Tuyển tập
Thảo Trường

Wednesday, July 30, 2008 3:26 PM
From
To:
Ong Gau,
Toi vua gui qua buu dien tang OB mot quyen Tuyen tap "Nhung Mieng Vun Cua Tieu Thuyet", day 550 trang , nang 1kg, do Nguoi Viet xuat ban va phat hanh. Toi tim mai moi ra cai dia chi….
Dung không?
Nhan duoc ong mail cho biet. Cai bia do Nguyen Dong lam.
*
Chúc mừng bạn ta.
Báo tin mừng liền tù tì, và trân trọng giới thiệu bạn đọc Tin Văn


*
*
Tibet dưới gót giầy Trung Cộng
Người Quan Sát Mới 24&30 Tháng Bẩy, 2008

Chào mừng Tổng Thống Pháp tới Bắc Kinh
Khủng Bố Ở Tibet
A la veille du voyage de Sarkozy à Pékin: Terreur au Tibet

Lèo nhèo NQL

Gấu có nhớ nhà không?

Cái gọi là văn chương Miền Nam, trước 1975, ngày càng lộ ra như một toàn thể, không một nhà văn nào có thể bị chia cắt ra khỏi một nhà văn nào, trừ những anh VC nằm cùng, tất nhiên.
Gấu đọc D.M. Thomas, viết về tiểu sử Solzhenitsyn, và ngộ ra điều trên.

*

Alexander Solzhenitsyn: Thế kỷ ở trong ta.

Trong bài tựa, D.M. Thomas viết, Solz đã giúp trong cái chuyện hạ gục nền độc tài vĩ đại nhất thế giới, kể từ trước tới nay, ngoài ra còn dậy cho Tây phương biết, Cái Ác đầy đủ của nó khủng khiếp ghê rợn là dường nào, its full horror. Không nhà văn nào của thế kỷ 20 có một tầm ảnh hưởng như ông trong lịch sử.

Nhưng câu chuyện của ông không phải của chỉ đơn độc một thế kỷ. Khi Alexander Tvardovsky, chủ biên tờ Novy Mir cho người vời nhà văn vô danh tới, để thảo luận về bản thảo Một ngày trong đời Ivan Denisovich, trên đường tới gặp, Solz bèn ghé Quảng trường Strastnaya, đứng bên dưới tượng Pushkin, chơi một pô hình, một phần, mong thi sĩ phù hộ [support: hỗ trợ], một phần, hứa hẹn: Đàn em biết con đường phải đi theo. Và sẽ đếch thèm xin thuận buồm xuôi gió! [I knew the path I must follow and would not stray from it].
Một thứ cầu nguyện, theo Thomas.
Không phải theo kiểu thường nhân ghé đứng chụp hình kế bên Shakespeare, vừa tưởng niệm vừa hưởng tí vinh dự: Solz nhìn ở Pushkin như người đồng thời của mình.
Nhưng cái cử chỉ, hành động ghé tượng Pushkin đã khiến Thomas có một vision về cuốn sách mình sẽ viết. Nó làm ông nhớ đến bài thơ hách xì xằng của Pushkin, Kỵ Sĩ Đồng, 1833.
Ui chao, lạ làm sao, nó làm Gấu nhớ tượng Đức Thánh Trần và ngón tay của Người chỉ ra cửa biển Vũng Tầu!
*

Chắc chắn chẳng có ai sáng sớm nào cũng ghé thăm cầu nguyện Đức Thánh Trần cần mẫn, thường trực, chẳng bỏ ngày nào, ròng rã  mười năm trời như Gấu!
Bởi vì mỗi sáng, Gấu từ nhà ở đường Nguyễn Bỉnh Khiêm chạy ra tới Hai Bà Trưng, cứ thế thẳng hướng bờ sông, tới tượng Đức Thánh Trần, rồi men theo quảng trường ghé Ngô Đức Kế, tới văn phòng UPI coi có hình cần chuyển cas 8 giờ sáng, tức 0 GMT, tới văn phòng UPI Tokyo, từ đó sẽ chuyển đi khắp thế giới.


*

She had big breasts, slim legs, and blue eyes. That's how I like to remember her. I don't know why I fell madly in love with her, but I did, and at the start, I mean for the first days, the first hours, it all went fine; then Clara returned to the city where she lived, in the south of Spain (she'd been on vacation in Barcelona), and everything began to fall apart
Xôi (1) nàng to, cẳng nàng thon, mắt nàng xanh, mỗi lần tôi nhớ nàng...
(1) Oản nhỏ, xôi lớn.

