Một Lần Tới
Thủ Đô
Chẳng
thơm cũng thể hoa nhài...
Đầu
tháng năm năm ngoái, tôi có dịp theo đoàn nghệ thuật Q. (nơi tôi đang
công
tác) ra Hà Nội để tham gia hội diễn toàn quân.
Đoàn tôi xuống sân bay Nội Bài vào buổi cuối chiều. Hà Nội đã vào hạ,
nhưng
chưa nóng gay gắt như Sài Gòn, thời tiết dịu dàng, vô cùng dễ chịu.
Trên con
đường cao tốc rất đẹp và hiện đại nối sân bay với nội đô, không nhiều
lắm xe cộ
nối nhau lao vun vút, thỉnh thoảng có những bác nông dân tỉnh bơ dắt
trâu đủng
đỉnh băng qua đường. Hai bên đường, những thửa ruộng lúa chín vàng trải
dài vút
tầm mắt, cách quãng lại có những tấm biển khổng lồ, quảng cáo điện
thoại di
động hay băng vệ sinh, biểu hiện của một thành phố thời hiện đại.
Về tới nội thành, trời đã tối hẳn, đoàn chúng tôi nghỉ tại một nhà
khách quân
đội ở đường Tầu
Bay.
Tối hôm đó tôi cứ trằn trọc, chỉ
mong tới sáng để đi thăm thú thủ đô. Tất cả những vẻ nên thơ, những địa
danh nổi
tiếng, những món ăn bất hủ của Hà Nội, thực ra tôi đều đã biết, nhưng
là biết
qua tưởng tượng, qua những tập bút kí, những đoạn tản văn hoặc những ca
từ của
các ca khúc viết về Hà Nội. Ôi những cây bàng lá đỏ, ôi Hồ Gươm, Tháp
Rùa, ôi
Hồ Tây lộng gió, ôi hoa sữa đường Nguyễn Du bên hồ Thiền Quang thơ
mộng... Ôi...
Ôi... Ôi... Chưa kể các món ăn. Người Hà Nội sành ẩm thực lắm, nào phở,
nào bún
ốc, nào chả cá Lã Vọng..., nghĩ tới tôi cứ ứa hết nước dãi.
Sáng hôm sau, hai người bạn và tôi tranh thủ đoàn chưa có kế hoạch tập
luyện
bèn rủ nhau đi chơi ngay. Ra khỏi nhà khách một quãng, thấy mấy thanh
niên ngồi
túm tụm, mỗi người trên một chiếc xe máy, đồ chừng họ là xe ôm, nhưng
không dám
chắc lắm, bởi xe họ mới và là loại khá xịn. Chúng tôi tiến lại gần, còn
đang
phân vân thì một người trong bọn họ nhìn chúng tôi quát to: "Thích soi
à?" Chúng tôi chưa kịp hiểu gì thì một người khác lại quát: "Cụp mẹ
mày pha xuống!" rồi một người khác: "Bố mút mẹ mày pha ra bây
giờ!" Chúng tôi hoàn toàn không hiểu gì cả, nhưng thấy họ có vẻ hung dữ
nên chúng tôi vội lảng ra xa. May quá có một chiếc tắc xi đi ngang,
chúng tôi
leo lên tắc xi và đi vào khu trung tâm. Ngồi trên xe, tôi đem câu
chuyện trên
kể với anh lái tắc-xi và được anh cho biết "soi" tức là nhìn, "pha"
là mắt. Đại ý là mấy thanh niên vừa rồi bảo chúng tôi không được nhìn
và phải
cụp mắt xuống.
Hồ Gươm quả thật danh bất hư truyền, đẹp đến nao lòng. Tháp Rùa nổi lên
giữa hồ
trên một cù lao cỏ nhỏ xinh xinh. Xung quanh hồ là những cây liễu thướt
tha soi
bóng, hoàn toàn đúng với những gì các nhà văn đã từng viết. Thật là một
vẻ đẹp
vô cùng lãng mạn. Tháp Bút đúng là hai cây bút, chọc thẳng lên trời,
biểu hiện
cho tri thức kẻ sĩ Bắc Hà. Tuy xung quanh hồ có một vài toà nhà mang
kiến trúc
vô cùng dị hợm, nhưng cũng không làm xấu được Hồ Gươm bao nhiêu. Có một
điều
khá đặc biệt, cách Tháp Bút chừng hai trăm mét, ngay trên lối đi dạo
quanh hồ
là một công trình mang kiến trúc của một cái lô cốt thời Tây. Rất nhiều
người
ra vào đó, người nào khi vào mặt cũng khó đăm đăm, nặng trình trịch,
khi ra thì
rất tươi, cứ như họ vào đó để chích đo-pinh. Về sau mới biết, đó là cái
toa-lét
công cộng. Giời ạ! Khác nào một hột mụn cơm, một nốt vá chó giữa má
nàng hoa
hậu.
