*


GIỚI  THIỆU



1 2 3 GT


Huỳnh Phan Anh
Thư Gửi Nhóm Sáng Tạo

Phan Huyền Thư:
Nằm Nghiêng
Giấc mơ của lưỡi
Nhớ Bão
Thất vọng tạm thời
Lãng mạn giải lao

Nguyễn Thanh Sơn:
Ấn tượng phê bình  
Đỗ Minh Tuấn:
Mẹ tôi, người hay lo

Nguyễn Thanh Sơn:

Nhà văn nữ và sự khủng hoảng trong
văn học Việt Nam hiện đại

  
Hoàng Ngọc Hiến
Đọc Văn học Việt Nam Hải ngoại
 

Lê Minh Hà
Sông sẽ còn chảy mãi
 

Huỳnh Phan Anh
đọc
Phan Thị Vàng Anh 

Phan Huyền Thư
Rối Nước

Nguyễn Thị Thảo An:
Bức Phù Điêu Khắc Cạn 

Lê Minh Hà:
Gió ngày ấy còn thổi mãi 

Phạm Hải Anh :
 CuLi 
 

Lê Minh Hà:
Thiên Đường

Phạm Hải Anh:
Tứ Tuyệt Lý Bạch:

Chương Mở Đầu

Tứ Tuyệt Lý Bạch.
Chương 1
Vi Thùy Linh:
Thành Phố Cổ

Nguyễn Thanh Sơn:
Những điều kỳ diệu...

Nguyễn Thanh Sơn:
Ea Sola

Chu Chương Cảnh
Nhìn Lại Đời Mình
Thơ Joseph Huỳnh Văn
Phạm Hải Anh:
Phúc

Nguyễn Thị Ngọc Tư:
Một Mối Tình

Thơ Thanh Tâm Tuyền

Tâm sự một thi sĩ:
Vi Thuỳ Linh

Những thiên thần nổi loạn
Ngôn ngữ Lưu vong
Xin Tằm
Hãy Biết Thương Tơ
Kịch Nguyễn Huy Thiệp
Văn học Việt Nam đang ở đâu?

Rỗng Ngực & 23 tháng Chạp
[Thơ Phan Huyền Thư]
Lâm Lễ Trinh
Văn Cao
Murakami




LƯU Ý: Bài vở trên trang Giới Thiệu, muốn trích đăng, yêu cầu liên lạc trực tiếp với từng tác giả.


*

Phan Huyền Thư

    Bảy nổi, ba chìm...


Chẳng mấy liên quan nhưng hình ảnh nhấp nhô mũ cối, nón lá ở chợ người lao động cứ theo đuổi tôi mỗi khi hình dung ra hàng hàng con rối gỗ bày bán ở các quầy hàng thủ công mỹ nghệ. Con nào cũng sướt sát như đã qua nhiều trận thuỷ chiến trên sân khấu rối nước. Người nông dân đã phải bỏ ruộng đồng đi kiếm sống lang bạt nơi phồn hoa đô hội, các chú Tễu nhà ta phải nghiêm trang mỉm cười sau các tủ kính thì cũng không phải gì ghê gớm. Nhưng, nền kinh tế thị trường và cả cái khẩu hiệu phát huy truyền thống, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc... làm cho tôi áy náy. Có phải cứ lôi tuột mấy con rối của các Thuỷ đình nơi thôn quê lên diễn trong một "cung điện" nguy nga như Nhà hát múa rối Thăng Long, chủ yếu phục vụ khách du lịch ngoại quốc là khuyếch trương được quốc hồn quốc tuý ? Là linh hồn của đồng ruộng Việt Nam suốt bao thế kỷ, là biểu tượng chinh phục thiên tai của cư dân trồng lúa nước, nghệ thuật độc nhất vô nhị của chúng ta: "Múa rối nước" sẽ chỉ còn là cái xác không hồn khi không được trả về với đồng ruộng. Rối nước là nghệ thuật dân gian, các diễn viên điều khiển con rối, những nghệ nhân làm ra con rối đều là nông dân và họ gửi gắm vào đó bao mơ ước, bao điều giản dị để làm nên một không khí hội hè đình đám của thôn quê.

