Cái ác đến từ đằng xa
Pháp trường là một bãi đất khá rộng
nằm sát chân lèn Đô
lương, ranh giới Đô lương và xã Bạch Ngọc. Cách ngã ba Rạng Đông khoảng
200 m.
Đây là ngã ba định mệnh cho các tù
nhân: trong vòng bán kính
20 Km, theo hướng Đô lương qua Thanh chương là trại tù Yên sơn, ngược
về phía
Bạch Ngọc là trại tù Kim Nhan, và về hướng pháp trường, đường lên Phủ
Qùy là
trại tù Bến Hới.
Đó là 3 trại tù lớn nhất của tỉnh Nghệ
an.
Bến Hới, nơi rừng thiêng nước độc, tù
chết như rạ. Khổ quá,
tù hay tìm cách vượt ngục. Vì vậy, sau 1949, trại tù bị bỏ, đa số tù
được đưa
về Yên Sơn và một số nhỏ về Kim Nhan. Cả hai trại tù này đều nằm bên
núi đá vôi
nên thường được gọi là lèn Yên Sơn, Kim Nhan.
Đứng ở pháp trường, có thể thấy lèn
Kim Nhan, cao xanh ,
nhọn hoắt, mà bọn nhỏ chúng tôi nhìn từ xa, thường có cái cảm giác bí
ẩn , rờn
rợn của ngọn núi Văn Dú trong Vàng và máu của Thế Lữ. Thực tế, Kim Nhan
là trại
tù ít khắc nghiệt nhất.
Tử tội, 3 người: Bửu Viêm, Minh Châu
(về sau có người đồng
chí cho biết tên ông là Thanh Châu) và Kim Anh.
Bửu Viêm là luật gia, Minh Châu và Kim
Anh là hai võ sĩ nổi
tiếng Đông Dương. Tất cả đều là Quốc Dân Đảng, bị giam ở Bến Hới. Nhân
một tối
mù sương, cả ba thừa cơ hội, cướp súng cảnh vệ, trốn trại. Nhiều tù
khác cũng
thừa dịp trốn theo.
Vượt ngục, bị bắt lại và bị tuyên án
tử hình tại đình Đô
Lương.
Một ngày trước, loa làng kêu gọi đồng
bào, nam phụ lão ấu,
đi xem cho đông đảo.
Đối với bọn nhỏ, vụ này cũng có vẻ đặc
biệt như mấy trò chơi
bài chòi hay leo cột mỡ trong dịp Tết. Theo thông báo, xử tử vào xế
chiều để
tránh máy bay Pháp. Thế mà chưa đầy ba giờ, Chút Em với bọn con Điu đã
nằng nặc
xin tôi dẫn đi. Chỉ cần qua hói Hai Quai đầu làng, đi thêm 6,7 trăm
thước là
vào lèn. Nơi đây không lạ gì với bọn nhỏ, đã nhiều lần rủ nhau vào xem
người ta
nung vôi, và nhất là xem bầy dơi đen thui, to tổ bố đong đưa trong lèn.
Quá sớm. Chỉ có đâu chục người đứng
ngồi tránh nắng dưới tàn
cây. Trước lèn, ba cọc gỗ đứng chơ vơ cách nhau khoảng 5 thước. Phía
trái, một
manh chiếu nhỏ. Phiá sau, sát chân lèn, lấp ló ít đất mới qua mấy bụi
gai.
Không có gì đặc biệt . Chúng tôi lân
la đến bên mấy anh cảnh
vệ nghe chuyện.
-Mãy ông đang ở quán nước làng bên
cạnh. Ông nào cũng vui vì
tưởng được đổi trại về Kim Nhan, có ông mua theo cả xâu bánh ú.
Một người làm ra vẻ hiểu biết:
-Chút nữa bắn xong, người ta chỉ lấp
tạm. Tối đến, họ sẽ đào
lên, đổi quan tài lẫn nhau để giữ bí mật.
Bỗng có tiếng thảng thốt: Coi kià!
Từ ngả ba, lù lù đi vào ba xe ba gác,
chở ba chiếc hòm. Cả
đám im lặng. Cái chết bắt đầu lởn vởn đâu đây. Chút Em, thằng liến
thoáng nhất
đám, bây giờ mới thấy sợ.
