*

Tạp Ghi
2
3


















30.4.2008: Người xa vắng biết đâu nấm nhà buồn?

Nhân đọc bút ký chính trị của Nguyễn Khải


Đi tìm cái tôi đã mất Nguyễn Khải — Cập nhật : 06/05/2008 21:57
Tuỳ bút chính trị cuối cùng của nhà văn Nguyễn Khải (1930-2008)
Đi tìm cái tôi đã mất (3 và hết) Nguyễn Khải — Cập nhật : 06/05/2008 21:59
 
Đi tìm cái tôi đã mất (2) Nguyễn Khải — Cập nhật : 05/05/2008 23:47

Nhà văn Nguyễn Khải từ trần

Ông này, đã có thời, Gấu rất mê, những ngày đầu 'giải phóng' qua những cuốn như Thời gian của Người, Vòng sóng đến vô cùng... ở trong đó, có giấc đại mộng của toàn dân Mít: Thắng trận này, là xong. Là có "Cái Nhà Việt Nam"!
Con Bọ là hình ảnh ngược. Thượng Đế thì cười. Vừa cười vừa trao lộn món quà: Thay vì cái đẹp nhất, dân Mít chúng ta có cái tệ nhất.
*
Trong số những tác phẩm của ông, báo trong nước vờ đi mấy cuốn, thuộc loại bảnh, làm mất đi một phần bản chất của Nguyễn Khải, thí dụ, Điều tra về một cái chết [?], viết về Cao Đài, và Thánh Thất của nó, Tây Ninh. Theo Gấu, một trong những bận tâm ruột của ông này, là tôn giáo. Ông đã từng có một cuốn về Ky tô giáo, viết về cái nôi của nó ở Miền Bắc, là vùng Phát Diệm.

Ông còn một bận tâm ruột nữa, là dòng dõi, vốn con quan, nhưng thuộc dòng thứ, bị bố ruột chê, nên chọn Đảng thay. Lòng biết ơn Đảng của ông, đúng ra, là dành cho ông bố. Bi kịch của Nguyễn Khải, là bi kịch Hamlet, hay đúng hơn, bi kịch trong Con Gái Viên Đại Uý của Puskhin. Tay sĩ quan trẻ ở trong đó, nằm mơ, thấy bố bịnh, đến gần giường vấn an, thì hoá ra là Pugachev, một tay nông dân nổi loạn chống Nga Hoàng, sau bị xử tử.
*
Bạn văn VC của Nguyễn Khải xếp ông vào loại nhà văn phóng sự. Tôi nghĩ, "ông thì cười", và gật gù, mấy thằng ngu, không đọc nổi ta.
Ngay cả chuyện, đám ngu vờ mảng văn chương dám đương đầu với món thuốc độc của quần chúng của ông, là đủ hiểu.
Nhưng theo Gấu, về lâu về dài, ông sẽ được nhìn như là nhà văn viễn tưởng, chuyên viết truyện thần tiên, về một xứ sở Mít, với giấc mơ thiên đường của chúng, qua hai cuốn truyện dành cho nhi đồng, là Thời gian của Người, và Vòng sóng đến vô cùng!
Một trường hợp Daniil Kharms của Việt Nam, nhưng ngược lại. Ông Liên xô kia thì bị làm thịt.


Chân Dung Nga

 Trong một kỳ Tin Văn, Jennifer có nhắc tới bức hình nhà văn Nga Nabokov khi còn là một cậu con nít nhà giầu, ngồi vắt vẻo trên ghế cao, chân mang vớ dài, tay mở bộ sưu tập bướm. Hai nỗi đam mê lớn của ông đã có ở trong bức hình: mê bướm, và mê làm… phù thuỷ, cầm cây "viết thần", ra lệnh : hãy nói đi, hồi ức (speak, memory).