Chúng tôi rủ nhau ăn sáng, thực đơn sẽ quyết định là phở. Tôi ra sức ca
tụng
với hai người bạn (đều là dân Miền Tây) rằng phở là món ăn quốc tuý của
Việt
Nam, nhưng phở với đầy đủ phẩm chất của nó phải là phở Hà Nội. Chúng
tôi vào
một quán phở nằm trên một con đường tôi không nhớ tên nhưng cũng thuộc
khu
trung tâm. Quán vắng tanh, nhưng ngay cạnh đó là một quán phở khác,
đông nghẹt.
Khách ăn vào chen nhau mua ra, trên tay mỗi người lăm lăm tô phở. Hết
bàn ghế,
họ ngồi xổm ngay trên vỉa hè húp xì xoạp, vừa ăn vừa sỉ mũi xoèt xoẹt.
Chúng
tôi chọn quán này vì nó vắng, có bàn ghế mà ngồi. Ông chủ quán bưng ra
ba tô
tái chín, bốc hơi nghi ngút, ngửi mùi tôi đã rạo rực. Một anh bạn tôi,
theo
thói quen, nói rất dõng dạc: "Cho xin chén giá chụng đi". Ông chủ
quán quay lại nhìn chúng tôi như nhìn người ngoài hành tinh, rồi bảo:
"Giá
chụng hả? Vào Sài Ghềnh mà ăn", ông ta nói với cách nhái giọng Miền Nam,
thái độ
chẳng thân thiện gì. Tôi hết hồn, cấu mạnh vào đùi anh bạn, rồi nói nhỏ
vào tai
hắn:
"Ăn đi, đòi hỏi vớ vẩn, người Hà Nội họ nền nếp lắm, lần sau nói năng
phải
thưa gửi đàng hoàng."
Suốt buổi sáng và cho tới chiều hôm đó, chúng tôi bát phố Hà Nội, toàn
đi bộ,
rạc hết cặp giò. Đường phố Hà Nội cũng như Sài Gòn, nghĩa là rất nhiều
xe máy,
kẹt xe liên tục. Trước đây, tôi nghĩ Sài Gòn chắc nhiều xe máy và sự
chấp hành
luật giao thông của người dân chắc kém nhất Việt Nam.
Nay tôi thấy tôi nhầm, lượng
xe thì hai thành phố như nhau, nhưng người Hà Nội chạy xe láo kinh
khủng, không
có luật lệ gì hết nếu không có mặt cảnh sát. Về phương diện này dân Hà
Nội là
bậc thầy. Ngoại trừ khu vực được gọi là phố cổ, người dân xây nhà với
những lối
kiến trúc kinh dị, không ai giống ai, cái thì giống điện Kremli, cái
thì như
lâu đài Ba Tư, lộn xộn đứng gằm ghè bên nhau. Về mặt này, Hà Nội cũng
ăn đứt
Sài Gòn. Có lẽ do đặc tính người Hà Nội là nghệ sĩ nên họ luôn thích
sáng tạo.
Chúng tôi ghé vào một tiệm băng đĩa, (nghe nói người Hà Nội cũng sành
âm nhạc,
hơn nữa có rất nhiều những CD "độc", hàng Trung Quốc mà những tiệm
Sài Gòn không bao giờ có, bởi không nhập hàng này, người Sài Gòn không
thích
nhạc cổ điển) quả thật, tôi đã không thất vọng. Chúng tôi chọn được mấy
CD của
Mozart, Tchaikovsky... do dàn nhạc hoàng gia Anh trình bày đàng hoàng.
Chợt
nhìn thấy trên kệ có để một CD của một cô bạn ca sĩ, tôi hỏi thử: "CD
ca
sĩ TT bán có được không anh?" Anh chủ tiệm bĩu môi: "Con dở
hơi, có mà bán cho chó."
