*










ấn tượng phê bình

Không có âm thanh nào lại xóa đi những ước lệ về thời gian bằng những âm thanh của biển. Nhắm mắt lại, lắng nghe tiếng rì rào của sóng vỗ, của cảm giác buồn mênh mông trước cái vô hạn của biển, tưởng như cả Trái đất đang trở lại với lứa tuổi còn nằm nôi, chỉ có cảm giác yên bình của một nỗi buồn tủi êm đềm. 

Tôi nhớ lại bức tranh Con quỉ ngồi của Vrubel. Nhớ lại vẻ mặt buồn thảm đến cùng cực của người khổng lồ trên đỉnh núi, tay buông thõng và chìm đắm trong suy tưởng. Trong suy tư, con người đó đang cố gắng thoát khỏi xác thịt của mình, hòa vào không gian và thời gian đang đặc sánh xung quanh, để thoát khỏi nỗi cô đơn vĩnh viễn đang đè nặng trĩu trên cơ thể.

 Người ta thường hình dung về nhà phê bình như một ông già đeo kính, lưng oằn gẫy trước sức nặng của những giá sách - còn tôi, tôi sẽ hình dung về người viết phê bình như một con người đang ngồi suy ngẫm.

 Cái gì là điểm khác giữa nhà phê bình và nhà văn? Phải chăng chỉ có nhà văn là Người sáng tạo, còn nhà phê bình chỉ là người mô phỏng và diễn dịch tạo phẩm đó?

 Có những nhà phê bình chỉ muốn hiểu được thấu đáo những chất liệu đã làm nên tạo phẩm của Người sáng tạo. Vận dụng những hiểu biết thông tuệ của mình, họ cố gắng đi tìm để giải mã (de-code) cho tạo phẩm của những nhà sáng tạo. Họ không hiểu rằng Người sáng tạo thường xuyên quay mặt đi khi buộc phải nhìn lại tạo phẩm của mình.

 Bởi vì, lịch sử của quá trình sáng tạo là lịch sử của những thất bại. Trong khi sáng tạo, Người sáng tạo luôn mong rằng họ có thể ngộ được chân lý, và cái cảm giác ám ảnh họ suốt quá trình sáng tạo là cảm giác chân lý đang ở đâu đó ngay cạnh họ, chỉ cần một chút cố gắng là có thể vật chất hóa được cảm giác đó bằng tác phẩm của mình. Họ muốn tác phẩm của họ sẽ là bản sao của bản ngã, rằng họ có thể tìm thấy cái tôi của họ bằng tác phẩm; nhưng đúng vào lúc họ tưởng bắt được con chim xanh lại chính là lúc nó vuột khỏi tay họ. Và họ lại đành lên đường đi tìm cái "Tôi của chính Tôi" một lần nữa, cố gắng tìm hiểu lý do nỗi cô đơn truyền kiếp của họ.

 Chính vì vậy, mỗi tác phẩm, dù hoàn mỹ đến đâu, cũng là một tác phẩm dở dang, và nó hoàn mỹ trong cái dở dang đó.

 Nhà phê bình cũng là Người sáng tạo, nhưng chất liệu tác phẩm của anh ta lại chính là những tác phẩm dở dang bỏ lại bên đường đi của những nhà sáng tạo khác. Bởi vì, nếu anh ta chỉ muốn viết ra những gì Người sáng tạo trước muốn nói, tác phẩm của anh ta sẽ chỉ là một trang giấy trắng rỗng không. Nếu coi tạo vật của nhà sáng tạo là cái đích cuối cùng của bài phê bình, thì thực ra còn có gì có thể nói hay hơn về một tác phẩm bằng chính tác phẩm đó nữa?

 Nietzsche nói, cái cây càng vươn lên cao, cành lá càng đâm trổ vào bầu trời thì gốc rễ của nó càng đâm sâu vào lòng đất tối đen, càng u uẩn trong những suy tư của nó. Tác phẩm của các nhà văn tạo nên lòng đất tối đen đó, những suy tư của anh ta sẽ khởi động những suy tư của chính nhà phê bình, thành gốc rễ, thành cành lá của một tạo vật mới, tạo vật của nhà phê bình.

