Bên kia núi
Chừng cuối năm, thể nào tôi cũng thu
xếp để về Huế một
chuyến, về để chơi với Vinh, để đắm mình vào trong sự u hoài của Huế,
gột rửa
mình cho thật sạch và nghĩ một cách vẹn toàn về Diệu. Từng năm một như
thế, dần
dà tôi xót xa mà thấm thía rằng chỉ có mấy ngày đó tôi mới được sống
cho riêng
cá nhân tôi thôi, rằng tôi không phải cun cút chuyện cơm áo lên chức
lên lương,
không vợ cần thế này con cần thế khác, không thăm nom thủ trưởng, đối
tác, bên
nội hay bên ngoại... tôi buông lỏng cơ thể mình trôi trong lãng đãng,
cảm xúc
ngày một phong phú thêm về Diệu. Diệu. Cao vọng của tôi; Diệu. Thế giới
đẹp đẽ
vẫn vờn bay trên đời sống thường của tôi, bằng cách đó tôi yêu Diệu và
bằng
cách đó tôi an ủi mình. Nhưng Vinh, Vinh sẽ nhòm vào tận mặt tôi rất
khó chịu,
sẽ lí luận về thứ thuốc phiện người ta tự tiêm chích để lừa mị chính
mình bởi
thoáng chốc sung sướng, về sự vĩ đại nơi chính đời sống. Vinh bảo, nơi
chính
cái đời sống cặn bã của mày kia. Vinh sẽ nói cho hả lòng, còn tôi, tôi
không
muốn phí phạm từng ngày ít ỏi ở đây, cho đến khi tôi rời Huế, tan lẫn
và mất
hút vào dòng người cun cút phía thành phố tôi sống.
Bấy giờ Vinh sống độc thân được một
thời gian trong căn gác
nhìn xuống dốc Bến Ngự. Nói độc thân không có nghĩa là chưa có vợ, Vinh
từng
có, rồi lại không. Vào thời hăng hái, Vinh cùng vợ đi nghiên cứu sinh ở
nước
ngoài, nhưng chưa hết thời hạn thì Vinh đã chạy về, tơi tả và đau đớn,
với một
vết thương trong tâm. Từ đấy Vinh bắt tình để trút bỏ nỗi hờn giận về
một người
đàn bà, từ đấy Vinh tự cho mình quyền chua chát về cuộc đời.
Ở nhà Vinh, những buổi sáng thường
trôi qua rất lâu. Chúng
tôi kéo ghế ra sát cửa, dưới vòm vú sữa đẫm ướt sà xuống run rẩy, ngồi
bên tách
cà phê bốc khói thơm lựng, nhìn ra bên ngoài. Những sáng như thế Huế
bao giờ
cũng mưa, mưa lay phay từng sợi rất mỏng, một màn mưa giăng giăng mờ
mịt, một
màn mưa tím tái kéo dài mãi mãi không dứt khiến người ta nhão hết cả
ra, và
người ta chỉ có thể ngẫm nghĩ mà không thể muốn làm một cái gì.
Cà phê loang đắng trong miệng. Không
ai nói, nhưng chúng tôi
đều có ý chờ người ấy đi qua. Người ấy vẫn đi trong những sáng mưa,
khắc khổ và
trễ nải, cô độc xuôi dọc dốc Bến Ngự, đi không để ý gì xung quanh, đi
không
biết tới đâu, không biết trở về vào lúc nào nhưng sáng sau sẽ lại xuôi
dốc mà
xuống. Tôi đã quen thuộc hình ảnh đó nhưng đôi lúc bỗng rùng mình. Ngày
xưa
Phan Thi Sĩ (1) có lẽ cũng cô độc như thế. Người biết đâu vẫn thường
xuôi dốc
trong những sáng mù mưa để về bến, một chiếc thuyền câu một mối sầu...
- Người ta được gì vậy? Sao người kia
đến bây giờ còn độc
hành tìm kiếm?
Lần nào đó không giữ nổi Vinh buột
miệng thì thầm. Vinh,
dáng ngồi chểnh mảng, những vòng khói thuốc thả ơ hờ lên vòm cây sũng
ướt, duy
câu hỏi không giấu nổi vẻ day dứt.
