Ghi
Dọn
I
1 2 3 4 5 6 7 8
II
1 2 3 4 5 6
|
Nhưng
bằng... vài giá, thì được?
Tay
này, lần đầu Gấu về Hà Nội, có gặp, tình cờ
thôi, mấy
ông bạn văn VC giới thiệu: Anh DTH, làm cuốn về TCS, có tính lấy bài
viết của
anh về TCS…
Nghe tới đó, ông xua tay, gạt
đi, tôi có tính thế thật, nhưng sau cuốn sách đủ bài, nên thôi, chứ
không phải
vì bài của anh có vấn đề, hay nhạy cảm.
Gấu hình như có viết về vụ này, đâu đó, trên Tin Văn. Lần Ngô Thảo đưa
tới một khách sạn năm sao, gặp họ Đoàn đang
ngồi nhậu với tay chủ khách sạn. Cũng cười cười, chào hỏi, vậy thôi.
Lạ, là đám
bạn văn VC của Gấu có vẻ rất ớn tay này. Chính vì thái độ của đám bạn
văn VC của Gấu,
nên bữa đó, Gấu không hỏi lại, ai cho phép mi tính... in bài của ta,
rồi
lại tính…
không in?
Nhắc tới tay này, vì
có liên
quan một tí đến nhà biên khảo lừng danh không biết viết văn ở hải
ngoại. Tay họ Đoàn có lấy một
bài viết của nhà biên khảo, về
NHT, khi đó còn tờ VHNT trên lưới của PCL. Không biết có xin phép nhà
biên khảo
hay không, nhưng ông ta mừng quýnh lên, khoe nhặng trên net với độc giả
VHNT, và
bà chủ báo, đại khái, nhà nước VC đã công nhận tôi là nhà biên khảo rồi!
Chiếc xe không làm nên con người, giá trị
chính là ở người cưỡi trên chiếc xe đó.
DTH
Chí lý, chí lý! NQT
*
Cũng
đừng chờ đợi những dư âm
thuận lợi sau khi những gì mình viết được phổ biến. Qua kinh nghiệm 14
năm điều
hành tờ Văn Học, và những sách đã xuất bản, tôi thấy thử thách ghê gớm
nhất của
người viết ở hải ngoại, là sự thờ ơ của phía thưởng ngoạn. Một bài thơ,
truyện
ngắn in trên báo, thậm chí một cuốn sách dày viết và in công phu phát
hành
xong, sau đó là gì: sự im lặng tuyệt đối. Tôi may mắn sau khi in sách
ra còn
nghe được chút hồi âm (dù không êm tai!) Rất nhiều người viết xong in
xong
không biết người đọc nghĩ gì, họ khen hay họ chê, mình đúng hay mình
sai. Vua
Pháp Louis 15 bảo sau ta là cơn hồng thủy. Nhà văn Việt Nam
hải ngoại
có thể bảo sau khi ra sách là hư vô. Viết để rơi vào hư vô, phải có cái
tâm vô
cầu lớn lắm mới có thể tiếp tục. Không có gì đáng ngạc nhiên nếu văn
chương hải
ngoại có rất nhiều tác giả chỉ có một tác phẩm. Họ xẹt vào văn chương
như một
ánh sao rơi.
NMG
Cái sự thử thách ghê gớm nhất đó, là chuyện bình
thường, chẳng có gì
ghê gớm cả. Một nhà văn thứ thiệt, theo Gấu, khi được vồ vập quá, là
phải hoảng, và phải coi lại cái điều mình viết ra. Chẳng thế mà có nhà
phê bình mừng cho Dante, thí dụ, sở dĩ còn sống sót đến tận bi giờ, ấy
là nhờ chẳng có ai thèm đọc!
Viết để rơi vào hư
vô, phải có cái tâm vô
cầu lớn lắm mới có thể tiếp tục.
NMG
Điều này sai. Hoàn toàn sai. Nhà văn nhà thơ Mít ở hải ngoại đông lắm.
Và chẳng ông nào có tâm vô cầu cả!
Không có gì đáng ngạc nhiên nếu văn
chương hải
ngoại có rất nhiều tác giả chỉ có một tác phẩm. Họ xẹt vào văn chương
như một
ánh sao rơi.
NMG
NMG, theo Gấu, không phân biệt được, hiện tượng nhà văn hải ngoại, hiện
tượng hư vô, hiện tượng ánh sao xẹt.
Rất nhiều nhà văn nhà thơ hải ngoại, khi ra mắt tác phẩm, mà NMG gọi là
sao xẹt đó, là chỉ để.. chơi thôi.
Đây là những người, thường chưa từng viết văn làm thơ, sau biến cố
1975, đến được xứ người, lo cầy lo bừa, khi ổn định, nhớ quê hương bỏ
lại, nhớ bạn bè, nhớ thời trẻ thơ, nhớ đủ thứ..., và bèn tìm cách ghi
lại. Họ coi tác phẩm như một quà tặng của tự do, chứ không phải là tác
phẩm văn học thực sự. Bản thân họ, cũng không đánh giá cao tác phẩm của
mình. Ông bạn quí của Gấu chẳng đã chửi, mấy ông nhà văn Mít ở Mẽo, tự
bỏ tiền in tác phẩm, rồi tự phong cho mình là nhà văn lưu vong, trong
câu nói dè bỉu đó, có hơn một sự thực: Ông bạn qui của Gấu suốt đời
dịch sách theo yêu cầu của đầu nậu, nó order cuốn nào thì mình dịch
cuốn đó, ông chưa từng dư dả tiền bạc để in sách theo kiểu của mấy nhà
văn lưu vong như trên. Chửi đấy, nhưng thèm rỏ nước miếng ra!
