Ngày của mặt trời
Cuối cùng tôi cũng xin được chỗ dạy, ở
một trường cách nhà
mười lăm kilômét, cũng cách thị xã ngần ấy đường đất. "Thế nào, chấp
nhận
hả?" - dì Thương hỏi. "Cháu biết làm sao" - tôi nói.
An không ngạc nhiên khi tôi báo tin:
"Hiểu rồi, ở đời
ai chả một thời ảo vọng thế" - anh nói. Tôi dỗi, anh chỉ cười. "Em dự
định rằng sẽ đi làm một thời gian, khi nào đủ điều kiện, chúng ta gặp
nhau" - tôi nói, và thêm: " Có thể là sang năm, hoặc năm nữa...".
"Quân trí thức chúng mày chỉ được cái
sĩ diện hão"
- dì Thương nói thế, bởi vì tôi đã từ chối việc dì cậy nhờ xin cho tôi
làm ở
một văn phòng nước ngoài, nơi đó có thu nhập cao. "Cháu muốn" - tôi
nói. "Cho là thế, rồi đời sẽ dạy mày biết thế nào là đi thực tế theo
con
đường của mày", dì hăng hái. "Nhưng còn thằng An?". "Thì cứ
tạm thời xa nhau thế, bao giờ cả anh ấy và cháu cảm thấy có thể, chúng
cháu
sẽ...". Dì cắt lời tôi: "Lãng mạn một cách không phải". Biết nói
thêm, hai dì cháu sẽ cãi nhau, nhưng buồn vì cho rằng dì không chịu
hiểu.
Dì Thương là em út của mẹ tôi, sau cậu
Hưng. Mẹ tôi mặn mòi
thế, nhưng dì Thương sắc sảo hơn. Mắt dì đen láy, mũi thanh nhỏ, môi
đỏ, da
trắng hồng. Phải tội, trời phú cho dì gương mặt đẹp thì lại bớt xén của
dì thứ
khác. Sinh ra dì đã bị thọt chân, một chân nhỏ, ngắn hơn hẳn chân kia.
Từ đấy,
đôi chân thành mối hoạ của đời dì. Mẹ kể hồi nhỏ đi học, dì học giỏi
lắm, từng
đỗ đầu huyện về thi học sinh giỏi toán kia mà. Có điều bọn trẻ con ở
trường
không gọi dì là Thương, dù tên dì đẹp và dịu hiền, chúng gọi dì là con
thọt.
Chẳng có trò nào dì được chơi cùng, ngoài trò đánh chắt. Sự hãnh diện
vì thông
minh không bù được nỗi cay đắng vì dị tật. Nhiều bữa dì khóc sưng cả
mắt. Bà
thương dì, bảo: "Thôi thì ở nhà với mẹ vậy, chả cần học làm gì". Dì
cương quyết: "Đã tật lại dốt nữa, để người ta càng khinh à!". Từ đấy
dì cứ luôn là học sinh giỏi, học sinh tiên tiến. Tốt nghiệp cấp ba, thi
vào Đại
học Tổng hợp, nhưng dì vào trường rồi bị trả về, cũng vì cái chân. Suốt
một năm
dì thui thủi ở nhà, thêu móc những ví và túi xách bán cho các nàng con
gái
thích làm đỏm. Năm ấy cậu Hưng tôi cưới vợ làm nhà trên thị xã. Dì bảo:
"Anh cho em theo, em ở giữ nhà giữ cháu cũng được". Thế là dì rời
quê. Bà thở dài: "Số nó rồi khốn khổ". Mẹ bảo: "Dì ấy muốn thì
cứ chiều".
