy đàn, bèn khe khẽ mở nút quần, phóng khẩu súng nhỏ giữa rừng sâu
giết thù
còn sót lại của cả 1 Miền Nam ngày nào, và nhét vô tay cô giáo!
Có 1 xen, không nhớ trong
cuốn nào, bà vợ của Miller, hình như bị sốt, nằm trên giường, 1 bà hàng
xóm qua thăm, cúi xuống, sờ đầu, sờ trán, miệng hỏi thăm. Miller đứng
đằng
sau, bèn khe khẽ vén váy bà hàng xóm lên, và để khẩu súng vô, và cứ
thế, cứ
thế; bà hàng xóm, vỗ vỗ trán người bệnh, trong khi thằng chồng khốn
nạn,
vỗ vỗ cái mông bà hàng xóm!
"Art"
then is only the smoked glass through which we can look at the
dangerous
sun.
Durrell
Nghệ thuật là
tấm kính lù tà mù khói thuốc lá, qua đó, chúng ta có thể nhìn mặt trời
nguy hiểm.
Chu Tử,
trong Yêu thì phải, chửi tên
đàn ông, sau khi "phán 1 phán" "[phán 1 phát" cũng được], bèn bỏ mặc em
nằm tê
hê, với vội gói thuốc, đi vài hơi.
Thì ra là vậy.
Phải thế chứ.
Nhìn vô cái mặt trời nguy hiểm, là phải qua làn khói thuốc lung linh,
mờ ảo!
Quả là, nghệ thuật là bướm, và bướm là nghệ thuật
Miller là đấng Gấu đọc hồi
mới lớn, và chôm, đưa vô bài viết đầu tay về NDT: Nơi chốn âm u và ẩm
ướt, cái cửa mở ra mọi siêu hình học và tôn giáo: Khí hậu ẩm ướt trong
thế giới tiểu thuyết Nguyễn Đình Toàn.
It's the
fastest-selling novel for adults of all time – and it's very adult in
content.
Why have millions of women been seduced by Fifty Shades of Grey, asks
Zoe
Williams
Cái sự kiện
bán chạy khủng khiếp của Maman Porno đang làm giới văn chương điên đầu!
Note: Tác giả cuốn
sách này, là học trò của Bloom, được Thầy nhắc tới trong bài trả lời tờ
Time, 10 questions
Khám phá mặc
khải của cuốn sách mới về "hĩm” là:
The more I learned, the more I
understood the ways in which the vagina is part of the female brain,
and thus
part of female creativity, confidence, and even character.
Tôi càng học tôi càng
hiểu đường hướng theo đó, hĩm là phần thuộc não người nữ [khác quan
niệm hĩm
thuộc nhục thể, nhục dục], và do đó, là phần sáng tạo nữ, sự tin cậy,
và ngay cả tính tình.
Với
Shakespeare, nó là cái "lỗ đáng ghét, u tối, uống máu". Với Henry
Miller,
nơi chốn "âm u, ẩm ướt, rậm rạp Thượng Đế thường xuyên mò tới", tam
giác... sắt, mảnh
đất xéo, "đặc biệt", giữa hai cẳng của phụ nữ, "Cổng Thiên Đường" đối
với những đạo
sĩ Tầu, ngao, hĩm, nghêu, bướm… và đủ thứ tiếng tục tĩu khác…
In a wife I
would desire
What in whores is always found
William Blake
Ở nơi bà xã, tôi thèm
Cái mà ở bướm, tôi luôn luôn kiếm thấy
Bataille
trích dẫn, trong
Văn chương và Tà ma [Literature and Evil]
Đây có lẽ là bài viết đầu tiên của GCC, thứ gọi là chân dung.
Câu của Faulkner, tác phẩm lớn chỉ có, khi nỗi sợ hãi tạm ngưng, không
biết ở trong cuốn nào (1)
Je ne
suis pas dans cette
ville qui a nom Alexandrie, je suis dans l'Atlantide de Durrell, dans
son rêve
continué. «Justine et sa ville, écrit-il, se ressemblent en cela
qu'elles ont
toutes deux une forte saveur sans avoir un caractère réel. » J'étais
venu ici
pour Cavafy, j'en repars avec la saveur douce-amère de Justine. Ni
déception ni
retrouvailles, mais je sais mieux
soudain ce que
je dois à l'auteur du Quatuor: cette saveur parrticulière, celle des
Atlantides et de leurs spectres
récursifs, c'est la sueur aigre du roman.
Tình cờ Lawrence Durrell
xuất hiện
cùng lúc trên hai tờ, một, báo Tây, Le Magazine Littéraire, số tháng
Sáu, 2009,
mục “Parce que c’est lui, parce que c’est moi”, và một, báo Anh, TLS,
August 7,
2009.
Bài trên TLS là một
"ký", do chính Durrell viết, cùng với một tay cùng đi, về chuyến đi
Yugoslavia của Tito, vào tháng Nov 1949.
*
Note: Cái câu phán, "Bởi
vì xừ luỷ, bởi vì mỏa, Parce que c'est lui, parce que c'est moi", bữa
trước Gấu hiểu sai, tưởng lui ở đây là sư phụ, moi, đệ tử. Một độc giả
Tin Văn
gửi mail [Gấu, qua mail, vậy mà nhìn ra nụ cười hóm hỉnh mang tính hiệu
đính
của vị độc giả], ông Gấu ơi, ông hiểu sai rồi...
Bữa nay, trên đường xuống
phố, mang theo cuốn The City of Words của Alberto Manguel, trong có
đoạn, ông
giải thích giai thoại liên quan đến câu này, và câu này liên quan tới
cái gọi
là căn cước cá nhân: in order to know who one is, we need two.
Để hiểu tớ là ai, thì cần
thêm một người nữa!
Câu nói trên, là của
Montaigne.