 Hoài Thanh có nói ông ngại mang tiếng là nhà phê bình, bởi vì "bình" thì còn được, chứ sao lại "phê"? Không gì làm nhà phê bình khó chịu và bất lực bằng một tác phẩm dở, bởi vì người ta có thể giải thích tại sao nó dở, nhưng câu chuyện chỉ đến đó là hết. Anh ta không sao rút ra được cái gì đó cho mình, dường như không một tư tưởng nào, một hình ảnh nào có thể khả dĩ làm cái nền cho cái Tôi sáng tạo của nhà phê bình vươn lên. Một tác phẩm dở là một nền đất sa mạc.

 Nhưng ngay ở trong sa mạc cũng có những ốc đảo, hoặc chí ít những loài xương rồng kỳ thú có thể sinh sôi? Những tác phẩm dở cũng vậy, bởi trong khi đi tìm nguyên nhân cho sự thất bại của nó, một nhà phê bình tài năng cũng có thể tạo nên một tác phẩm tuyệt diệu của chính anh ta. Một lần nữa, sáng tạo của người đi trước chỉ còn là chất liệu cho sáng tạo của người đến sau.

 Và, bởi nó biết chắt lọc những gì tinh túy nhất từ lòng đất cứng rắn, ngay cả những vùng đất cằn vẫn có những cây cổ thụ.

 Một trong những giấc mơ đẹp nhất của tôi là những giấc mơ tôi thấy mình biết bay. Nhưng mãi sau này tôi mới hiểu, niềm hạnh phúc lớn lao của tôi khi đó không phải là cảm giác tôi có khả năng bay lượn như chim, mà là cảm giác tôi như không còn trọng lượng, không còn mang vác những gánh trĩu nặng của xác thịt và những thiên kiến nặng nề, cảm giác tôi lướt đi vun vút trong một đại dương tự do, cảm giác tôi đang hòa tan trong nó.

 Chính vì vậy, điểm mấu chốt trong sáng tạo của các nhà phê bình không chỉ ở óc phân tích, mà còn ở khả năng cảm nhận và giao hòa với tác phẩm. Cũng giống như điểm mấu chốt của tình dục là sự hòa đồng của hai cơ thể, tác phẩm thành công của nhà phê bình là sự hòa đồng của hai tâm hồn - tâm hồn nhà văn và tâm hồn nhà phê bình - nhằm giải toả nỗi khát khao chìm đắm đi tìm bản ngã của Người sáng tạo. Chính vì vậy, sản phẩm của nhà phê bình không lệ thuộc vào sản phẩm của đối tượng mà anh ta phê bình, chính xác hơn, nó phát triển tác phẩm đó theo một cách riêng của mình. Phê bình, đó là nhận biết người khác và đồng nhận biết của bản thân nó về cuộc đời, nói như Claudel.

 Văn học, ở một khía cạnh nào đó, là dùng ngôn ngữ để xây dựng một trạng thái tinh thần. Nhưng chính vì nó là một trạng thái, nên nó rất động và không nên - cũng như không thể - nắm bắt nó một cách trọn vẹn. Phê bình văn học tái tạo sự đồng hiện của nhiều trạng thái tinh thần: của tác giả, của nhân vật và của bản thân nhà phê bình - người đọc được kích hoạt do trạng thái mà tác phẩm đem đến.