Con Điu đòi về. Tôi cũng nổi da gà.
Năm giờ, trời hơi dịu nắng. Dân làng
Tập phúc, Nhân bồi và
phía trên là Đô lương, Cát ngạn đến đã khá đông. Ba tử tội được dẫn
vào, áo
quần bà ba nâu. Người cao nhất là võ sĩ Minh Châu, người thấp nhất là
Bửu Viêm.
Tất cả đều cao lớn hơn dân làng.
Họ ngồi vào chiếu, bữa cơm cuối cùng
được dọn ra, có cả rượu
nếp.
Chúng tôi đứng khá gần. Tôi vẫn áy náy
trong lòng: tâm trạng
họ thế nào, khi chợt thấy cái chết đến đột ngột thay cho niềm vui đổi
trại!
Hình như không có gì khác lạ cả. Họ
vẫn nói chuyện với nhau,
ăn uống bình thường và có cả nụ cười. Nụ cười của Bửu Viêm, mặt ửng
hồng với
cốc rượu nếp.
Họ đến cọc tử tội cũng với bước đi rất
bình tĩnh. Bửu Viêm ở
cột giữa, nhìn thẳng vào công tố viên đang đọc bản bác đơn ân xá cuả
chủ tịch
Hồ chí Minh. Đôi mắt sáng, sáng lắm.
Phía sau là 3 tốp cảnh vệ dàn hàng
ngang, mỗi tốp 5 người
với súng mousqueton. Bản đọc rất ngắn và sau đó các tử tội được bịt mắt.
Pháp trường không một tiếng động.
Tiếng hô của Bửu Viêm sang sảng:
- Việt nam độc lập muôn năm
- Quốc dân đảng muôn năm!
- Hồ chí Minh muôn năm!
Tiếng lặp lại của hai võ sĩ, mỗi câu
hai lần vang dội cả
pháp trường.
Loạt súng đầu tiên, tiếng hô im bặt,
người các tử tội hơi
run lên nhưng vẫn giữ thẳng người.
Chút Em, mặt xanh lè. Một tay bụm cu,
một tay bíu xiết tay
tôi. Chỉ nghe tiếng lên quy lát.
Loạt súng thứ hai, có viên đạn cày
trên đất trúng bàn chân
Minh Châu, đầu gối của ông co lên. Và phía Bửu Viêm, đạn trúng lưng
quần, quần
hơi bị trễ xuống.
Các tử tội hơi gập người xuống, đầu
gục về tim.
Có tiếng xôn xao, một số người dời chổ
đến gần tử tội.
Chúng tôi ra về, không dám ngó lại.
Sau lưng có tiếng súng lục. Những phát
đạn ân huệ nghe như
tiếng đập vào mo cau.
Điu, con mắt đỏ hoe và Chút Em không
hé răng một lần.
Sợ. Vâng. Đây không phải là trò chơi
của trẻ nhỏ. Điu và
Chút Em chưa quá tám tuổi.
*****
Ba năm
sau, vào cuối
52, tôi gặp bà Bửu Viêm tại nhà cậu mợ tôi.
Kể lại chuyện này.
Cậu tôi thắc mắc: Con có lầm không? Có
ai lại hoan hô người
đã ra lệnh giết mình!
Vâng, có lẽ tôi lầm, vì những người
lớn sau này cho biết
tiếng hô cuối cùng là Nguyễn thái Học muôn năm... muôn năm... muôn
năm... Nhưng
sao hồi đó, trong cái kinh khiếp đó, đầu tôi vẫn bập bùng tiếng hô Hồ
chí Minh
muôn năm!?
Bây giờ đã hơn 50 năm qua, tôi còn nhớ
rõ đôi mắt sáng đó,
nụ cười đó, tiếng súng mousqueton xé tai và cả khuôn mặt người quả phụ
đẹp quý
phái đó.
*****
Hà nội - Tháng bảy 2001 Tôi gặp lại
Chút Em và Điu, một lão
ông tóc bạc rễ tre, răng cửa thiếu hai cái và một lão bà xí xọn, giọng
Hà ni
còn hơn cả Hà ni.