***
- Được gì ư? Ngoảnh lại biết phù vân
hơn hẳn anh đã không
hỏi ta như thế. Này thôi, người tuổi trẻ, nâng chén đi. Những người
ngoài kia
đang vào cả đấy...
Một chiều tạnh ráo hiếm hoi theo chỉ
dẫn của Vinh tôi ngược
Trường An hỏi tìm họa sĩ P. Trường An tre trúc xanh mướt tỏa trùm lên
những lối
đi đầy cát, những khu vườn cây trái sum suê nồng nàn hương sapuchê mùa
chín rộ,
thấp thoáng những mái ngói, im lìm tịch mịch như cổ tích, như biến
thiên trời
đất trăm năm qua chưa đụng chạm tới đây. Căn nhà họa sĩ ẩn khuất mãi
cuối làng.
Nếp lá phên tre, hương ngọc lan vương trong không gian, trong này bầu
rượu đôi
chén, ngoài kia nghĩa địa thành phố trầm ngâm trong chiều muộn, mồ mả
nhấp nhô
nắm tay nhau chạy về phương trời phía núi Tam Thai.
Nâng chén lên, rờn rợn thấy người ngồi
đó heo hút nỗi niềm
như một phần cô tịch, vừa gần gũi vừa hoang liêu, hiện hữu đó hay đâu
cũng cõi
nào.
Vinh kể, những năm anh lớn lên trong
thành phố, người kia
không còn ở Huế nữa, ông trốn thoát những cuộc bắt bớ, trước khi tòa án
quân sự
khép ông án tử hình vì tội làm cộng sản. Vinh biết ông qua những câu
chuyện kể
của lớp đàn anh xuống đường như một tên tuổi lẫy lừng, một thần tượng
mà án
chết chỉ làm tăng thêm vầng hào quang sáng chói. Trong những giấc mơ
dấn thân,
trong những buổi xuống đường sục sôi, bạn bè anh vẫn thầm thì đọc nhau
nghe
những vần thơ ông không biết bằng cách nào truyền được từ rừng về.
Suốt năm 1968 Vinh hầu như không thể
đến trường, phần vì
những chấn động đau thương của Huế, phần vì cái chết của người cha đã
dồn toàn
bộ gánh nặng gia đình lên vai anh. Sang năm sau, vừa trở lại giảng
đường Vinh
tiếp thêm một cơn choáng nữa. Một cựu học sinh Quốc học có mặt trong
một toán
biệt kích nói đã nhặt được những dấu tích cuối cùng của người thủ lĩnh
năm xưa
bên miệng một hố bom khi luồn qua rừng A Sầu. Tin đó lan đi như sóng
ngầm qua
những giảng đường Huế. Vinh bảo, anh đã đau buồn một cách ghê gớm trước
cái
chết của người thầy tinh thần. Cùng vài người bạn nữa, anh bỏ thành phố
theo
quân Giải Phóng, để rồi tháng tư năm bảy lăm, có mặt trong cánh quân
thần tốc
đánh vào cửa ngõ Xuân Lộc.
- Tao đã ra đi, vì ông đã chết. Vậy mà
sau tháng tư năm bảy
lăm, Vinh nói, tao gặp ông ở Sài Gòn, quân hàm cấp tướng, trên muôn
người, dưới
một người.
Tưởng rằng, Vinh dừng âm thầm, câu
chuyện về ông đến đấy là
chấm dứt, nhưng không phải, thêm vài năm nữa thấy ông bỏ Sài Gòn về
Huế, tay
trắng, cô đơn và quay qua vẽ tranh, những bức tranh thảng thốt một cái
gì vời
xa...
- Tại sao vậy? Sao tao không thể hiểu
được? Vinh nắm chặt
bàn tay, và luôn luôn, một niềm đau đớn bừng lên trên sắc diện anh.
- Là bởi nàng! Người con gái hiện ra
trong sương hồng! Người
tuổi trẻ, anh có nghe ta nói không?
Ta khi xưa trên núi cháy chiếm ngôi
thần linh rất thiêng.
Qua bao năm...
Trong buổi chiều đó tôi sống lại những
buổi lửa trại Hướng
Đạo nhiệt thành trên đỉnh Bạch Mã; sống lại hình ảnh người trai rời
khung trời
Quốc Học lên nhận Bằng Rừng thề trung thành với Tổ Quốc; và người con
gái hiện
ra trong sương...
