*

Kurtz des ténèbres
*
Joseph Conrad

Vua cờ ra đi

Thiệp và giải thưởng rượu nho
Nguồn
Đúng như Gấu bói mu rùa, Thiệp được giải vì ba tập truyện ngắn. Xứng đáng quá. Đây là Thiệp vinh danh giải thưởng, chứ không phải giải thưởng vinh danh Thiệp!

Đặng Tiến đọc
Nguyễn Xuân Thiệp

Tôi Cùng Gió Mùa

Camus @ Combat

Cua bò trên lưng
Nhớ, một lần ngồi Quán Chùa, nhân nói đến Sartre, ông anh nhà thơ có kể một giai thoại, về Sartre. Thời gian viết La Nausée ông cho biết, lúc nào cũng có cảm giác cua bò trên lưng.
Sau này, đọc Sartre, Gấu cố tìm giai thoại trên, không thấy. Tình cờ bữa nay, lục mớ báo Le Magazine Littéraire cũ, thấy bài viết của Simone Leys về Sartre, Về Sartre: sự vô trách nhiệm, hạnh phúc, và cái "de luxe", trong mục thường trực của ông, "lettre des antipodes". [Thư về những đối điểm]
Le Magazine Littéraire, số đặc biệt về hoang tưởng, La paranoia: về hạnh phúc nghĩ mình "được" bách hại [du bonheur de se croire persécuté], Tháng Bẩy & Tám, 2005. (1)
(1): Số báo này, đã được nhắc tới, trên Tin Văn, vậy mà Gấu không nhớ!