 Phê bình văn học, vì vậy, sẽ không trọn vẹn nếu chỉ diễn giải cái đẹp. Nó còn phải diễn tả những rung động của con người trước cái Đẹp, của thái độ chiêm nghiệm cái đẹp. Bởi vì, nói như nhà văn Nhật Yasunari Kawabata "Khi đứng chiêm ngưỡng vẻ đẹp của tuyết trắng hay của mặt trăng, tóm lại, khi chúng ta xao động bởi vẻ đẹp bốn mùa, khi lòng cảm thấy tràn đầy biết ơn vì cuộc gặp gỡ với cái đẹp là lúc chúng ta nghĩ đến bạn bè nhiều nhất: chúng ta muốn chia xẻ niềm vui của mình với họ. Sự nhận thức cái đẹp đánh thức dậy trong con người cảm giác thông cảm với con người, và khi đó, từ bạn sẽ được thay thế bằng từ nhân loại". Sự chia xẻ niềm vui đó chính là cốt lõi của cái mà tôi sẽ gọi là phê bình ấn tượng

Nhà văn Nhật bản nổi tiếng thế giới, người đoạt giải Nobel văn chương năm 1994, Kenzaburo Oe, khi trả lời phỏng vấn tại trường đại học Berkeley nói: "Rất nhiều nhà văn Nhật bản, tuy không nói ra, nhưng vẫn giữ quan điểm cho rằng Nhật bản là trung tâm của thế giới, hay ít ra, trung tâm của châu á. Tôi thì khác, tôi luôn luôn cho rằng con người chẳng thể viết được gì nếu anh đứng ở trung tâm. Tôi bao giờ cũng là một nhà văn ở ngoài lề".

Một trong những tác phẩm của ông có tên là Những ghi chép ở Hiroshima_. ít ai biết được khi viết tác phẩm ấy, Kenzaburo Oe đang ở trong một cơn khủng hoảng tinh thần ghê gớm, khi phát hiện ra đứa con trai mới sinh của ông mắc bệnh hiểm nghèo về não, chứng bệnh, ít nhất, không cho phép con ông trở thành một con người phát triển trí não một cách bình thường. Chính tại Hiroshima, ông đã gặp bác sĩ Fumio Shigeto, người thầy thuốc có mặt tại thành phố khi Hiroshima bị dội bom nguyên tử, người đã dạy cho ông một bài học về làm người. Ông bác sĩ kể "Chúng tôi không thể làm gì cho những người sống sót. Thậm chí đến tận bây giờ, chúng ta còn không biết một tý gì về căn nguyên các căn bệnh của những người còn sống sót... nhưng chúng tôi cố làm những gì chúng tôi có thể. Mỗi ngày có hàng ngàn người chết. Nhưng giữa những đống xác chết đó, tôi vẫn tiếp tục. Bởi vì, Kenzaburo, khi mà họ đang cần sự giúp đỡ của tôi, tôi còn có thể làm được gì nếu không phải là điều đó. Bây giờ con trai anh cần anh. Anh phải nhận ra rằng trên cả trái đất này chẳng có ai ngoài con trai anh cần anh cả". Và chính khi đó, Kenzaburo đã đi một chặng đường dài từ chủ nghĩa hiện sinh của Jean Paul Sartre mà ông vốn là môn đệ đến một triết lý hiện sinh của chính ông, giản dị hơn rất nhiều: Trở thành một con người cứng cỏi và thẳng thắn! Can đảm trở thành một người cha để nuôi dạy đứa con tật nguyền của mình. Chủ nghĩa hiện sinh, như là một thứ lý thuyết mà ông đã thực hành ở các tác phẩm ban đầu đã không cho ông niềm dũng cảm để đương đầu với số phận của người con trai, và như ông nói "nếu nó không khuyến khích được tôi, nó không khuyến khích được ai cả. Nó chẳng là cái gì !". Và thế là ông bắt đầu viết cuốn sách cho riêng ông, cho riêng con trai mình. Cuốn "Một chuyện riêng tư" trở thành một trong những tác phẩm hay nhất của ông. Chủ nghĩa nhân văn hiện đại-như sau này ông tuyên bố-là "không quá hi vọng và không quá tuyệt vọng vào con người". Và ông đã tìm ra phong cách của mình: "phong cách cơ bản trong cách viết của tôi, là bắt đầu từ những câu chuyện cá nhân của tôi rồi nối nó với những vấn đề của xã hội, của đất nước và toàn thế giới".