- Bọn em mừng lắm.
- Tôi cũng vậy, nhưng các cậu nói
giọng Nghệ đi, tôi không
quen giọng Hà nội. Và tôi như kẻ đi xa trở về nhà.
- Các cậu có nhớ hôm xử tử ở lèn Đô
lương không?
- Ghê quá, quên sao được anh. - Có
nghe họ hô: Hồ Chí Minh
muôn năm không?
- Có anh - Chút Em nhanh nhẩu trả lời.
- Em thì chả nghe chả thấy gì cả, sợ
quá, mắt cứ nhắm tít,
đái ra cả quần.
Tôi gợi lại thắc mắc của ông Cậu. Chút
Em đăm chiêu.
- Kỳ thật, ở tuổi đó, em đâu có phân
biệt được gì. Cũng
không có gì lạ đâu anh. Anh có nhớ ông Bá làng ta không?
Nhớ chứ. Không những nhớ ông Bá mà nhớ
cả anh Học.
Ông Bá giàu nhất làng, nhà có sân
gạch, năm sáu mẫu ruộng,
vườn rộng, có đủ thứ: nhãn, xoài, cam, quềt. Mùa nhãn, bọn tôi hay hái
trộm. Có
lần bị bắt gặp, ông Bá lấy sào thọc. Chút Em nhỏ nhất, không leo được
cao, ở
cành thấp nhất, bị thọc trúng, rớt xuống như quả mít, tắt thở đến mấy
giây đồng
hồ.
Ra khỏi vườn, một tay bụm cu, một tay
xoa cổ.
- Điu, sờ coi. Điu nắn nắn cái cổ:
Sưng rồi.
Chút Em hốt hoảng:
- Chết tau rồi, tọt lên cổ rồi.
Rồi khóc bù lu bù loa, làm con Điu sợ
xanh mặt.
Mới thở lại được, cổ tất nhiên phình
lên.
Dái con nít, khi có khi không. Sợ thì
tọt đi đâu mất, huống
hồ bị té như trời giáng.
- Sao?
- Hồi cải cách ruộng đất, Đội nâng ông
lên thành địa chủ.
Cho đủ chỉ tiêu. Khi bắn, ông cũng hô Hồ chí Minh muôn năm. Và em cũng
chứng kiến
nhiều người hô như vậy.
- Phản ứng tự nhiên anh ạ, ngày nào
cũng hoan hô, riết rồi
thành thói quen, y như cái đùi của võ sĩ Minh Châu co lên ở loạt đạn
thứ hai!
Cũng có thể vì thương con cháu, kêu tên Thần Linh, để mong rằng con
cháu khỏi
bị hệ lụy 3 đời. Và cũng có thể, những ngày kháng chiến, dân chúng vẫn
xem Bác
là linh hồn của dân tộc. Như một thứ hào quang.
Và nó cười.
- Bây giờ ít ai để ý hào quang đó, một
phần lo làm ăn, một
phần vì đã thấy nhiều nỗi oan khiên sau cái hào quang đó. Chỉ có mấy
chú xích
lô, mấy chú công an và mấy cụ (Bộ Chính Trị) còn lo lắng và quan tâm
đến Bác
thôi.
Mấy chú xích lô: xích lô, Bố.
Không dám gọi khách bằng Bác vì đã có
trường hợp, một chú
láo lếu đón khách ở gần lăng Bác, khách từ chối, nó chưởi thề sau lưng:
Đ.M. Bác. Phạm thượng. Bị công an lôi về
bót.
Tối đến, trong quán càfé, Chút Em nói
nhỏ vào tai tôi.
- Đây cũng là cái oan khiên đây anh.
Nhà của cụ Vũ Đình
Huỳnh. Cụ bị tù đày ngút ngàn trong vụ án Xét Lại. Cụ là người thân cận
của
Bác. Nhóm Duẩn-Thọ bắt cụ. Nhiều người nghĩ rằng: Nếu Bác biết hay nếu
Bác còn
sống thì mọi sự sẽ không đến nỗi.
Không phải vậy. Bác biết và Bác im
lặng. Chính cái oan khiên
nó nằm ở đó.