Số này, có
bài “lèm bèm”, entretien, của 1 tay, kể như đệ tử, đúng hơn, hậu
duệ của
Camus, vì cũng gốc Algérie, xém ăn Goncourt năm rồi – le dernier prix
Goncourt,
1914, cuốn sách ra lò 1913, lần đầu tại Alger, lần thứ nhì tại Pháp,
nhà xb
Actes Sud - chỉ thiếu 1 phiếu, với cuốn "Meursault, contre-enquête"
[Meursault, phản-điều tra]. Bài đấu láo tuyệt lắm. Bèn giới thiệu trong
những kỳ
tới. Tự học
tiếng Tây, y GCC, mê Camus, y hệt GCC! Đếch lưu
vong, đếch cúi đầu, “Ni m'exiler, ni me prosterner”! PA hỏi,
có cần đọc Camus, khi đọc "M. phản điều tra", trả lời: Còn tuỳ
độc giả. Một message nhận được trên FB thật thú vị. Của 1 bà,
chưa đọc “Kẻ
Xa Lạ”, và đọc, sau khi đọc “M. Phản Điều Tra”, viết cho tôi: “Sau mỗi
từ của
Camus, tôi nghĩ đến 1 gia đình khác”. Tôi bị trúng đòn, touché, bà
không viết
"à l'autre fiction", nghĩ đến “1 giả tưởng khác”, mà là “một gia đình
khác”, điều này cho thấy tôi tạo ra 1 thế giới, và những nhân vật. Nói cho
cùng, đúng là một kinh nghiệm cà chớn, perverse, khi bắt đầu cuốn tiểu
thuyết của tôi bằng cách nhắm tới, aller vers, “Kẻ Xa Lạ”. Tuy
nhiên, ông
không khoái “Kẻ Xa Lạ” so với “Sa Đọa”, “La Chute”?
The
brother of the Arab murdered in Albert Camus’s “The Stranger” tells his
story.
Note: Tờ Người Nữu Ước
đi cái truyện ngắn của Daoud, về người em trai của tên Ả Rập bị
Meursault làm thịt....
Kamel Daoud is an Algerian journalist based in Oran.
His first novel, “The Mersault Investigation,” was published in France
last year, and won several awards. It comes out in English in June.
Tiến Sỡi Mẽo
H. Bloom trả lời tờ Time (1)
10 Questions
- Time
Bloom được
coi ông Trùm phê bình của Mẽo, thường được thầy Cuốc nhắc "hoài",
nhưng bây giờ, chán rồi!
Với dân pro, Bloom là 1 "siêu gia" về Shakespeare, và là tác giả cuốn
"Shakespeare: [Phát minh ra con người] Invention of the Human"
PHOTOGRAPH
BY RICHARD AVEDON
Harold
Bloom, October 28, 2001, New York City.
Cuốn của Dyer, là những
bài viết của 1 ký giả, là ông, và thái
độ của ông, thái độ Anglo-English. Đọc loáng thoáng tại tiệm sách, thấy
có bài
viết về cuốn Kinh Cầu, do Horst Faas, trưởng
phòng hình ảnh AP tại Saigon ngày nào thực
hiện. Requiem đã từng được TV
giới thiệu, nhưng nay hết vô được, cùng
với trang
báo net, do Sếp UPI của GCC, Dirck
Halstead, thực hiện và điều hành.
Và 1 bài về Camus. Sẽ giới thiệu
sau.
Ocean Vuong
The Photo
After the infamous 1968 photograph of a Viet
Cong officer executed by South Vietnam's national
police chief.
What hurts the most
is not how death
is made permanent
by the cameras flash
the irony of sunlight
on gunmetal
but the hand gripping the pistol
is a yellow hand,
and the face squinting
behind the barrel
a yellow face.
Like all photographs this one fails
to reveal the picture.
Like where the bullet
entered his skull
the phantom of a rose
leapt into light, or how
after smoke cleared
from behind the fool
with blood on his cheek
and the dead dog by his feet
Điều làm đau thật là khủng
Thì không phải như thế nào
Cái chết trở thành chuyện thường ngày ở huyện,
Chuyện cơm bữa,
Chuyện thường hằng,
Nhờ cái ánh chớp của máy camera,
Cái tiếu lâm của ánh mặt trời
Trên thép súng,
Nhưng mà là, cái bàn tay nắm chặt khẩu súng
Là của 1 tên da vàng mũi tẹt
Và cái bộ mặt liếc xéo
Đằng sau nòng súng
Là bộ mặt của 1 tên da vàng mũi tẹt.
Như tất cả
những tấm hình
Tấm này thì cũng thất bại
Không nói lên được cái chó gì cả.
Thí dụ,
Khi viên đạn chui vô sọ anh ta
Thì một bóng ma của một bông hồng nở ra
Hay
Làm sao mà lại xẩy ra cái cảnh, sau khi khói thuốc súng tan đi
Ở đằng sau tên khùng với máu ở trên má
Và một con chó chết ở dưới chân
Vietcong Execution, Saigon,
1968
Photo by Eddie Adams
Note: Bài này tháng nào
cũng "top", theo server.
Bài viết
của Horst Faas,
Trưởng phòng hình ảnh AP về vụ Tướng Loan xử bắn VC trên đường phố Sài
Gòn.
Gấu post, và quên dịch ra tiếng Việt, bữa nay đọc, hóa ra ông còn viết
về Gấu nữa, đúng hơn, về công việc gửi hình của Gấu, khi làm cho UPI.
Ông còn giải ra 1 “nghi án”, về người cứu Loan, khi bị VC hăm làm thịt,
sau khi xử Bẩy Lốp. Ông bị 1 tay VC chuyên bắn sẻ, bắn què cẳng, và tay
này tính "kết liễu" Loan thì ông được 1 tay ký giả người Úc, Pat Burgess, cõng, cứu thoát.
Gấu khi còn làm trên Đài VTD, có nghe 1 tay ký giả Pháp, làm cho AFP,
nói với Gấu, chính anh ta cứu Loan.
Hoá ra không phải.
Faas viết, vào những ngày đó, gửi 1 tấm hình là mất 20 phút, và thường
phải lập lại [in those days it took 20
minutes to transmit a single photo, which often had to be repeated].
Chính xác là 15 phút. Và thường phải lập lại, nếu thời tiết xấu, vì gửi
bằng phương pháp vô tuyến điện.
So với bây giờ, chỉ cần giơ cái điện thoại, bấm 1 phát, là xong, không
phải 1 pose, mà cả 1 “You Tube”!
Cuốn của
Durrell này, mua, một phần là vì nhớ BHD.
Lần ăn mìn VC, nằm dưỡng
thương ở Đài
VTD, số 5 PDP, em mang 1 cuốn của Durrell làm quà tặng SN, cùng câu
tiếng Tẩy, “ta
sẽ là vợ mi”!
...vào
đúng sinh nhật lần thứ ba mươi mà cũng là
sinh nhật lần thứ nhất, nàng nói, "Je serai ta femme." (2)
Durrell
là bạn
thân của Miller. Bữa trước, TV có nhắc tới Bolano, viết về
những vị thầy
văn học, thí dụ như Miller, nhưng bây giờ chẳng ai thèm đọc. Theo Gấu,
số phần
của Durrell cũng có phần tương tự. Steiner có thời mê lắm, nhưng sau,
ngượng, tại
làm sao mà ngày nào mình thổi Durrell quá cỡ thợ mộc như thế, nhất là
tiểu thuyết
bộ tứ “Alexandria Quartet” của Durrell.