Lên phố với cậu Hưng, ngày cậu mợ đi
làm, nhà vắng, ngồi
thêu móc mãi cũng chán, dì lân la sang quầy tạp hoá bên cạnh chợ. Chẳng
dè sự
xuất hiện của dì làm người mua tăng hẳn lên. Bà chủ cửa hàng bên thuê
hẳn dì
đứng trông quầy tháng trả hai trăm tiền công. Dì nhận lời, từ đấy thành
người
bán hàng. Người qua phố cứ thấy dì thấp thoáng sau quầy hàng, mắt vời
vợi, nụ
cười như mê hoặc, không thể không dừng chân. Một đồn bảy, bảy đồn mười,
người
ta đến như bươm bướm chuồn chuồn, đàn ông con trai cũng như bươm bướm
chuồn
chuồn. Mẹ bảo: "Dì lấy chồng đi!". Dì cười: "Mười thằng đàn ông
thì chín thằng thích hai phần trên, không nhìn phần ba dưới...". Được
lâu,
dì thôi đứng bán thuê, nên cậu tôi cho mở hẳn một cửa hàng trước nhà.
Khách
hàng kéo sang cửa hàng dì, đến nỗi bà chủ cũ cũng cạnh khoé. Dì bảo:
"Thị
trường, ai khéo thì ăn, có ăn cắp của nhau đâu mà sợ...". Vốn liếng dì
phình phình ra mãi. Dì hăm lăm, rồi hăm tám... Mẹ buồn rầu: "Mong nó
kiếm
tấm chồng mà kiểu này cũng không xong!". Dì vẫn cười, mắt lúng liếng,
chung chiêng. Người mua hàng vẫn như bươm bướm chuồn chuồn...
Tôi vào đại học, dì đã có nhà riêng
hẳn hoi, không sang
trọng nhưng xinh xắn, ấm cúng. Bốn năm học, nào học phí, sách vở, áo
quần, trăm
thứ nhu cầu, kể cả ái tình phí, nhà tôi bố mẹ làm ruộng, con đông,
không đủ chu
cấp, nhờ dì Thương mà tôi không đến nỗi túng thiếu. Dì trẻ, cháu gái
lớn, thành
ra tôi gần gũi dì, nhiều khi thấy hơn cả với mẹ tôi. Thỉnh thoảng nghỉ
học, tôi
lại đi một trăm cây số ra thị xã, gục vào dì mà cười mà khóc, mà kể lể.
Dì bảo:
"Ừ, chỉ khi yêu con người mới lắm nỗi niềm". Khi tôi yêu An, dì cũng
không ngăn, chỉ nói: "Dám yêu thì dám chịu". Trái lại mẹ tôi cấm
ngặt, bởi An đi làm ở xa, cách nhau gần nghìn cây số, gia đình An lại
thuộc
thành phần buôn bán không trong sáng! Dì kể, dì cũng đang yêu. Tôi mừng
hú, bíu
lấy dì: "Chừng nào cưới, hả dì?". "Chả cưới!" - dì thủng
thỉnh. Tôi ngạc nhiên nhìn dì. Dì ngoài ba mươi rồi mà sao còn đẹp thế,
người
như dì suốt đời không được yêu thì bất công biết bao. Tôi là con gái
cũng còn
phải thua dì. Giá tôi giống dì hay mẹ được một chút, đằng này tôi giống
bố, mắt
nâu và xếch, da bồ quân... Không, người như dì không thể không được
yêu...
"Dì nói cháu nghe đi!" - tôi giục. Dì cười mông lung. "Ông ấy có
vợ con đề huề". Sao dì?..." - tôi cố nuốt cái gì nghèn nghẹn trong cổ
họng. "Là dì tự nguyện đấy, chẳng phải bị phỉnh phờ hay dỗ dành gì
đâu" - dì nói như sợ tôi sẽ nghĩ điều không tốt đẹp về người đàn ông
của
dì. Tôi gay gắt: "Ông ta yêu dì nhưng không dám bỏ vợ chứ gì? Thế thì
hèn... ". Dì cúi đầu, một lúc mới cất tiếng: "Có thể. Có thể sự hèn
ấy cũng khiến ta yêu. Đôi khi lòng yêu và lòng thương nó là một, đôi
khi không
phải, nhưng người ta hay nhầm. Chẳng cần biết, chỉ biết lòng được an ủi
là
đủ". Tôi khóc, vừa thương vừa giận dì. Làm sao có lúc dì tỏ ra thực tế,
bây giờ lại cả tin thế?