Anh có đọc cuốn "Lưu thiếu Kỳ & Ân
oán Trung Nam
Hải"? Đọc đi, anh sẽ hiểu vì sao!
Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu Kỳ đồng
hương, cùng tỉnh Hồ Nam,
cùng học trường Sư phạm số 1 Trường Sa, ra trường cùng năm, và cùng
tham dự
thành lập ĐCS Trung quốc năm 1921. Những năm 20, vị trí của Lưu trong
ĐCS cao
hơn Mao. Mao lo về nông vận, Lưu chỉ huy phong trào công nhân, học sinh
toàn
quốc.
Sau cuộc vạn lý trường chinh, Mao trở
thành nhân vật số 1 và
Lưu luôn luôn là nhân vật số 2 của ĐCS. Cuối năm 1943, Lưu đề xuất
thuật ngữ Tư
tưởng Mao Trạch Đông. Từ đây, Mao bước lên địa vị lãnh tụ tối cao không
chỉ
trong Đảng, trong quân đi mà cả trên lĩnh vực lý luận. Và năm 1945, đại
hội 7
của ĐCS Trung quốc ghi vào điều lệ Đảng: Lấy tư tưởng MTĐ làm tư tưởng
chỉ đạo
trong toàn Đảng. Năm 1949, thành lập nền Cộng hoà Nhân dân ở Trung
quốc, Mao
thực sự đã là một vị hoàng đế mới, nắm giữ tất cả mọi quyền hành.
Từ 1955, Mao phát động phong trào cải
tạo xã hội chủ nghĩa.
Khởi đầu cho bước đại nhảy vọt: nào là cải cách ruộng đất, nào là trăm
hoa đua
nở... để tiêu diệt kinh tế cá thể và thanh trừng hữu khuynh hay những
kẻ bất
đồng chính kiến.
Một sớm một chiều, tất cả đất đai đều
bị truất hữu, xí
nghiệp, cửa hàng đều thành công doanh, chủ nhân biến thành công nhân.
Tất cả
đều tập thể hoá. Đẻ thì có xưởng đẻ, con sinh ra thì có trại nuôi, ăn
thì có
nhà ăn chung, sản suất thì có chỉ tiêu: hai vạn cân mỗi mẫu ruộng,
khoai tây
một triệu cân, heo một ngàn cân mỗi đầu người và 700 triệu tấn gang
thép cho
700 triệu dân.
Và tiêu diệt hữu khuynh cũng có chỉ
tiêu: Khởi đầu tìm được
4500 phản động. Không đủ, tăng thêm 10.000, lần này Đặng Tiểu Bình vô
rọ. Vẫn
không đủ, tăng thêm 60.000, và lần này nhân dân loại thêm được anh
chàng Chu
dung Cơ.
Một năm đại nhảy vọt, ba năm đói kém.
Hơn hai mươi triệu dân
chết vì đói và vì bị thanh trừng. Nhiều làng chết không còn một mống!
Lưu thấy rõ hiểm họa này ngay từ đầu,
nhưng không dám phản
bác, chỉ cố kìm lại khí thế hăng say ban đầu của phong trào, và khôn
khéo dựa
theo chủ trương tập thể chỉ huy của Mao để rút tư tưởng MTĐ ra khỏi
điều lệ của
Đảng. Đó là tội thứ nhất của Lưu!
Uy thế của Mao bị giảm sút. Mao bị phê
bình, tạm rút lui vào
hậu trường, nhường chức Chủ tịch nước cho Lưu (1959) và để Lưu lo việc
cứu vãn
Kinh tế.
Kinh tế dần dần được vãn hồi. Dân
chúng biết ơn, nhiều người
khóc và hô lớn: Lưu chủ tịch muôn năm, bất kể sự có mặt của Mao. Đó là
tội thứ
hai của Lưu!
Mao nhiều vợ, con cái người mất, người
điên. Giang Thanh là
vợ sau cùng. Gia đình không mấy hạnh phúc, Giang Thanh bản tính chua
ngoa, Mao
cấm cửa it khi cho gặp. Mao chỉ thích gái trẻ.