Bức hình nói trên, là ở trong tạp chí Điểm Sách Paris (The Paris Review), số Mùa Đông, 1995. Còn hình một vài nhà văn Nga khác. Đây là những hình thật đặc biệt; có những bức lấy ra từ hồ sơ "mật", hoặc "nghe đồn", được giấu ở đáy một ống thông hơi thang máy. Đặc biệt hơn nữa, mỗi bức kèm theo một bài viết, do những tác giả đã từng có một mối thân quen đặc biệt với người trong hình, hoặc do chính người phát giác ra bức hình (như hình Andreyev, Babel, và Kharms).

Jennifer xin cống hiến bạn đọc bài viết của Ian Frazier (nhà văn Mỹ, thường viết văn "u mặc", humor, và "không-giả tưởng", non-fiction, hiện sống ở Missoula, Montana), về bức hình nhà văn

Trong số hàng triệu con người bị Stalin sát hại, có một nhà văn tức cười nhất, uyên nguyên nhất, của thế kỷ: Daniil Kharms. Sau khi ông chết ở trong tù, vào năm 1942, khi 37 tuổi, tên và tác phẩm của ông hầu như biến mất, và chỉ còn sống dưới dạng chép tay, lưu truyền giữa những nhóm nhỏ, ở một nơi có tên là Liên Bang Xô Viết.

Thực tình là, không có một độc giả Anh ngữ nào biết về ông. Tôi (Ian Frazier) cũng vậy, cho tới khi đi Nga, trở về, đọc những cuốn sách về nó, và cố gắng học tiếng Nga. Cô giáo của tôi, một người đàn bà trẻ chỉ ở Mỹ được vài tháng, đã ra bài làm ở nhà cho tôi như sau: hãy dịch một đoản văn của Daniil Kharms ra tiếng Anh. Đoản văn "Những mẩu chuyện từ Cuộc Đời Puskhin", (Anecdotes from the Life of Puskhin) là ở trong CTAPYXA (Bà Già), một tuyển tập nhỏ tác phẩm của Kharms, đã được xuất bản ở Moscow vào năm 1991. Tiếng Nga, hai cuốn từ điển, và một cuốn sách văn phạm, tất cả đều quá mới, lần đọc Kharms đầu tiên của tôi thật là chậm như sên. Cùng với sự mầy mò từng từ, từng câu, niềm hân hoan của tôi gia tăng, khi ý nghĩa của chúng lộ dần ra. Mỗi câu là một tức cười, hơn cả dự đoán của tôi về nó. Một đoạn văn bắt đầu như thế này: "Puskhin mê ném đá". Những mở đầu như vậy làm cho tôi nghẹt thở: làm sao đoán ra nổi cái gì sẽ tới liền sau đó.

Giữ được chất tiếu lâm, khi chuyển dịch ngôn ngữ, là một điều khó khăn vô cùng, ai nấy đều biết. Nhưng có một hệ quả, ít được biết: đôi khi, trong tiến trình dịch thuật, câu chuyện có vẻ tếu hơn là lúc thoạt đầu chúng ta nghĩ về nó. Trong khi dịch, tôi nghĩ Kharms là một nhà văn tức cười nhất mà tôi đã từng đọc.

Ian Frazier, qua cuốn Văn Chương Phi Lý Đã Mất của Nga (Russia’s Lost Literature of the Absurd), được biết, Kharms ra đời với tên Daniil Ivanovich Yuvachev, tại Petersburg vào năm 1905. Cha ông, một nhà trí thức cách mạng bị cầm tù và đầy đi Siberia. Ông thừa hưởng từ người cha, đam mê chuyện kỳ quái. Ông đau khổ vì "buồn" (that he suffered from melancholy). Mê Gogol, Knut Hamsun và Bach. Một bạn đồng học nói về ông: "Kharms là nghệ thuật" (Kharms is art). Cùng với sự lên ngôi của "nhà vô sản", và sự vào tù của "nhà quí tộc", Kharms cảm thấy thích thú trong bộ dạng một nhà quí phái, cộng thêm hàng ria mép giả thỉnh thoảng lại nhinh nhích, hinh hỉnh, cộng thêm chiếc cặp da kè kè bên mình, trong là những… chiếc ly uống rượu bằng bạc! Để lôi kéo khán thính giả cho một buổi trình diễn kịch của nhóm OBERIU, ông di dạo ở chót vót phía bên trên thành phố Saint Petersburg, miệng ngậm ống vố, và la lớn, thông báo cho những bộ hành qua lại phía bên dưới, về "biến cố quan trọng" kể trên!

