Nhìn lại đời mình.

Chu Chương Cảnh


Lời người giới thiệu: Chu Chương Cảnh là một người chú của tôi.
Nhân chuyến về Việt Nam, tháng Sáu 2001, được người thân trao cho những giòng viết sau đây của ông, nay xin được gửi tới độc giả VHNT, như một tài liệu mang tính lịch sử những ngày 1945, 1954 tại Hà Nội và miền bắc.

NQT


Năm nay tôi 71 tuổi, tính theo tuổi mụ thì đã là 72.

Nhìn lại cuộc đời trên 70 năm chẳng phải là ít ỏi, tôi muốn ghi lại đôi điều để sau này bà con anh em và bè bạn có dịp đọc sẽ hiểu tôi hơn. Riêng đối với các con tôi, những giòng sau đây có giúp ích phần nào trong cuộc sống thì điều đó sẽ làm tôi vô cùng sung sướng, vô cùng mãn nguyện. Tham vọng của tôi chỉ có vậy.

Làng quê và thời thơ ấu.

Tôi sinh ngày 27 tháng 8 năm 1924, tức năm Giáp Tý tại làng Phú Hữu , nay là thôn Phú Hữu, xã Phú Sơn, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây.

Trong hồi ký của mình, anh tôi, ông Chu Quang Côn, có nói rằng, làng quê tôi đẹp. Nói chung thì ai cũng thấy quê hương mình đẹp. Tôi cũng vậy. Tôi thấy làng quê tôi đẹp thực (1). Đẹp về địa thế, cảnh trí. Làng tôi nằm ở sườn một quả đồi cách không xa quốc lộ số 11, này là quốc lộ 32, đi từ Hà Nội đến Trung Hà, Hưng Hóa... Vùng quê tối ở phá bắc tỉnh Hà Tây, ba mặt là sông: sông Đà ở phía Tây, sông Hồng phía bắc và đông bắc. Nơi sông Đà nhập vào sông Hồng ở địa phận xã Cổ Đô, một nơi có nghề dệt lụa và cũng là nơi có nhiều người học hành đỗ đạt. Xa hơn, về phía đông bắc, sông Lô hòa vào sông Hồng. Đây chính là Ngã Ba Hạc, mà vẻ đẹp được mô tả trong một bài phú nổi tiếng.


Chú thích của người giới thiệu:

  1. Đây cũng là vùng quê của Chu Tử. Ông quê làng Thừa Lệnh, kế cận Phú Hữu. Theo Nguyễn Mạnh Côn, ông có kể, quê mình, vào buổi chiều tối, sau một ngày làm việc mệt nhọc, phụ nữ thường ra giếng tắm truồng. Chu Tử đã từng đập lộn với đám bè bạn Hà Nội, khi bị chế nhạo, về một kỷ niệm đẹp đẽ như trên, của vùng quê hương ông. Chu Quang Côn, đ ậu cử nhân luật thời Pháp thuộc, là bạn của Chu Văn Bình, tức Chu Tử (ông cũng đậu cử nhân luật thời đó nhưng không đi làm cho Pháp, theo như tôi được biết.)

Đối diện với Bạch Hạc, là thành phố Việt Trì, thành phố Ngã Ba Sông nay là thủ phủ của tỉnh Vĩnh Phú. Trước kia, đây là nơi đồn trú của lính Lê Dương Pháp, là nơi buôn bán nhộn nhịp, nay lại càng phát triển với nhiều nhà máy, khu công nghiệp, và nhiều phố xá đông vui. Bên hữu ngạn sông Hồng, hơi chếch về phía Tây là làng quê mẹ tôi [làng quê nội của tôi, người giới thiệu], làng Thanh Trì, thuộc xã Phú Cường huyện Ba Vì, chỉ cách làng tôi [Phú Hữu] chừng 6,7 cây số theo đường chim bay.

Phía nam làng tôi, cách chừng 15 cây số theo đường chim bay, là núi Ba Vì, hay Tản Viên đã đi vào truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh nổi tiếng, chẳng ai là không biết. Đây là biểu tượng của xứ Đoài, của quê hương tôi. Những hôm trời quang vào buổi chiều, nhìn về phía sau làng, tưởng đâu như ngọn núi ở gần kề, thật hùng vĩ! Những hôm trời mây, ngọn núi ẩn hiện sau những giải mây trắng, trông mờ ảo, huyền bí.
[Nên đọc thêm Trên Đỉnh Non Tản, của Nguyễn Tuân, viết về những bác thợ cả có duyên được lên tiên, sửa cung đình cho những vị thần].