Lưu 5 vợ, Vương Quang Mỹ là vợ sau
cùng, từng du học ở Mỹ,
vừa là vợ hiền, đã xây dựng được một gia đình hạnh phúc và gương mẫu
trong Trung
Nam Hải, vừa là cộng tác viên đắc lực của Lưu, thường có mặt bên Lưu
trong các
buổi tiếp tân hay công du nước ngoài. Lưu rất thương quý người vợ này.
Còn Giang Thanh, người bị lãnh cung
nơi Tĩnh viên, vô cùng
ngứa mắt khi nhìn thấy vợ chồng Lưu bên nhau, ganh ghét vì những cuộc
tiếp đón
long trọng hai vợ chồng ở nước ngoài. Thề sẽ có dịp trả thù.
Đó là tội thứ ba của của gia đình Lưu.
Mao ngậm đắng, chờ dịp trả thù. Và bây
giờ có thêm Giang
Thanh. 1968, với sự đồng ý của Mao, nhóm Giang Thanh khởi động phong
trào Cách
mạng Văn hoá.
Tại đấu trường Đại học Thanh Hoa, bọn
Hồng vệ binh đấu tố,
lột quần áo Vương quang Mỹ, buộc bà mặc áo trường bào xẻ đùi, đi giày
cao gót,
mang tất nylon cao tới bẹn, đứng thế đi máy bay phản lực. Chúng buộc
tội bà
gián điệp, đặc vụ nằm vùng của CIA, theo tư bản chủ nghĩa. Chứng cớ là
bà có du
học ở Mỹ, và có vài đồ trang sức nhỏ mua ở ngoại quốc nhân dịp công du.
Bà
không nhận tội. Chúng dùng sách đỏ Lời Mao chủ tịch vả vào mồm đến toé
máu. Bà
phải kêu thét lên:
- Mao chủ tịch, Mao trạch Đông, Mao
Nhuận Chi..., chúng nó
võ đấu (hành hung), chúng nó đánh người.
Và ở một đấu trường khác, Lưu Thiếu Kỳ
bị ấn đầu cúi xuống,
cứ đứng như vậy hàng giờ, nghe lăng nhục mà không được đối đáp một lời.
Chúng
ngụy tạo lịch sử, một sự cố 40 năm về trước, để kết tội phản tặc, nội
gian và
công tặc.
Củng bị đánh vỡ miệng bởi cuốn sách đỏ
Lời Mao Chủ tịch.
Trong nhà giam, Lưu bị cắt gân chân,
phải bò lê như chó,
liếm vài bãi cháo đổ, hay gặm miếng bánh bao khô. Lưu bị đày đọa như
vậy cho
đến ngày chết (1969).
Mao vẫn nhai trà, làm thơ và giữ im
lặng. Bọn cận thần đã
làm đúng ý nguyện của Mao.
Mười năm sau, ra tù (1978), Vương
quang Mỹ đi tìm xác chồng.
Một hũ tro để quên đâu đó, mang tên Lưu Vệ Hoàng - dân lang thang vô
nghề
nghiệp!
Hai năm sau (1980), Trung ương ĐCS
thông qua nghị quyết phục
hồi danh dự cho Lưu. Kể tội Lâm Bưu và nhóm Giang Thanh. Không một lời
nói về
Mao. Người ta cố quên đi câu nói của Giang Thanh trước toà:
Tôi chỉ là con chó của Mao, Mao chỉ
đâu tôi cắn đó. Và người
ta cũng cố quên đi, hơn 300 đại công thần đã cùng Mao dựng nước Trung
hoa mới,
cũng bị đấu tố nhục nhã như Lưu. Tội ư? Họ không phản bội Mao, mà chỉ
vì một
vài lời phê bình hay một vài ý kiến bất đồng!
Lễ truy điệu Lưu được long trọng tổ
chức tại đại lễ đường
Nhân dân Bắc Kinh, được Hoa Quốc Phong và Đặng Tiểu Bình nhắc lại công
lao to
lớn của Lưu, xác nhận đây là một vụ án oan lớn nhất trong lịch sử.
Và... dưới bức chân dung vĩ đại của
Mao trong đại sảnh
đường!
Mao là cha già dân tộc. Mao càng vĩ
đại hơn. Mao chủ tịch
muôn năm!!!