Ra đời từ trong kinh nghiệm đối phó với thiên nhiên hung dữ, dần dà, các con rối nước đã hội tụ được những tinh hoa nhất của nghệ thuật dân gian Việt Nam: Nghệ thuật điêu khắc dân gian; Nghệ thuật sơn truyền thống; Nghệ thuật sáng tác các tích trò; Nghệ thuật âm nhạc dân gian và đặc biệt, ở đây xuất hiện vai trò của kỹ thuật dân gian. Một con rối muốn cử động được cần phải điêu khắc làm nhiều bộ phận rời, sau đó lắp máy rối. Máy rối ở đây có hai dạng: máy dây và máy sào. Tất cả các bộ phận máy điều khiển con rối đều được giấu kín dưới mặt nước. Thật là "bảy nổi ba chìm với nước non..." Sự thô vụng cứng nhắc của các con rối gỗ được dung hoà một cách tuyệt vời với màn nước mềm mại, phản quang lung linh. Khác hẳn với các nghệ thuật sân khấu truyền thống khác, người điểu khiển rối thay vì tự thể hiện thần thái, tâm trạng của mình, phải thể hiện được tất cả những điều đó bằng nét mặt cố định của con rối gỗ. Điều đó cho thấy, sáng tạo nghệ thuật dân gian của chúng ta đòi hỏi một trí tưởng tượng tuyệt vời.

Quân rối là đơn vị nghệ thuật quan trọng nhất trong trò rối nước. Không có con rối thì không thể có trò rối. Con rối lại được chế tạo từ một loại gỗ đặc biệt là gỗ Sung. Gỗ Sung được cắt khúc, chia tỷ lệ để có thể gọt đẽo một con rối theo dạng khối. Khi còn tươi gỗ Sung rất nhiều nhựa, rất mềm để gọt đẽo, chạm khắc. Người nghệ nhân sau khi đẽo con rối thô phải phơi hàng mấy tháng trời cho khúc gỗ khô, cứng dần lại. Khi khô rồi, gỗ trở nên xốp, nhẹ có thể nổi trên mặt nước một cách dễ dàng(cũng chính vì đặc điểm này mà các chiến binh xưa thường hay dùng gỗ Sung để làm Mộc khi ra chiến trận). Bấy giờ người nghệ nhân mới hoàn thành nốt công đoạn chạm khắc tinh vi ra nét mặt của con rối. Công đoạn này gọi là làm tinh. Riêng quá trình sơn phết bằng sơn ta cũng mắt dăm bảy lần và chờ đợi cho sơn ăn chắc vào gỗ. Sau đó, người ta mới trang điểm mắt mũi, vẽ áo quần cho các con rối. Vì phải ngâm dưới nước khi biểu diễn nên các con rối hay bị mục, bị sướt sát. Ở các phường rối thôn quê, sau khi diễn trò xong, các cụ lại gác con rối lên xà nhà hay cất trên cao, đến dịp lại dỡ xuống sửa sang để biểu diễn. Chính vì vậy mà các con rối không thể gìn giữ đời này qua đời khác được. Con rối cổ nhất cũng ước chừng chỉ vài chục năm.

Mặc dù từ thế kỷ XII, đã có bia về nghề rối ở Chùa Đọi, Hà Nam nhưng trên thực tế, rối nước chưa vượt quá được sông Lam, Nghệ An. Là tinh tuý của đồng bằng và trung du Bắc bộ nhưng đến mãi năm 1984, rối nước mới chính thức được nhà nước công nhận như một ngành nghệ thuật. Thế nhưng công nhận là một chuyện, tìm hiểu nghiêm túc về nghệ thuật múa rối nước lại là một chuyện khác! Ngay cả cố bộ trưởng Hoàng Minh Giám ngày trước khi xem múa rối nước xong cũng còn băn khoăn: "Không biết có cách nào cải tiến không, chứ cứ cởi truồng lội nước thế này thì ... " Tất nhiên là vì băn khoăn nên mọi người đều hợp lực sáng tác những vở rối có anh bộ đội, có chị dân quân... nhưng thế là rối đã chết một lần.

