Xuân Sách

Chân dung nhà văn

Tâm sự của tác giả


 Những bài thơ chân dung các nhà văn của tôi ra đời trong trường hợp rất tình cờ. Hồi ấy, bước vào thập kỉ 60, tôi đang độ tuổi ba mươi, từ đơn vị được chuyển về Tạp chí Văn nghệ Quân đội, ở ngôi nhà số 4 Lý Nam Đế, Hà Nội. Ngoài công việc của toà soạn tờ báo ra, thời gian của chúng tôi dành nhiều cho việc học tập chính trị. Những vấn đề thời sự trong nước, thế giới, những đường lối, chỉ thị nghị quyết, những vấn đề tư tưởng lâu dài và trước mắt... đều phải học tập nghiêm túc, có bài bản. Học một ngày, hai ngày, có khi cả tuần, cả tháng. Lên lớp, thảo luận, kiểm điểm, làm sao cho mỗi đợt học, kiến thức và tư tưởng của từng người phải được nâng cao lên một bước. Những buổi lên lớp tập trung trên hội trường gồm hàng ngàn sĩ quan, anh em văn nghệ sĩ, các nhà văn, các hoạ sĩ, nhạc sĩ... thường ngồi tập trung với nhau ở những hàng ghế cuối hội trường thành một “xóm” văn nghệ. Để chống lại sự mệt mỏi phải nghe giảng về hai phe bốn mâu thuẫn, về ba dòng thác cách mạng, về kiên trì, tăng cường, nỗ lực, quyết tâm... mấy anh em văn nghệ vốn quen thói tự do thường rì rầm với nhau những câu chuyện tào lao, hoặc che kín cho nhau để hút một hơi thuốc lá trộm, nuốt vội khói, nhiều khi ho sặc sụa. Nhưng rồi những chuyện đó cũng bị phát hiện, bị nhắc nhở phê bình. Vậy phải thay đổi, chuyển sang bút đàm.

 Vào năm 1962, có đợt học tập quan trọng, học nghị quyết 9, nghị quyết chống xét lại, chống tư tưởng hoà bình chủ nghĩa, và dĩ nhiên văn nghệ là đối tượng chú ý trong đợt học này. Hội trường tập trung đông, trời nắng, hơi nóng từ cái sân xi măng hắt lên như thiêu như đốt. Quân đội đang tiến lên chính quy, hiện đại, ăn mặc phải chỉnh tề, đầy đủ cân đai bối tử, đi giầy da, những đôi giầy cao cổ năng như cùm. Bọn tôi, trừ vài trường hợp như Vũ Cao, Nguyễn Khải có đôi chân quá khổ, có cớ chưa có giầy đúng số để đi dép, nhưng cũng là những đôi dép có quai hậu, ngồi học cũng không được tụt quai. Nhân đây tôi nói thêm về Vũ Cao, ông là người có biệt danh “quanh năm đi chân đất”, ở nhà số 4 các phòng sàn ván đều được lau bóng để đánh trần nằm xuống mà viết. Qui định của phòng là phải bỏ dép trừ... Vũ Cao, bởi để ông đi dép vào phòng còn sạch hơn đi chân trần. Giờ đây ngồi học được ưu tiên đi dép vẫn là nỗi cực khổ đối với ông.

 Trong buổi lên lớp như thế, Nguyễn Trọng Oánh xé vỏ bao thuốc lá Tam Đảo viết một bài thơ bằng chữ Hán trao cho tôi, ở VNQĐ Oánh được gọi là ông Đồ Nghệ giỏi chữ Hán, và tôi được gọi là ông Đồ Thanh bởi cũng võ vẽ đôi ba chữ thánh hiền. Oánh bảo tôi dịch bài thơ Oánh viết vịnh Xuân Thiều. Xuân Thiều cũng ở lứa tuổi chúng tôi nhưng trông già dặn vì cái đầu hói, tóc lơ thơ. Con đường văn chương mới bước vào còn lận đận. Mới in được tập truyện ngắn đầu tay Đôi vai, tập tiểu thuyết Chuyển vùng viết về cuộc chiến đấu chống Pháp ở Bình Trị Thiên mà Thiều tham dự, đã sửa chữa nhiều lần, đưa qua vài ba nhà xuất bản chưa “nhà” nào chịu in.

 Tôi thấy bài thơ Oánh viết rất hay và dịch.