Em là ai?
Là ảo ảnh. Nhưng em sẽ ngồi đây, suốt
đời, mãi mãi chỉ để
yêu anh.
- Bạn trẻ, anh biết không, khi đó
không phải là cô nữ sinh
ngồi bàn đầu ngước đôi mắt đen huyền nhìn thầy giáo, khi đó, nàng hiện
ra từ
sương hồng, áo nàng lục tươi, môi nàng thơm như một đóa mimôsa. Là
nàng, nàng
đã chỉ cho ta con đường dấn thân...
Bạn trẻ, ba đào lịch sử đã cuốn chúng
ta, ta và nàng, như lá
bay, qua những phương trời...
Bãi bể nương dâu. Khi mây trắng ngang
đầu rũ áo về đây, ta
còn nhìn thấy nàng cưỡi ngựa trắng trên đỉnh non cao...
Tôi thở ra một hơi dài. Ngẩng mặt lên
Huế đã đêm từ lúc nào,
một đêm rất trong sáng, một đêm rất lộng lẫy, muôn ngàn vì sao chói lòa
rọi
xuống cõi nhân gian thăm thẳm một đường tôi về.
** *
Bẵng mất mấy năm tôi ra nước ngoài làm
cái gọi là luận án
tiến sĩ nhưng thực chất là đi kiếm tiền, cho đến buổi chiều đông đặt
chân xuống
sân bay Nội Bài chạm mặt làn mưa rây miền Bắc, lòng bất chợt buốt nhói
một cơn
đau. Ngay hôm sau tôi bay về Huế. Huế vẫn trầm mặc tịch lặng trong mưa
nhưng
không còn Vinh ở đó nữa. Vinh bán căn gác cũ để vào sống trong Sài Gòn.
Tôi đội mưa ngược dốc lên Trường An.
Trường An vẫn tre trúc
xanh mướt, vẫn cây trái sum suê và hương sapuchê mùa chín rộ tỏa lên
nồng nàn
trong mưa, chỉ người cũ nghe nói đi mất rồi. Căn nhà ẩn khuất ở cuối
làng trống
hoác không phên vách, chỉ tranh là tranh, những bức tranh vẽ một Duy
Nhất, là
Nàng, người con gái hiện ra trong ngày đầu tiên giác ngộ ý nghĩa cuộc
đời...
Thẫn thờ, tôi định quay ra thì bất
chợt trên những màu tranh
vừa nãy bùng lên một ánh chớp, và tôi đọc thấy:
Hát ạ
Ta gieo cấy
Từng hạt nhỏ hy vọng
Trên cái bóng âm u của ta
Mong em về nở hoa
- Anh tìm người ấy ư? Một người nữ gặp
ngang ngõ ngước đôi
mắt sâu thẳm nhìn tôi chỉ một con đường. Một chốn duy nhất. Anh lên Nam
Giao,
đốt lên một đàn hương. Anh đi đi kẻo muộn.
Như mê dụ, tôi chạy ngược Phan Bội
Châu qua Nam Giao. Nam
Giao đã lồng lộng trước mặt, bóng thông xanh đổ lên đỉnh trời, một
trời, chao
ôi chưa bao giờ cao như thế. Nhưng chỉ thoáng chốc, ngay lập tức mù mây
sương
khói đã ùa về, và Nam Giao chìm ngập trong cơn vần vũ. Tôi nghển cổ
nhìn, xuyên
qua mù mây sương khói, tôi nhìn thấy họa sĩ P., tôi nhìn thấy Diệu của
tôi,
Diệu tinh khôi đang hiện ra trong sương...
Ôi Diệu của tôi!
Một cái gì nặng trịch đậu xuống phía
vai. Tôi quay lại. Mơ
hồ một gương mặt, một giọng nói.
- Đây đã bên kia núi rồi. Người về đi.
Dưới kia tục lụy xanh
rờn người không dứt được. Thôi về đi, kẻo muộn.
Trần Thanh Hà
(1) Phan Bội Châu. Trong thời gian bị
giam lỏng ở Huế, ông
sống trong ngôi nhà nhỏ phía trên dốc Bến Ngự, cạnh chùa Từ Đàm.