Gấu cũng quá mê Durrell thời
mới lớn, đúng
thời gian có BHD.
Bởi thế, em mới tặng quà SN là cuốn của Durrell.
Cuốn kia, “série noire”, cũng 1 tác giả Gấu cực mê, em cũng biết, và
khi mua,
chỉ lo mua trúng cuốn Gấu đã đọc rồi.
Mà đọc rồi thật.
Thời gian còn
nằm Grall,
em đi bộ qua đường Lê Lợi, ghé 1 tiệm sách.
Em nói, chờ
mãi mới có
dịp ra khỏi nhà.
Nhớ, lúc đó cũng xẩm tối. Cả hai đi bộ trong nhà thương Grall, giữa
những luống hoa....
Sài Gòn
nghĩa là gì?
"Đời của
mi, ngay ở đây, tại nơi chốn vất đi này, mi đã làm hỏng
nó…"
"Hãy
nói lời giã từ thành phố mà mi đã đánh mất"
(Lawrence
Durrell)
-Sài Gòn
nghĩa là gì?
-Thiếu. Nhớ.
Khi viết
xong tập đầu của một bộ bốn cuốn, về thành phố Alexandrie (Quatuor
d’Alexandrie: Justine, Balthazar, Mountolive, Clea, lần lượt xuất bản
từ 1957 tới
1960), Lawrence Durrell (1912-1990) đã viết thư cho bạn mình là nhà văn
người Mỹ,
Henry Miller; bằng một câu nói nổi tiếng, ông định nghĩa tác phẩm của
mình:
"Đây là một thứ thơ xuôi gửi cho một trong những thủ đô lớn lao của con
tim: Thủ đô của hồi tưởng."
Tất cả là giả
tưởng. Chỉ có thành phố là có thực. Trong Lời Tựa cho cuốn Jusrine,
Henry
Miller viết: Đây là một thành phố mà chỉ một người Anh lưu vong tự
nguyện, sinh
ra tại (dẫy núi) Himalaya, tìm thấy sự trưởng thành của mình tại Hy
Lạp, chỉ
người đó mới có thể làm cho nó tái sinh. Thành phố không chỉ đóng vai
dàn dựng
(décor): nó là một thực thể, một sinh vật sống động, mang hơi hám ma
quỉ, được
tạo nên bằng máu thịt, đất đá, tội ác, mơ mộng, và bằng cả huyền
thoại."
"Những nhân vật làm nên cuốn tiểu thuyết cũng có một thực tại khác
thường:
tôi có thể đoan trước rằng họ sẽ gây sốc và hớp hồn một độc giả Âu
châu. Trong
họ, có tất cả bụi bặm và những cơn điên loạn của xứ sở Cận Đông."
Henry Miller
coi câu chuyện kể trải ra, không phải như diễn tiến của một cuốn tiểu
thuyết
bình thường: nó như soi nhiều tấm gương cùng một lúc; nó uốn éo trong
một chất
thiêng: ánh sáng. Một thứ ánh sáng siêu nhiên, tắm đẫm hồi tưởng.
Trong Lời Tựa,
toàn tập, ấn bản tiếng Anh, tác giả viết: Đây là một nhóm bốn cuốn tiểu
thuyết,
được đọc như là một tác phẩm đơn (a single work) dưới tiêu đề chung là
Tứ Khúc
Alexandria. Cũng có thể cho nó một tiểu đề là: một từ của sự liên tục
(a word
of continuum, liên tục không gian-thời gian theo Einstein). Theo G.
Steiner,
Durrell đã chuyển viễn tượng (thuyết) Tương Đối, vào ngôn ngữ và cách
tự sự.
Ông nhìn thành phố Alexandria theo bốn chiều.
Cuốn Justine
xuất bản năm 1957. Đây là một thời điểm rất có ý nghĩa với những độc
giả người
Việt, nhất là người Việt di cư, và đã từng sống ở Sài Gòn vào thời kỳ
đó.
Justine đã là một trong những đề tài được đem ra thảo luận của nhóm
Sáng Tạo,
trong nỗ lực đả phá cái cũ (đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn), và cổ
xuý cho một
cái mới. Cá nhân tôi tin rằng, mấy ông trong Sáng Tạo "mê" Alexandria
của Durrell, là bởi vì vừa mới mất Hà Nội! Phạm Công Thiện cũng rất mê
Durrell,
nhưng qua một bài viết của ông mà người viết đọc từ thuở nảo thuở nào,
ông chỉ
mê Justine, cô điếm thượng lưu của thành phố này thôi.
Nhưng đâu phải
một mình ông!
Những trích
đoạn, là về thành phố Alexandria, nhưng khi đọc chúng, Jennifer tôi
tưởng tượng,
đây là nói về Sài Gòn:
Chính thành
phố phải chịu xét đoán; nhưng chúng ta, những đứa con (của Sài Gòn),
phải trả
giá.
(C’est la
ville qui doit être jugée; mais c’est nous, ses enfants, qui devons
payer le
prix.)
Sài Gòn là một
máy ép tình yêu; thoát ra khỏi, là những kẻ bịnh hoạn, những gã cô đơn,
những bậc
tiên tri, tất cả những kẻ dục tính bị tổn thương nặng nề.
(Alexandrie
était le grand pressoir de l’amour; ceux qui en réchappaient étaient
les
malades, les solitaires, les prophètes, tous ceux enfin qui ont été
profondément blessés dans leur sexe).
Nàng là ai?
Cái thành phố mà chúng ta đã chọn lựa?
(Qui
est-elle, cette ville que nous avions élue?)
Hãy chừa
riêng ra cho anh, những vết thương tình mà anh chia sẻ với Sài Gòn.
(Épargne-moi
les blessures de l’amour partagé avec Justine).
Lũ đàn ông
chúng mình, đều được tạo ra bằng bùn và quỉ ma của Sài Gòn
(Tout homme
est fait de boue et de daimon, et la femme ne peut pas nourrir ces deux
côtés
de sa nature à la fois: Mọi người đàn ông đều được tạo nên bằng bùn và
quỉ ma,
và một người đàn bà do bản chất, không thể nuôi nấng cả hai khía cạnh
này cùng
một lúc).