Ở tiệm đĩa ra, tôi muốn về lắm rồi. Quả thật tôi không còn tin vào
những áng
văn thơ trác tuyệt viết về Hà Nội mà tôi đã đọc. Nào là bàng lá đỏ...
Có đâu,
đường phố trụi thùi lụi, có mà bàng bê tông thì có. Nào là quán cóc
liêu
xiêu... Có đâu, toàn quán nhậu tạp nham. Nào Hồ Tây chiều nay, mặt nước
vàng
lay bờ xa mời gọi... Có mà mời gọi, cứ thử lên đó ngồi xem, kể cả ngồi
xuống
đất cũng có mấy thằng cô hồn ra đòi tính tiền chỗ. Còn người Hà Nội
thanh lịch
thì bây giờ tôi cảm thấy rờn rợn, tự nhiên tôi nghi ngờ sự hiểu biết
của mình
về nghĩa từ thanh lịch. Nhưng chúng tôi vẫn chưa về được, vì một anh
bạn nhất
quyết đòi đi mua quần áo gì đó. Anh bảo vợ dặn phải mua. Chúng tôi ghé
vào một
tiệm quần áo, sau khi xem, anh hỏi: "Chị có kiểu quần X, áo Y, váy Z...
Mà
của Trung Quốc ấy?" Chị chủ quán liếc xéo anh rồi bảo: "Anh giai
thành phố Hồ Chủ Tịch mà kém tắm thế, muốn đồ Trung Quốc hả? Lên Đồng
Xuân, Bắc
Qua ấy, đây chỉ có hàng Anh, Mỹ... Anh dùng tạm, không thì phắn mẹ ló
đi cho em
nhờ. Cháo ám!" Tôi biết, thứ hàng Anh, Mỹ của chị ta có bán rất nhiều
trong khu bán sỉ trên chợ An Đông.
Chiều hôm đó, chúng tôi ăn cơm trong một quán cơm bình dân gần nơi ở
của đoàn.
Nghe nói bia hơi Hà Nội ngon lắm, thấy quán này cũng có bán, chúng tôi
gọi uống
thử. Không ngon như đồn đại, tôi thấy nó nhạt và chua. Trong quán, có
một anh
cũng ngồi ăn và uống bia, anh ta chắc là một tay buôn chuyến đồ nông
phẩm, vì
tôi thấy chiếc xe của anh hai bên phía sau có chở hai cái sọt. Ăn xong,
anh trả
tiền, rồi càu nhàu: "Bia với bọt nhạt như nước nồn, chua noen noét như
cứt
mèo, nàm mẹ nó be rượu cho xong." Chị chủ quán bình thản: "Như lước
lồn thì ló mới nghìn rưỡi, còn muốn không như lước lồn thì những ba
nghìn rưỡi
cơ. Buôn cứt người còn chê cứt mèo. Sốt ruột." Anh chàng định sửng cồ,
nhưng
thấy chị chủ quán tay lăm lăm con dao thái thịt, chắc không phải tay
vừa, nên
anh cun cút đi mất.
Quả thật, cách đối thoại của người Hà Nội vô cùng khó hiểu, hình như nó
mang
nhiều tính ẩn dụ. Thì người Tràng An mà lại, ho ra thơ, thở ra văn. Có
điều tôi
thấy quá nhiều người phát âm sai chính tả. Ở trong đoàn có mấy cô diễn
viên múa
là người Hà Nội, họ kể rằng bây giờ người Hà Nội tạp nham, nói ngọng
nhiều lắm.
Nhưng tôi nghĩ, nói ngọng tức phát âm không chuẩn do khiếm khuyết ở
lưỡi hoặc
dây thanh quản. Họ không thế, họ không nói ngọng mà phát âm sai chính
tả. Hình
như đây là một thứ mốt của người Hà Nội, kiểu như cái mốt nói chen
tiếng Tây.
Tối hôm đó, tôi kể chuyện đi chơi và phát biểu cảm tưởng của tôi cho
mấy cô
diễn viên múa người Hà Nội. Các cô cười ngặt nghẽo và bảo: "Hà Nội là
như
thế đấy, các anh không quen nên thấy sốc đó thôi, bọn em thấy bình
thường".
Đúng thật, những gì gây sốc hoặc dị ứng cho ta, đều là do không quen,
chứ không
hẳn là những thứ đó không tốt. Một cô múa tiết lộ với tôi: "Ở Hà Nội
còn
nhiều nơi đẹp thơ mộng lắm, không hề như những ấn tượng của anh đâu. Ở
những nơi
đó anh sẽ thấy Hà Nội hiện ra đúng như những gì anh đã nghĩ. Em ví dụ
cho anh
nhé, như vườn Bách Thảo chẳng hạn, ở gần Lăng Bác ấy, anh đã đi chưa?
