Nhạc sĩ Cao Văn Lầu có phải là ông tổ ngành cải lương?
Gần
đây, trong một buổi gặp gỡ các bạn trẻ sinh viên yêu
thích cải lương và âm nhạc truyền thống, các bạn có đặt câu hỏi: "Nhạc
sĩ
Cao Văn Lầu là cha đẻ bản Dạ cổ hoài lang, vậy ông có phải là ông tổ
của ngành
cải lương không?". Bài viết sau đây cung cấp thêm một số thông tin về
nhạc
sĩ họ Cao cũng như về bản Dạ cổ hoài lang...
Ông
Cao Văn Lầu tức Sáu Lầu sinh ngày 22/12/1892 tại xóm Cái
Cui, làng Chí Mỹ, sau sáp nhập với làng Thuận Lễ trở thành xã Thuận Mỹ,
huyện
Vàm Cỏ, tỉnh Long An. Năm 1901, ông Cao theo gia đình đến lập nghiệp
tại Bạc
Liêu rồi ở luôn tại đây cho đến hết đời (ông qua đời ngày 13/8/1976).
Thuở nhỏ,
ông học chữ nho rồi học chữ quốc ngữ đến "lớp nhì năm thứ hai" (Cours
moyen 2e année) tức lớp bốn ngày nay; sau đó quy y tại chùa Vĩnh Phước
- Bạc
Liêu. Sau khi rời cửa Phật, ông học nhạc lễ và là một trong những môn
đệ giỏi
về nhạc lễ của nhạc sư Lê Tài Khị (Nhạc Khị). Ông sử dụng rành rẽ đờn
tranh,
cò, kìm và trống lễ. Nhắc đến ông, người ta nhớ ngay đến bản Dạ cổ hoài
lang
(1919) được xem là tiền thân của bản vọng cổ ngày nay. Ông viết bản
nhạc trên
gồm 20 câu, nhịp 2 để trút cạn nỗi niềm tâm sự.
Nỗi
niềm ấy ra sao? Nhiều lần ông thổ lộ với bạn tri âm:
"Tôi đặt bài này bởi tôi rất thương vợ tôi. Năm tôi viết bản Dạ cổ hoài
lang, tôi đã ăn ở với vợ tôi được 3 năm mà không có con. Tam niên vô tử
bất
thành thê. Vợ chồng ăn ở với nhau trong 3 năm, vợ không sanh con, chồng
được
quyền bỏ để cưới người khác hầu có con nối dõi tông đường. Thời phong
kiến có
những quan niệm chưa đúng. Người ta cho rằng vợ chồng không sanh con là
do lỗi
của người đàn bà. Tiếng ra, tiếng vào của gia đình buộc tôi phải thôi
vợ, nhưng
tôi không đành. Tôi âm thầm chống lại nghiêm lệnh của gia đình, không
đem vợ trả
về cho cha mẹ vợ mà đem gởi đến một gia đình có tấm lòng nhân hậu, xót
thương
cho vợ chồng tôi gặp phải cảnh đau lòng mà cho ở đậu qua ngày với hy
vọng vợ
chồng tôi sẽ có con và chiến thắng một quan niệm khắc nghiệt, lạc hậu,
chịu ảnh
hưởng nặng đạo lý thời phong kiến”. Trong thời gian dài phu thê phải
cam chịu
cảnh “Đêm đông gối chiếc cô phòng", tâm tư nặng trĩu u buồn nên nhạc sĩ
Sáu Lầu đêm đêm mượn tiếng đờn nắn nót đôi câu để bớt cơn phiền muộn.
Ông thừa
hiểu người bạn đời cũng đau xót như ông. Bản Dạ cổ hoài lang ra đời
trong bối
cảnh như thế.
Nói cho rõ hơn, trong thời gian tác phẩm chưa hoàn toàn hoàn
chỉnh, nhạc sĩ Sáu Lầu cùng anh em tài tử địa phương đờn tới đờn lui
bản này để
lấy ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp về phương diện sáng tác.