Nói tóm lại, một gã vui nhộn, quá vui nhộn đối với chủ nghĩa Cộng Sản. Đối với bất cứ một ấn bản nào của Stalin, về chủ nghĩa Cộng Sản. Sau thành công của vở kịch "Elizabeth Bam", một hài kịch về một người đàn bà chờ… "được bắt và được giết", báo chí nhà nước kết án nhóm kịch của ông là… "trò múa may phản động, thơ ca vô nghĩa… chống lại nền chuyên chính vô sản". Ông bị bắt ở ngay trên đường phố, vào năm 1941. Khi vợ ông đi thăm nuôi, vào năm 1942, bà được thông báo, ông chết hai ngày trước đó. Mười bốn năm sau khi mất, tên tuổi của ông được phục hồi. Những nhà chuyên viết tiểu sử xếp ông vào danh sách: viết chuyện cho nhi đồng.


Nguyễn Khải:
Lẫm liệt một thời


Sau 1975, ông ở lại, gần như mút mùa lệ thuỷ, hết mùa vượt biên mới bỏ đi. Nhân nói đến chuyện vui sao... xin ông cho biết về văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa ở trong nước.

Câu hỏi rộng, và căng quá. Theo tôi, cùng với sự kiện 1975, thoạt đầu, một số người viết Miền Bắc coi đây như là một đổi đời đối với họ. Hay một cơ hội để có được những tác phẩm hiện thực đúng nghĩa, tương xứng với sự kiện thống nhất đất nước, tiến lên xã hội chủ nghĩa. Chúng ta có thể nhận ra điều này trong tác phẩm, thí dụ của Nguyễn Khải (Thời gian của người, Vòng Sóng Đến Vô Cùng...), nhưng dần dần họ nhận ra, nếu cứ tiếp tục viết như vậy, những tác phẩm của họ chỉ là đồ dởm. Họ nhận ra, chỉ có thể nói về thất bại của chiến thắng, thay vì ca ngợi nó. Nhưng việc này họ không làm được, phải đợi những người viết khác, thí dụ như Nguyễn Huy Thiệp

Phỏng Vấn Gấu



Thơ tôi không cần thông điệp

Cơ bản, tài năng đếch cần lịch sử. [Basically, talent doesn’t need history]. Hãy nhớ lại những tài năng tiền chiến, đếch cần tới Mùa Thu Lịch Sử sau đó. Thê thảm hơn, họ bị nó nghiền nát bấy, biến thành, hoặc đao phủ hoặc nạn nhân. Người đọc chẳng đã sửng sốt vì những cái độc cái ác đầy rẫy ở trong sổ Ghi của Trần Dần, chúng đâu làm cho tài năng của ông lớn thêm lên đâu? Một cách nào đó, phải coi hành động tiêu diệt nhóm Nhân Văn Giai Phẩm như là một hành động sát nhân.