 Văn nghiệp tiền trình khả điếu quân

Mao đầu tận lạc tự mao luân

Lưỡng kiên mai liễu phong trần lý

Chuyển địa hà thời chuyển khắc ngân.

 Dịch nghĩa:

Con đường văn nghiệp khá thương cho ông

Lông đầu ông đã rụng trơ trụi

Đôi vai lầm lũi trên con đường gió bụi

Chuyển vùng đến bao giờ thì chuyển thành tiền được?

 Dịch thơ:

 Con đường văn nghiệp thương ông

Lông đầu rụng hết như lông cái đầu

Đôi vai gánh mãi càng đau

Chuyển vùng nào nữa làm sao thành tiền?

 
Dịch xong tôi chuyển bài thơ cho anh em đọc. Oánh tỉnh bơ với bộ mặt lạnh lùng cố hữu, còn mọi người phải nén cười cho khỏi bật thành tiếng. Nguyễn Minh Châu gục xuống bàn kìm nén đến nỗi mặt đỏ bừng và nước mắt dàn dụa.

 Tự nhiên trong đầu tôi loé lên cái ý nghĩ mà người ta thường gọi là “tia chớp”. Thơ chân dung! Trong bài thơ Oánh phác hoạ một Xuân Thiều với hình dáng và văn nghiệp bằng cách dùng nghĩa kép tên tác phẩm: Đôi vai; Chuyển vùng. Và sau chốc lát, tiếp tục trò đùa của Oánh tôi viết bài thơ về Hồ Phương, đang ngồi cạnh tôi, và bài thơ số một về chân dung các nhà văn ra đời. Hồi đó Hồ Phương đã là tác giả in nhiều tác phẩm, đã được một số giải thưởng các cuộc thi sáng tác văn học. Tôi dùng các tên các tập truyện của anh: Trên biển lớn; Xóm mới; Cỏ non và tên cái truyện ngắn đầu tay vẫn được nhắc đến “Thư nhà”. Tôi viết bài thơ ra mẩu giấy:

 Trên biển lớn lênh đênh sóng nước

Ngó trông về Xóm mới khuất xa

Cỏ non nay chắc đã già

Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem

 Tôi đưa bài thơ cho Nguyễn Khải. Anh đọc xong trên mặt có thoáng chút ngạc nhiên và nghiêm nghị chứ không cười như tôi chờ đợi. Anh bỏ bài thơ vào túi chứ không chuyển cho người khác. Đến giờ giải lao chúng tôi ra ngồi quanh gốc cây sấu già, Nguyễn Khải mới đưa bài thơ cho Hồ Phương đọc. Mặt Hồ Phương hơi tái và cặp môi mỏng của anh hơi run. Nguyễn Khải nói như cách sỗ sàng của anh: “Thằng này (chỉ tôi) ghê quá, không phải trò đùa nữa rồi!”

 Tôi hơi hoảng, nghĩ rằng đó chỉ là trò chơi chữ thông thường. Sau rồi tôi hiểu ngoài cái nghĩa thông thường bài thơ còn chạm vào tính cách và đánh giá nhà văn. Mà đánh giá nhà văn thì có gì quan trọng hơn là tính cách và tác phẩm. Bài thơ ngụ ý Hồ Phương viết nhiều chăng nữa vẫn không vượt qua được tác phẩm đầu tay và vẫn cứ: “Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem...”

 *

Trước đấy, khi còn là lính địa phương, cái xã hội nhà văn đối với tôi đầy thiêng liêng bí ẩn. Đấy là những con người dị biệt, rất đáng ngưỡng mộ, rất đáng yêu mến, dường như họ là một “siêu tầng lớp” trong xã hội. Mỗi hành động, mỗi cử chỉ, lời nói của họ đều có thể trở thành giai thoại, và cả tật xấu nữa, dường như cũng đứng ngoài vòng phán xét thông thường. Tóm lại đó là một thế giới đầy sức hấp dẫn đối với một người say mê văn học và tấp tểnh nuôi mộng viết văn như tôi. Khi tôi được về Hà Nội vào một cơ quan văn nghệ dù là ở quân đội (hoàn cảnh nước ta quân đội có một vị trí đặc biệt trong xã hội kể cả lĩnh vực văn chương) tôi bắt đầu đi vào thế giới mà trước đây tôi mơ ước. Điều tôi nhận ra là ngoài cái phần tôi hiểu trước đây thì thế giới nhà văn còn có những chuyện khác. Đấy là cái mặt đời thường, cái mặt rất chúng sinh, và chúng cũng góp phần quan trọng làm nên các tác phẩm và tính cách nhà văn. Vì vậy chân dung của họ không thể bỏ qua. Hơn nữa nếu “vẽ” được chính xác những bức chân dung đó, thì bộ mặt xã hội của thời đại họ đang sống, đang viết cũng qua đó mà hiện lên. Có thể, tôi nghĩ, không có tầng lớp nào hơn các nhà văn, thể hiện rõ nhất bộ mặt tinh thần của dân tộc qua từng giai đoạn. Những điều này tôi nhận ra sau một thời gian dài, khi những bài thơ chân dung lần lượt ra đời, được phổ biến một cách không chính thức nhưng sâu rộng và dai dẳng, vượt qua cả mong muốn của tôi.