Những năm địch chiếm đóng quê hương, phải xa cách, nhìn về ngọn núi mờ xa, trong lòng tôi dội lên nỗi nhớ da diết.

Ba Vì mờ cao, làn sương chiều xa buông

Gió về hương núi thơm, đưa hồn về đâu

Từ xa thương nhớ Ba Vì ơi

(Trích một bài hát về Ba Vì)

Từ chân núi, trải rộng về phía Bắc, và Đông Bắc Bộ, là những ngọn đồi cứ thấp dần, thấp dần. Nằm ở giới hạn phía Bắc của vùng đồi núi đó, làng tôi có vị trí khá đẹp vì phía trước làng quang đãng, chẳng có gì che khuất. Cánh đồng bằng phẳng, chạy từ ven quốc lộ tới sông Hồng: Đứng ngay tại nhà, tôi có thể phóng tầm nhìn ra xa, mãi tới Việt Trì. Và xa hơn nữa, là dãy núi Tam Đảo chạy dài từ Đông sang Tây hiện rõ trên nền trời xanh lơ những hôm đẹp trời, khác nào những kim tự tháp Ai Cập.

Một làng quê nằm giữa một cảnh trí như vậy thật là đẹp. Đối với tôi, làng quê tôi còn đẹp ở những kỷ niệm, những lễ hội, tập quán và nhất là những tình cảm gắn bó con người với quê hương. Quên sao được những món ăn mà chỉ ở quê tôi mới được thưởng thức như món bánh rợm (bánh nếp) nhân làm bằng trứng kiến, bên ngoài gói một lớp lá xung non, ăn vừa bùi vừa có vị ngai ngái của lá xung non, mà tôi lại rất thích; hoặc như món cháo nhộng ong rừng sao mà ngon và béo, chắc hẳn rất bổ, chẳng thua kém bất cứ loại thuốc bổ nào. Lại nữa, những con chim cút béo quay vì được sơi no lúa chín đồng, mùa gặt nào thợ gặt cũng dành cho tôi không ít để đem về làm món ăn đặc biệt cho những ngày gặt rộ. Còn biết bao thức khác tôi không kể hết được. Rồi những ngày lễ hội, với những đám rước, những buổi tế lễ ở đình, ở đền chùa, tiếng nhạc bát âm réo rắt trong nhịp trống, nhịp chiêng, tất cả như vẫn còn đọng trong tôi, thật khá sâu đậm.

Chú thích của người giới thiệu: Ông chú của tôi còn quên một món đặc biệt của vùng này, là món tương đậu đen. Quên ngọn đội Gàm, nơi tôi đã từng chạy Tây tới đó, rồi tiếp tục đi mãi về phía bắc, tới Phú Thọ, sau theo đường phía sông, tới vùng chân núi Tam Đảo, rồi về Tề....

Tuổi thơ của tôi trôi đi trong sự đầy đủ, trong tình thương yêu của cha mẹ, anh chị em. Phải chăng vì vậy nên tôi có phần nào sinh "hư", nghĩa là ham chơi, hay vòi vĩnh và ỷ lại. Khi sinh tôi, mẹ tôi đã 41 tuổi tức là ở độ tuổi mà người phụ nữ không nên sinh con nữa. Vậy mà sau tôi còn cô Quyển, kém tôi hai tuổi. Tôi được nghe kể lại: mẹ tôi sinh nở nhiều lần (12 lần, không biết có đúng như thế không). Anh Côn hơn tôi 12 tuổi, vậy mà từ anh đến tôi chẳng có ai, chắc hẳn đã nhiều lần "hữu sinh vô dưỡng". Sau khi sinh tôi, mẹ tôi phải mượn vú em nuôi tôi. Được biết, vú là người Hát Môn, huyện Phúc Thọ, cùng tỉnh. Tôi chỉ còn lờ mờ nhớ rằng, vú là một người phụ nữ dịu hiền, nhanh nhẹn, rất thương yêu tôi và chăm sóc tôi chu đáo. Có lẽ đến khi tôi lên 4 hoặc lên 5 vú không còn ở nhà tôi nữa. Đáng tiếc là về sau tôi đã không hỏi han để tìm đến người vú nuôi mình từ tấm bé. Mà ở nhà tôi cũng chẳng có ai tìm đến, dù chỉ một lần. Cho đến bây giờ, tôi vẫn còn ân hận về điều đó.