Đừng nói cho ai biết, bạn mua số báo này.
Tờ Văn học Pháp, Le Magazine Littéraire, số tháng Bẩy & Tám, 2005, là về một thứ hạnh phúc quái đản, hạnh phúc thấy mình bị bách hại, bị săn đuổi, tức chứng hoang tưởng, la paranoia.
Tờ báo cảnh cáo bạn đọc, như trên, và khuyến cáo, nên lén lút đọc, tránh những con mắt tò mò, và giải thích: hoang tưởng sinh sôi, nẩy nở trong im lặng, trong bí mật, và trong nghi kỵ.
 Và nếu chúng ta đồng ý với quan điểm của Francois Rostang, tác giả cuốn "Làm sao cho một tay hoang tưởng cười?", hoang tưởng là dấu hiệu của một xã hội khép kín, chỉ tin vào chính nó, trop sure d'elle-même, thì cái chế độ hiện thực XHCN của nhà nước ta nên đổi tên thành xã hội hoang tưởng.
Ông trích dẫn Nietzsche: Không phải sự bán tín bán nghi, mà chính cái điều quá tin tưởng về mình đó, làm cho chúng ta trở nên khùng.
["Ce n'est pas l'incertitude qui rend fou, c'est la certitude."]
Hai Lúa tin rằng, cơn sốt nhật ký thời chiến, là cũng nhằm giải thích một câu hỏi nhức nhối: Tại làm sao cả một miền đất lại nhắm mắt nhắm mũi lao vào cuộc chiến đó? Tại làm sao mà lại tin tưởng quá như thế, về một "chân lý": "Đường ra trận mùa này đẹp lắm"? Và tại làm sao, kết quả của nó, lại quái đản như thế đó?
Hiện tượng Trâm Thạc
Phê bình không phải chuyện 'nâng bi' chân lý của quá khứ, hay chân lý của những kẻ khác. Nó là một công trình làm sao cho thời đại của chính chúng ta bớt ngu được chút nào hay chút đó.
[Mô phỏng câu của Roland Barthes, bản tiếng Anh: Criticism is not an 'homage' to the truth of the past or to the truth of 'others' - it is a construction of the intelligibility of our own time. R. Barthes: Phê bình là gì?, trong Tiểu luận Phê bình, Critical Essays].
Vương Trí Nhàn, người biên tập, trên BBC, cho biết, trong đời làm xuất bản, làm văn nghệ của ông, khoảng 40 năm, chưa có hiện tượng nào như thế này.
Vẫn sử dụng câu của Barthes, chúng ta có thể gà nhà phê bình họ Vương: Đó là vì, chưa bao giờ người Việt mong được bớt ngu đi một tị như là bây giờ.
Để hiểu tại làm sao, sau một đêm 30 tháng Tư, ngủ dậy, tưởng nhìn thấy cái nhà Việt Nam to lớn hơn, một con người Việt Nam hạnh phúc hơn, thanh thản hơn, thì lại thấy một con bọ!
Nhật ký
*
Leys cho biết, Sartre rất sợ [horreur] thiên nhiên, và tất nhiên, biển, bởi vì biển, theo ông, là thiên nhiên được đẩy tới cực điểm.
1. Trong La Nausée có vài đoạn về cảnh biển: những ghi nhận ngắn, gọn, sức mạnh biểu tả khiến nghĩ tới những mẩu phong cảnh làm nền cho một số tranh của Degas. Ông này cũng không ưa thiên nhiên, tuy nhiên, chỉ vài mẩu như thế mà chủ nghĩa biểu tượng mắc nợ ông, về những cảm quan phong cảnh sắc nhọn nhất của nó.
2. Bơi lội ở Địa Trung Hải. Nghỉ hè ở bãi biển Côte d'Azur. Sartre viết thư, tả cảnh, ông bơi, và sợ đến mất hết hồn vía, khi nghĩ, lũ cua sẽ ùa tới chơi hết cái bụng bự của ông [il est bientôt pris d'une insoutenable angoisse à l'idée que des crabes viennent lui manger le ventre], và thế là ông bơi vội vô bờ, trong tình trạng khiếp hoảng.
*
Sắp tới giỗ nhà thơ, bèn lẩn la lẩn thẩn, nhớ lại cái vụ cua bò.
*
Cũng trong bài viết về Sartre nói trên, Leys kể, người da đỏ miền Viễn Tây coi những người điên và đần là những sinh vật  được gợi hứng
[inspirés], từ Thượng Đế, và vì thế, họ dành cho những người này một địa vị danh dự trong bộ lạc.
Leys cho rằng, người Pháp cũng đối xử như vậy, với những nhà văn nổi tiếng của họ: coi như người chỉ đường, ban bảo những lời khuyên, về bất cứ vấn đề, và khi họ khuyên lầm - chuyện thường xuyên xẩy ra - thì lại dành cho, sự miễn nhiễm, vốn dành cho con nít, hoặc những người trí óc hơi bị đơn giản.
*
Le Magazine Littéraire:
Vào lúc năm giờ chiều, câu chuyện [la fiction: giả tưởng] mà ông cho in trong Les Logocrates, xẩy ra tại Medellin. Nó chứng tỏ, ngay cả nếu những nhà thơ chết đi, thơ vẫn có thể được sử dụng, như là một dụng cụ trong cuộc chiến đấu chống lại bạo lực.
Steiner: Bởi vì tôi không có tài sáng tác, truyện ngắn đó dựa trên một câu chuyện thực: Hai nhà thơ trẻ gần gụi với nhà thơ Octavio Paz đã tới Medellin, nguy hiểm đến tính mạng, chỉ để tìm cách phân phát những bài thơ. Tôi nghĩ vẫn có những hy vọng. Nhưng âm nhạc mới thực sự đáng kể. Nó còn hơn cả lời nói, au-delà de la parole. Về văn học, tôi đọc lại, relire, thay vì khám phá những tác phẩm mới trong khi âm nhạc luôn làm tôi say mê, ngay cả thứ nhạc tiền phong. Thời đại của chúng ta quá giầu có về âm nhạc hơn là về văn học. Những nhà soạn nhạc mở ra những chân trời mới. Nhạc có cái lợi hơn so với lời nói: nó không thể nói dối. Người ta không thể sống mà không có không tưởng [On ne peut pas vivre sans utopie]. Âm nhạc có thể có trong nó một không tưởng riêng tư, bí ẩn....
Steiner: Hạnh phúc làm thầy. Trả lời phỏng vấn, Le Magazine LIttéraire, số đặc biệt về Homère, Tháng Giêng 2004