Thứ bảy ấy tan trường tôi vội vã đạp xe vào thị xã. Tôi vừa
nhận thư An, anh bảo tôi vào ngay, vì có thể chuyện của chúng tôi cũng
phải có
một kết cục nào đó. Tôi đâm khó nghĩ, liệu có nên ra đi không, hoặc cứ
thế, chờ
một cái gì đó sẽ đến trong đời mình... Đang mùa mưa, vậy mà có một ngày
tạnh
ráo, trời xanh dịu, hứa hẹn một đêm đẹp trời. Đến thị xã vừa lúc tối.
Đi giữa
phố, dưới đèn điện lấp loá, giữa dòng người tấp nập đi phố, nhiều nhất
là trai
gái, những cặp trai gái đèo nhau bằng xe đạp, xe máy, mắt ngời ngợi,
bất chợt
thấy rủi cho cái cuộc sống buồn tẻ trầm lặng của mình. Chẳng lẽ điều dì
Thương
nói là có lý? Cả An cũng thế?
Ngày ra trường lẽ ra
phải đi vào Nam cùng với An, hoặc làm ở
thị xã theo như gợi ý của dì, nhưng tôi đã từ chối tất cả, xách vali về
một
trường lẻ, với ảo tưởng của kẻ đi khai phóng văn minh. Từ bấy giờ đã
gần năm.
Trái với những dự định, thời gian cốt chỉ làm tôi mỏi mòn đi, không
hơn. Liệu
có thể thay đổi được gì không? Đau đớn vì khao khát, đồng thời tự tôi
cũng biết
tôi có một đau đớn khác, đau vì sợ đổi thay...
"Bao giờ
chán về đây, thích thì tao giao cho cái quầy,
không thích tao kiếm cho chỗ làm khác" - tôi nhớ dì Thương có lần nói
thế.
Bây giờ, chẳng lẽ tôi phải nhờ vào dì? Nhà đóng cửa. Tôi dùng chìa khoá
riêng
vào nhà, đọc mảnh giấy chặn sẵn trên bàn: "Thức ăn trong tủ lạnh. Tiền
trong tủ áo, nếu muốn thì lấy đi chơi. Dì về muộn". Tôi ăn cơm, chán
nản
mở tivi ngồi xem, xem chán lại giở thư An đọc. Anh viết: "Anh tự hỏi,
không biết có phải chúng ta đã thật yêu nhau chưa, khi chúng ta cứ viện
vào
những cớ khách quan, và cứ trông chờ, chẳng dám, chẳng phá vỡ một cái
gì để
được ở gần nhau? Cả anh cũng hèn thế...".
Mười một
giờ, nghe tiếng động ngoài cửa, tôi hé rèm, nhìn
ra. Dì đang đứng trên hiên, cạnh một người đàn ông cao, tì người trên
chiếc
nạng gỗ. Tôi nghe dì thì thầm: "Mai anh lại đến chứ? Thôi hay để ngày
kia
vậy? Mà em sẽ đón anh, chỗ ngã tư ấy...". Họ đứng bên nhau, lặng im,
trong
ánh trăng đan dệt huyền diệu như một ảo ảnh. Dì mặc bộ áo lụa hồng, tóc
thả
dài, rực rỡ mê hoặc. "Em nhìn thấy trăng không?" - lâu sau người đàn
ông lên tiếng. "Có" - dì Thương trả lời, và nép sát vào bạn tình.
"Hôn em đi!" - dì bảo. Người đàn ông cẩn thận áp chặt chiếc nạng gỗ
vào nách, cúi xuống, và dì, cố thật thẳng người, chờ đợi. Cái hôn kéo
dài, bất
tận, tôi tưởng tất cả đều ngưng đọng trong đó, cả hạnh phúc nỗi đau, cả
thời
gian... Khuya lắm, mới nghe tiếng lộc cộc, lộc cộc khua xa dần trên phố.
Trần Thanh Hà