*

Nguyễn Quốc Trụ
Sinh 16 tháng Tám, 1937
tại Kinh Môn, Hải Dương.
Quê Sơn Tây (Bắc Việt).
Vào Nam 1954.
Học Nguyễn Trãi (Hà-nội),
Chu Văn An, Văn Khoa
(Sài-gòn).
Trước 1975 công chức
Bưu Điện (Sài-gòn).
Tái định cư năm 1994 tại Canada.


Tác phẩm đã xuất bản:
Những ngày ở Sài-gòn
Tập Truyện
[1970, Đêm Trắng,
 Huỳnh Phan Anh chủ trương]
Lần cuối, Sài-gòn
Thơ, Truyện, Tạp luận
[Văn Mới, Cali. 1998]
Nơi Người Chết Mỉm Cười
Tạp Ghi
[Văn Mới, 1999]

Nơi dòng sông
chảy về phiá Nam
[Sài Gòn Nhỏ, 2004]
Viết chung
với Thảo Trần
Chân Dung Văn Học
[Văn Mới, 2005]

Bản quyền thuộc
Tin Văn và tác giả.
Trích đăng, vô vụ lợi,
liên lạc
email
Cần ghi rõ xuất xứ
[nguồn] khi sử dụng.


Links
Văn
Art2all
Ý Kiến
Quán Gió
Việt Báo
Talawas
VN Express
Guardian

Hồ Biểu Chánh

Chess

Trang & Bài đặc biệt

  Hiện tượng Trâm Thạc
&
Bài vở liên hệ

Thư Tín

*
Lô cốt trên đê làng
Thanh Trì, Sơn Tây

*
Golden Bridge
August, 2004

Alexa Ranking
81,253









 


*
Chúc Mừng Năm Mới
Sebald: Sân Trường Cũ
Thêm vào lời chúc mừng Giáng Sinh, và Năm Mới, là bản dịch bài viết của Sebald.
"Hãy viết cho đường được", có thể đó là lời nhắn nhủ lại của ông, qua bài viết thật ngắn này.
Tưởng niệm Sebald
Sebald: Phát biểu khi vô Hàn Lâm Viện

*
Tôi là người bị phỉ nhổ nhiều nhất tại Nhật Bản
Mặc dù những nhọc nhằn của cuộc sống, phải nói là, thế giới này có chút ‘khoan dung’ [clément] đối với tôi. Bạn chắc biết câu của Flaubert, nhân nói về cuốn Bà Bovary của mình, đã phán, ta muốn đi tới 'tâm hồn của sự vật', ‘l’âme des choses’. Trong những cuốn sách của tôi, tôi có cảm tưởng, mình muốn đi tới tâm hồn của cái chết. Chính vì thế mà tôi chấp nhận ý nghĩ về nó, với một sự bình thản. Trong “Quatre Quatuors”, T.S. Eliot viết, khi cái chết tới gần, phải “ngọ nguậy nhè nhẹ, và thật là nhè nhẹ.”
Một người Nhật ở Paris.
Tôi sinh ra ở phiá mấy kẻ tật nguyền
Nobel văn chương 1994: Cha và Con

Kertesz
Đồng Vọng cho Hồn Thiêng Lò Thiêu
Đọc Kertesz
Diễn Văn Nobel
Trang Kertesz
J'ai subi un deuxième choc littéraire en 1957, quand « L'étranger », d'Albert Camus, a été traduit en hongrois. Pour moi, c'était une révélation décisive qui m'a radicalement influencé dans mes choix..
[Tôi bị cú sốc văn chương thứ nhì khi Kẻ Xa Lạ được dịch qua tiếng Hung, vào năm 1957. Đây đúng là một cú mặc khải ảnh hưởng tới sự chọn lựa của tôi]

Ở đây, tại Đức, người ta mong chờ các tiểu thuyết mới của tôi. «Kaddish pour l'enfant qui ne naitra pas», [Kinh cầu cho đứa bé chẳng sinh ra] xuất bản năm 1992, được báo chí phê bình tốt và «Être sans destin», [Không Số Kiếp], cũng được như vậy. Khi tôi đọc các thư từ và các bài phê bình viết về các sách của tôi, tôi hiểu nước Đức cần những tiểu thuyết như vậy, cần loại mô tả Holocauste. Nước Đức đối diện với quá khứ... với Lịch Sử của họ và với Auschwitz. Ngày hôm nay, ở Âu châu người ta biết gần như mọi người đều có tham dự vào. Trong lúc đó, thế hệ thứ hai, thế hệ thứ ba lớn lên không có mặc cảm tội lỗi. Các thế hệ này muốn biết làm sao những điều khủng khiếp như thế lại có thể xảy ra. Trong các quyển sách của tôi, họ tìm ra một cái gì có thể giúp họ hiểu rõ hơn những chuyện như vậy.