 Cũng chính các nhà văn giúp tôi nhiều trong sáng tác cũng như phổ biến các bài thơ. Bởi khi nhận xét về tính cách con người, tính cách các nhà văn thì không ai sắc sảo bằng các nhà văn. Người giúp tôi nhiều nhất là anh Nguyễn Khải. Anh có mối quan hệ rộng rãi trong giới, có lối nhận xét rất sắc sảo, chính xác dù có đôi lúc cực đoan. Anh không mấy thích thơ, nhưng anh lại thích những chân dung nhà văn. Anh có nói đại ý là các nhà văn chúng ta quen đánh giá nhận xét mọi tầng lớp người trong xã hội, thì cũng cần tự đánh giá giới mình, cũng đều có cái tốt cái xấu như ai. Về sau thêm anh Vương Trí Nhàn về Văn nghệ Quân đội. Nhà phê bình văn học trẻ tuổi này hết sức cổ suý tôi, đôi khi anh còn thách đố. Chúng tôi thường ngồi trong cái phòng “toilet” khoảng ba mét vuông. Do hệ thống bơm nước lên tầng hai bị hỏng, nên cái phòng vệ sinh đó biến thành “phòng văn”, nó được ốp gạch men trắng bóng lau sạch ngồi thật mát và thoải mái kín đáo. Có những hôm Nhàn mua sẵn vài điếu thuốc lá lẻ, vài cái kẹo lạc, một ấm trà ngon, rồi thách thức tôi viết ngay tại chỗ. Và đã có nhiều bài thơ ra đời như thế. Nhàn nói: “Những bài thơ này ông Sách viết ra khi có con quỉ ám vào ông ấy”. Bởi vì Nhàn đánh giá tôi có một giọng điệu khác hẳn trong những sáng tác không phải thơ chân dung. Nhàn là người rất thuộc thơ, và khi bài thơ tôi làm xong thường thì anh là người phổ biến rộng rãi. Một số anh em trẻ khác như các anh Định Nguyễn, Trần Hoàng Bách thường đem những bài thơ đi phổ biến để được chiêu đãi bia hơi. Có thể nói đó là “nhuận bút” đầu tiên, nhưng không thuộc về người sáng tác mà thuộc về người phát hành.

 Tất nhiên những bài thơ đó được phổ biến rộng rãi trong giới. Lúc đầu còn kín đáo, nhưng dần dần thành công khai, và nhất là thành một “tiết mục” không thể thiếu trong những buổi liên hoan của anh em văn nghệ. Có một buổi cũng khá đông đủ các nhà văn, khi đã vào tiệc rượu, mọi người yêu cầu tôi đọc về các nhà văn có mặt. Trong không khí như vậy thì dù các anh chị ấy có giận cũng cười xoà làm vui, riêng tôi thấy mình là được trò vui cho mọi người cũng hay chứ sao nữa. Tôi nhớ sau buổi vui anh Nguyễn Đình Thi có nói đại ý nên đem cái tài đó làm những việc có ích hơn là châm chọc nhau. Ngay đó một anh ngồi bên cạnh rỉ tai tôi: “Châm chọc cũng cần có tài và có ích lắm chứ”