Chú thích:
Theo tiếng
Hy Lạp cổ, daimôn có nghĩa là "thiên tài che chở" (le génie
protecteur), từ này sau có nghĩa là quỉ ma (démon), và còn được chỉ
những nhân
vật "trung gian" giữa thần và người. (Chú thích bản tiếng Pháp, dịch
từ tiếng Anh, của Roger Giroux, nhà xb Buchet-Chastel, 1959, lần tái
bản tháng
Năm, 2000)
WRITERS LOST
IN THE DISTANCE
Những nhà văn mất vào quãng xa
A few days
ago, Juan Villoro and I were remembering the writers who were important
to us
in our youth and who today have fallen into a kind of oblivion, the
writers who
at the peak of their fame had many readers and who today suffer the
ingratitude
of those same readers and who-to make matters worse-haven't managed to
spark
the interest of a new generation of readers.
We thought, of course, of
Henry
Miller, who in his day was read all over Spain, and whose name was on
everyone's lips, but whose fame was perhaps due to a misunderstanding:
probably
more than half the people who bought his books did so expecting to find
a
pornographer, which in some sense was justified, and also
understandable in the
Spain that emerged after almost forty years of censure under Franco and
the church.
At the other extreme we remembered Artaud, the very
spirit of
asceticism, who
in his day also sold well and had not a few Spanish and Mexican
admirers, and
if today one makes the mistake of mentioning his name to someone under
the age of
thirty, the response will surely be devastating. These days, even film
buffs
have never heard of Antonin Artaud.
The same is true of Macedonio
Fernandez:
his books-except in Argentina, I imagine-are impossible to find in
book- stores.
And it's true of Felisberto Hernandez, who had a small resurgence in
the 1970s,
but whose stories today can only be found after much searching in
second-hand
bookstores. Felisberto's fate, I presume, is different in Uruguay and
Argentina, which brings us to a problem even worse than being
forgotten: the
provincialism of the book market, which corrals and locks away
Spanish-language
literature, which, simply put, means that Chilean authors are only of
interest
in Chile, Mexican authors in Mexico, and Colombians in Colombia, as if
each Latin American country spoke a
different
language or as if t aesthetic taste of each Latin American reader were
determined
first and foremost by national-that is, provincial-imperatives, which
wasn't
the case in the 1960s, for example, when the Boom exploded, or in the
1950S or
1940s, despite poo distribution.
But anyway, that's not what Villoro
and I
talked about. We talked about other writers, like Henry Miller or
Artaud or B.
Traven or Tristan Tzara, writers who contributed to our sentimental
education
and who are now impossible to find in the depths of bookstores for the
simple
reason that they have hardly any new readers. And also about the
youngest ones,
writers of our generation, like Sophie Podolski or Mathieu Messagier,
who were
simply incredible and highly talented and who not only can no longer be
found
in bookstores but can't even be found on the Internet, which is saying
a lot,
as if they'd never existed or as if we'd imagined them. The explanation
for
this ebb of writers, however, is very simple. Just as love moves
according to a
mechanism like the sea's, as the Nicaraguan poet Martinez Rivas puts
it, so too
do writers move, and one day they appear and then they disappear and
then maybe
they appear again. And if they don't, it doesn't really matter so much,
because
in some secret way, they're us now.
Roberto
Bolano: Between Parentheses
Trong cuốn “Từ
Lưng Voi”, Durrell có 1 bài về bạn mình, và coi bạn mình là số 1, đứng
trên đầu
cả 1 lũ viết giả tưởng là Hemingway, Dos Passos, Faulkner.
Phán loạn
cào cào như Thầy Kuốc chăng?
No. Ông giải
thích, xem ra có lý:
Trong
Miller, bạn có kẻ đã vượt đường ranh phân biệt giữa nghệ thuật và rác
rưởi, kitsch, một lần cho tất cả. (a)
Tuy nhiên, cái
đếch có lý, theo GCC, là ba ông kia không hề quan tâm tới “vượt đường
ranh”
(a)
In Miller
you have someone who has crossed the dividing line between art and kitsch once and for all.
Mi
giống như một con Gấu:
Tất cả sự êm ái dịu dàng được bọc bằng một cái vỏ
cứng cỏi, cùng với sự sần sùi tuyệt vời của nó, khiến ta chảy tan ra.
Ta thật
là buồn vì nhà ngươi chẳng bao giờ chịu khó hiểu ta thêm một chút. Tại
sao mi
không cố hiểu thêm về ta, mà cứ thế ngưng lại, dậm chân tại chỗ? Chiều hôm qua, ta tự hỏi,
làm
thế nào, để ta có thể chứng tỏ cho mi thấy, là ta yêu thương mi biết là
chừng
nào. Làm sao chứng tỏ cho mi biết, bằng một phương tiện cho dù mắc mỏ
cỡ nào
đối với ta, rằng ta thương mi? Và ta chỉ tìm ra được một
phương tiện, đó là gửi tiền cho mi, để mi đi chơi với con mụ đàn bà nào
đó.
Gấu Cái.
Thư của Anais Nin, bồ của
Henry Miller, có sửa đổi chút đỉnh, cho hợp với tình cảnh vợ chồng Gấu!
[Tu es comme l'ours, Henry:
tout de douceur dans une enveloppe de dureté, avec une délicieuse
rugosité
suave qui me fait fondre...]
Tờ TLS chỉ
đi 1 đường, trên, tiễn Grass.
Bài trên "Le Point" thú
hơn, và/vì để vô mục "Humeur"[U Mặc]:
Số phận nhà văn Đức, mất tích, disparu, vào ngày 13 Tháng Tư, ném một
ánh sáng
đục, trouble, lên nước Đức.
Tin Văn sẽ dịch liền, và thừa dịp, “chơi” cả Thầy, Grass, và trò, Sến,
bằng cách
giải ra vấn nạn, tại sao Sến, trước thờ, sau đá Thầy, khởi từ cái ý của
Brodsky, được nhắc tới trong bài viết của bạn ông, và cũng là người
dịch ông qua tiếng Anh,
tác giả cuốn “Từ Nga với Tình Yêu", From Russia with
Love đang giới
thiệu trên
TV:
“One’s
affinity”, said Joseph in a filmed interview, “is for the
generation to which one belongs". Đây, 1 cách nào đó, cũng là ý của
Quỳnh Giao, khi viết về Thầy của bà, là TTT.
Cái sự đồng thanh tương ứng của một con người, thì là do/cho thời đại
mà
người đó thuộc về.
Sến đọc Grass, trước mê, sau chán, là do thứ văn của Grass đóng cứng
ông vào thời của ông. Sến, sau hết mê, là do cái thời của Grass qua
rồi.