Phê bình văn học ấn tượng cũng vậy. Nó bắt đầu trước tiên từ những ấn tượng cá nhân về một tác phẩm, phê bình ấn tượng không nhằm tìm hiểu nhà văn, không bó buộc mình trong hành trình đọc văn để hiểu người. Phê bình văn học ấn tượng tập trung vào ấn tượng của người đọc trước văn bản, nó phải là một phê bình động, một dòng chảy hòa hợp của cả tư tưởng lẫn cảm xúc, bởi cảm xúc, vào cái thời khắc được anh thể hiện bằng ngôn từ, lập tức biến đổi, và tư tưởng của anh bắt đầu quá trình tự vấn, nghi hoặc, phân tích nhằm cố gắng biểu đạt chính xác nhất cảm giác tức thời của anh. Tóm lại, phê bình văn học ấn tượng là một cuộc tổng duyệt lại các thang giá trị của nhà phê bình trong cuộc sống thông qua phản ứng của các thang giá trị đó đối với tác phẩm.

Phê bình văn học ấn tượng còn phải nhìn nhận cái Đẹp ở góc độ của những hiệu quả mà một tác phẩm văn học mang đến cho người đọc, một cái đẹp nằm trong lộ trình hướng tới cái tuyệt đối, một cái đẹp luôn luôn mang hai bộ mặt của thần Shiva - hủy diệt và sáng tạo. Phá bỏ cái cũ để sáng tạo cái mới, bởi chỉ có cái mới mới mang trong mình sinh khí của sự sáng tạo. Phá bỏ và sáng tạo trong một vòng tuần hoàn vĩnh cửu, bất diệt. Phê bình văn học phải cảm thấy luồng sinh khí sáng tạo đó dưới lớp vỏ gớm giếc của kẻ hủy diệt, nâng niu và khẳng định hướng đi của nó.

Phê bình văn học ấn tượng, bởi vậy, một mặt phải chống lại với sự nhàm chán trì trệ của những đề tài và phong cách biểu hiện cũ kỹ, những thứ chắc chắn sẽ không bao giờ tạo được cú sốc khơi dậy cảm xúc dưới đáy sâu của tâm hồn người đọc. Chỉ có cái Mới mới đủ sức đập vỡ lớp vỏ vô tình mà dù muốn dù không, cuộc sống thường nhật cứ ngày ngày bồi thêm lên trên bề mặt của tư tưởng, tâm hồn và xúc cảm người cầm bút. Mặt khác, phê bình văn học ấn tượng cũng phải cưỡng lại sức cám dỗ của những toan tính duy lý tuyệt đối chuyên đi tìm những công thức chung cho văn học, cho dù những toan tính này nhân danh Cấu trúc luận, Phê bình Mới, rồi Giả cơ cấu, Hậu hiện đại... hay gì gì đi nữa. Không chỉ bởi khó có một công thức chung cho năm tỷ trạng thái đọc và hàng triệu người viết, mà còn bởi nhân danh những cuộc tìm kiếm này, người ta đã cách ly phê bình văn học trong tòa lâu đài của những tâm linh, tích hợp văn hóa, siêu văn bản, liên văn bản, làm nhòe văn bản... tóm lại là những mỹ từ sáng choang đang đào một bức hào sâu ngăn cách phê bình hàn lâm với người đọc.

Phải rất can đảm mới có thể thốt ra: "Tôi không hiểu! Vậy thì rốt cục thực sự các người muốn nói gì?" trong khi mê mụ trong trận đồ bát quái đó của chữ nghĩa hàn lâm. Phê bình văn học ấn tượng đòi hỏi trả phê bình văn học lại cho độc giả, một độc giả dư hiểu cầu vồng là hiện tượng khúc xạ của ánh sáng nhưng vẫn chiêm ngưỡng nó như một món quà của Tự nhiên trao cho tâm hồn, một độc giả muốn đọc phê bình như một tác phẩm, như một góc tâm hồn của nhà phê bình để soi lại chính bản thân chứ không phải một công trình khoa học cứng ngắc mà sẽ không ai còn nhớ đến. Phê bình văn học ấn tượng đòi hỏi nhà phê bình cũng phải đồng thời là một nhà văn.