Tuy nhiên, phải sống dưới chế độ độc tài và không được bằng lòng cho rằng đó là chế độ xấu cần phải cải tổ nhưng phải cho đó là kẻ thù tận căn. Trong chế độ toàn trị, cái căn bản của cuộc sống là phải hiểu mình sẽ bị giết bất cứ lúc nào. Như thế, cảm nhận được an toàn trong một xã hội như vậy là chuyện ảo tưởng. Tin tưởng vào xã hội này là ảo tưởng.

Tất cả các nghệ sĩ vào thời buổi đó đều sống trong cuồng hoảng. Văn sĩ cũng là một con người, thèm thành công, thèm được biết đến. Tôi viết một quyển sách, quý vị hãy yêu thích nó! Cùng một lúc tôi ý thức nếu quyển tiểu thuyết được xem như một biểu tượng, đặt trên bệ thờ, và người ta chính thức yêu thích thì đó là một quyển tiểu thuyết dở. Đó là nghịch lý làm mình bị nghiền nát. Đến một lúc, mình trở nên rất tự hào vì tiểu thuyết của mình không được thành công một cách chính thức, rơi vào thinh lặng, hoàn toàn chẳng ai biết đến. Hai thái độ được kiểm chứng và không lay chuyển. Đương nhiên khi chế độ toàn trị không còn thì các cảm nhận này cũng không còn.
Kertesz trả lời tờ Point.
*
"Auschwitz must have been hanging in the air for a long, long time, centuries, perhaps like a dark fruit slowly ripening in the sparkling rays of innumerable ignominious deeds, waiting to finally drop on one's head." (from Kaddish for a Child not Born, 1990)
[Auschiwitz còn treo lơ lửng hàng hàng thế kỷ, như một trái đen, từ từ chín đỏ nhờ hằng hằng những tia nóng của những chiến công nhục nhã, và sau cùng rớt trúng đầu bạn]
[Những chiến công nhục nhã, ghê tởm: Phải chăng ông này muốn nói đến chuyện "vui sao nước mắt lại trào" của đám Mít chúng ta?]
2002 Nobel Laureate in Literature
for writing that upholds the fragile experience of the individual against the barbaric arbitrariness of history
[Trao giải Nobel văn chương 2002... vì cố níu cái kinh nghiệm mỏng manh của một cá nhân nhằm chống lại cái tùy hứng man rợ của lịch sử].

*
... Nói ngắn gọn, tôi muốn làm sao tránh xa khỏi kiểu đua đòi Kafka, và chủ nghĩa biểu hiện (expressionnisme). "Kẻ Xa Lạ" không hiện thực mà cũng không kỳ quái (fantastique). Với tôi, đây là một thứ huyền thoại nhập thể (incarné: nhập xác phàm), không lơ mơ mà bám cứng lấy cõi người ta, tới tận da, tận xương, tận tủy. Và tới tận cùng của hơi nóng ngày ngày. Người ta muốn coi đấy là một kiểu cọ mới của vô đạo đức (immoraliste). Vậy là lầm to. Cái đập vào mặt chúng ta ở đây, không phải là đạo đức, mà là thế giới của vụ án, nó trưởng giả, nó quốc xã, nó cộng sản, nói tóm gọn, đây chính là vết lở lói đương thời.

Riêng với anh chàng Meursault, có chút hướng thượng ở anh ta, và đó là từ chối, tới chết: nói dối.... Meursault không ở phía những ông tòa, lề luật xã hội, những tình cảm ước lệ, đóng hộp. Anh ta có đó, như hòn sỏi, như ngọn gió, như biển cả, dưới mặt trời. Và cũng như sỏi đá, chúng có thể biết đau, nhưng không thể nói dối, chẳng bao giờ nói dối.... Nếu ông đọc cuốn sách theo kiểu tôi vừa đề nghị, ông sẽ nhận ra một thứ đạo đức của sự chân thành, và một niềm vui, vừa tiếu lâm vừa bi thảm, về cõi đời. Chính những điều này làm nó thoát ra khỏi vẻ u tối, biểu hiện, hay là thứ ánh sáng của sự tuyệt vọng....
Bữa nay mẹ tôi mất
Camus nhìn ra, cả hy vọng lẫn phi lý, ở trong Kafka: Nói đến hy vọng ở đây, không phải tiếu lâm, cà chớn (ridicule). Bởi vì, càng bi thảm tới cỡ nào là nỗi ở đời của những nhân vật của Kafka, hy vọng càng ngược ngạo chừng đó...
 Hay nói như Kierkegaard, "Phải đập nát bấy hy vọng trần gian, để làm bật ra hy vọng thứ thiệt, và được cứu rỗi, nhờ nó. (On doit frapper à mort l’espérance terrestre, c’est alors seulement qu’on se sauve par l’espérance véritable – la Pureté du coeur: Sự Trong trắng, trinh nguyên của trái tim)
Đọc Kertesz