Joseph Huỳnh Văn 1975
&
Anna Akhmatova 1917

Cynthia Ozick, trong “Tính Ích Kỷ của Nghệ Thuật” [The Selfishness of Art], viết, tiểu sử, hay gọi nó là cuộc đời, mắc míu tới một dúm nhà văn  - nhưng, chỉ với một dúm nhà văn - với sự kỳ lợm ma quái của một hồn ma: lịch sử, câu chuyện về cuộc đời của họ, cứ mờ dần đi và lẩn vào ngụ ngôn, biến thành giai thoại.
Ai nghĩ về một Scott Fitzgerald mà bỏ qua bệnh điên của bà vợ, Zelda?
Nguyễn Tuân, bỏ đi cây ba tong của ông?
Cây gậy, một sự kiện có thực, như thế đó, cũng biến thành huyền thoại, chẳng có khác gì cái hộp hổ phù đựng thuốc lào của một tay anh chị trong Vang Bóng Một Thời.
Có thể, chính vì nghĩ như vậy, Trần Dần chẳng hề “delete” những cái độc, cái ác, những ngày ông và bạn bè trải qua, sau Cách Mạng Mùa Thu.
Chính cái đời tư của ông trở thành một địch thủ đáng sợ của tác phẩm của ông.
*
Gấu cứ luẩn quẩn với câu hỏi, tại làm sao Trần Dần không “đánh bóng” Sổ Ghi, làm cho nó dịu dàng đi, bớt độc đi, cho đến khi đọc những dòng trên của Ozick.
Thành thử cái gọi là thông điệp, nếu có, ở những con người như Hoàng Cầm, như Trần Dần, lại chính là cuộc đời riêng tư của họ.
Chính cuộc đời của họ, và những cay đắng nhục nhã họ phải chịu đựng khi nói "Không" với quyền lực, đã tố cáo chế độ, mạnh hơn tác phẩm của họ.
Thơ của tôi không cần thông điệp, là còn theo nghĩa đó.
*
Trong bài Vài kỷ niệm về Mai Thảo, Gấu có nhắc tới Virginia Woolf. Trong năm bài essays nho nhỏ về thành phố London [The London Scene], bà có đưa ra một nhận xét, không hẳn giống như Ozick, về đời tư nhà văn nhớn:
London, may mắn thay, đầy những nhà của Vĩ Nhân, Great Men. Với đầy đủ những trò lẩm cẩm, nào là cái ghế họ ngồi, cái ly họ uống cà phê, cái giỏ đựng rác… Chúng ta đến căn nhà của Dickens, không hẳn hoàn toàn chỉ vì tò mò, nhưng mà còn để nhận ra một điều: có thể, họ cũng chẳng có một khiếu thẩm mỹ nào ghê gớm lắm, nhưng những dấu ấn của họ lên những đồ vật thì thật rõ nét… Cách họ sắp xếp bàn ghế, đồ đạc, nhà cửa của họ.. làm sao cho chúng trở thành một phần của cuộc đời của họ. Chỉ cần một giờ quanh quẩn ở nơi đó, là chúng ta có thể biết nhiều về họ, hơn những gì chúng ta được biết từ những cuốn tiểu sử dầy cộm.

Không hiểu những miếu đền, những ngàn chương sử, mà Mai Thảo mơ ước đó, là về ông, hay là về Sài Gòn, có Quán Chùa, hay Tiểu Sài Gòn, có căn phòng, có một ông già bịnh, mơ mơ màng màng, chẳng bao lâu, ta sẽ là cả thế giới…
Bientôt, je serai tout le monde.
Je serai mort
Borges.
Vài kỷ niệm về Mai Thảo
Bài viết này, có thể coi là bài văn tế sống Mai Thảo, viết vội, khi nghe ông sắp đi. Nguyễn Mộng Giác vội vàng mang vô nhà thương đọc cho Mai Thảo nghe. Ông cám ơn Gấu, qua Nguyễn Mộng Giác, và còn nói thêm, bây giờ, sao nó viết dễ đọc, khác hẳn ngày xưa.