Không phải ngẫu nhiên mà các nhà văn Việt Nam hay coi thường các nhà phê bình. Sợ hãi không dám trình bày những suy tư cá nhân, nhiều nhà phê bình thường gán ghép những ý nghĩ của họ vào tác phẩm mà họ nghiên cứu, lén lút vứt đứa con sơ sinh của mình lên bậc thềm nhà khác. Những nhà văn cười cợt những ý tưởng mà người ta đặt vào cho họ, vào tác phẩm của họ - đứa con hoang hiếm khi được những bàn tay ân cần đưa vào trong nhà!

Tôi muốn, phê bình phải thực sự thoát khỏi tình trạng là cái bóng của tác phẩm, và những bài phê bình không phải bắt đầu bằng những gì "nhà văn nghĩ...", mà bắt đầu bằng "tôi nghĩ...". Phê bình phải thoát ra khỏi cái bóng đối tượng của nó để sáng tạo, bởi vì, thực sự phê bình cũng là một hình thức sáng tạo. "Phê bình thơ ca", nói như Eliot, là "phân tích thơ ca để sáng tạo nên thơ ca".

Hãy nghĩ sâu xa hơn những truyện cười của Azit Nexin, câu chuyện về nhà bác học đã viết hàng tá sách chỉ để chứng minh nhà thơ nọ đã chết vào ngày mỗ ngày mỗ mà không phải ngày mỗ ngày mỗ. Biết đâu họ chỉ viết để đi tìm một chân lý cho riêng họ, và trong khi suy tưởng, họ đã đi xa hẳn khỏi điểm khởi đầu của cuộc tranh luận. Những chồng sách đó chưa hẳn đã vô giá trị như vậy!

 Phê bình văn học ấn tượng có những hạn chế của nó. Lệ thuộc vào tâm hồn cũng như tri thức của người đọc, nó không tránh khỏi số phận bị nhốt trong chiếc lồng của những hạn chế về tư tưởng, tri thức đó. Chính vì thế, nó không thể đảm bảo hoàn toàn tính khách quan hay khoa học của bài viết như những gì mà phê bình văn học hàn lâm hay phê bình văn học xã hội học đòi hỏi. Nhưng như ở trên đã nói, phê bình văn học ấn tượng là phê bình văn học để chia sẻ, chứ không phải phê bình văn học để thuyết phục. Có sự đam mê nào hoàn toàn có được tính khách quan...Cho nên, phê bình ấn tượng cũng chỉ góp một góc nhìn riêng tư của nó đối với tác phẩm.

 Nietzsche nói đến Ba biến thái của tâm hồn: con lạc đà, con sư tử và hài nhi. Thực tâm, tôi mong muốn được chiêm ngưỡng con rồng vĩ đại, nơi mà "những giá trị ngàn đời chói sáng trên những vẩy của nó", con rồng "Mi phải", con rồng mạnh nhất trong tất cả những con rồng. Có lẽ vì khi anh chưa được chiêm ngưỡng những giá trị đó, làm sao anh có đủ sức mạnh để chiến thắng nó và quay về với hóa thân thứ ba của anh, ngây thơ, trong suốt và long lanh như đứa hài nhi.

 Bởi vậy, tôi chưa đạt được tới bất cứ một hóa thân nào cho những bài phê bình của tôi. Có chăng, những bài viết đó chỉ là những gánh nặng đầu tiên mà con lạc đà chất lên vai nó, để chuẩn bị cho chặng đường dài của nó vào sa mạc, nơi nó gặp gỡ hóa thân thứ hai.

 Và chắc chắn đó là một con đường dài...

 Hà Nội 27.2.1995

 Nguyễn Thanh Sơn