Sự khủng hoảng của con người

Nhật Ký Anne Frank

Của nước và gió
Với Cánh đồng bất tận, văn chương ta bước vào toàn cầu hoá hôm nay một cách đàng hoàng, cùng và ngang bằng với những giá trị nghệ thuật và nhân văn của toàn cầu, chẳng phải nể ai hết. Nó đưa văn chương, và như thế cũng là con người của ta, ra toàn cầu, để cho toàn cầu biết rằng ta cũng là con người chẳng hề thua gì họ.
Nguyên Ngọc.
*
Hình ảnh chúng ta về Dos, "đau cái đau", của sự thái quá, đến biến thành sáo rỗng. Chúng ta nhìn Dos như là một nhà tâm lý học, tâm thần học của những hoàn cảnh cực điểm, một tiểu thuyết gia, với những nhân vật, mà Borges đã từng khôi hài, bị đẩy tới tình trạng sướng quá, hạnh phúc quá, đến đành phải tự tử!

Nhưng chúng ta còn biết, điều quan trọng này, về Dos: ông là nhà văn quá mẫn cảm về sự hiện hữu của cái ác, và sự phạm tội. Chính vì điểm này mà Ivanov [tác giả cuốn Dostoevsky, Tragédie, Mythe, Religion], đã so sánh ông với Dante: cái giải pháp độc nhất cho nỗi đau khổ của con người, chỉ có thể là: Thượng Đế.
Có một Dos khác, ít người để ý: Một Dos của Nước Nga Thánh [la Sainte Russie].

Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn quá mẫn cảm về sự hiện hữu của một cái ác, và sự phạm tội?
Và nếu như thế, câu của Nguyên Ngọc, thiếu: ... để cho toàn cầu biết rằng ta cũng là con người chẳng hề thua họ, về cái độc, cái ác.
*
Văn chương ta có hai đỉnh cao. Một, 1954, với Nhân Văn. Và gần như cùng một lúc, đám Bắc Kỳ Di Cư làm trời ở Sài Gòn, với nhóm Sáng Tạo, và sau đó, với "cái gọi là" nhóm Tiểu Thuyết Mới, tức băng đảng Gấu và các bạn quí của nó!
*
Nhưng, bất ngờ nhất, là sự xuất hiện của Nguyễn Ngọc Tư, đúng vào lúc lịch sử của dân Mít đang từ đỉnh cao lao xuống vực thẳm.
Bất ngờ nhất, không thể nghĩ là sẽ có được, và khi có được, mới thấy cần thiết là biết bao, và chỉ còn biết cám ơn cái gọi là thiên tài của nơi chốn, hay Ông Thần Đất.
*
Nhân nhắc đến Ông Thần Đất, thiên tài của nơi chốn, địa linh nhân kiệt.
Số báo Le Magazine Littéraire mới nhất, về Simone de Beauvoir, trong mục thường xuyên của nó, Sổ Đọc, [Carnet de Lecture], có một bài viết tuyệt vời về nhân vật Kurtz, của Trái Tim Của Bóng Đen, của Conrad, nhân dịp tái xuất bản tuyệt tác này. Ông Từ giữ đền "Sổ Đọc" này, Enrique Vila-Matas, là người Tây Ban Nha, viết bằng tiếng Tây Ban Nha, được dịch qua tiếng Pháp: Kurtz des ténèbres [Kurtz của bóng đen].
*
Vila-Malta viết về Conrad:
Ông gia nhập truyền thống rất xa xưa, theo đó, cái gọi là kỷ luật, sự tu luyện phải đến từ bên trong, bởi vì đây chính là sức mạnh tâm thần bật ra từ thiên tài về nơi chốn của chính bạn, le genius loci, nói một cách  khác, từ chính chúng ta.
[Joseph Conrad adhérait à la tradition la plus ancienne, selon laquelle la discipline doit venir de l'intérieur, puisqu'il s'agit d'une force mentale émise par notre propre génie du lieu, le genius loci, autrement dit nous-mêmes. L'homme ne se libère pas en donnant libre cours à ses impulsions et en se montrant changeant et incapable de se contrôler, mais en soumettant la force de sa nature à un projet prédominant, à un code mental d'acier qui sache éliminer sa liberté la plus sauvage et le situer dans le cadre d'une vie disciplinée, en faisant appel aux desseins intérieurs du génie du lieu.]