Hơn nữa, ngay cả bằng cách đó, thì cũng chỉ ở Mẽo, hay ở hải ngoại, mới
có quyền, có hạnh phúc, có tự do làm được: Tự in sách của mình, phát
cho bè bạn, nhớ đưa lại cho tao một tí, để trả tiền in ấn!
Đây là một hiện tượng rất lạ, trong văn học thế giới, nhưng với người
Việt, thì lại thường, sau biến cố 1975. Chẳng có dân tộc nào gặp cái
thảm họa giống như dân Việt, nếu có, thì là Khờ Me, bị chính Khờ Me Đỏ
huỷ diệt.
Những tác phẩm ánh xao xẹt ít nhiều đều là hậu quả của cú 1975, theo
một nghĩa đẹp nhất của nó!
*
Cũng đừng chờ
đợi những dư âm thuận lợi sau khi những gì mình viết được phổ biến.
Thú
thực, Gấu này viết lách cũng hơn nửa đời người, hơn nửa thế kỷ, chưa
từng chờ đợi những dư âm thuận lợi sau khi những gì mình viết được phổ
biến!
Đừng nghĩ là Gấu này phách lối.
Nabokov chẳng đã từng bị hỏi, ông nghĩ sao về độc giả của mình, và đã
trả lời, đại khái, ông chỉ có mỗi một độc giả, là cái thằng khốn nạn,
buổi sáng
sớm nào cũng đụng nó, khi soi gương, cạo râu.
Bởi vì bạn viết, thực sự mà nói, cho chính bạn, đọc. Những độc giả
khác,
nếu có, cũng chính là bạn!
Bởi thế, Nabokov nói tiếp, độc giả của ông, ngồi đầy phòng, người nào
cũng
đeo mặt nạ, là ông.
Thành thử dư âm thuận lợi, hay không thuận lợi, hư vô hay không hư vô…
một nhà văn phải biết rất rõ, trước khi cầm viết, chứ đâu có đợi ra
sách, rồi
ngóng như ngóng sung rụng!
NMG hình như có lần dè bỉu, thứ nhà văn tuyên bố, tao chỉ viết cho tao
đọc:
Nếu thế, in ra làm gì? Ông không hề nghĩ rằng, in ra, vẫn là để cho
mình đọc! [mình
ở đây là những độc giả đeo mặt nạ, như Nabokov ẩn dụ!]
*
Nhưng những nhà văn thứ thiệt, có thằng nào con nào thực sự nghĩ đến
chuyện viết văn đâu!
Một tay Tầu, nhận xét về Tây Sương
Ký [Gấu quên mất tên, hình như Lý Trác Ngô gì gì đó?].
Viết chưa thèm nghĩ đến, thì độc giả là cái đếch gì mà phải nghĩ đến?
*
...độc
giả là cái
đếch gì mà phải nghĩ đến?
Ai
có thể nói như vậy, Gấu không
thể nói như vậy!
Hồi
trẻ, không cần, chứ già rồi, cần lắm!
Ấy là bởi vì, Gấu rất cần độc
giả, và Gấu là người đầu tiên làm cho lời nguyền hư vô trở thành vô
nghĩa! Và NMG
cũng là người đầu tiên thông báo “tin mừng” nói trên! Ông bảo Gấu,
trường hợp của
ông thật là thú vị, ông vừa viết một cái là có tiếng vang liền.
Lần Gấu qua Cali,
ông cho coi một số thư độc giả. Những lá
thư thật là cảm động.
Một bà kể, cả hai vợ chồng đều
mê đọc mục Tạp Ghi. Báo vừa về là tranh nhau đọc, trước. Nhưng, có một
ông bạn,
cũng mê mục Tạp Ghi, và lần nào báo về, cũng hỏi, cũng đòi đọc liền.
Bán thêm cho
chúng tôi một tờ dài hạn nữa, đề tên, địa chỉ ông bạn, chứ chờ ông ta
đọc xong,
rồi mới đọc, thì nóng ruột lắm, mà đọc trước thì không đang tâm, vì ông
bạn cũng
nghèo..
*
Gấu rất cần độc giả. Ôm trong mình hai, ba cái Lò. Một Lò Thiêu, một Lò
Cải Tạo, nặng quá, chỉ mong bạn đọc ghé vai gánh giùm!
Theo
như Gấu hiểu được, kinh nghiệm 24 năm làm tờ Văn Học của NMG là do kỷ
niệm buồn nhất trong đời viết văn của ông, mà có được. Gấu ra ngoài
này, thì kỷ niệm buồn của NMG đã chìm vào quên lãng, nhưng đọc loáng
thoáng, trên báo chí, những ngày đầu mới ra, nó liên quan cái tai mà
một anh sĩ quan hay binh sĩ VNCH, sau khi làm thịt [?] một anh VC, bèn
giữ lại làm kỷ niệm. NMG cũng có một truyện ngắn, liên quan đến một cái
chân một người con trai, cũng lính tráng, bị thương, bị cắt, mà bà mẹ
cố xin lại để chôn cùng đứa con cho toàn thây, Gấu nhớ đại khái. Có
thể, cái tai đeo lủng lẳng, như một món đồ trang sức kia, là do cái
chân bị cắt mà ra? Cái trí tưởng tượng của nhà văn nó có những ‘ẩn dụ’
riêng của nó?