Sở dĩ GCC không đọc được Trần Vũ, là cũng cùng lý do như Sến chê Grass,
văn nổ quá, trong khi Gấu chỉ mê thứ "viết như không viết"!
Số này, có
bài “lèm bèm”, entretien, của 1 tay, kể như đệ tử, đúng hơn, hậu
duệ của
Camus, vì cũng gốc Algérie, xém ăn Goncourt năm rồi – le dernier prix
Goncourt,
1914, cuốn sách ra lò 1913, lần đầu tại Alger, lần thứ nhì tại Pháp,
nhà xb
Actes Sud - chỉ thiếu 1 phiếu, với cuốn "Meursault, contre-enquête"
[Meursault, phản-điều tra]. Bài đấu láo tuyệt lắm. Bèn giới thiệu trong
những kỳ
tới.
Tự học tiếng Tây, y GCC, mê Camus, y hệt GCC!
Đếch lưu vong, đếch cúi đầu, “Ni m'exiler, ni me prosterner”!
PA hỏi, có cần đọc Camus, khi đọc "M. phản điều tra", trả lời:
Còn tuỳ độc giả. Một message nhận được trên FB thật thú vị. Của 1 bà,
chưa đọc “Kẻ
Xa Lạ”, và đọc, sau khi đọc “M. Phản Điều Tra”, viết cho tôi: “Sau mỗi
từ của
Camus, tôi nghĩ đến 1 gia đình khác”. Tôi bị trúng đòn, touché, bà
không viết
"à l'autre fiction", nghĩ đến “1 giả tưởng khác”, mà là “một gia đình
khác”, điều này cho thấy tôi tạo ra 1 thế giới, và những nhân vật.
Nói cho
cùng, đúng là một kinh nghiệm cà chớn, perverse, khi bắt đầu cuốn tiểu
thuyết của tôi bằng cách nhắm tới, aller vers, “Kẻ Xa Lạ”.
Tuy nhiên, ông
không khoái “Kẻ Xa Lạ” so với “Sa Đọa”, “La Chute”?
His fierce
defence of PEN America’s prize for Charlie Hebdo’s defiant provocations
recalls
the Enlightenment hero, but sets Rushdie against other public figures
Liệu Rushdie là 1 Voltaire
của thời chúng ta.
Cái tay PA [Pierre Assouline] cũng hỏi đệ tử Camus câu trên:
Ông cũng là Charlie?
Vous aussi, vous êtes Charlie?
Trên tờ Người
Quan sát Mới, Le Nouvel Observateur, số 8-14 Tháng Năm, 2008, có bài
phỏng vấn
Y Hua, nhà văn Trung Quốc, tác giả cuốn Anh Em, "Brothers", khi được
hỏi, có phải ông phịa những cảnh ghê rợn, dã man tàn bạo như được miêu
tả trong
truyện, ông trả lời:
Tôi có phịa
ra một số, thí dụ như cái xen, một tay khốn khổ, bị tra tấn dã man vì
tội phản
cách mạng, đã tự sát bằng cách lấy một cái đinh to tổ bố, đóng vào sọ
mình.
Nhưng ở Trung Quốc, bạn biết đấy, thực tại vượt quá tưởng tượng. Một
độc giả,
buộc tôi tội "đạo", vì cái cảnh ghê rợn đó, đã do chính ông bố của
người đó thực hiện, bởi vì ông ta không làm sao kiếm ra một phương tiện
nào
khác, để chấm dứt chuỗi ngày đau khổ.
Đúng là một
thời kỳ khùng điên. Trong một tờ báo thuộc thời kỳ đó, tôi đọc được cái
tin,
Peng Zhen, thị trưởng Bắc Kinh, đã rất ư là nghiêm túc trình lên Mao,
xin ý kiến
về chuyện phá huỷ Tử Cấm Thành, và xây dựng lên tại đúng nơi đó, những
chuồng
xí, chuồng tiểu thật lớn lao, để toàn thể thế giới đến đó ỉa đái lên
đầu đám
vua chúa ngày nào, tại đúng nơi chốn họ đã từng ăn ngủ, sinh sống.
Than ôi, điều
trên đây, vua Gia Long đã từng thực hiện đối với những cái sọ của vua
chúa triều
đại Tây Sơn!
Và cái
nơi
chôn cất họ, được nhân dân thân thương gọi là Mả Ngụy.
Nhân nói về
tác giả gối đầu giường, thì, với Gấu, còn có Camus. Đọc hồi mới lớn,
quá mê, khác
hẳn ông anh TTT. Khi Camus mất vì tai nạn xe hơi, TTT đi 1 bài thật là
nặng nề
về Camus, kết thúc bài viết bằng 1 câu thật là nặng nề, cái chết của
Camus đóng
chặt ông vào quá khứ, nhớ đại khái.
Hậu thế cho
thấy TTT sai lầm về Camus. Thế giá của Camus, ngày càng sáng chói. Thái
độ của
Camus, khi chê Camus, tương tự Vargas Llosa, nhưng ông Nobel này có dịp
nhận ra
sai lầm của mình.
TTT không có cái may mắn này.
Vả chăng người ta nói,
yêu
Camus, nhiều hơn là mê 1 tác giả nhà văn, đúng như 1 cái tít trên tờ
The New
Yorker.
"Một đời đáng
sống". Cuốn này cũng tuyệt lắm. Camus rất mê Nietzsche, nhưng chính cú
Lò Thiêu làm ông khựng lại và đọc lại Nietzsche, như đoạn sau đây cho
thấy:
Camus first
discovered Friedrich Nietzsche as a teenager- his university professor
and
mentor, Jean Grenier, made the introductions-and his first published
essay,
edited by Grenier and published in the journal Sud,
was on Nietzsche and music. His lifelong engagement with
Nietzsche, admiring but critical, sprawls across his notebooks. "I owe
to
Nietzsche a part of who I am," he acknowledged, gratefully. What Camus
most admired was Nietzsche's slashing and mordant style, as well as his
fierce
clarity about a world that no longer supported the religious or
metaphysical
fictions with which humankind had burdened it. In The Myth of Sisyphus,
Camus
praises Nietzsche for having banished all hope for the future:
"Nietzsche appears
to be the only artist to have derived the extreme consequence of an
aesthetic
of the Absurd, inasmuch as his final message lies in a sterile and
conquering
lucidity and an obstinate negation of any supernatural consolation.”