ĐI TÌM CÁI TÔI ĐÃ MẤT
(Tuỳ bút chính trị - 2006)
Nguyễn Khải

Năm 70 tuổi tôi bắt đầu chán viết, người rã ra, đọc sách cũng nằm, đọc được mười lăm phút chữ nghĩa đã loè nhoè, chả rõ mình đang đọc cái gì. Rồi ngủ. Ngủ như chim, một chớp mắt đã tỉnh, tiếp tục đọc nốt cái nửa trang đọc dở vẫn cứ lờ mờ vì chả còn nhớ họ viết cái gì trong cái nửa trang vừa đọc. Cũng năm ấy tôi được trao giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt 2. Mừng thì rất mừng nhưng tôi đã nhận ra ngay đây là tấm bia mộ sang trọng cắm lên một đời văn đã tới hồi phải kết thúc.
Sang tuổi 70, mọi hoạt động của con người đều chậm, đều kém, riêng cái chuyện viết lách của tôi vẫn giữ được phong độ gần như xưa, vẫn viết rất nhanh, riêng cái nhìn thì trào lộng nhiều hơn, ngậm ngùi nhiều hơn. Nó là thứ hương vị thơm ngát chắt ra từ hơn bảy mươi năm được làm người.
Nguồn
Vì bài viết chưa đăng hết, cho nên chưa dám có ý kiến. Tuy nhiên, hai đoạn trên có vẻ chửi bố nhau
Cũng không hiểu cái tít là của Nguyễn Khải?
Về trường hợp Nguyễn Khải, khi ông mất, Gấu có đi một đường bói mu rùa, ông chọn Đảng thay cho Bố, vì ông không được Bố thừa nhận. Bố là quan, ông thuộc dòng con thứ.

From:
To:
Subject: Gioi qua
Date: Tue, 22 Jan 2008 07:03:45 -0500
    
Nhân lúc câu chuyện đang hồi hào hứng, tôi hỏi nhà văn vì sao ông rời Hà Nội, chia tay nhà số 4 Lí Nam Đế, nhà văn nói rất hồn nhiên: ”Sài Gòn lúc ấy hấp dẫn vì nhiều lẽ. Cái mạch ngầm sôi động của nó là nguồn đề tài phong phú, dạt dào lắm. Không vào làm sao viết nổi Gặp gỡ cuối năm, Sư già chùa Thắm và hàng loạt truyện ngắn sau này và cũng sẽ không có Nguyễn Khải hôm nay. Không bỏ Hà Nội đi làm sao viết về Hà Nội với niềm nhớ thương khắc khoải lòng người đến thế."
*
Cái cú ăn cướp Miền Nam, là một cú đổi đời với nhà văn Miền Bắc. Mặc khải, đúng hơn. Ra khỏi hang Plato, càng đúng hơn nữa. Câu nói, dân chúng Miền Nam chửi Thiệu như điên, của Duơng Thư Hương, là một nhận xét, cụ thể, nhưng chính vì thế, thật mãnh liệt, thật khủng khiếp, về mặt chính trị. Trong câu nói đó, là cú đụng độ giữa hai nền văn minh, một dân chủ, một độc tài đảng trị. Biết đâu đấy, Nguyễn Huy Thiệp, nhờ mặc khải từ câu này, mà viết ra được Không có Vua?
Câu nói, trên, của Nguyễn Khải đâu có "hồn nhiên". Một kẻ quá khôn, khó mà hồn nhiên. Chứng cớ: ông bỏ đi những tác phẩm đầu tay tại "vùng đất không người" đối với văn chương XHCN, khi làm cớm xông xáo sào huyệt một tôn giáo, và làm điệp viên hai mang, khi đơn thương độc mã, tung hoành giữa tận cùng hang ổ của tầng lớp đầu não Mỹ Ngụy, qua nhân vật Quân, một hóa thân của Phạm Xuân Ẩn trong Thời gian của Người.
Một cách nào đó, đây mới là những tác phẩm mà ông muốn viết, chứ không phải Gặp gỡ cuối năm, một thứ tầm phào, gossip, cả về mặt văn chương lẫn chính trị, với giọng văn têu tếu, khinh đời, đúng giọng một nhà văn già làm ra vẻ từng trải. Thứ đó, chỉ bịp được những độc giả ấu trĩ, ghê gớm gì đâu, mà ông nêu ra một cách hồn nhiên? Chính ông thừa biết điều đó, nhưng 'faiblesse oblige'! Ông đâu đủ dũng khí như Dương Thu Hương?