Không phải
là bách thú Thủ Lệ đâu nhé".
Mấy hôm sau, chúng tôi tới chơi nhà của một trong mấy cô múa đó. Nhà cô
ở khu
phố cổ, rất gần với Hồ Gươm. Chúng tôi chui vào một con hẻm. Lúc này là
bốn giờ
chiều, trời còn đang sáng rỡ, vậy mà vừa bước chân vào hẻm, chúng tôi
không còn
nhìn thấy nhau nữa, nó tối như hũ nút vì bên trên hẻm cũng là nhà. Đi
chừng ba
chục mét thì tới một cái sân, rộng chừng hai chục mét vuông, là của
chung cho
tám hộ gia đình, trong đó có hộ của cô bạn chúng tôi. Nhà cô, nhân khẩu
có năm
người, gồm bố mẹ và ba đứa em cô, tất cả sinh hoạt gói trong mười lăm
mét
vuông. Cô cho biết, đây là cảnh sống của tuyệt đại đa số cư dân phố cổ,
nhưng
sống tại phố cổ vẫn là ao ước của nhiều người, nhà cửa ở đây đắt hơn
kim cương.
Tôi ngồi chơi một lát rồi lỉnh đi mất, tôi có ý định tìm tới vườn Bách
Thảo,
mong lấy lại một chút thi vị của Hà Nội.
Tôi tới vườn Bách Thảo thì trời đã nhá nhem tối. Trong vườn, không khí
nhẹ nhõm
mát mẻ, quả thật cô diễn viên múa đó đã không đánh lừa tôi. Đây đúng là
một vườn
địa đàng. Các loại cây cổ thụ xoè tán uy ngiêm, trên gốc già cỗi là
những loài
cây kí sinh, chen nhau mọc xanh rì, càng làm tăng vẻ huyền bí. Trong
vườn cũng
có hồ, có những con đường nhỏ rải nhựa chạy uốn lượn ngoằn nghoèo. Giữa
vườn có
một trái núi đất (sau tôi được biết tên, đó là Núi Nùng) có vẻ như là
tự nhiên,
chứ không phải như những hòn giả sơn vẫn có nhan nhản trong các khu du
lịch ở
Sài Gòn. Núi Nùng rất đẹp, đủ chủng loại cây mọc trên nó, có đường đi
lên và
trên đỉnh hình như có một ngôi chùa hay một cái miếu gì đó. Dọc con
đường nhỏ,
có đặt những chiếc ghế đá, đây đó có một vài cặp tình nhân đang ngồi
tâm sự.
Cảnh vật, không khí này, với vẻ u tịch mơ màng khiến tôi chợt nhớ tới
một bài
ca về Hà Nội. Thậm chí tôi còn cất tiếng hát khe khẽ. Tôi theo con
đường nhỏ leo
lên đỉnh Núi Nùng. Chà, núi cao ra phết, tôi đã khá mỏi chân. Chợt tôi
thấy đâu
đó một mùi um um rất khó chịu, tôi nhìn quanh và phát hiện ra một đám
cháy nho
nhỏ, xung quanh là mấy thằng nhóc chừng mười ba, mười bốn tuổi đang la
hét cười
như nắc nẻ. Tò mò, tôi tiến lại gần, thì ra cái mùi là lạ kia phát ra
từ đám
cháy. (Về sau, cô diễn viên múa có giải thích cho tôi rằng cái mùi đó
là do bọn
trẻ con đốt hạt của một loại trái cây, thứ trái đó người ta gọi là quả
thối, một
thứ quả đặc sản của Núi Nùng. Bọn trẻ đốt để khủng bố các cặp tình
nhân.) Thấy
lạ quá, tôi tiến vào gần hơn, thì một thằng nhóc, mặt câng câng hất hàm
bảo tôi:
"Nhìn cái đéo gì? Thích gì?" Tôi hốt hoảng, bật lui rồi quay trở
xuống. Xuống đến chân núi, tôi đã mỏi chân lắm, thấy một chiếc ghế đá
còn
trống, tôi bèn ngồi xuống. Vừa dựa lưng vào lưng ghế, tôi chợt thấy
dính nhép
đằng sau, đưa tay quờ ra sau, tôi linh cảm ngay thấy điều chẳng lành.