Trên Người Nữu Ước, số August 8, 2008, có cái truyện ngắn của tay Roberto Bolano.
Clara.
Đọc chỉ mấy câu mở ra thôi, là đã nóng bỏng hết cả người lên rồi.

Tin Văn đã từng giới thiệu tay này. Nhân tiện, sẽ dịch truyện ngắn trên, để thử coi viết có bảnh thực không, như đã từng phán: Phẩm chất của cái việc viết là đâm đầu vào bóng đen, là lao vào chỗ trống không, là hiểu ra rằng, văn chương là một tiếng gọi nguy hiểm.

Tin Văn


Phim Nỗi buồn chiến tranh: Sẽ nhẹ nhàng hơn tiểu thuyết! 

Nhà văn Bảo Ninh viết dữ dội hơn, tập trung vào mặt trái của chiến tranh. Còn Nicolas Simon tập trung vào tình yêu của hai nhân vật chính. Thực ra Nicolas thích cái tên Thân phận tình yêu hơn.
*

Như vậy là tay làm phim nhận xét về cuốn truyện giống Gấu.
Nhưng chắc khó hơn Gấu, khi vạch mặt chỉ tên cái anh chàng nhân vật chính “có thể tha thứ cho cuộc chiến, nhưng không thể tha thứ cho cuộc tình”.
Nói rõ hơn, sau cái vụ em được Bộ Đội Cụ Hồ bề hội đồng ở ga Thanh Hoá, là em phải tự tử, để tạ tội, thì mới đúng là gái Bắc Kỳ!
*
Về kỹ thuật viết, Nỗi Buồn là một hồi ức lộn xộn, một cách hết sức tự nhiên, như tình trạng “da beo”, của cuộc chiến. Người đọc có thể nhẩy vô bất cứ đoạn nào và lập tức toàn bộ cuốn sách phơi mở, mời gọi. Chất thơ của hồi tưởng, kỷ niệm, ở, ngay cả những đoạn tàn nhẫn nhất, khi viết về pháo bầy, bom trải thảm.
Tác giả nhận diện đứa con tinh thần của ông: “Đây chỉ là một sáng tác dựa trên cảm hứng, [được] chỉ đạo [bởi] của sự rối bời”.
Sartre, đọc Âm Thanh và Cuồng Nộ, của Faulkner, nói, đây là kỹ thuật của sự hỗn độn, và ông khẳng định: Kỹ thuật tiểu thuyết luôn qui chiếu về một siêu hình học của tiểu thuyết gia. Với Faulkner, một siêu hình học về thời gian.
Đọc Nỗi Buồn, độc giả có thể mường tượng ra trục thời gian của nó, của chuyện tình đẹp, nghẹn ngào, đó là chuyến tầu định mệnh, khi Kiên đi vào Nam chiến đấu, và Phương chạy theo, rồi “tai nạn” xẩy ra.
Và, đây mới là ý nghĩa đích thực, mang tính “uyên nguyên, bi đát” của cuốn truyện, của nỗi buồn: “Kiên có thể tha thứ cho cuộc chiến, nhưng không thể tha thứ cho cuộc tình”. Như chúng ta đã biết, truyện lúc đầu có tên “Thân phận tình yêu”. Cái tít này mới đúng với nó.
Và còn đúng cho cả một miền đất.
Toàn truyện, mọi hồi tưởng, về chiến tranh, lập tức kèm theo, một hồi tưởng về cuộc tình, về tai nạn, về nỗi đớn đau một lần để lỡ. “Chẳng còn đem nào như đêm nay đâu. Anh muốn hiến đời anh cho một sự nghiệp gì đó, còn em quyết định sẽ phung phí đời mình, sẽ huỷ diệt nó trong cuộc chiến này".
Gấu đọc Nỗi Buồn

Ui chao, đọc lại văn của Gấu, không phải văn, mà là điểm sách, mới thấm lời độc giả của Gấu:

A. bảo chú Trụ dịch và viết thật lạ lùng, tràn đầy tình, ngay cả trong một thể loại đầy tính cãi cọ. Có lẽ văn chương phải thế, phải giống như một lời đi tìm tri kỷ, phải dạy người ta một điều gì đó nhưng không dạy đời. 