So sánh Lò Cải Tạo với Lò Thiêu, thì đúng là khiên cưỡng. Một, thù và huỷ diệt Do Thái, một giống dân hạ đẳng: Do Thái đâu phải là người; một thù và làm thịt, chính thằng em của nó.
Có thể vì vậy, Yankee mũi tẹt chưa từng đụng phải vấn đề đạo đức, như đám hậu huệ Nazi, như tay này.
*
There is a moment at the end of Bernhard Schlink's 1997 bestseller The Reader - shortly to be filmed by Stephen Daldry, starring Kate Winslet and Ralph Fiennes - where the narrator, Michael Berg, trying to make sense of his teenage love affair with a woman who is later tried for war crimes, picks up Homer's Odyssey. He remembers it 'as the story of a homecoming. But it is not the story of a homecoming ... Odysseus does not return home to stay, but to set off again.'
*
Ở cuối Người đọc sách, cuốn sách ăn khách của Bernhard Schlin, mới được quay thành phim, nhân vật người kể chuyện, cố tìm hiểu, tại làm sao khi còn trẻ, mê gái già, mù chữ,  vốn là một nữ quản giáo, và sau bị đưa ra tòa như là tội phạm chiến tranh, anh bà bèn lôi Homer ra để giải thích: "Về nhà không có nghĩa là về nhà, mà là để đi nữa. Odyssseus đâu có về nhà để ở lại, mà là để đi nữa".
Đây cũng là ý nghĩa của tập tiểu luận của Coetzee: "Những bến bờ xa lạ hơn".
*
Tin Văn đã từng giới thiệu cuốn Người Đọc Sách, câu chuyện một anh chàng học sinh, một bữa đi xe buýt, bị trúng gió độc [gió tình chăng ?], và được cô gái già tài xế, đưa về nhà săn sóc. Sau đó, cậu học sinh này mang một bó hoa tới nhà cô gái già để tạ ơn. Thế rồi chàng và nàng yêu nhau, và chàng vừa làm tình vừa đọc truyện cho nàng nghe, vì nàng mù chữ. Sau này, chàng thành luật sư, và gặp lại nàng, tại tòa án.
*
Về nhà, tìm nhà để mà về, là câu hỏi trung tâm của "hiện đại tính", và, của tiểu thuyết. Chúng ta gặp lại câu định nghĩa của Lukacs, trong Lý thuyết về tiểu thuyết
Tiểu thuyết, một dạng không giống bất cứ dạng nào khác, là để biểu tỏ cõi không nhà siêu việt.
Đọc muộn thơ bạn

Tôi Cùng Gió Mùa

Mấy anh VC bốc phét, cú Xô Viết Nghệ Tĩnh là Tổng Diễn Tập cho cú Cách Mạng Tháng Tám; Tết Mậu Thân, Thực Tập Lớn cho Đại Thắng Mùa Xuân 1975.
Giả như học tập tốt, lao động tốt, thực hành tốt, bài bốc phét trên, chúng ta có thể coi Tôi cùng gió mùa, Thơ ở đâu xa, cái mầm của  chúng là từ khí hậu Miền Nam?
Rằng: Chỉ có một cuộc sống như thế, thì, khi gặp hiểm nguy, thì, mới có cứu rỗi?
Đúng như thế. Đây đúng là ý của Holderlin, khi phán:
Nhưng chỉ ở nơi mà có hiểm nguy,
Thì chính ở đó, có cứu rỗi.
"Mais où est le péril, là
Croit aussi ce qui sauve"
Những "où", những "là" đó, là nói về, chỉ một nơi chốn.
Bởi thế, mà Heidegger, trong "Tại sao thi sĩ, trong thời điêu đứng?", coi Rilke là thi sĩ của đêm đen, của mạt kỳ, của thời điêu đứng.
Chỉ có triết gia, thì mới lèm bèm về thơ, tới chỉ, và chỉ có Heidegger, với kinh nghiệm, đã từng phò Nazi, thì mới phán về thơ thời mạt kỳ, tới chỉ. Bài "Tại sao thi sĩ trong đời điêu đứng?", quả là bảnh nhất trong những bài phán về thơ, và nhất là, thơ tù.
*
Giả như không có những ngày tháng điêu đứng, cay nghiệt đó, liệu anh có yêu em nhiều như vậy không?
Cầm Dương Xanh