 Những bài thơ được lan truyền trong nhiều giới khác. Hồi đó tướng Lê Quang Đạo là phó chủ nghiệm Tổng cục chính trị, cấp trên của giới văn nghệ quân đội, ông rất thích những bài thơ chân dung, thường trong giờ nghỉ những buổi họp với giới văn nghệ ông đề nghị đọc cho ông nghe. Sự thích thú tuy có tính cách cá nhân nhưng rất hay cho tôi. Tôi cũng nhận được nhiều phản ứng khác nhau, có khi khen quá lời, có khi bực tức. Tôi kể ra vài trường hợp đặc biệt. Khi tôi đã tìm hiểu được những ứng xử, những tính cách của các nhà văn, ngoài những tác phẩm của họ mà tôi hằng ngưỡng mộ, tôi cứ băn khoăn tự hỏi: Sao thế nhỉ? Với bề dày tác phẩm như thế, với vị trí trong xã hội như thế, sao họ còn ham muốn những thứ phù phiếm đến thế, một chức vụ, một quyền lực, một chuyến đi nước ngoài... mà đã ham muốn thì phải mưu mẹo, phải dối trá, và nhất là phải sợ hãi. Một lần trên báo đăng bài thơ dài của một nhà thơ có tên tuổi viết theo “thời tiết” chính trị, quay ngược lại những điều vừa viết chưa lâu, Nguyễn Khải chỉ bài thơ nói với tôi: “Rất tiếc, một tài năng lỡ tàu”.

 Tôi không nghĩ mình đứng ngoài cuộc để phán xét, mà muốn làm cặp mắt thứ hai trong mỗi bài thơ để tự bạch, tự cảm thông với mình và cũng tự giận mình. Tôi vốn yêu thích và kính phục tài thơ Chế Lan Viên, nhưng bài thơ tôi viết về ông lại nói khía cạnh khác. Mỗi lần gặp lại tôi ông lại tỏ ra rất thân thiện. Điều đó làm cho tôi bối rối, phải chăng ông đã hiểu điều gì đó về ông về tôi. Lúc ông Hoài Thanh già yếu phải vào bệnh viện tôi đến thăm ông. Ông không giận tôi nữa, còn cho tôi là người có tình và ông thấy những gì viết về ông có phần đúng, ông đề nghị chữa một chữ trong bài thơ. Khi ông mất, tôi đi viếng, nhìn khuôn mặt ông qua tấm kính, và các con ông oà khóc, tôi bỗng thấy mình như người có tội.

 Một lần tôi gặp Xuân Diệu trong quán bia hơi, tôi nâng cốc bia đến chúc mừng ông vừa được bầu làm viện sĩ của Viện Hàn lâm nghệ thuật nước CHDC Đức, ông chạm cốc: “Chúc mừng họ Ngô nhà ta, những bài thơ của cậu đã đi vào cõi bất tử”

 Điều tôi không ngờ là cụ Đăng Thai Mai cho người gọi tôi đến nhà bảo tôi đọc thơ chân dung cho cụ nghe. Con người nổi tiếng uyên bác thâm trầm ấy, ngồi đặt cằm lên gối cười khục khục. Đột ngột cụ ngước cặp mắt tinh anh lên nhìn tôi: “Thế còn Đặng Thai Mai?”. Tôi lúng túng: “Viết về bác rất khó, cháu đang suy nghĩ, thưa bác”. Dường như ông cụ không tin lời tôi. Ít lâu sau cụ lại gọi tôi đến: “Anh viết về tôi rồi chứ?”.

 Trước tôi chỉ nghĩ cụ không để ý đến trò chơi chữ ngông nghênh này, hoá ra cụ quan tâm thật sự, khiến tôi vừa cảm động vừa thích thú. Nhưng biết làm sao được, viết về cụ rất khó và đến nay tôi vẫn chưa viết được.

 Còn cụ Nguyễn Tuân, con người thích đùa một cách cao sang và thâm trầm, thích ăn nem rán nóng bỏng thì gắp lên đặt xuống cái nem nghe thơ và phán: “Hóm, thằng này hóm!”.

 Nói về đồng nghiệp cũng là nói về mình. Cái hay cái dở của một người cũng là của một thời. Câu thơ: “Từ thuở tóc xanh đi vỡ đất. Đến bạc đầu sỏi đá chửa thành cơm” đâu phải là số phận của một nhà thơ. Hơn ai hết, tôi nghĩ, nhà văn là đại diện của một thời, là lương tri của thời đại. Đã đành khó ai vượt được thời đại mình đang sống, không dễ nói hết, nói công khai những điều suy nghĩ. Nhưng cũng thật đau lòng khi những nhà văn bán rẻ lương tâm, cong lưng quì gối trước quyền uy, mê muôi vì danh lợi. Có lẽ đó là động cơ thúc đẩy tôi viết, nếu có nói quá cũng dễ hiểu, cái con “quỉ ám” nếu có thì cũng là sản phẩm của những cảm xúc ấy, nỗi đau chung ấy. Nhiều nghịch lý vốn tồn tại trong cuộc đời cũng như trong nghệ thuật. Tiếng cười nhiều khi xuất phát từ nỗi đau.