Tuy nhiên, cái vụ kỷ niệm buồn, như Gấu hiểu được, là do khi đó, NMG
không có tờ báo, vì báo khi đó, là của VP. Ngài VP, do rét, nên đếch
dám đăng thư trả lời của NMG, khi bị đám Chống Cộng điên cuồng hăm hỏi
thăm sức khoẻ, vì dám “làm nhục” họ?
Gấu nghe qua VL, kể, có một lần, VP phôn cho anh, báo tin mừng, tôi có
một bài viết về anh thú vị lắm. VL cám ơn rối rít, rồi… chờ. Chẳng thấy
tăm hơi bài thổi mình đâu cả, sau hỏi, thì ra khi đó, VL đang đụng với
LV, mà VP thì lại ngại, nếu đăng bài thổi VL, thì sợ mất lòng LV!
Sở dĩ Gấu nhắc lại mấy vụ trên, ấy là vì, chỉ cần VP, không chỉ cho
đăng thư trả lời của NMG, mà còn đứng ra bênh vực ông, dõng dạc phán,
đó chỉ là giả tưởng. Với địa vị của VP, thì chẳng ai còn dám đụng vô
NMG.
Gấu có lần hỏi NMG, anh cho biết, lúc đó băng HCM tính làm lớn chuyện,
mà anh sợ “hư đại cuộc” nên đành chấp nhận kỷ niệm buồn.
Chính vì kỷ niệm buồn, mà đang lưu vong chuyển thành di cư, là về với
nhà nước, chăng? NQT
Cái nhân vật đeo tai người hình
như có thực ở ngoài đời, Gấu không nhớ rõ, và hình như [vẫn hình như]
NMG vịn vào
đó, để cho rằng, ông không hề nói xấu quân đội VNCH. Nhưng, giả như có
thực một
nhân vật như vậy, cũng không thể nào, từ đó mà đi đến kết luận tất cả
đều như vậy.
Vả chăng, một nhân vật có thực
ở ngoài đời, khi bước vô tiểu thuyết, đều biến thành nhân vật của giả
tưởng,
và cái khoảng cách giữa thực và giả đó, quyết định sự liêm khiết của
nhà văn, và hơn thế nữa, giá trị đạo đức, giá trị văn học, của tác
phẩm. Và để
rạch ròi chuyện này ra, thường là, một khi một tiểu thuyết gia xây dựng
một nhân
vật của mình, từ một mẫu có thực ở ngoài đời, họ xóa bỏ những chi tiết,
sự kiện
có thực, nối kết chúng. Nói ngắn gọn, họ thay đổi tên nhân vật, khác
tên có thực
ở ngoài đời. Cái vụ cái tai người, và hậu quả của nó, truy cội nguồn,
là từ cái
vụ tên Tường mà ra. Nói rõ hơn, NMG cố tình lập lờ giữa thực và ảo, và
điều này
ảnh hưởng đến giá trị tác phẩm. Cả về đạo đức lẫn văn học. Giả như tác
phẩm Mùa
Biển Động của ông sống sót với thời gian, thì nghi án Tường là
ai cũng sống sót
cùng với tác phẩm, cũng bền vững với thời gian như vậy.
Chúng ta tự hỏi, tại làm sao người
đời cứ cố tìm cho ra một Lolita, có thực ở ngoài đời, hay là không. Ấy
là vì họ cố
tìm hiểu, với ý định gì, nhân vật này được nhà văn lọc ra để đưa vô
tiểu
thuyết.
Tìm hiểu để làm gì? Để tìm hiểu tài năng của tác giả, theo Gấu.
Một trong những
nguyên mẫu của Lolita, có thực, ở ngoài đời, theo như tờ TLS cho biết,
là một cô
gái, chỉ vì ăn cắp một món đồ chỉ đáng mấy đô ở trong một cửa tiệm, bị
một tên già bắt gặp,
và cứ thế suốt một thời gian dài phải thoả mãn tính thú vật của tên
già. Từ một
nhân vật như thế đến một Lolita của Nabokov, khoảng cách mới vời vợi
làm sao.
Gấu đã từng sử
dụng hình ảnh Tôn Ngộ Không, giang hồ, lưu vong như thế, tè một phát, ở
nơi xứ người,
xứ giả tưởng, vậy mà vẫn là tè ở nơi quê nhà, để minh họa, cái gọi là
hiện thực,
chỉ có giá trị tí tí như thế ở trong giả tưởng. Một khi nhà văn cố tình
giữ lại
liên kết có thực, giữa, thí dụ, một HPNT, và một Tường của Mùa Biển Động, là nhà văn phải có
gì
lấn cấn với nhân vật có thực ở ngoài đời.
*
"They are my memories
too, but I am not the character in the story".