*
Còn một bài viết nữa, trong cùng số báo, cũng thật tuyệt, của Linda Lê, trong mục thường xuyên của bà, "Trở về với những tác giả cổ điển". "Tẩu khúc của thần chết", Missa sine nomine, nguyên tác tiếng Đức, của Ernst Wiechert. Một bản di chúc tâm linh của một người sống sót trại tù Buchenwald.

Bài viết cũng khiến Gấu liên tưởng đến Cánh Đồng Bất Tận.
Đối diện với điều không thể nói được, không thể gọi tên, viết về sự phạm tội và cứu cuộc, liệu vẫn còn có nghĩa?
Câu trả lời:
Tiếng nói của tôi được vời tới, và nó kể
[Ma voix a été appelée, et elle raconte].
*

Fugue de mort
Tẩu khúc của thần chết (1)
par Linda Lê
(1) Nhan đề một bài thơ của Paul Celan. Coi:
Mẹ có đau khổ không như Mẹ đã từng đau khổ?

&

Cuốn  phim của Marc Rothemund, Sophie Scholl, Những ngày cuối cùng, đã thành công trong việc làm tái sinh một nàng Antigone, cùng với người anh của nàng, thành lập nhóm Hồng Trắng, La Rose Blanche, người tin tưởng vào sức mạnh của chữ viết, khí giới bí mật chống lại sự man rợ của chủ nghĩa Hitler. Chính trong tác phẩm của Ernst Wiechert, một du kích đã chọn lựa ở lại Đức, trong thời kỳ Nazi, mà nàng [Antigone] đã dấn thân hết mình vào công cuộc chống lại "những bộ máy đè bẹp nhân loại" ["les machines à écraser l'humanité"], (chữ của Simone Weil, một khuôn mặt sáng ngời khác nữa, của lực lượng Kháng Chiến).
Missa sine nomine, di chúc tâm linh của Ernst Wiechert, xuất bản năm 1950 - tác giả trốn thoát Buchenwald, qua Thuỵ sĩ sống từ năm 1948, vừa mới mất, thọ 63 tuổi - là một cuốn tiểu thuyết của một nhà nhân bản, người, đã đứng ở "cửa Địa Ngục", tự hỏi, liệu LỜI [le Verbe] có còn là khởi đầu của tất cả....


Nhân trong nước viết về Fallaci, trong dịp ăn mừng Mậu Thân.

Bất kể là thằng cha nào, cho dù Tổng Bí Thư hay Tổng Thống do dân bầu, cho dù Tướng Sát Nhân hay Nhà Lãnh Đạo Đáng Yêu, Người Cầm Lái Vĩ Đại, Cha Già Dân Tộc.... tôi đều tởm, như tởm quyền lực, một thứ bất nhân đáng ghét. Tôi luôn nhìn kẻ áp bức, thằng có quyền, bằng cái nhìn không thân thiện, như thế đó, và coi đây là cách độc nhất để sử dụng tới phép lạ, là được sinh ra ở trên cõi đời này.”

Nguồn