 Những bài thơ chân dung đã có cuộc sống riêng của nó, không phải kì lạ nhưng cũng độc đáo. Nó được lưu truyền đến nay đã ba mươi năm. Đã có nhiều bài “khảo dị”, nhiều bài “ngoài luồng” cũng được gán cho tác giả, bây giờ in ra coi như một sự đính chính. Nó cũng là “một cái gì đó” như có người nói nên mới tồn tại được, nếu nó có ích thì tác giả cũng lấy làm mãn nguyện.

Ngày xuân Nhâm Thân

Xuân Sách

 Nguồn: Theo bản in của Nhà xuất bản Văn học, in tại nhà in Bộ Nội Vụ tháng 3 năm 1992, bản đăng trên talawas có sự đồng ý của tác giả.

 *

1.

Trên biển lớn lênh đênh sóng nước

Ngó trông về xóm mới khuất xa

Cỏ non nay chắc đã già

Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem

 

2.

Xung kích tràn lên nước vỡ bờ

Đã vào lửa đỏ hãy còn mơ

Bay chi mặt trận trên cao ấy

Quên chú nai đen vẫn đứng chờ.

 

3.

Dế mèn lưu lạc mười năm

Để o chuột phải ôm cầm thuyền ai

Miền Tây sen đã tàn phai

Trăng thề một mảnh lạnh ngoài đảo hoang.

 

4.

Bỉ vỏ một thời oanh liệt nhỉ

Sóng gầm sông Lấp mấy ai hay

Cơn bão đến động rừng Yên Thế

Con hổ già uống rượu giả vờ say.

 

5.

Bác Kép Tư Bền rõ đến vui

Bởi còn tranh sáng bác nhầm thôi

Bới tung đống đống rác nên trời phạt

Trời phạt chưa xong bác đã cười.

 

6.

Vang bóng một thời đâu dễ quên

Sông Đà cũng muốn đẩy thuyền lên

Chén rượu tình rừng cay đắng lắm

Tờ hoa lại trút lệ ưu phiền.

 

7.

Các vị La hán chùa Tây phương

Các vị già quá tôi thì béo

Năm xưa tôi hát vũ trụ ca

Bây giờ tôi hát đất nở hoa

Tôi hát chiến tranh như trẩy hội

Đừng nên xấu hổ khi nói dối

Trời mỗi ngày lại sáng có sao đâu

 

8.

Hai đợt sóng dâng một khối hồng

Không làm trôi được chút phấn thông

Chao ơi ngói mới nhà không mới

Riêng còn chẳng có, có gì chung.

 

9.

Quá tuổi hoa niên đã bạc đầu

Tình còn dang dở tận Hàng Châu

Khúc ca mới hát sao buồn thế

Hai nửa yêu thương một nửa sầu

 

10.

Điêu tàn ư? Đâu chỉ có điêu tàn

Ta nghĩ tới vàng sao từ thuở ấy

Chim báo bão, lựa chiều cơn gió dậy

Lựa ánh sáng trên đầu mà thay đổi sắc phù sa

 

Thay đổi cả cơn mơ

Ai dám bảo con tầu không mộng tưởng

Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng

Lòng ta cũng như tầu, ta cũng uống

Mặt anh em trong suối cạn hội nhà văn

 

11.

Trăng sáng soi riêng một mặt người

Chia ly đôi bạn cách phương trời

Ước mơ của đất anh về đất

Im lặng mà không cứu nối đời.

 

12.

Nên danh nên giá ở làng

Chết vì ông lão bên hàng xóm kia

Làm thân con chó xá gì

Phận đành xấu xí cũng vì miếng ăn.

 

13.

Một nắm xương khô cũng gọi mỡ

Quanh năm múa bút để mua vui

Tưởng cụ vẫn bơi dòng nước ngược

Nào ngờ trở gió lại trôi xuôi.

 

14.

Phất rồi ông mới ăn khao

Thơ ngang chạy dọc bán rao một thời

Ông đồ phấn, ông đồ vôi

Bao giờ xé xác để tôi ăn mừng.