Toi phuc anh kinh khung, ve su doc, suc viet, su nhay ben va long tho mong.
*
Vậy mà có một độc giả 'ruột' phán, Tin Văn đen thui, trừ những trang viết về BHD.
Cũng độc giả này, than, đọc một câu thôi, có khi bần thần mấy ngày trời!
*
Trừ những trang về BHD.
Ui chao, tuyệt!
Tuyệt!
Tks. NQT


Gấu đọc Nỗi Buồn Chiến Tranh của BVVC

 Nhà văn Miền Nam được Time tiếp xúc, đề nghị, và đã nhận lời, trên nguyên tắc, theo Cao Bồi, là nhà thơ Thanh Tâm Tuyền.
 Sau đó Gấu có hỏi ông, và ông gật đầu xác nhận chuyện này. NQT
*
Tôi không coi 'Nỗi buồn chiến tranh' là một sự đột khởi, đột biến của văn học Việt Nam viết về chiến tranh, viết từ thế nhìn của người chiến thắng. Bởi trước đó đã có 'Đất trắng'. Nhưng đúng là phải chờ Bảo Ninh thì văn học viết về cuộc chiến vừa qua ở Việt Nam mới vượt lên trên tầm 'thường'.
Khi đến với bạn đọc lần đầu, tác phẩm của Bảo Ninh phải ẩn thân dưới một cái danh khác: 'Thân phận của tình yêu.' Rõ là sến, vô nghĩa, rậm lời. Gọi tác phẩm bằng cái tên nguyên thủy của nó, mới có thể tiếp cận được với trường cảm xúc của tác giả. Ấy là tình yêu, tình bạn, tình đồng đội, tình người.
So với các tác phẩm có chung một đề tài (chiến tranh chống Mỹ, chiến tranh giải phóng, nội chiến vì phân biệt ý thức hệ), 'Nỗi buồn chiến tranh' rất mới về bút pháp. Sự chuyển đổi thời gian được mô tả thật nhuyễn, sự trôi chảy của ý thức đã được Bảo Ninh theo dõi không ngừng. Tuy nhiên, cái mới đó vẫn chưa thật là mới khi xét nó trong phạm vi tiến trình phát triển của văn học thế giới. Cái mới của một tác phẩm, xét đến cùng là ở cách 'nghiền ngẫm' hiện thực (chữ dùng của Lê Ngọc Trà). Trong nghĩa đó, đi vào đề tài chiến tranh, Bảo Ninh là nhà văn đầu tiên ở Việt Nam biết nghiền ngẫm, nói được những điều chưa từng ai nói.
LMH
*

Nếu đã từng đọc 'Một thời để yêu, một thời để chết' của Remarque, hẳn bạn sẽ bị ám ảnh rất lâu, có thể là mãi mãi bởi hình ảnh cuối cùng tác phẩm: Người du kích Liên xô ngay sau lúc được giải thoát đã nâng súng bắn hạ người lính Đức vừa giải thoát mình. Một cách có ý thức? Hay vô thức? Không biết! Chỉ biết là viên đạn đã ra khỏi nòng súng và thêm một con người gục xuống vào phút hấp hối của chiến tranh. Còn lại vĩnh viễn hy vọng không bao giờ thành thực của nhân vật chính. Còn lại vĩnh viễn một nỗi buồn: Nỗi buồn chiến tranh.
LMH

Cái cú bắn này, rõ ràng như ban ngày: Anh du kích Liên Xô lúc nào cũng nghĩ xấu về tên lính Đức, anh ta không tin thằng khốn nạn thực sự tha mình. Nó chờ mình chạy, rồi bắn, coi như bia sống. Nhân thằng chả mải mê đọc thư nhà, là đòm một phát.

Cái cú này đúng là cú giải phóng Miền Nam. Anh Ngụy tưởng là chiến tranh xong rồi, Mỹ cút rồi, Ngụy nhào rồi, thế là đòm một phát, đi hết cả Miền Nam.

