*
Heart of the Music: Love

Execution: Xử bắn

*
Tường trình đặc biệt chuyến thăm VN, 2005
của đám báo chí ngoại đã từng tham dự cuộc chiến.
Tài xế: Hoang Van Cuong, cựu nhiếp ảnh viên UPI
Từ trái: Dirck Halstead, UPI/Time, Horst Faas AP, Hugh Van Us, UPI, người chụp bức hình di tản nổi tiếng bằng trực thăng trên nóc nhà CIA, nhưng thường bị nhìn lầm là Tòa Đại Sứ Mẽo, Bob Davis, phóng viên tự do. Hình chụp trước Continental.

Hai Lúa có khá nhiều kỷ niệm với tay Faas mập này. Anh chuyên nói với ông Hưng, nhân viên của mình, và với Hai Lúa bằng tiếng Tây, một phần vì ông Hưng không biết tiếng Anh. Cái nickname của Hai Lúa, gã Chuyên Viên Trẻ, Le Jeune Technicien, là của anh ban cho.
Khi Mẽo đổ quân ở bãi biển Đà Nẵng, Faas coi đây chẳng khác cuộc đổ bộ Normandie ngày nào. Anh đổ không biết bao nhiêu thước phim, chụp cảnh lính Mẽo từ những tầu há mồm ùa xuống. Lần đó, có vẻ như AP lỗ vốn, và nghe ông Hưng nói, văn phòng chính tại New York [?] giũa cho Faas một trận.
Một lần Faas đi cùng ông Hưng lên Đài coi gửi hình, và tiện thể khoe Hai Lúa, bức hình do anh chụp, và suýt chết vì nó: Một chiếc nón cối mầu xanh, giữa rừng cây xanh rậm rạp.
Anh cố chứng minh cho cả thế giới biết, có quân đội chính quy, tức bộ đội Miền Bắc, trong chiến trường Miền Nam.
Lần đó, tay lính truyền tin đi kế bên Faas đi luôn. Faas chụp xong pô hình, nhìn sang bên cạnh, lúc đó mới thấy sợ, hết đi nổi, xỉu luôn tại chỗ. Anh nói với Hai Lúa: Tao to con như thế này, mà sao không trúng, còn thằng đó nhỏ con, lại vác cái máy truyền tin to tổ bố, vậy mà viên đạn cũng kiếm cho được, để mà lụi vô.
Mấy bữa sau, ông Hưng nói, thằng chả rét rồi, hết còn dám xông xáo như trước nữa.

Đây là bức hình được Pulitzer của Faas
*
Người cha ôm xác con hỏi lính VNCH: Tại sao?
Nguồn

Tên Của Cuộc Chiến I: Sawada
Tên của cuộc chiến II: Betsy
Viết là Khiếp
Ký ức Huế

Một Chủ Nhật Khác 19, 20

Anh xin lỗi em. Anh có lỗi với em. Anh không biết phải nói với em thế nào. Những gì em biết đại cương đều đúng. Anh không chối. Tùy em, em muốn xử trí ra sao, anh cũng nhận. Riêng anh, anh không thể nói gì được cả… Anh không có quyền nói gì cả… Thùy như bị xối nước lạnh. Bao nhiêu ý định sắp sẵn trên đường lê gặp Kiệt tiêu tan. Nàng tối tăm mặt mũi, uất ức chết điếng. Nàng khóc vùi, nhục nhã, không thể mở miệng. Chỉ có một cách là giết con người điếm đàng, tàn nhẫn ấy ngay tức khắc, không chần chờ, nàng đã không làm. Trong khi ấy hắn tiếp tục nói năng, múa may. Mỗi lời như một miếng kìm sắt nung đỏ dứt một mảnh thịt nàng. Cho đến khi Thùy thét lên:
-Thôi. Câm đi. Tôi tởm. Tôi tởm quá rồi…
Nín bặt. Nín bặt tuyệt đối. Lòng ghen tuông không còn mảy may. Chỉ còn cảm giác đau đớn, rát bỏng của lòng hận thù khôn xiết.
Những lời của Kiệt đến chết Thùy cũng không quên. Chúng tiếp tục đào bới, xục xạo, phá phách, lan rộng mãi, chui sâu mãi ở trong nàng. Hắn đã nói những gì? Em nên hiểu, em ráng hiểu một chút… Anh có tội một cách vô tội, em vô tội một cách có tội… Lần này quả thật là người tình cũ… Em là đàn bà, em hãy tưởng tượng về một người đàn bà… Nàng đã đi rồi, không bao giờ trở lại. Không bao giờ, thật như thế… Nàng đã trả anh về cho em. Nàng giữ anh cho em, nếu không anh đi mất đất rồi. Nàng đẩy anh trở về, còn nàng ở lại, nàng ở lại một mình… Anh chỉ đưa nàng đến đó, còn anh trở về với em, trở về mãi mãi với em. Anh hy vọng em hiểu….