 

15.

Vị nghệ thuật nửa cuộc đời

Nửa đời sau lại vị người ngồi trên

Thi nhân còn một chút duyên

Lại vò cho nát lại lèn cho đau

Bình thơ tới thuở bạc đầu

Vẫn chưa thể tất nổi câu nhân tình

Giật mình mình lại thương mình

Tàn canh tỉnh rượu bóng hình cũng tan.

 

16.

Vốn cùng nhân dân tiến lên

Mùa đông năm ấy bỏ quên cờ đào

Quay về núp bóng ca dao

Giật mình nghe một tiếng chào

 

Văn Ngan?

 

17.

Hỏng đôi mắt phải đâu là mất hết

Trong cặp còn hồ sơ điệp viên

Ông cố vấn chẳng sợ gì cái chết

Cao điểm cuối cùng quyết chí xông lên.

 

18.

Đám cháy ở sau lưng

Đám cháy ở trước mặt

Than ôi mày chạy đâu

Dưới vòm trời quen thuộc

Đốt bao nhiêu cỏ mật

Không bay mùi thơm tho

Càng hun càng đỏ mắt

Quay về thung lũng cò.

 

19.

Mải hái hoa dọc chiến hào

Bỏ quên chồi biếc lúc nào không hay

Thói quen cũng lạ lùng thay

Trồng cây táo lại mọc cây bạch đàn

 

20.

Trường Sơn đông em đi hái măng

Trường Sơn tây anh làm thơ cho lính

Đời có lúc bay lên vầng trăng

Lại rơi xuống chiếc xe không kính

Thế đấy! Giữa chiến trường

Nghe tiếng bom cũng mạnh!

 

21.

Thao thức năm canh nghĩ chẳng ra

Trò chơi nguy hiểm đấy thôi mà

Lửng lơ giữa khoảng trong xanh ấy

Để mối đùn lên cái gốc già.

 

22.

Trời thí cho ông vụ lúa chiêm

Ông xây sân gạch với xây thềm

Con đường mòn ấy ông đi mãi

Lưu lạc lâu ngày mất cả tên.

 

23.

Hai lần lỡ bước sang ngang

Thương con bướm đậu trên dàn mồng tơi

Trăm hoa thân rã cánh rời

Thôi đành lấy đáy giếng thơi làm mồ.

 

24.

Nhọc nhằn theo bước con trâu

Hỡi người áo trắng nông sâu đã từng

Mỗi bước đi một bước dừng

Mà sao vẫn lạc giữa rừng U Minh.

 

25.

Mấy lần đất nước đứng lên

Đứng lâu cũng mỏi cho nên phải nằm

Hại thay một mạch nước ngầm

Cuốn trôi Đất Quảng lẫn rừng Xà Nu.

 

26.

Từ trong hom giỏ chui ra

Đã toan gánh vác sơn hà chị ơi

Định đem cái lạt buộc người

Khổ thân ông lão vịt trời phải chăn.

 

27.

“Sông Mã xa rồi tây tiến ơi...”

Về làm xiếc khỉ với đời thôi

Nhà đồi một nóc chênh vênh lắm

Sống tạm cho qua một kiếp người.

 

“Áo sờn thay chiếu anh về đất”

Mây đầu ô trắng, Ba Vì xanh

Gửi hồn theo mộng về tây tiến

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

 

28.

Tưởng chuyện như đùa hoá ra thật

Biết ông sằng phẳng tự bao giờ

Cái con thò lò quay sáu mặt

Vồ hụt mấy lần ông vẫn trơ.

 

29.

Cha và con... và họ hàng và...

Hết bay mùa thóc lẫn mùa lạc

Cho nên chiến sĩ thiếu lương ăn

Họ sống chiến đấu càng khó khăn

Tháng ba ở Tây Nguyên đỏ lửa

Tháng tư lại đi xa hơn nữa

Đường đi ra đảo đường trong mây

Những người trở về mấy ai hay

Xung đột mỗi ngày thêm gay gắt

Muốn làm cách mạng nhưng lại dát!

 

30.

Đường chúng ta đi trong gió lửa

Còn mơ chi tới những cánh buồm

Từ thuở tóc xanh đi vỡ đất

Đến bạc đầu sỏi đá chửa thành cơm.

 

31.

Tấm áo hào hoa bạc gió mưa

Anh thành đồng chí tự bao giờ

Trăng còn một mảnh treo đầu súng

Cái ghế quan trường giết chết thơ.