Vì được nuông chiều nên tôi sinh "hư". Hư ở dây chưa phải là hư đốn mà là ham chơi. Đối với tôi, cha tôi không tỏ ra nghiêm khắc. Chắc rằng đối với anh tôi, cha tôi không như thế. Tôi còn nhớ, có những lần tôi còn leo lên nằm cạnh cha tôi bên bàn đèn thuốc phiện và hỏi đủ thứ xoay quanh các tích chèo, tuồng mà tôi dã được xem. Có những câu hỏi oái oăm như: "Ông Triệu Tử Long và ông Triệu Quang Phục thì ai giỏi hơn hả bố?" Cha tôi bật cười nhưng chẳng trả lời ra sao. Những năm đó, tuy còn nhỏ nhưng tôi đã thấy cha tôi hút nhiều. Hầu như cả ngày đêm ông chỉ quanh quẩn bên bàn đèn thuốc phiện, vừa hút vừa tiếp bạn bè, khách khứa, nói chuyện văn chương thơ phú. Thuốc phiện trước đây được coi là thú vui của người phong lưu. Người ta còn tìm đến thuốc phiện để giải sầu, cũng như uống rượu. Vậy thì vào thời điểm đó, phải chăng là cha tôi đã sinh ra buồn chán cuộc đời sau những năm bon chen sôi nổi? Ông đã dự thi hương hai lần nhưng không đậu [Ngoài bắc trước đây dùng từ "đỗ"]. Ông đã đọc sách báo có tư tưởng mới, lưu giữ những sách đó tại nhà (cất trong ống quyển). Vì vậy đã xẩy ra chuyện lôi thôi: nhà cầm quyền đến khám phát hiện thấy những tài liệu đó trong khi cha tôi đi vắng. Chú tôi là ông Chu Quang Bộ bị bắt giam thế chân [Tục bắt người thế chân sau này vẫn còn được áp dụng đối với những gia đình có con em trốn tránh nghĩa vụ quân sự, trốn vào chiến trường miền nam]. Thế nhưng sau đó ông lại ra ứng cử "Nghị Viên dân biểu Bắc Kỳ"ø, phải chăng khi này ông đã tin ở chính quyền thực dân hay đây chỉ là một cách mua danh? Điều này tôi không đủ thẩm quyền và trình độ để nhận định, nhưng qua một bài thơ dịch mà gần đây tôi sưu tầm được, hình như ông cũng có ý muốn gửi gắm tâm tư của ông trong những câu thơ dịch đó:

"Thôi sắp sửa đi về kẻo chậm

Ruộng vườn ta để rậm sao đang?

Vì tình lòng chót đa mang

Bồi hồi chi nữa thêm thương nỗi mình

Việc đã quá tôi đành chẳng nói

Biết sau này đổi lối còn vừa

Đường mê, mê ít dễ chừa.

Ngẫm bây giờ phải mà xưa là nhầm".

[Không hiểu ông chú tôi nhắm vào chính ông, hay là ông cụ thân sinh, khi cố sưu tầm cho được dòng thơ chót này?]

(Trích bài thơ dịch từ nguyên bản "Qui khứ lai từ" của tác giả Đào Tiềm, Trung Quốc).

Đường mê, phải chăng là đường công danh mà cha tôi đã lao theo? Dù sao cũng phải thấy ở cha tôi một điều, cha tôi là một người coi trọng việc học. Chắc hẳn vì vậy mà anh Côn đã được theo học đến nơi đến chốn rồi đỗ đạt thành tài. Tất nhiên là do sự cố gắng của anh, nhưng sự định hướng và quyết tâm của người cha không phải là nhỏ. Cha tôi coi trọng việc học không chỉ cho con mình mà còn nghĩ đến con em trong xóm làng. Chứng cớ là ông đã bỏ tiền để xây cho làng một ngôi trường vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.

(còn tiếp)

Chu Chương Cảnh