"Những hồi ức là của tôi,
nhưng tôi không phải là nhân vật trong truyện", William Trevor, nhà văn
Ái-nhĩ-lan nhận xét về nghệ thuật giả tưởng. Viết, theo ông, là nghiệp
(a
professional activity), tuy nhiên thành phẩm - giả tưởng khi chín mùi -
bắt
buộc phải là “của riêng”. Khi dấn vào nghiệp, bạn đừng mong trốn thoát
cái kẻ
là bạn đó, cho dù bạn không hề có ý định tra hỏi về chính mình, cho dù
bản năng
cho bạn biết, rằng, đừng để dấu tay của bạn lên trang sách chừng nào,
tốt chừng
đó.
Mọi giả tưởng đều mang mầm tự thuật... Nhập
một, con người (với những hồi ức như thế), với nhà văn, là nghiệp viết.
Chúng ta tự hỏi, đâu
là cái mầm,
"có tính tự thuật" giữa NMG và HPNT? Nói rõ hơn, trong cuộc đời của họ,
có lần nào
gặp gỡ? Và điều gì đã khiến, NMG, từ một gặp gỡ như thế,
đưa ông này vào tiểu thuyết? Với dụng ý gì?
Cũng vậy, với nhân vật VNCH đeo tai người.
Tại sao cần những nhân vật như vậy, cho tác phẩm Mùa Biển Động?
*
Khi học thầy Vũ
Hoàng Chương, năm Đệ Nhị, tại trường Sương Nguyệt Anh, kế bên vườn Bờ
Rô, Gấu nhớ, có lần thầy giảng giải về cái sự cố tại sao Từ Hải mắc mưu
Hồ Tôn Hiếu.
Thi sĩ, và ông thầy Việt văn của Gấu giải thích, Từ Hải mắc mưu Hồ Tôn
Hiến, không phải là vì nghe lời Kiều, mà là vì lời khuyên đầu hàng
triều đình của Kiều rất có lý, và có thể chấp nhận được, vì đã từng xẩy
ra rất nhiều trường hợp như thế trong lịch sử Tầu. Một khi nhà vua, ở
mãi tít Tràng An, thấy đánh mãi một tên giặc cỏ, ở mãi tít biên cương,
chẳng đi đến đâu, và, thay vì tiếp tục đánh, ban cho nó một chức tước
gì đó. Hồ Tôn Hiến sử
dụng gian kế chiêu hàng, rồi làm thịt Từ Hải, đế lấy công với triều
đình, là ta uy vũ, đã dẹp giặc Từ Hải.
Liệu NMG cũng có ý muốn "dẹp xong" tên giặc nằm vùng HPNT, khi đưa anh
ta vô tác phẩm của mình?
Muốn trả lời nan đề này, xin tìm đọc Mùa
Biển Động.
*
Nhưng, câu hỏi, tại sao lại đưa
một nhân vật như thế, thí dụ HPNT, một anh VNCH đeo tai người, vô tác
phẩm, để
làm gì, câu hỏi này, đẩy lên một nấc, bật ra câu hỏi, Viết cho ai. NMG thực sự
quan tâm đến vấn đề này, như ông từng than, viết cứ như viết vào hư vô,
viết mà
chẳng làm sao biết có ai đọc mình.
Về
câu hỏi, Viết cho ai, có
nhiều người đã từng đặt ra, thí dụ Sartre, và cùng với ông, là cả một
trường phái
văn học dấn thân. Ở đây, xin đưa ra câu trả lời của Italo Calvino,
trong Những
sử dụng văn chương, The uses of
literature.
Bài viết của ông, cũng ngắn
thôi, một bài tuyệt vời, còn có thêm cái tít: Giá
sách giả dụ [Whom
Do We Write For, or, The Hypothetical Bookself]
Chúng ta viết một cuốn tiểu
thuyết, một bài thơ cho ai ?
Cho những người đã đọc một số
tiểu thuyết khác, một số bài thơ khác. Một cuốn sách được viết ra, là
để có thể
để kế bên những cuốn sách khác, và giữ một khoảng trên giá sách giả dụ.
Một khi
ngự ở đó rồi, cách này, hay cách nọ, nó thay đổi giá sách, đẩy một số
cuốn
ra khỏi chỗ của chúng, hay tống chúng xuống giá thấp hơn, trong lúc đòi
hỏi một
số khác, từ hàng dưới leo lên hàng trên....
*
Every book - not only of
literature, and even if "addressed" to someone - is read by its
addressees and by its enemies.
Italo Calvino
Mọi cuốn sách - không chỉ
sách văn chương, và ngay cả một khi nó được gửi tới cho một người nào
đó - thì
được đọc bởi những người nhận, và bởi những kẻ thù của nó.
Ui chao, Gấu là người nhận,
hay là... kẻ thù, của Mùa Biển Động ?
Và HPNT ?
Buồn vs Nỗi Buồn
Chiến Tranh
Note:
Cái bài viết này thật
là thú vị, riêng với Gấu, vì
nó liên can tới rất nhiều liên can, rất nhiều ẩn
dụ, mà một trong số đó, là, ẩn dụ... Trái Tim Hà Lội!
Gấu có lẽ là người đầu tiên
nhắc đến sự liên hệ giữa Trái Tim của
Bóng Đen, của Conrad, và phim Tận
Thế là
Đây, của Coppola, trong giới Mít, do đọc một bài viết về Conrad
trên tờ Người
Nữu Ước, những ngày còn giữ mục Tạp Ghi cho báo Văn Học của NMG,
cc
1997-98.