 

32.

Bao năm ngậm ngải tìm trầm

Giã từ quê mẹ xa dòng Hương giang

Bạc đầu mới biết lạc đường

Tay không nay lại vẫn hoàn tay không

Mộng làm giọt nước ôm sông

Ôm sông chẳng được, tơ lòng gió bay

 

33.

Một con trâu bạc già nua

Nhờ cơn bão biển thổi lùa lên mây

Trâu ơi ta bảo trâu này

Quay về đất mặn kéo cày cho xong.

 

34.

Tài ba thằng mõ cỡ chuyên viên

Chia xôi chia thịt lại chia tiền

Việc làng việc nước là như vậy

Lộn xộn cho nên phải tắt đèn.

 

35.

Em còn đôi mắt ngây thơ

Sống mòn mà vẫn đợi chờ tương lai

Thương cho thị Nở ngày nay

Kiếm không đủ rượu làm say Chí Phèo!

 

36.

Xoắn mãi dây tình thơ bật ra

Paris thì thích hơn ở nhà

Đông y ắt hẳn hơn tây dược

Xe tải không bằng xe Volga

Trên đời kim cương là quí nhất

Thứ đến tình thương dân nghèo ta

Em chớ cho anh già lẩm cẩm

Còn hơn thằng trẻ lượn Honda.

 

37.

Em không nghe mùa thu

Mùa thu chỉ có lá

Em không nghe rừng thu

Rừng mưa to gió cả

Em thích nghe mùa xuân

Con nai vàng ngơ ngác

Nó ca bài cải lương.

 

38.

Một mặt đường khát vọng

Cuộc chiến tranh đi qua

Rồi trở lại ngôi nhà

Đốt lên ngọn lửa ấm

Ngủ ngon a kai ơi

Ngủ ngon a kai à...

 

39.

Anh Keng cưới vợ tháng mười

Những đứa con lại ra đời tháng năm

Trong làng kháo chuyện rì rầm

Vụ mùa chưa gặt thóc đã nằm đầy kho.

 

40.

Ấy bức tranh quê đẹp một thời

Má hồng đến quá nửa pha phôi

Bên sông vải chín mùa tu hú

Khắc khoải kêu chi suốt một đời.

 

41.

Đôi vai thì gánh lập trường

Đôi tay sờ soạng ven đường cuối thôn

Nghe anh kể chuyện đầu nguồn

Về nhà thấy mất cái hồn của em.

 

42.

Nhá nhem khoảng sáng trong rừng

Để cho cuộc thế xoay vần hơn thua

Xác xơ màu tím hoa mua

Lửa chân sóng báo mây mưa suốt ngày.

 

43.

Chị Tư Hậu đẻ ra anh

Ví như hòn đất nặn thành đứa con

Biển xa gió dập sóng dồn

Đất tan thành đất chỉ còn giấc mơ.

 

44.

Đi bước nữa rồi đi bước nữa

Phấn son mưa nắng đã tàn phai

Cái kiếp đào chèo là vậy đó

Đêm tàn bạn cũ chẳng còn ai.

 

45.

Đã đi qua một thời giông tố

Qua một thời cơm thầy cơm cô

Còn để lại những thằng Xuân tóc đỏ

Vẫn nghênh ngang cho đến tận bây giờ.

 

46.

Thơ ông tang tính tang tình

Cây đa bến nước mái đình vườn dâu

Thân ông mấy lượt lấm đầu

Miếng mồi danh lợi mắc câu vẫn thèm.

 

47.

Bắt đầu từ lão nghị hụt

Cầm dao giết một mạng người

Chị Nhàn phải đi bước nữa

Lấy đại đội trưởng của tôi

Cuộc đời mấy phen nổi gió

Phải đem tổ quốc thề bồi

Lần này ông ra ứng cử

Chắc là trúng nghị viên thôi.

 

48.

Ông năm Hạng trở về đất lửa

Với chiếc lược ngà vượt Trường Sơn

Bỗng mùa gió chướng vừa nổi dậy

Ông biến thành thằng nộm hình rơm.

 

49.

Có những lớp người đi vỡ đất

Mùa mưa không trồng lúa trồng ngô

Lại gieo hạt bông hường bông cúc

Trên mảnh đất này hoa héo khô.

 

50.