Một mùi
thối hung hãn khủng khiếp bốc lên. Thôi đúng rồi, có đứa nào chơi ác,
nó ỉa lên
lưng ghế. Thế là nguyên mảng lưng áo tôi dính nhoe nhoét, toàn cứt.
Thực ra cứt
nó chỉ là sản phẩm của bộ máy tiêu hoá, với nguyên liệu đầu vào là
những thứ
thơm tho. Có điều cũng nguyên liệu đó nếu đưa vào những bộ máy tiêu hoá
khác,
như của con heo chẳng hạn, thì nó sẽ cho ra sản phẩm kém chất lượng hơn
nhiều,
mùi cứt heo so với cứt người thì kém xa về độ tàn bạo. Chỉ có bụng dạ
con người
mới có khả năng để cho ra những thứ thối tha như thế. Tôi lâm vào tình
thế khó
xử quá, cởi áo vứt đi thì cởi trần từ đây về nhà sao được, từ đây về
tuốt đường
Tầu Bay đâu có gần gụi gì. Mà nếu để nguyên thế này ra ngoài đường thì
thiên hạ
họ chửi bố lên cho, có khi họ còn đánh ấy chứ. Dám lắm.
Cuối cùng tôi quyết định cứ để nguyên thế mà về, tôi bảo anh xe ôm rằng
tôi sẽ
trả tiền gấp đôi, anh ta mới chịu. Trên đường, tôi đi tới đâu, dân tình
giạt ra
tới đó, có mấy thằng du côn khạc nhổ chửi bới ầm ĩ. Mặc kệ, tôi còn cảm
thấy
thích, coi đây là một sự trả thù đời nho nhỏ.
Đoàn tôi đã thi xong. Mọi người đều phấn khởi vì hôm thi, ai cũng làm
tốt phần
việc của mình, cả đoàn chắc mẩm đạt được thành tích đề ra, tức là đứng
thứ ba
toàn đoàn. Thực lực đoàn tôi có thể tranh chấp ngôi nhất nhì, nhưng
vuốt mặt nể
mũi, phải tôn trọng đoàn chủ nhà chứ. Đấy là luật bất thành văn của bất
kì cuộc
hội diễn nào. Biết như thế nên lãnh đạo đoàn chỉ đề ra chỉ tiêu đứng
thứ ba.
Thế nhưng mọi việc không như dự tính, kết quả đoàn tôi đứng thứ hai từ
dưới
lên. Hôm đi nghe kết quả về, ông trưởng đoàn mặt cứ như đưa đám, phen
này về ăn
nói ra sao với cấp trên, chương trình đầu tư mấy trăm triệu chứ bỡn à.
Tôi nghe
trong đoàn người ta bàn tán rằng, hồi bắt đầu dàn dựng chương trình,
ông A.
(một cây đa cây đề trong làng ca múa nhạc quân đội, trưởng ban giám
khảo) đã
vào đoàn và đặt thẳng vấn đề, nếu đoàn đưa cho ông mấy trăm triệu đó,
ông sẽ lo
dàn dựng toàn bộ chương trình và bảo đảm chỉ tiêu đứng thứ ba (giống
như một
thứ thầu khoán và bảo hành công trình). Chả hiểu sao ông trưởng đoàn
tôi không
đồng ý. Trong khi tất cả các đoàn phía nam đều do một tay ông A. lo
hết. Thế
bảo sao chả về áp chót. Ghê thật. Đúng là thời hiện đại, kinh tế thị
trường.
Môi trường văn hoá nghệ thuật cũng không thoát khỏi sự chi phối của nó.
Các ông
văn hoá đầy mình còn hành xử như thế, trách quái gì ba cái chuyện nói
ngọng với
ỉa bậy.
Ngày mai đoàn tôi lại về Sài Gòn. Đoàn đứng vị trí thứ mấy với tôi
chẳng quan
trọng, tôi chỉ là thằng nhạc công và tôi đã làm tốt phần việc của mình.
Những
chuyện "maphia" đó thuộc phần các vị chức sắc. Tôi chỉ biết, tôi đã
được du hí nửa tháng trời ở thủ đô. Thế là mãn nguyện.
Trích Việt Báo On Line, ngày 28 tháng Tám, 2004, không ghi tác giả,
xuất xứ bài
viết.