Casting himself
as the surveyor of the varieties of nihilism flowering in our emptied
cosmos,
Nietzsche had the courage to call a void a void. Yet, he was a nihilist
not by vocation,
but by necessity: "He diagnosed in himself, and in others, the
inability
to believe and the disappearance of the primitive foundation of all
faith-namely, the belief in life." Michel Onfray notes that Camus, a
serious reader of Nietzsche, was nevertheless not a Nietzschean." By
the time
he published The Myth of Sisyphus Camus discovered that Nietzsche had
dazzled
other readers apart from himself, but with catastrophic consequences.
In a
world relieved of God and morality, everything was indeed permitted.
Under the
sun of Algiers, the embrace of fate-Nietzsche's amor fati,
his Zarathustrian
"Yes!" to all joys and all woes-dovetailed with Camus' youthful love
of the world. But the iron
sky over Auschwitz, Camus insisted, forced us to
reconsider the ways in which yet others had interpreted Nietzsche.
We know,
Camus announced, Nietzsche's
"posterity and what kind of politics were to claim the authorization of
the man who claimed to be the last anti-political German. He dreamed of tyrants
who were artists. But tyranny comes more naturally than art to mediocre
men." And yet Nietzsche remained with Camus to the end. On
January 2,
1960, when the car in which Camus was driving smashed into the plane
tree
alongside the road, killing both him and the driver, his friend Michel
Gallimard,
Camus' briefcase was flung several yards from the car. It contained his
identity papers, a copy of Shakespeare's Othello) the manuscript for
The First
Man and a copy of The Gay Science. In this collection of aphorisms,
Nietzsche
jousts with Socrates, the philosopher who never wrote, yet at the same
time
never seemed to be short of words. Not only was Socrates "the wisest
chatterer of all time," Nietzsche remarks, "he was equally great in
silence." He then laments, ironically, that Socrates failed to be
silent
when it was most essential: as he died, he uttered his famously elusive
remark
to his friend Crito: "I owe Asclepius a rooster." For Nietzsche, this
meant nothing less than that even Socrates, the most cheerful and
courageous of
men, nevertheless "suffered life." As a result, Nietzsche concluded:
"We must overcome even the Greeks!"
Note: TV sẽ
đi hai bài trên, nhân năm sắp tới, 2013, năm nay, là kỷ niệm 100 năm
năm sinh của
Camus, 1
trong những ông Thầy của Gấu hồi mới lớn.
Về già, Gấu tự hỏi, giả như
không gặp
ông hồi đó, và những ông như Lukacs, Henri Lefebvre, Koestler.. thì số
phận Gấu
ra sao?
Có thể nói, ông
trời già, chủng cho Gấu, đủ thứ thuốc chủng, ngừa “trùng độc” - chữ này
thuổng
Da Màu, dịch từ “virus” – có sẵn trong máu, là Cái Ác Bắc Kít, nhằm
ngăn ngừa nó
gây họa:
Bò lên rừng phò đao phủ
thủ HPNT!
« Camus paie
pour sa rectitude, sa droiture, la justesse de ses combats, il paie
pour son
honnêteté, sa passion pour la vérité. »
Michel
Onfray
[Camus trả
giá cho tính chính trực, sự cương trực, xác đáng trong những trận đánh
của ông,
ông trả giá cho sự thành thực, lương thiện, cho đam mê sự thực của mình]
Résistant au
mirage du communisme
[Cưỡng lại ảo
vọng Cộng Sản]
Sun, Dec 23,
2012
Thư Chào hỏi
K/G ông Cà
Chớn,
Một mình ông
( là Bắc Kỳ ) mà dám nói thật, nói thẳng trên văn đàn là tôi đã phục
ông rồi,
tôi biết là ông sẽ có nhiều người ghét ông lắm ! Mà ông gan thiệt à
nghe !
Tks again
Best Tết to
U & Family
NQT
Obs [Người Quan Sát Mới] 9 & 15 Avril
Chúa Ky Tô
ghé Bắc Kinh
Sau Thiên An
Môn, nhà thơ, nhà ly khai TQ, Liao Yiwu, khi ra khỏi nhà tù, khám phá
ra một thế
giới lạ lẫm: Thế giới của những tín hữu Ky Tô ở Bắc Kinh
Sau Vương Quốc U Tối, đây là tia sáng hy vọng của Mặt Trời Đỏ.
Bản thân Liao, ông chưa cải đạo, và vẫn bị quyến rũ bởi Đạo Lão hoang
sơ,
"trước khi nó trở thành 1 thứ đạo, 1 thứ tôn giáo".
Liao est
stupéfait. Dans chaque village misérable de cet arrière-pays du Yunnan
se
dresse une grande église en pierre taillée, bâtie il y a cent ou cent
cinquante
ans par des missionnaires européens qui ont vécu et sont morts dans ces
lieux noyés
de moustiques qui figurent à peine sur les cartes. Les villageois,
souvent illettrés,
ne possedent parfois que leur pantalon, mais ils portent tous des noms
d'évangelistes,
Devant les yeux ébahis du chroniqueur émerge le continent perdu des
premiers chrétiens
de Chine.
Liao sững sờ.
Trong mỗi ngôi làng thê lương tàn tạ của miền đất lụn bại của tỉnh
Yunnan, đều
có 1 ngôi nhà thờ bằng đá sừng sững. Chúng đều được xây dựng cách đây
cả 100
năm hay 150 năm, bởi những nhà truyền giáo Âu Châu. Những người này đã
sống, và
rồi chết đi ở mảnh đất đầy muỗi mằn này, với những làng mạc không có
tên trên bản
đồ. Dân làng, nhiều người không có nổi manh quần, nhưng tất cả đều có
tên
thánh. Một lục địa mất tích từ hồi nảo hồi nào, đột nhiên xuất hiện
trước mắt ông.
Cái chuyện những nhà truyền giáo tới TQ không có gì là mới lạ, đúng như
tờ báo
viết.
Một trong những cuốn tiểu thuyết thần sầu của A. J. Cronin, Chìa Khoá
Vương Quốc, The Keys of the Kingdom, là viết về 1 ông cha mũi lõ, qua
Tầu hành
đạo và khám phá ra, và quá mê Khổng Tử.
Có thời gian, trước 1975, Gấu đã hăm he
dịch cuốn này, sau khi dịch "Khách Lạ ở Thiên Đường" [bản tiếng Tây của
cuốn "Country Doctor"] cũng của
Cronin.
Cuốn này, sau 1975, 1 tay đầu nậu ở Saigon, order GCC dịch lại 1 lần
nữa, tếu thế!