Chuyện kể cho người mẹ nghe

Biển lửa bốc cháy bốn bề tan hoang

Đứa con nuôi của trung đoàn

Phá vây xong lại chết mòn trong vây.

 

51.

Đất làng vừa một tấc

Bao nhiêu người đến cày

Thóc giống còn mấy hạt

Đợi mùa sau sẽ hay.

 

52.

Sớm nay nhấp một chén trà

Bâng khuâng tự hỏi đâu là núi đôi

Những người cùng làng với tôi

Muốn sang đèo trúc muộn rồi, đừng sang.

 

53.

Biên kia biên giới anh sang

Trước giờ nổ súng về làng làm chi

Mẫn và tôi tính chi li

Gia đình má Bảy lấy gì nuôi anh.

 

54.

Anh chẳng còn sống mãi

Với thủ đô luỹ hoa

Để những người còn lại

Bốn năm sau khóc oà.

 

55.

Chim chơ rao cất cánh ngang trời

Tình như chớp trắng nháy liên hồi

Đám mây cánh vạc tan thành nước

Mà đất ba dan vẫn khát hoài.

 

56.

Sinh ra trong gió cát

Đất Nghệ An khô cằn

Bao nhiêu năm nằm vạ

Trước cửa hội nhà văn.

 

57.

Đem than từ vùng mỏ

Về bán tận thủ đô

Bị đập chiếc cán búa

Hoá ra thằng ngẩn ngơ.

 

58.

Tưởng anh dọn về làng xưa

Ngờ đâu về tận thủ đô nhận nhà

Sướng cái bụng lắm lắm à

Đêm là đèo gió, ngày là Hồ Tây.

 

59.

Với tiếng sáo thiên thai dìu dặt

Mở ra dòng thơ mới cho đời

Bỏ rừng già về vườn bách thú

Con hổ buồn lặng lẽ trút tàn hơi.

 

60.

Cửa sông cất tiếng chào đời

Rồi ra đi những vùng trời khác nhau

Dấu chân người lính in mau

Qua miền cháy với cỏ lau bời bời

Đọc lời ai điếu một thời

Tan phiên chợ Giát hồn người về đâu?

 

61.

Nếu Trương Lương không thổi địch sông Ô

Liệu Hạng Võ có lên ngôi hoàng đế?

Nhưng buồn thay đã đánh mất Ngu Cơ

Đời còn gì, và thơ cũng thế.

 

62.

“Xưa tôi yêu quê hương vì có chim có bướm

Có những ngày trốn học bị đòn roi”

Nay tôi yêu quê hương vì có ô che nắng

Có ghế ngồi viết những điệu thơ vui.

 

63.

Nhen lên một bếp lửa

Mong soi gương mặt người

Bỗng cơn giông nổi dậy

Mây che một khung trời

 

Đất sau mưa hỡi đất

Màu mỡ trôi về đâu

Còn trơ chiếc guốc võng

Trăng mài mòn canh thâu.

 

64.

Một chút hương thơm trải bốn mùa

Mười năm lăn lóc chốn rừng già

Quay về khứng chịu cơn mưa móc

Đất trắng mưa rồi đất lại khô.

 

65.

Xưa thơ anh viết không người hiểu

“Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà”

Nay anh chưa viết người đã hiểu

Sắp sáng thì nghe có tiếng gà.

 

66.

Người đi, ừ nhỉ người đi thật

Đi thật nhưng người lại trở về

Nhẹ như hạt bụi, như hơi rượu

Mà đắm hồn người trong tái tê.

 

67.

Không có vua thì làm sao có tướng

Nên về hưu vẫn phải chết ở chiến trường

Kiếm sắc chém bao nhiêu đầu giặc

Để vàng tôi trong lửa chịu đau thương.

 

68.

Hồn đã vượt Côn đảo

Thân xác còn trong lao

Bởi nghe lời mẹ dăn

Nên suốt đời lao đao.

 

69.

Ta đi tới đỉnh cao muôn trượng

Mắt trông về tám hướng phía trời xa

Chân dép lốp bay vào vũ trụ

Khi trở về ta lại là ta

 

Từ ấy tim tôi ngừng tiếng hát

Trông về Việc Bắc tít mù mây

Nhà càng lộng gió thơ càng nhạt

Máu ở chiến trường hoa ở đây.

 

70.

Tay em cầm bông bần li

Bờ cây đỏ thắm làm chi não lòng

Chuyện tình kể trước rạng đông

Hoàng hôn ảo v