Tên bài viết nguyên là: Ngài là Mr.
Kurtz, tôi đoán thế? [I presume].
Gấu bèn
đổi thành Ngài là Đồ Phổ Nghĩa, tôi đoán vậy
Sự liên hệ giữa truyện và
phim, là do tác giả bài viết nêu ra:
Độc giả khó thể quên, cảnh
tượng Marlow, trên boong tầu, chiếu ống nhòm, tới những vật mà ông miêu
tả là
những đồ trang điểm, ở trên ngọn những con sào, gần nhà Kurtz, và rồi
ông nhận
ra, mỗi món đồ trang trí đó là một cái đầu lâu - đen, khô, mi mắt xụp
xuống,
cái đầu lâu như đang ngủ trên ngọn con sào. Những người chưa từng đọc
cuốn
truyện, cũng có thể nhìn thấy cảnh này, bởi vì nhà đạo diễn Francis
Coppola đã
mượn nó, khi chuyển Heart of Darkness
vào trong phim Tận Thế Là Đây,
Apocalypse
Now.
Nhưng, chỉ đến khi đọc bài
của Đinh Linh, bản tiếng Việt, do Lê Đình Nhất Lang dịch, từ bản
tiếng
Anh,
đăng trên Guardian, trong đó, có nhắc đến câu phán của Coppola: Tận Thế
là
Đây
"là" Việt Nam, thì Gấu này mới hiểu ra là, tay đạo diễn này, cũng
nhìn ra, như Gấu đã từng nhìn ra, [và phách lối, kiêu ngạo, tưởng
rằng chỉ có độc nhất Gấu nhìn ra chân lý!]
Bởi vậy, Nỗi Buồn Chiến Tranh cùng
một dòng với Tận
Thế là Đây, Trái Tim của Bóng Đen!
Thảo nào cả thế giới mê nó! Nỗi Buồn Chiến Tranh!
[Tay Cương Thi này, không hiểu có "nhận ra chân lý", khi để Nỗi Buồn Chiến Tranh bên
cạnh Tận Thế Là Đây, Trái Tim Của
Bóng Đen?]
Cũng khai hóa lũ Ngụy, bằng
văn minh Bắc Hà, bằng chủ nghĩa CS... cuối cùng, tưởng Trái Tim của
Bóng Đen, là hang ổ sau cùng của Mỹ Ngụy, Sài Gòn,
hóa ra là... Hà Nội!
Nếu so với Mặt Trận Miền Tây, thì
NBCT còn bảnh hơn, như lời phán của một tay trên
báo Hồng Mao:
Không giống như Mặt Trận Miền
Tây Vẫn Yên Tĩnh, đây là một cuốn tiểu thuyết không chỉ về chiến
tranh.
Một
cuốn sách về chuyện viết, về tuổi trẻ mất mát, nó còn là một câu chuyện
tình
đẹp, nghẹn ngào [Lời giới thiệu của Geoff Dyer trên tờ Independence, in
lại trong bản dịch tiếng Anh
của Nỗi Buồn].
Gấu đọc NBCT
*
Báo Le Magazine Littéraire
mới nhất, về Simone de Beauvoir, trong mục thường xuyên của nó, Sổ Đọc,
[Carnet
de Lecture], có một bài viết tuyệt vời về nhân vật Kurtz, của Trái Tim
Của Bóng
Đen, của Conrad, nhân dịp tái xuất bản tuyệt tác này. Ông Từ giữ đền
"Sổ
Đọc" này, Enrique Vila-Matas, là người Tây Ban Nha, viết bằng tiếng Tây
Ban Nha, được dịch qua tiếng Pháp Kurtz
des ténèbres [Kurtz của bóng đen].
Vila-Malta
viết về Conrad:
Ông gia nhập truyền thống rất
xa xưa, theo đó, cái gọi là kỷ luật, sự tu luyện phải đến từ bên trong,
bởi vì
đây chính là sức mạnh tâm thần bật ra từ thiên tài về nơi chốn của
chính bạn,
le genius loci, nói một cách khác, từ chính chúng ta.
[Joseph
Conrad adhérait à la
tradition la plus ancienne, selon laquelle la discipline doit venir de
l'intérieur, puisqu'il s'agit d'une force mentale émise par notre
propre génie
du lieu, le genius loci, autrement dit nous-mêmes. L'homme ne se libère
pas en
donnant libre cours à ses impulsions et en se montrant changeant et
incapable
de se contrôler, mais en soumettant la force de sa nature à un projet
prédominant, à un code mental d'acier qui sache éliminer sa liberté la
plus
sauvage et le situer dans le cadre d'une vie disciplinée, en faisant
appel aux
desseins intérieurs du génie du lieu.]
*
Còn một bài viết nữa, trong
cùng số báo, cũng thật tuyệt, của Linda Lê, trong mục thường xuyên của
bà,
"Trở về với những tác giả cổ điển". "Tẩu khúc của thần
chết", Missa sine nomine, nguyên tác tiếng Đức, của Ernst
Wiechert. Một
bản
di chúc tâm linh của một người sống sót trại tù Buchenwald.
Bài viết cũng khiến Gấu liên
tưởng đến Cánh Đồng Bất Tận.
Đối diện với điều không thể
nói được, không thể gọi tên, viết về sự phạm tội và cứu cuộc, liệu vẫn
còn có
nghĩa?