FB của
GCC, đi 1 đường
nhìn lại quá khứ bằng cách tự động post 2
entries cũ.
Tks. NQT
APR
27
ABOUT
Each day we'll show you all of your
stories from the same date on different years.
Giả và thật trong văn chương.
Nhà văn Nga, Andrei Makine, viết văn bằng tiếng Tây, được hai giải
thuởng văn
chương lớn của Pháp, Goncourt và Médicis, trong cùng một năm (1995),
cùng một
tác phẩm, Di chúc Pháp (Le Testament francais); chưa kể giải Goncourt
của giới
học sinh trung học. Khi chưa nổi tiếng, ông đã phải bịa ra những
“nguyên bản
ma”, tức là coi những tác phẩm của ông, là những bản dịch, từ tiếng mẹ
đẻ, bởi
vì chỉ như vậy, nó mới gây được sự chú ý ở giới xuất bản v...
@NQT: chúc mừng anh.
@all: chúc mừng những người muốn tìm 1 quyển sách hay và được dịch hay
để đọc.
@Crimson Mai: lâu lắm mới có người sử dụng ngôn ngữ đến mức làm Crimson
á khẩu.
@BA:
thêm 1 chữ thì thừa, bớt 1 chữ thì thiếu, dùng lệch đi thì sai, dùng từ
khác thì dở; duyên dáng mà ko đến mức làm duyên làm dáng; chuẩn mực mà
ko cứng nhắc; gần gũi ,địa phương mà ko quê mùa. Tất nhiên là ở 1 số
đoạn thôi, người đẹp, nhưng đủ làm ta á khẩu.
Khi GCC dịch Istanbul, đầu
đầy ắp Saigon những ngày mới lớn, quen BHD.
K, vị thân hữu, độc giả TV nhận ra, và khen:
Những mối tình e
ấp, sót lại những sợi tơ vương vướng đâu đó trong tâm hồn phần đông
trong
chúng ta, không giống như vết dao vẫn còn tươm máu mãi trong “Lan
Hương” của
NQT. Anh có thể lồng bóng mình và người yêu một thời (và một đời) của
mình gần như
vào bất cứ một mối tình văn chương nào mà anh đọc đến, chỉ cần mối tình
ấy là
một mối tình lý tưởng, trong trắng và mù quáng đến rũ rượi. Đọc truyện
tình của
anh, K. có cảm tưởng như nếu giả thử cần bắt đầu lại, thì anh cũng sẽ
lao vào cuộc
tình như thế, không ngần ngại chút nào, chỉ lại để được đau đớn một
cách hạnh
phúc. (1)
K. [Thư luân lưu art2all]
Tks. NQT
Years later,
when I was translating Orhan Pamuk’s memoir, Istanbul:
Memories and the
City, I would read his passage on childhood daydreaming and
feel
the chill of recognition. Orhan the little boy would often be parked
with his sedentary
grandmother for whole mornings. He would sit on a straight-backed chair
and
construct elaborate (and elaborately) other worlds, from which he could
emerge
instantly, just like that, should his name be called, knowing that when
he was
once again free to return to those worlds, they would be there waiting
for him,
just as he’d left them.
Đọc bài này, thật tuyệt,
thì GCC lại nhớ đến những ngày đầu tiên tới Saigon, thám
hiểm thành phố bằng cái bản đồ mua ở 1 tiệm sách, và bị 1 anh lính gác
hăm bắn
bỏ, vì, tin theo tấm bản đồ, lớ ngớ đi vô 1 doanh trại lính BX.
Nói tóm lại,
một gã vui nhộn, quá vui nhộn đối với chủ nghĩa Cộng Sản.
Đối với
bất cứ một ấn bản nào của Stalin, về chủ nghĩa Cộng Sản.
Một thiên tài Nga tức cuời một cách lạ thường.
The
portraits that follow are from a large number of photographs recently
recovered
from sealed archives in Moscow, some-rumor has it-from a cache in the
bottom of
an elevator shaft. Five of those that follow, Akhmatova, Chekhov (with
dog), Nabokov,
Pasternak (with book), and Tolstoy (on horseback) are from a volume
entitled The Russian Century,
published early last year by Random House. Seven
photographs from that research, which were not incorporated in The
Russian
Century, are published here for the first time: Bulgakov, Bunin,
Eisenstein (in
a group with Pasternak and Mayakovski), Gorki, Mayakovski, Nabokov
(with mother
and sister), Tolstoy (with Chekhov), and Yesenin. The photographs of
Andreyev,
Babel, and Kharms were supplied by the writers who did the texts on
them. The photograph
of Dostoyevsky is from the Bettmann archives. Writers who were thought
to have
an especial affinity with particular Russian authors were asked to
provide the
accompanying texts. We are
immensely in their debt for their cooperation.
The Paris
Review
1995 Winter
Daniil
Kharms
Among the
millions killed by Stalin was one of the funniest and most original
writers of
the century, Daniil Kharms. After his death in prison in 1942 at the
age of
thirty-seven, his name and his work almost disappeared, kept alive in
typescript texts circulated among small groups of people in the then
Soviet Union.
Practically no English-speaking readers knew of him. I didn't,
until I went to Russia and came back and read books about it and tried
to learn
the language. My teacher, a young woman who had been in the U.S. only a
few
months, asked me to translate a short piece by Daniil Kharms as a
homework
assignment. The piece, "Anecdotes from the Life of Pushkin,"
appears in CTAPYXA (Old Woman), a
short collection of Kharms's work published in Moscow in 1991. Due to
my
newness to the language and the two dictionaries and grammar text I had
to use,
my first reading of Kharms proceeded in extreme slow motion. As I
wondered over
the meaning of each word, each sentence; as the meaning gradually
emerged, my
delight grew. Every sentence was, funnier than I could have guessed. A
paragraph began: "Pushkin loved to throw rocks." Openings like that
made me breathless to find out what would come next. The well-known
difficulty
of taking humor from one language into another has a lesser-known
correlate:
when, as sometimes happens, the translation succeeds, the joke can seem
even
funnier than it was to begin with. As I translated, I thought Kharms
the
funniest writer I had ever
read.