Nếu như Xẩm chỉ sống được ở đời sống "đầu đường xó chợ" thì rối cũng chỉ sống được ở ao làng, nói chuyện dân dã...Năm 1986, lần đầu tiên có một đoàn các nghệ nhân của hai Phường rối lớn nhất Việt Nam toàn các bô lão sang Paris biểu diễn. Nghệ thuật múa rối nước Việt nam như một quả nổ gây chấn động sân khấu châu Âu vì sự độc đáo, lạ lẫm. Báo chí nước ngoài bùng lên một cơn sốt rối nước. Các chuyên gia tới tấp xin sang nghiên cứu, học hỏi, các đoàn rối được mời đi biểu diễn nước ngoài...Bỗng chốc, rối nước trở thành một sứ giả nghệ thuật độc đáo nhất của Việt Nam trên trường quốc tế. Các cụ già nhà ta thấy mấy con rỗi cũ sắp mục mà được trả giá đến hàng trăm đô la thì tháo cả máy, chặt cả sào, cả dây để bán. Thùng đạo cụ khi về nước đầy chặt máy khâu, vải vóc. Một phép tính đơn giản: một con rối như thế ở nhà chỉ bằng mấy mét vải! Kết quả là hàng vài ba năm sau mới thu thập, chế tạo lại dược những mẫu rỗi cổ truyền của dân tộc. Chuyện các nghệ nhân, rồi cả diễn viên chuyên nghiệp bán rối còn xảy ra nhiều lần sau này, nhưng cũng may là lúc đó người ta đã cất giữ được mẫu rối. Nhà hát Múa rối Trung ương, rối nhiều đoàn rối khác bắt đầu thành lập. Nhìn thấy cơ hội xuất ngoại, khả năng phát triển đối ngoại của rối, họ đã không để lỡ. Rối đã chết lần thứ hai khi bây giờ chỉ còn lại 18 trò tiêu biểu của các phường rối được tinh lọc trong một chương trình biểu diễn phục vụ khách du lịch.

Không còn ai nghĩ đến chuyện phát triển, tái tạo lại rối ở thôn quê nữa, rối nước lâm vào cảnh "Bao năm vẫn bấy nhiêu trò". Thế hệ con cháu thì mê ti vi hơn là đi xem rối. Nghề làm con rối cũng đã mai một. Hiện nay, duy nhất chỉ còn một tốp thợ làm rối ở xóm Rạch, Hà Nam là thỉnh thoảng còn mang các con rối thô lên Hà nội cho các đoàn rối. Các phường rối khác cũng không tự làm con rối mà đi mua lại để diễn phục vụ khách du lịch nước ngoài cao hứng muốn về tận đồng ruộng thưởng thức. Hoặc giả thỉnh thoảng có phường, có hội mùa xuân...Rối nước lại đang chết thêm một lần nữa. Ai, nếu như không phải chính người Việt Nam chúng ta tìm ra cách hồi sinh cho rối nước? Mới đây nhất người ta có đưa biểu tượng chú Tễu của múa rối nước để lựa chọn linh vật cho Seagame 22. Điều đó là một an ủi nhẹ nhàng giống như những chú Tễu đang mỉm cười ngây ngô sau tủ kính của các quầy hàng thủ công mỹ nghệ dọc các phố cổ sầm uất của Hà nội. Những chú Tễu không phải làm bằng gỗ Sung nên thả xuống nước chắc chắn sẽ chìm nghỉm!

Phan Huyền Thư
(Hà Nội)