Dịch Kafka
A belief like a guillotine – as heavy as light.
Franz Kafka: Reflections on Sin, Suffering, Hope, and the True Way
[Niềm tin thì cũng giống như cái máy chém. Nặng như thế. Mà nhẹ, cũng như thế].
Hai Lúa tin rằng nhà thơ VC Phạm Tiến Duật phải đã từng đọc Kafka, nhất là câu trên, mới nẩy ra hứng sáng tác, câu thơ thần sầu:
Đường ra trận mùa này đẹp lắm!

Nghệ Thuật Ai Điếu
Tờ TLS điểm, và ca, một cuốn sách rất ư là đặc biệt, tuyển tập những lời ai điếu, những nhân vật hiển hách, những sự kiện đáng nhớ nhất, của thế kỷ vừa qua. (1)
Tiếc, chưa đọc, đã biết thiếu, một bài thật quan trọng: "Ai điếu cho một nền văn chương minh họa", của Nguyễn Minh Châu.

Hồi Ức Ba Lan, Cứu Rỗi Qua Tiếng Cười

Người Mẽo Không Thầm Lặng
Điểm Sách Nữu Ước, NYRB, số đề ngày 12 Tháng Giêng 2006, Charles Simic vinh danh nhà văn Ba Lan, Witold Gombrowicz: Cứu Rỗi Qua Tiếng Cười, khi điểm một số sách của ông.

Trong Những Di Chúc Bị Phản Bội, Kundera vinh danh Gombrowicz:
Rời quê hương năm 1939, khi 35 tuổi. Mang theo cuốn Ferdydurke, như là căn cước cá nhân của mình.... Cuốn sách được in năm 1937, trước cuốn Buồn Nôn của Sartre một năm, nhưng Gombrowicz, vô danh, Sartre, danh tiếng như cồn sau Buồn Nôn.  Cuốn của Sartre đã chôm vị trí Ferdydurke của Gombrowicz. Nếu không có sự bất hạnh này, văn chương Tây Phương, và có thể cả triết học, đã đổi khác.

Và Pankaj Mishra vinh danh Edmond Wilson, một Người Mỹ Không Trầm Lặng, khi đọc cuốn tiểu sử mới ra lò về ông phê bình gia số một của Mẽo này.


Nghĩ hoài về ông, sau khi ông mất. Tôi cố gắng gọi tên, bài học ông để lại cho chúng ta. Làm sao mà một người không học xong trung học, chẳng bao giờ học đại học, lại trở thành một thế giá hiển hách đến như thế, quyền uy đến như thế, dưới hào quang rực rỡ của kiến thức, của sự hiểu biết mang tính nhân bản?
Milosz: Ghi chú về Brodsky

14 15
Ly không mảy may phản ứng khi gặp Kiệt. Gương mặt nàng phẳng lặng. Nàng thong thả ngồi vào chỗ, nghe chuyện giữa Phương và Kiệt. Mãi sau, trong khi Phương đang nói, Ly nhìn Kiệt càng lúc càng sâu rồi mỉm cười thay lời chào hỏi.

Đà Lạt 1 2 3

Ông Thầy

Cá Rô Cây và Nước Mắm Lá Chuối
5 6
Vào năm 1944, họ đeo cho tôi một ngôi sao vàng, và theo một nghĩa biểu tượng, nó vẫn còn đó; từ cái ngày ấy, tôi không làm sao gỡ nó ra được nữa.
Kertesz: Ngôn ngữ lưu vong