His
photograph facing the title page only confirmed this. At first glance
he
appeared crazy or fierce, but on closer inspection I could see the
weirdness of
a deeply funny guy. I wanted to know all I could about him. My teacher
told me that
he was a founding member of an artistic movement called OBERIU that the
name
came from the first letters of the Russian words for Association for
Real Art,
that he and other members of the group fell into disfavor and were
killed, that
when she was little she knew him as the author of poems and stories for
children. We read some of his writing for children, work as blithe and
whimsical and heedless as the stories in GTAPYXA
were dark. In Russia's Lost Literature of
the Absurd, a selection edited and translated by George Gibian
(1971), I
learned that Kharms was born Daniil Ivanovich Yuvachev in Petersburg in
1905;
that his father, an intellectual and revolutionary, had been imprisoned
and
exiled to Siberia; that with his father he shared an interest in
stories of
fantasy; that he suffered from melancholy; that he admired Gogol, Knut
Hamsun
and Bach. A colleague said of him, "Kharms is art." Much of his work
consisted of public readings, pranks, performances and daring gestures.
With
the Bolsheviks in power and the nobility vanished or in prison, Kharms
assumed
the guise of an aristocrat, complete with false mustache and a
briefcase
containing his own personal silver drinking cups. To attract
people to a reading performance of the OBERIU group, Kharms strolled on
a
fifth-floor ledge in Saint Petersburg smoking a pipe and loudly
announcing the
event to passersby.
In short, he
was a cool guy, too funny for communism, or at any rate for Stalin's
version of
it. After the successful production of his play, Elizabeth Bam, a
comedy about a
woman who is waiting to be arrested and killed, the press attacked the
OBERIU,
later accusing them of "reactionary jugglerism" and "nonsense
poetry . . . against the dictatorship of the proletariat." Police
arrest d
him on the street in 1941; when his wife went to take him a package at
the prison
hospital in February, 1942, she was told that he had died two days
before.
Fourteen years after his death he was officially "rehabilitated."
Bibliographies
listed him only as an author of children's books. More recently, the
larger outline
of his work has begun to emerge; perhaps soon there will be a complete
collection by which we can get to know him better. So far I have only
scratched
the surface on Kharms.
-Ian Frazier
Trong
số hàng triệu con người bị Stalin sát hại, có một nhà văn tức cười
nhất, uyên
nguyên nhất, của thế kỷ: Daniil Kharms. Sau khi ông chết ở trong tù,
vào năm
1942, khi 37 tuổi, tên và tác phẩm của ông hầu như biến mất, và chỉ còn
sống dưới
dạng chép tay, lưu truyền giữa những nhóm nhỏ, ở một nơi có tên là Liên
Bang Xô
Viết.
Thực tình là, không có một độc giả Anh ngữ nào biết về ông. Tôi (Ian
Frazier)
cũng vậy, cho tới khi đi Nga, trở về, đọc những cuốn sách về nó, và cố
gắng học
tiếng Nga. Cô giáo của tôi, một người đàn bà trẻ chỉ ở Mỹ được vài
tháng, đã ra
bài làm ở nhà cho tôi như sau: hãy dịch một đoản văn của Daniil Kharms
ra tiếng
Anh. Đoản văn "Những mẩu chuyện từ Cuộc Đời Puskhin", (Anecdotes from
the Life of Puskhin) là ở trong CTAPYXA (Bà Già), một tuyển tập nhỏ tác
phẩm của
Kharms, đã được xuất bản ở Moscow vào năm 1991. Tiếng Nga, hai cuốn từ
điển, và
một cuốn sách văn phạm, tất cả đều quá mới, lần đọc Kharms đầu tiên của
tôi thật
là chậm như sên. Cùng với sự mầy mò từng từ, từng câu, niềm hân hoan
của tôi
gia tăng, khi ý nghĩa của chúng lộ dần ra. Mỗi câu là một tức cười, hơn
cả dự
đoán của tôi về nó. Một đoạn văn bắt đầu như thế này: "Puskhin mê ném
đá". Những mở đầu như vậy làm cho tôi nghẹt thở: làm sao đoán ra nổi
cái
gì sẽ tới liền sau đó.
Giữ được chất tiếu lâm, khi chuyển dịch ngôn ngữ, là một điều khó khăn
vô cùng,
ai nấy đều biết. Nhưng có một hệ quả, ít được biết: đôi khi, trong tiến
trình dịch
thuật, câu chuyện có vẻ tếu hơn là lúc thoạt đầu chúng ta nghĩ về nó.
Trong khi
dịch, tôi nghĩ Kharms là một nhà văn tức cười nhất mà tôi đã từng đọc.
Ian Frazier, qua cuốn Văn Chương Phi Lý Đã Mất của Nga (Russia’s Lost
Literature of the Absurd), được biết, Kharms ra đời với tên Daniil
Ivanovich
Yuvachev, tại Petersburg vào năm 1905. Cha ông, một nhà trí thức cách
mạng bị cầm
tù và đầy đi Siberia. Ông thừa hưởng từ người cha, đam mê chuyện kỳ
quái. Ông
đau khổ vì "buồn" (that he suffered from melancholy). Mê Gogol, Knut
Hamsun và Bach. Một bạn đồng học nói về ông: "Kharms là nghệ thuật"
(Kharms is art). Cùng với sự lên ngôi của "nhà vô sản", và sự vào tù
của "nhà quí tộc", Kharms cảm thấy thích thú trong bộ dạng một nhà
quí phái, cộng thêm hàng ria mép giả thỉnh thoảng lại nhinh nhích, hinh
hỉnh, cộng
thêm chiếc cặp da kè kè bên mình, trong là những… chiếc ly uống rượu
bằng bạc!
Để lôi kéo khán thính giả cho một buổi trình diễn kịch của nhóm OBERIU,
ông di
dạo ở chót vót phía bên trên thành phố Saint Petersburg, miệng ngậm ống
vố, và
la lớn, thông báo cho những bộ hành qua lại phía bên dưới, về "biến cố
quan trọng" kể trên!
Nói tóm lại, một gã vui nhộn, quá vui nhộn đối với chủ nghĩa Cộng Sản.
Đối với
bất cứ một ấn bản nào của Stalin, về chủ nghĩa Cộng Sản. Sau thành công
của vở
kịch "Elizabeth Bam", một hài kịch về một người đàn bà chờ… "được
bắt và được giết", báo chí nhà nước kết án nhóm kịch của ông là… "trò
múa may phản động, thơ ca vô nghĩa… chống lại nền chuyên chính vô sản".
Ông bị bắt ở ngay trên đường phố, vào năm 1941. Khi vợ ông đi thăm
nuôi, vào
năm 1942, bà được thông báo, ông chết hai ngày trước đó. Mười bốn năm
sau khi mất,
tên tuổi của ông được phục hồi. Những nhà chuyên viết tiểu sử xếp ông
vào danh
sách: viết chuyện cho nhi đồng.