Chuông, trống
"công phu" ngân vang khiến anh em nhạc sĩ đất Bạc Liêu nhớ lại hồi
chín, mười tuổi ông Sáu Lầu quy y làm "Sa di" tại chùa Vĩnh Phước.
Chú tiểu từng đánh trống, dộng chuông công phu hai buổi sớm chiều. Do
đó, anh
em đề nghị thêm hai chữ "Dạ cổ" (tiếng trống về đêm) cho ý nghĩa thêm
sâu đậm. Ông Sáu hoan nghênh nên bản nhạc có tên hoàn chỉnh là "Dạ cổ
hoài
lang", tức "Đêm nghe tiếng trống nhớ chồng".
Từ
"Dạ cổ hoài lang" đến vọng cổ
Dạ
cổ hoài lang khởi điểm từ nhịp 2. Đó là đứa con của nhạc
sĩ Cao Văn Lầu. Nhưng khi "Dạ cổ" hòa nhập vào sân khấu cải lương thì
hai soạn giả tiền phong góp công đầu để biến bản nhạc này từ nhịp 2 trở
thành
nhịp 4 là Huỳnh Thủ Trung (tức Tư Chơi) và Mộng Vân (Trần Tấn Trung).
Tiếng
nhạn kêu sương là bản "Vọng cổ hoài lang" nhịp 4 đầu tiên do soạn giả
Huỳnh Thủ Trung (1907 - 1964) sáng tác vào năm 1925. Trên những chặng
đường
phát triển, khi bản "Vọng cổ hoài lang" được nâng lên nhịp 8 (từ
khoảng năm 1934 đến 1944) thì nó có tên mới là "Vọng cổ" (không còn
cái đuôi "hoài lang"). Từ khoảng 1944 - 1954, vọng cổ tăng lên nhịp
16; thời kỳ kế tiếp: 1955 - 1964: tăng lên nhịp 32 rồi nhịp 64 từ năm
1965 đến
nay.
***
Hậu
thế đã nhận định như sau: Nhạc sĩ Cao Văn Lầu là cha đẻ
Dạ cổ hoài lang khởi điểm từ nhịp 2. Bản "Vọng cổ" từ nhịp 4 trở đi,
trên những chặng đường phát triển, thuộc công trình chung của tài tử tứ
phương.
Còn ông tổ cải lương dứt khoát không phải là Cao Văn Lầu. Bản Dạ cổ
hoài lang
chào đời năm 1919, trong khi sân khấu cải lương ra đời khoảng năm 1916.
Ông
tổ cải lương là ai? Nhiều nhà nghiên cứu đã xác định
ngành cải lương thờ chung một ông tổ với hát bội.
Đi
sâu nghiên cứu,chúng tôi thấy có nhiều tư liệu khác biệt:
1)
Theo NSƯT, nhạc sĩ Vũy Chỗ xác định cụ thể: Chính Thầy
Thống tức ông Trần Xuân Thơ, với sự đồng ý của nhạc sĩ Sáu Lầu, viết
bài ca Từ
phu tướng, đồng thời có chấn chỉnh một vài chữ nhạc ở câu thứ nhất và
thứ bảy
cho sắc sảo hơn (Báo Sân khấu số 333 ngày 26/5/1997).
2)
Theo nhà nghiên cứu Hoài Ngọc, trong biên khảo "Sân
khấu cải lương" (chưa xuất bản), tác giả viết theo lời kể của NS Sáu
Lầu:
"...Chừng mấy tháng sau, tôi nghe người ta có đặt bài ca cho bản Dạ cổ
hoài lang của tôi rồi, và ca cho tôi nghe, thật đúng y như chữ đờn..."
(người ta ở đây là nhóm tài tử Sài Gòn - ghi chú của NV).
3)
Qua bài viết của ông Trần Phước Thuận, đồng hương với
nhạc sĩ Sáu Lầu, xác nhận "Bản Dạ cổ hoài lang, cả nhạc lẫn lời đều do
ông
Cao Văn Lầu sáng tác" (Tạp chí Nghiên cứu và phát triển số 2 (40) 2003,
trang 37).
Huỳnh
Công Minh - Thiên Mộc Lan
[Thanh
Niên online]