Trong giấc ngủ chập chờn trên chiếc
Air France trở lại
Paris, tôi vẫn bàng hoàng với tiếng kêu thảng thốt của Vương quang Mỹ:
Mao chủ tịch, Mao trạch Đông, Mao
Nhuận Chi..., chúng nó võ
đấu, chúng nó đánh người.
Lẫn với tiếng đạn nổ bên lèn Đô lương!
Nhớ đến anh Học, người mà bọn trẻ vừa
quý mến, vừa sợ.
Chỉ vài hôm sau vụ xử bắn. Chút Em
thằng nhát nhất trong
đám, bắt đâu được con ếch khá bự, nó dùng gai bưởi găm chân tay vào
thân chuối
rồi rủ bọn nhỏ phóng tên.
Anh Học đi qua.
- Bọn bây chơi trò gì vậy?
- Tui xử tử Việt gian.
Chút Em vênh váo trả lời.
Nhìn con ếch sống dở chết dở, một đùi
ếch bị sổ gai, run run
co lên co xuống. Anh lôi đầu Chút Em lại, cốc một cái nên thân.
- Bọn bây học cái ác ở đâu vậy?
Cái đầu trọc lóc không dám khóc.
Đợi anh Học đi khỏi, nó xoa đầu.
- Lủng sọ tau rồi. Điu sờ coi.
Điu dãy nảy.
- Không. Cho đáng kiếp.
Lần này Điu khôn rồi. Không dại gì
đụng đến thằng thích ăn
vạ.
Cái ác không có trong làng.
Vâng, cái ác đến tự đàng xa.
Và khuôn mặt đăm chiêu của Chút Em.
Bây giờ nghĩ lại, em thấy họ (nhóm Bửu
Viêm) không thể hô
như vậy. Họ bất khuất quá mà. Bình tĩnh trước cái chết vì biết không
chết cách
này cũng chết cách khác. Khái Hưng đâu có vượt ngục, mà vẫn bị cột đá
thả sông!
Những thứ như Rèn cán chỉnh quân, Cải
cách ruộng đất, thuế
nông nghiệp, đánh Tư sản mại bản, Trăm hoa đua nở, Bọn xét lại, Tư
tưởng Hồ chí
Minh, Ban tôn giáo chính phủ , Tận diệt đối lập..., đều không phải “của
mình”.
Họ dịch từ chữ Tàu rồi đưa oan khiên về nước về làng.
Cái khủng khiếp mà em thấy là người
Việt mình, hình như có
giòng máu nô lệ anh ạ.
Ừ, thằng thỏ đế này, về già cũng có
chút gan cóc tía của cụ
Nguyễn Văn Trấn.
Có lần anh chị em Nam B đại biểu, tôi
(Nguyễn văn Trấn) đến
gặp ông già Tôn (Tôn đức Thắng, Chủ tịch nước) mà hỏi: tại sao ông để
cho cải
cách ruộng đất giết người như vậy?
Bác Tôn đang ngồi, nghe tôi hỏi, liền
đứng dậy bước ra khỏi
ghế, vừa đi vừa nói:
- Đụ mẹ, tao cũng sợ nó, biểu tao còn
dám nói cái gì ?
Nó, là mấy ngài cố vấn Chệt. Nó bảo
Phóng Tay thì mình cứ
Phóng Tay giết thả cửa!
Chóp bu thì vậy, còn dân chúng thì
sao? Cơm độn quanh năm,
nhiều khi chỉ húp cháo, vẫn phải luôn luôn cúi đầu: Cảm ơn Đảng, Cảm ơn
Bác.
Cái ngu đần làm con người hèn nhát,
cái hèn nhát làm con
người trở nên tàn ác.
Không khỏi giật mình, nhớ trong Đại
Việt sử kể:
Sáu trăm năm trước, Hồ Quí Ly cướp
ngôi nhà Trần, đặt tên
nước là Đại Ngu.
Bây giờ là thời đại hậu Hồ.
Một giấc ngủ triền miên.
Paris 10/2001
[Trích Đàn Chim Việt trên lưới. Không
thấy ghi tên tác giả.]