Gấu đọc thơ Hoàng Hưng
Câu thơ "Muời năm còn quen ngồi một mình trong bóng tối" làm nhớ một chi tiết về một nhà thơ trong nhóm Nhân Văn, [không nhớ là ai, NMG có nhắc tới trong một số Văn Học], ông quen ngồi một mình đến nỗi bóng in lên tường, thành một cái vệt, thời gian không làm sao xóa mờ.
Nếu như thế, một người quen ngồi một mình trong bóng tối, cái bóng của người đó in lên tường mới khủng khiếp làm sao. Không ai có thể nhìn thấy nó, để mà hỏi thử, thời gian, khi nào xoá mờ!
Người Tù
*
Giọng kể của Solz là một thứ đạo đức kinh của một linh hồn bị đọa đầy tìm mong sự cứu cuộc, mặc khải, tái sinh, "trẻ mãi không già". (1)
Nó đem đến hy vọng.
(1) Đọc văn chưa thấy già, cho dù, nghe nói, sắp xuống lỗ. [Đa tạ. NQT]

Có những anh vai mỏng gánh trách nhiệm quá lớn, không biết sợ, cứ thấy ổn cả. Hạ cánh an toàn là câu mất dạy. Phải nhớ Khang Hy: "Việc vừa xong thì họa cũng vừa xong".
Nguyễn Khải: Nguồn
Tuyệt. Đúng là, đoạn trường ai có qua cầu mới hay. Tuy nhiên, áp dụng vào thực tế Việt Nam, sau ngày 30 Tháng Tư 1975, câu của Khang Hy có lẽ phải đổi lại:
"Việc vừa xong, thì họa bèn bắt đầu"
Hạ cánh an toàn là câu mất dậy! Tuyệt, tuyệt!
Nhưng phải thêm câu này nữa thì mới càng ra cái chất yankee mũi tẹt:
Hy sinh đời bố, củng cố đời con!
Nếu câu Hạ cánh an toàn mất dậy, thì câu Hy sinh đời bố củng cố đời con, đại mất dậy.


Sorry!

There is a political fashion for easy apologies but forgiveness comes only from genuine dialogue.
Có một kiểu thời trang chính trị, dành cho những lời xin lỗi dễ dàng, nhưng tha thứ chỉ có đến với chúng ta từ con đường ‘hội luận thứ thiệt”.

Trên đây là cái tít bài điểm cuốn “Tha thứ”, tác giả Charles Griswold, của Roger Scruton trên tờ TLS số 14 Tháng Chạp 2007.
Tha thứ nghĩa là gì? Và làm cái chuyện đó, có tốt không? Nó có đỡ đần cho chúng ta, khi cho, hay nhận? Liệu có ai, nhân danh ai đó, ban cho ai đó, tha thứ, hay là nó luôn luôn đến từ nạn nhân? Và liệu, luôn luôn [phải] có nạn nhân?
Griswold khẳng định, tha thứ gồm hai tiến trình. Hai người, một gây, một chịu tổn thương, phải giải quyết với nhau, về nỗi đau thương này. Cùng lúc, cả hai phải tu tập cái nhân chi sơ tính bản thiện ở trong mỗi con người  sao cho mỹ mãn.
Đạo hạnh, virtue, theo ông, mới là mục tiêu của sự giáo dục về lương tâm, đạo đức. Và đẩy tới một mức nào đó, tha thứ là điều có thể học được và dậy được [forgiveness can be learned and taught].
Nhưng, vẫn theo ông, có một số điều sẽ luôn luôn không bị hay được tha thứ, và nếu như thế, trong mọi hoàn cảnh, mọi sắc thái, tha thứ không có nghĩa là vờ, quên, hay lắc đầu quay mặt, đành chịu thua, thất bại.