Đà Lạt 8
Ở đầu truyện có cảnh Kiệt, đang học trong quân trường Thủ Đức, chắc vậy, được ngày phép cuối tuần, thay vì như mọi người, về hú hí với vợ con, chàng bèn nhẩy xe lô, ra bến xe đi một lèo xuống Mỹ Tho, có thể Cai Lậy, kiếm khách sạn ngủ, đêm thèm chết quá, bèn cứa mạch máu tay, sao không chết, bèn lủi thủi về nhà, bị vợ tra vấn quá, phịa chuyện gặp người tình cũ, cả hai đồng ý cùng chết, nhằm trốn tránh ba cuộc: Cuộc đời, cuộc tình, cuộc chiến.
Tới cuối chuyện, cảnh này mới thực sự xẩy ra, như trên cho thấy.
Độc giả tự hỏi: Khi tác giả viết đoạn đầu, liệu ông đã nhìn ra đoạn sau?

Lạ, cảnh trên Hai Lúa cũng đã từng trải qua. Ấy là cái chuyện một ngày cuối tuần về Mỹ Tho, Cai Lậy, để kiếm một cô gái, chỉ mới nghe được tên.
Những ngày đó, Sài Gòn chưa hế biết đến chiến tranh.

Tôi biết anh còn muốn kể lại, lần đầu tiên anh xuống xe đò, đi lang thang trên con lộ dẫn vào quận lỵ, khi đi ngang cây cầu gỗ, rồi tiếng đạn từ chi khu bắn đi nghe chát chúa bên tai. Đó là lần đầu tiên anh nhận ra chiến tranh có thật, và tất cả những gì anh tưởng tượng về cô bạn đều có thật. Mặt nước sông nhăn nhó để lộ sự giận dữ của thiên nhiên, vẻ gớm ghiếc của số mệnh. Cùng lúc anh nhận ra nỗi đau khổ, sự thông cảm. Sau mặt nạ đầy hăm dọa của dối trá, anh nhận ra một khuôn mặt khác, một cuộc đời khác, đúng không, đúng không?...
Tự Truyện

Nước Mắm Lá Chuối 6
Tại sao mày cứ viết về mấy chuyện "chính trị", nhắc đến tụi chúng nó làm gì vậy? Chúng nó đâu có đáng để cho mày viết?
Nhưng Hai Lúa đâu có viết về chúng nó, mà viết về những người mà chúng nó ngồi lên đầu!

Thị Trấn Miền Đông

Kỷ niệm, kỷ niệm

Hi, Thiên Thai

Ẩn hả, nhớ chứ
Nhân đọc bài trên tờ Người Nữu Ước viết về "ông bạn cũ" Cao Bồi, tức Phạm Xuân Ẩn, Hai Lúa tính vừa dịch, vừa viết bên lề, những kỷ niệm có Cao Bồi ở trong. Nhưng bài này sau đó, được nhiều người dịch, thành thử Hai Lúa cụt hứng, bỏ ngang.
Bài về Ẩn còn được "Wikipedia tiếng Việt" đưa lên net, địa chỉ.
Xin giới thiệu bạn đọc Tin Văn.
Tuy nhiên, những bài dịch này, theo Hai Lúa, do người dịch không đọc hay không coi James Bond, nên không "nắm được" cái trò chơi chữ của nó. Tên Điệp Viên Yêu Mẽo, The Spy Who Loved Us mô phỏng The Spy Who Loved Me, Tên điệp viên mê tui, câu chuyện một em KGB có người yêu cũng điệp viên KGB, bị 007 làm thịt, bèn hứa với Đảng sẽ trả thù, nhưng thay vì trả thù, bèn mê 007. Thành thử "us" còn có nghĩa là "chúng ta" nữa.
Tất cả những bài viết về PXA đều không chỉ ra được chiến công hiển hách nhất của Ẩn, là bán đứng Miền Nam, qua bức điện khẩn gửi Bắc Bộ Phủ, báo tin cửa đã mở, cứ việc vô, đừng sợ Mẽo quay lại.
Bài trên Người Nữu Ước, có hàm ý điều này, khi cho biết rõ tông tích của dòng họ Ẩn: Bắc Kỳ di cư từ đời thuở nào, nhưng vẫn không thể nào quên đất Bắc.
Thành thử cái tít còn muốn chửi xỏ Ẩn nữa. Mày mê Mẽo, mày mê Chúng Tao, Chúng Ông, nhưng mày đâu có quên được cái xứ Bắc Kỳ khốn khổ, khốn nạn, khốn kiếp của mày, hỡi tên...  Yankee này?
Điều trên, chính Ẩn cũng tự thú nhận, khi tâm sự, đã từng mê một em Mẽo, nhưng đành gạt nước mắt trở về quê hương!

Khi Nguyễn Hoàng sợ Trịnh Kiểm làm thịt, bỏ chạy đất Bắc, tin theo lời ông thầy bói Trạng Trình, Hoành Sơn Nhất Đái Vạn Đại Dung Thân.... và thành lập ra Đàng Trong, ông không hề có ý định trở về thăm Đàng Ngoài, nhưng Đàng Ngoài không hề quên ông, và lẽ nhiên, không thể không thèm nhỏ nước miếng, ấy chết, nước rãi, cái miền đất phì nhiêu này.
Chính lý do "kinh tế"  đó đẻ ra cuộc chiến Trịnh Nguyễn ngày nào.