Câu trả lời:
Tiếng
nói của tôi được vời
tới, và nó kể
[Ma voix a été appelée,
et
elle raconte].
Của Gió và Nước
Nhưng Trái tim của Bóng Đen
mà dịch là Bóng tốì của Trái tim, thì tiếu lâm quá. Đây là Lê Đình Nhất
Lang,
của Da Mầu dịch, trong nước, tay Cương Thi, bèn thuổng luôn!
Nếu như thế, cái tít Nỗi buồn chiến
tranh lại đúng hơn so với Thân
phận Tình Yêu!
*
Tiểu thuyết nổi tiếng
Người
Mỹ trầm lặng khi được đưa lên màn ảnh lần đầu ở thập niên 1950. Một đạo
diễn
tầm cỡ như Joseph Mankiewicz (phim Cleopatra) mà còn “xoay” kịch bản
180 độ,
biến nhân vật chính Alden Pyle- một kẻ nham hiểm tàn độc như trong tiểu
thuyết
gốc - trở thành một người hùng của nước Mỹ ! Tầm cỡ lớn như tiểu thuyết
gia
Graham Greene, mà còn bị qua mặt như vậy huống hồ người khác!
Cương Thi
Nhận xét như vậy, là không có đọc Người
Mỹ Trầm Lặng. Tay Pyle này rất ngây
thơ.
Greene bực, là do đạo diễn làm sai ý nghĩa của truyện, chứ không phải
biến tay Pyle thành nham hiểm tàn độc.
Nham hiểm tàn độc là phải dành cho tay nhà báo Hồng Mao, Fowler, dân
hít tô phe, như Greene!
*
Như lời giới thiệu ở trang
bìa (nhà xuất bản Penguin): "Người Mỹ trầm lặng" là một bức chân dung
đáng sợ về một sự ngây thơ nói chung chung. Trong lúc Quân đội Pháp tại
bán đảo
Đông Dương vật lộn với Việt Minh, ở hậu phương Sài Gòn, một người Mỹ
trẻ, cao
cả (high-minded) lo chuyện viện trợ kinh tế cho "Lực lượng thứ ba".
Cao cả, có thể như vậy chăng,
khi người Mỹ thay chân người Pháp ở Việt Nam? Như nhân vật Fowler,
người
Anh, tức Ngài Michael Caine ở ngoài đời, nhận xét: "Tôi chưa từng gặp
một
người nào có những động cơ tốt đẹp hơn, [nếu nói] về những rối loạn mà
anh ta
đã gây ra." Và khi rối loạn tiếp theo rối loạn, máu đòi máu, tay ký giả
già thấy thật khó mà đứng bên lề, như một quan sát viên. Nhưng những
động cơ
của Fowler thật đáng nghi, đối với cảnh sát, với chính anh ta, và với
độc giả:
bởi vì Pyle, "người Mỹ trầm lặng", đã "chôm" mất người tình
của ký giả già.
"Ngay từ thời thơ ấu,
tôi đã không hề tin vào một cái gì trường cửu, tuy nhiên tôi lại ước
vọng nó.
Luôn luôn, tôi sợ mất hạnh phúc. Tháng này,
năm sau, Phượng sẽ rời bỏ tôi…
-Tha lỗi cho tôi, vì đã đoạt
cô Phượng của anh, giọng Pyle nói.
-Ô, tôi không biết nhẩy, nhưng
thích ngắm nàng nhẩy.
Người ta luôn luôn nói về
nàng, bằng ngôi thứ ba, như thể nàng không hề có ở đó. Đôi khi nàng có
vẻ vô
hình, như thanh bình."
Anh ký giả già nhận xét Pyle,
người Mỹ trầm lặng, bằng những từ: "Tôi ngạc nhiên không biết hai người
nói chuyện gì với nhau. Pyle thì rất hăm hở, và tôi đã đau khổ vì những
bài
thuyết trình của anh ta về Viễn Đông, mà vốn liếng của anh ta chỉ có
chừng vài
tháng, trong khi của tôi, hàng năm. Dân chủ lại là một đề tài hăm hở
khác của
anh – anh ta có những quan điểm thật quá khích về những gì Hoa Kỳ đang
làm cho
thế giới. Ngược lại, tuyệt vời thay, Phượng nàng chẳng biết gì hết: nếu
Hitler
được nhắc tới trong lúc trò chuyện, nàng sẽ ngắt lời, để hỏi, ông là ai
("Người Mỹ trầm lặng", trang 12, ấn bản Penguin)….
Dọn 2
Coppola
Apocalypse
Now
Tận
thế là đây
Trái tim của Bóng đen ở đâu?
Note:
NBCT vs Heart of
Darkness.
Tính tự sự, của cả hai, cùng “dòng
ý thức”?
Vị trí trong lịch sử: fin de siecle doubt and pessimism
vs Con Bọ?
*
đọc sách với
ĐÀO TRUNG ĐẠO
ATIQ RAHIMI
A Thousand Rooms of Dream
and Fear
(Ngàn Căn Phòng của Những
Giấc Mơ và Sợ Hãi)
[Nguồn: Gió O]
Tay này, ngay cái tít của người ta, đã dịch ẩu
rồi. Từ ‘Dream’
ở đây, sử dụng như một từ “không đếm được” [uncounted] để cho nó cân
xứng với Fear
[sợ hãi], thành thử phải dịch là Ngàn
phòng của mơ mộng và sợ hãi, đại khái như
thế.