Gấu nghe nói, sau khi hòa đàm Paris ký kết, mấy anh VNCH chạy đến hôn mấy anh VC, khóc ròng [xin nhắc lại, mấy anh VNCH, hình như có Vũ Văn Mẫu thì phải, khóc ròng], nước nhà độc lập thống nhất rồi. Gấu bất giác nhớ ông cụ Gấu, nghe Cụ Hồ đọc diễn văn Ba Đình, chạy về la lớn: Nước nhà độc lập rồi, sau đó bị thằng học trò cho đi mò tôm.
Đó là kỷ niệm độc nhất của Gấu về ông bố của mình, những ngày đầu Cách Mạng.
*

Chỉ biết là viên đạn đã ra khỏi nòng súng và thêm một con người gục xuống vào phút hấp hối của chiến tranh.
Ui chao, câu này, phải dành cho me-xừ Nhàn, giám đốc nhà xb Vàng Son, số 32 Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Gấu đã từng viết về ông. Ngay sau 30 Tháng Tư, hưởng ứng lời kêu gọi của Tân Nhà Nước, tức Nhà Nước Cách Mạng, Nhà Nước Ăn Cướp, kéo cả gia đình đi Kinh Tế Mới. Buổi sáng hôm đó, chàng tà tà vác cuốc đi làm rẫy, mơ mộng đổi đời, không nghe tiếng anh du kích hô, đứng lại, thế là đòm một phát.
Chàng. Đúng là chàng.
Đúng ra phải gọi là Romeo, như nickname mà đám nhân viên, tức Gấu, Nguyễn Trọng Khôi, Nguyễn Mai đặt cho ông.
Juliette, cô bồ của ông, trước 30 Tháng Tư rông, kéo ông theo, ông lắc đầu. Tôi chọn vợ tôi. [Nhại Camus: Tôi chọn Mẹ tôi]


Đài gương soi đến dấu bèo
Bài đọc thêm: Cái Lỗ Hổng

Lèm bèm về dòng văn học "Lạc Đường"


Không phải "niềm vui lớn"

Nỗi buồn Istanbul

Điêu tàn ư, đâu chỉ Điêu tàn:
Tanpinar và Yahya Kemal trong những Xóm Nghèo Istanbul 

Tanpinar và Yahya Kemal thường sóng đôi, trong những chuyến tản bộ dài, ở những khu vực trơ trọi, xa xôi, và nghèo khổ của Istanbul. Một lần, một mình trở lại những nơi chốn xưa, trong “bốn khu vực rộng lớn và khốn cùng giữa Kocamustafa và những bờ tường của thành phố”, trong thời kỳ Đệ nhị chiến, Tanpinar bồi hồi nhớ lại, những cuộc đi dạo sớm sủa đó đã hữu ích cho ông biết là chừng nào. Cũng là từ những khu vực nghèo khổ này mà Gautier nhìn ra vẻ sầu muộn, nỗi buồn tỏa xuống khắp thành phố vào thời gian 1853; Tanpinar và Yahya Kemal bắt đầu những chuyến dã ngoạn của họ vào “những năm tủi nhục đình chiến”.

Khi hai ông nhà văn lớn lao của Thổ bắt đầu những chuyến tản bộ đầu tiên của họ, bẩy mươi năm đã qua đi kể từ những cuộc viếng thăm của hai nhà văn Pháp là Nerval và Gautier, tác phẩm của họ cả hai ông nhà văn bản xứ đều ngưỡng mộ; vào thời gian đó, Đế quốc Ottoman đang từ từ mất dần những đất đai của nó ở vùng biển Balkan và Trung Đông, ngày một nhỏ đi, nhỏ đi, và sau cùng biến mất, những nguồn thâu nhập nuôi sống Istanbul khô kiệt dần; mặc dù làn sóng thường trực di dân Hồi giáo chạy trốn họa diệt chủng tại những nước tân cộng hòa Balkan, con số người chết do cuộc Đệ Nhất Thế Chiến lên tới hàng trăm ngàn người, thành thử, dân số cũng như của cái của Istanbul cứ co cụm lại. Cùng thời gian này, Ấu Châu và Tây phương giầu có thêm lên, nhờ những tiến bộ về kỹ thuật lớn lao. Khi Istanbul trở nên nghèo khổ hơn bao giờ hết, nó mất sự quan trọng trên thế giới, và chỉ còn là một nơi chốn xa xôi, oằn xuống vì gánh nặng thất nghiệp. Khi còn là một đứa trẻ, tôi không hề có được cảm giác sống trong một thủ đô của thế giới, mà chỉ là tỉnh thành vùng nhà quê, nghèo đói.