Hồi nhỏ, thằng bé Bắc Kỳ là Hai Lúa đọc những truyện ngắn của Tô Hoài, và thật là thèm, như ông Tô Hoài, và những nhân vật của ông thèm, cái thiên đường, nơi chỉ có nắng ấm, mưa rào thật nhanh và tạnh cũng thật nhanh, và hơn thế nữa, cơm đầy đường, hay nói như ngay sau ngày 30 tháng Tư 1975, TV - TV chứ không phải Honda - chạy đầy đường.
Giấc mộng lớn đó, biến ước mơ thành hiện thực, sỏi đá thành cơm gạo, nhờ những người như Cao Bồi, sau bao nhiêu năm xâm nhập miền nam, không nằm gai nếm mật, mà ăn uống thỏa thuê, nếm toàn xâm banh với rượu vang đỏ, đã hoàn tất, kể như là từ ngày 30 Tháng Tư năm 1975. Nước Việt Nam từ nay là một.
Những người như Cao Bồi, khi họ làm chuyện này, là mong cái điều thật là tuyệt vời: Biến cả nước Việt Nam thành thiên đường, như thiên đường Miền Nam.
Than ôi, giấc đại mộng của họ bị đảo ngược: Cả nước biến thành một xứ Bắc Kỳ, còn khốn nạn, đen tối, thê thảm hơn tất cả những thời đại Bắc Kỳ đã từng có, kể từ khi miền đất này được thành lập, từ bùn đỏ sông Hồng.

Chiều đó ông tới quán La Cigale..

Cái quán La Cigale này, sự thực là quán Givral, tổng hành dinh của ông tướng tình báo.
Nhưng thú vị là, có quán La Cigale thiệt, ở Sài Gòn hồi đó.
Bạn Chất, ông em nhà thơ TTT rành quán này lắm. Hai Lúa cũng rất rành nó, vì ở gần nhà Hai Lúa. Quán nằm trên đường Đinh Tiên Hoàng, khu Đa Kao. Chất và Hai Lúa gọi nó bằng cái tên thú vị hơn nhiều: Con Ve Sầu. Cũng gần đó, còn có một cái snack bar rất nổi tiếng là Con Bò Khùng. Khu này là lãnh địa của Hai Lúa. Dưới chút nữa, là đường Phạm Đăng Hưng, đầu cầu Sài Gòn, có quán Chả Cá Thăng Long, nơi Hai Lúa đã từng làm bồi bàn. Quán sau đổi tên là Kontiki.

Hay một London của Dickens, một buổi chiều đầy sương mù, chú bé Oliver Twist đói lả người, như tôi, một ngày trong chuỗi ngày cắp sách đến trường, đêm đêm làm bồi bàn, thời người Mỹ chưa đổ quân ào ạt vào Việt Nam. Thành phố chưa có xa lộ, chưa có cầu Sài-gòn. Và tiệm chả cá Thăng-Long nơi tôi tối tối bưng xoong mỡ sôi đổ lên dĩa chả cá, nghe tiếng mỡ kêu xèo xèo, chưa biến thành nhà hàng Kontiki ở ngay đầu đường Phạm Đăng Hưng, nơi dành riêng cho đám quân nhân Hoa Kỳ. 

Ngày mai trời sẽ mưa trên thành phố Bouville
Demain il pleuvra sur Bouville
(Sartre, La Nausée) 

Ôi Sài-gòn, một Sài-gòn hư tưởng, một Bouville, một London, của riêng tôi đó!
Lần Cuối Sài Gòn

Con Ve Sầu dọn cơm Tây, vừa ăn vừa nhìn người ta nhảy... Đầm, trên một cái sàn nhỏ. Hai Lúa, tuy cũng nhẩy nhót, nhưng lùn quá, nhẩy dở quá, chỉ đi được một điệu đi chợ, đạp xích lô, là điệu slow. Lâu lâu cũng bầy đặt tí tango bốn bước!
Ôi chao, một thời mê em... Lệ!

Chủ quán là một anh Tây già chiều chiều dắt thằng con thả bộ. Quán sau không địch lại mấy snack bar kế bên, đành dẹp.
Ngay gần quán, là Thư Viện Đa Kao, trong có quán Làng Văn.

Nào, đâu, thư viện Gia Long, thư viện Văn Hóa Bình Dân, Đa-Kao, nơi có câu lạc bộ, có quán cà phê Làng Văn, đêm nào đang bữa tiệc bỏ ra về, chẳng thể làm thơ, và cũng chẳng bao giờ là thi sĩ, và Du Tử Lê khi đó chưa làm giùm hai câu:
Em đi áo lụa mềm lưng phố

Có động lòng thương kẻ cuối đường...
Thế giới thư viện