Gấu đọc
cái tít, tiếng Việt, là đã thấy sượng rồi. Giống lần đọc Trăm Năm Cô Đơn, bản tiếng Việt của
Nguyễn Trung Đức. Lần đó, được bà chủ quán cá hưởng ứng, lại được thêm
một ông người Đức đáp lời, cũng là một trong những kỷ niệm vui nhất
trong đời viết văn của Gấu (1).
(1) Dịch là số
*
Nhưng thú vị nhất, theo Gấu,
là “Một ngàn phòng”. Tại sao? (1)
Borges,
khi viết về Ngàn Lẻ Một
Đêm, có bàn về ‘một ngàn’, nhờ ông, chúng ta mới
hiểu ra được,
tại sao những ‘ngàn vàng’, ‘ngàn năm’, ‘thiên thu’…
Ui chao, đến già, nhờ đọc Borges, mới hiểu ra được, tại sao cái giá của
"nó" là 'ngàn vàng'!
(1) Tuy chưa đọc tác phẩm, nhưng cái tít khiến người đọc liên tưởng tới
Ngàn Lẻ Một Đêm.
*
Đào quân cũng đã từng mượn cửa hàng cá “tố cáo” Gấu,
‘không phải thuộc giới khoa bảng’; với ông ta, khoa bảng ở đây, có
nghĩa là mảnh
bằng cử nhân triết của Đại Học Văn Khoa Sài Gòn.
Gấu cũng có vài mảnh bằng, nhưng
thuộc bên khoa học, kỹ thuật. Cái sự tố cáo của ông ta làm Gấu giật
mình, nhớ lại,
thì mới nhận ra, không phải chỉ ông ta, mà mấy ông bạn quí của Gấu đều
nghĩ như
vậy cả, về Gấu. Mới nhất, là, lần về Sài Gòn, gặp đấng bạn quí HPA, anh
còn nhắc
khéo, mày dân Toán mà lại quay qua Triết hả, sau khi đọc mấy bài Gấu
dịch
Steiner.
Về cái sự tu tập này, trong bất
cứ ngành gì, nếu bạn không hàng ngày tu tập, thực tập thì cũng vứt đi
thôi. Hồi
Gấu làm một anh chuyên viên Bưu Điện, có làm việc chung với một tay
chuyên viên
của một hãng Anh, làm việc tại chi nhánh Hồng Kông, qua Sài Gòn giúp
Bưu Điện sửa
chữa, bảo trì những mạch điện thoại viễn liên dành cho quân đội Mẽo, sử
dụng hệ
thống của Cable & Wireless HK, tức hãng mà anh là nhân viên.
Tay này cực giỏi. Anh ta khám phá ra liền, mấy
cái máy của
Mẽo, sở dĩ không hoạt động OK tại Việt Nam, hoàn toàn do vấn đề
nhiệt độ. Cái hệ thống máy móc mà Bưu Điện sử dụng đó, là của Philco
Corp, họ làm ra không phải để sử
dụng ở xứ nhiệt đới!
Thế là phải biến cái
Đài của Gấu thành một cái phòng lạnh!
Anh còn khám phá ra một điều, những máy móc đó, giống như xe Mẽo,
ngốn điện nhiều quá! Thế là anh ta bớt đi rất nhiều cái dư thừa ở trong
máy,
để cho đỡ
tốn điện, mà hiệu quả của máy vẫn OK!
Anh
biểu Gấu, tao đi làm đây,
chỉ có hai năm thôi, sau đó, phải trở về Anh, tu nghiệp hai năm, rồi đi
làm tiếp.
Trong khi Gấu, ra trường Bưu Điện, làm một anh công chức, tháng tháng
lãnh tiền,
ôm ba cái máy cũ rích, hoặc quá rành về chúng, chẳng cần học hỏi gì
thêm nữa.
*
Cái hệ thống máy móc vô tuyến
điện của Philco Corp thành lập, là tính để mở đường liên lạc viễn ấn,
vô tuyến điện
thoại Saigon-Bangkok. Gấu khi đó, đang là chuyên viên của quốc nội,
được biệt
phái qua quốc tế, chính là vì nó!
Bảnh như vậy đấy!
Đọc “cẩm nang” của máy, nó dựa
trên một lý thuyết mới tinh về chuyển tín hiệu viễn ấn. Và lý thuyết
này, của một
tay ghê gớm lắm, chính là cái tay tương lai học Herman Kahn, cha đẻ ra từ Việt
Nam hóa chiến tranh, Vietnamization, và là người mà Coetzee đã trích
dẫn một câu
của ông, làm đề từ cho truyện ngắn The Vietnam Project, trong Dusklands. Bạn thử
vô coi tiểu sử của tay này, trên Wikipedia, thì mới thấy hết hồn!
Thường
ra, ký hiệu viễn ký,
khi chuyển bằng vô tuyến điện, tần số cao, high frequency, do ảnh hưởng
thời
tiết, khí hậu, giải tần số, sóng mạnh, yếu… hay bị sai, một, hay hai,
con chữ, thí dụ từ "anh”, có thể sẽ thành “ani”. Lý thuyết, và sau đó,
biến thành
hiện thực, và là bộ não của hệ thống máy Philco, chính là cái phòng
chứa,
a storage room, một khi tín hiệu mạnh, phần "dư của nó, sẽ được đưa vô
phòng chứa,
và khi yếu, được lấy ra, để sửa những lỗi về con chữ, như trên.