Nhân phong trào, hiện tượng, khuynh hướng [ tùy hỷ, muốn xài chữ nào đúng trường hợp thì xài ] đưa sách về trong nước, xin được nhà nước VC kiểm duyệt, cho phép in [phần này lại phải xin phép đầu nậu, cho dù VC đã OK] làm Hai Lúa nhớ đến trường hợp một ông, nhờ làm thơ về nguồn mà đậu thanh lọc.
Ông này chắc chắn chưa từng làm thơ, chưa từng viết văn. Vốn là học trò của giáo sư NVC. Vượt biên qua Thái Lan, ông trình giấy xác nhận của ông thầy cũ. Hai Lúa được coi giấy này, trong đó, ông giáo sư chứng nhận, ông học trò của mình ngày còn đi học, có tham gia biểu tình, xuống đường chống... VC! [Chứ không lẽ chống VNCH, chống Mẽo?]
Một cái giấy như thế, thật khó lòng qua cửa ải thanh lọc. Ông ta bèn nộp thêm một mớ thơ về nguồn. Đúng là thơ về nguồn thực, vì Hai Lúa có coi, trong đề cao bốn ngàn năm văn hiến, thờ ông bà ông vải, công cha nghĩa mẹ... Đến ngày thanh lọc, tay sinh viên Luật đại diện Bộ Nội Vụ Thái Lan, sau khi nghe thông dịch viên dịch thơ về nguồn qua tiếng Anh, quá đỗi ngạc nhiên, hỏi, thơ thế này, thì phản động ở chỗ nào? Ông ta bèn dõng dạc trả lời: VC sợ thơ về nguồn này còn hơn sợ thơ phản động! Chúng vô thần, chúng thờ ông Mác, ông Lê Nin, nên rất sợ dân Việt Nam đòi về nguồn!
Anh sinh viên nghe có lý, bèn cho đậu thanh lọc.
Câu chuyện lúc này mới tới bước ngoặt lịch sử, đỉnh cao thời đại của nó: Ông kia, sau đó, đi đâu cũng vỗ ngực, xưng tên, tao là thi sĩ. Chứng cớ đâu: Thì Cao Uỷ Quốc Tế công nhận tao rồi cơ mà!

Chuyện mang tác phẩm về năn nỉ VC đóng dấu, lẽ dĩ nhiên thê thảm hơn nhiều, và càng khó có tí tiếu lâm, tí happy ending [kết cục có hậu], như chuyện trên.
Nó đâu có khác ngôi sao tụi Nazi thích lên mặt người Do Thái.
Nó có nghĩa: Mày là Do Thái, như vậy mày không phải là người!

Có thể, có người cho rằng Hai Lúa quá khích, quá thù VC, và quá.. khốn lịn, khi chỉ nhìn thấy khiá cạnh "không dzui", của vấn đề. Kertesz, ở trên, có nói đến sự kiện, trong một chế độ toàn trị, nếu cuốn sách của bạn được thờ, hay được độc giả đón đọc, thì cuốn sách ấy vứt đi.
Một khi nhà nước VC đóng dấu, cho phép bạn là nhà văn, cho phép sách của bạn được xuất bản, theo tôi, cuốn sách đó cũng thuộc loại cứt đái. [Hai Lúa nói, những sách hải ngoại, không phải sách ở trong nước]
Nhất là sách sáng tác.
Ngay cả dịch phẩm, một khi VC cho phép in, cũng đã chứng tỏ, thuộc loại vô hại, hoặc đã bị thiến bỏ những gì có hại cho nhà nước. Trong trường hợp đó, thực sự mà nói, độc giả trong nước đếch cần những tác phẩm như vậy!

Trong khi đó, với một tác giả hải ngoại, viết, là viết cho độc giả ở trong nước đọc, như đã có lần Hai Luá viết. Nếu không, cái viết của bạn cũng thuộc loại cứt đái.

Một trong những thách đố quan trọng nhất, đối với bất cứ một nhà văn hải ngoại, là, viết làm sao, để cho độc giả, nhất là độc giả trong nước, cảm nhận: Bài viết này hình như muốn nhắn nhủ chính ta, một điều gì đó, và điều này thật 'thiêng liêng và bí ẩn' [mượn chữ của Thảo Hảo, một tác giả trong nước]. Và đây mới chính là "tham vọng" của những bài tản văn của... Thảo Hảo. Nói rõ hơn, trong, thì viết như là nhắn ra ngoài, ngoài thì viết như là nhắn về trong nước, về những gì thật thiêng liêng, thật bí ẩn, thật đáng trân trọng....
Bóng Đè


Cuối cùng, chỉ còn mỗi một cách giải quyết "vấn nạn" trên, là viết lên không gian ảo, viết lên trời xanh!

Theo nghiã đó, những độc giả hải ngoại của Tin Văn, là "thứ-độc giả": độc giả hạng hai!
Độc giả đích thật của nó, là những đồng bào ở trong nước.
Đó mới chính là tham vọng hiển hách nhất mà thằng Hai Lúa này muốn thực hiện cho bằng được, khi làm trang Tin Văn.
Và đó cũng là lời chúc tốt lành nhất, nhân dịp đầu năm, gửi về quê hương. NQT

Trích dẫn trong ngày
"Debauchery is perhaps an act of despair in the face of infinity."
Edmond De Goncourt (1822-1896) and Jules De Goncourt (1830-1870). French writers. The Goncourt Journals (1888-1896).
[Phóng tác: Hiện tượng Bóng Đè chắc là do chán ngán trước vô cùng]