Bộ não trên, không hoạt động được,
do khí hậu, nhiệt độ ở Việt Nam. [Nhờ tay chuyên viên
Cable & Wireless HK phám phá ra].
Sau khi ông Diệm mất, ông
Nguyễn Văn Điều, kỹ sư viễn thông Bưu Điện, thầy của Gấu, lên làm Tổng
giám đốc BĐ, Gấu báo cáo với Thầy Điều, và ông nhờ một ký giả ngoại
quốc mang từ
Mẽo về, một bộ não của máy, để thay thế, và sử dụng cho mạch báo chí
của các hãng
thông tấn ngoại, bỏ luôn mạch Saigon-Bangkok.
Gấu trở nên “quá quan trọng,
không thể thiếu” đối với bộ máy, ông Điều bèn cho căn nhà ngay bên Đài,
đễ lỡ có
chuyện trục trặc là lôi cổ nó dậy. Gấu có lẽ là chuyên viên Bưu Điện
độc nhất,
chưa có gia đình mà đã có nhà nhà nước cấp!
Mấy ông lớn, khỏi nói!
Chính
vì hệ thống trên, khi
RCA nhẩy vô Việt Nam tranh ăn với Cable & Wireless Hongkong, họ đã
phái hai
chuyên viên Phi Luật Tân từ Manila qua, làm việc với Gấu, thực hiện
mạch Saigon-Manila, thay thế bộ não trên, bằng một bộ máy đơn giản hơn,
mang từ Manila qua, và khi xong việc, kéo nhau đi ăn ở nhà hàng nổi Mỹ
Cảnh, Gấu và đồng
bọn đã được
VC thưởng công cho hai trái mìn claymore! Hai anh Phi đi luôn, ông
trưởng đài của Gấu mất 'bộ đồ lòng', Gấu, bị thương nặng, ăn cả hai
trái, vậy mà thoát! Súng ống còn nguyên vẹn!
Thời gian nằm nhà thương Grall được em BHD ghé thăm, và khi ra khỏi nhà
thương, có được truyện ngắn đầu tay Những
Ngày Ở Sài Gòn, và trở thành Gấu nhà văn!
Dàn máy viễn ấn, vô tuyến
điện thoại Philco Corp. Gấu đứng chống nạnh. Người
ngồi quay lưng lại, là Trần Bảo Thạch, trưởng đài VTĐ thoại quốc tế,
số 5 Phan Đình Phùng, Sài Gòn..
Thằng thợ sửa máy la dô, làm
sao dân khoa bảng được! NQT
*
Kim Dung kể chuyện
Dịch Chân
Kinh, bí kíp nằm tê hê ra đó, nơi Tàng Kinh Các, chẳng ai thèm đọc, đọc
chẳng hiểu, thấy vô dụng,
cho tới bữa có ông sư khùng, tò mò, nhặt lên thử đọc, bèn ơ ra kìa một tiếng,
và trở thành thiên hạ đệ nhất nhân. Đến thời Lục Mạch Thần Kiếm, có hai
tay Cưu
Ma Tri, Kiều Phong, một ông tẩu hoả nhập ma vì nó, một ông, nhớ em A
Châu quá,
kỷ niệm em để lại mà, vì nó mà em suýt bỏ mạng nơi chùa Thiếu Lâm, vì
nó mà Kiều
Phong đưa em đến Tụ Hiền Trang nhờ Tiết Thần Y cứu mạng, rồi cả hai tái
hợp nơi
Nhạn Môn Quan, chàng tung nàng lên trời, rớt xuống, ôm chặt vào lòng,
thủ thỉ, hai ta
ra quan ngoại chăn dê, từ bỏ chốn giang hồ gió tanh mưa máu… mơ mơ màng
màng đút
cuốn kinh vô tay áo, thế nào rớt xuống đất, anh đầu sắt vớ được, luyện
thành đại
tối độc chưởng, bao gồm nội công tối thượng Thiếu Lâm, và nọc độc hàn
băng tầm!
Cái sự
đọc triết, thí dụ,
triết hiện sinh, của Gấu, suy ra, có gì na ná ông sư khùng, chỉ đọc có
“hai
câu”, mà
“ngộ”, không phải ngộ triết hiện sinh, mà ngộ ra đời, và thời của mình!
Câu thứ nhất, của Sartre,
trong Nhận Định, ngộ ra thời
của Gấu:
Vào mỗi thời đại, con
người nhận
ra mình, khi đứng trước tha nhân, tình yêu, và cái chết.
[A chaque
époque, l'homme se
choisit en face d'autrui, de l'amour, et de la mort]
Câu thứ nhì, cũng của
Sartre:
"Qu' y a-
t- il
à craindre
d' un monde si régulier? Je
crois que je suis guéri"
[Có gì mà sợ một thế giới
bình thường như vậy? Tôi nghĩ là tôi đã khỏi
bệnh].
Câu này nằm ngay ở một trong những trang đầu, "những trang không ngày
tháng", mở ra nhật ký Roquentin, hay cuốn Buồn Nôn, của Sartre.
Câu văn mở ra cõi văn của Gấu.
|