Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Tạp ghi | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự văn học |
Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ |  Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
  Ghi chú trong ngày | Thơ Mỗi Ngày | Nhật Ký | Chân Dung | Jennifer Video 


Last Page 
1 YEAR AGO TODAY
Sat, Oct 4, 2014

Chữ người tử tù
Nhà văn Isaac Bashevis Singer, khi phải lựa chọn một số truyện ngắn, để làm một tuyển tập, ông nói đùa, mình đúng là một đấng "quân vương", với ba ngàn cung tần mỹ nữ, và hàng lô con cháu. Chẳng muốn bỏ đứa nào!
Ông sinh năm 1904, tại Ba Lan, di cư sang Mỹ năm 1935, và một thời gian làm ký giả cho tờ báo cộng đồng Jewish Daily Forward, tại New York City. Chỉ viết văn bằng tiếng Iddish, và được coi như nhà văn cuối cùng, và có lẽ vĩ đại nhất của "trường" văn...

Continue Reading
Thơ Mỗi Ngày

Bài ca buồn của Sonny

All I know about music is that not many people ever really hear it. And even then, on the rare occasions when something opens within, and the music enters, what we mainly hear, or hear corroborated, are personal, private, vanishing evocations. But the man who creates the music is hearing something else, is dealing with the roar rising from the void and imposing order on it as it hits the air. What is evoked in him, then, is of another order, more terrible because it has no words, and triumphant, too, for that same reason. And his triumph, when he triumphs, is ours.

James Baldwin – Trích từ tác phẩm Sonny’s Blues (Bài Ca Buồn của Sonny)

Tất cả những điều tôi hiểu biết về âm nhạc là không mấy người thật sự nghe nhạc. Ngay cả những lúc thật hiếm hoi, khi lòng chúng ta mở cửa, cho âm nhạc đi vào, những điều chủ yếu chúng ta nghe, hoặc nghe để phụ họa, là những điều rất riêng tư, những ký ức đã và đang biến mất. Nhưng người nhạc sĩ sáng tạo ra âm nhạc thì lại nghe cái gì đó rất khác, hắn phải ứng phó với cái tiếng gầm rống đang dâng lên trong hố thẳm của tâm hồn và thiết lập một thứ trật tự trên cái tiếng gầm rống ấy khi nó xuất hiện. Cái đã trổi dậy bên trong hắn, lại nằm ở một trạng thái trật tự khác, càng đáng khiếp hãi hơn vì nó không có lời nói, rồi cũng vì không có lời nói mà nó thắng thế. Và sự thắng cuộc của chàng, khi chàng thật sự thắng, cũng là sự thắng cuộc của chúng ta.

Tuyệt. Nhưng Blues dịch là buồn, có lẽ không nên.
Blues là Blues.

Mẩu trên, nếu Gấu dịch, chắc là có tí khác.

Hình như TTT có câu:

Blues không xanh mà Blues đen...
Tim rũ rượi

Regards

Xé nát thân thể bằng tiếng kèn đồng

Bằng giọng của máu của tuỷ của hờn bắt đầu ngày tháng

Giữa rừng không lối rừng mãi trống không

(…)

Vì blues không xanh, vì điệu blues đen

Trên màu da nức nở

 («Đen», Sáng Tạo, số 8, tháng 5-1957) (1)


A Warm, Small Rain
Night, an alien city, I roamed
a street with no name.
Stone steps submerged me deeper
in otherness and thick spring.

A warm, small rain: birds sang,
guardedly, tenderly, from afar.
Ship sirens in the port
wailed farewell to the known earth.

In tenement windows, actors appeared,
from your dreams and my dreams: I knew
I was en route to the future, that lost
epoch-a pilgrim trekking to Rome.

Adam Zagajewski: Canvas
Cơn mưa nhỏ, ấm

Đêm, thành phố lạ,
Tôi lang thang con phố không tên
Bực đá nhấn tôi xuống sâu hơn nữa
Trong cái khác và mùa xuân dày đặc

Cơn mưa nhỏ, ấm: chim hót
Thận trọng, dịu dàng, xa xa
Tầu rúc còi ngoài cảng
Rền rĩ, than van, vĩnh biệt, tới một miền đất lạ

Ở nơi cửa sổ những căn phòng, nghệ sĩ xuất hiện
Từ giấc mơ của bạn, của tôi: Tôi biết
Tôi đang trên đường tới tương lai, cái thời đã mất -
Một cuộc hành hương tới La Mã.


OLD SONG

Do not seek too much fame,
but do not seek obscurity.
Be proud.
But do not remind the world of your deeds.
Excel when you must,
but do not excel the world.
Many heroes are not yet born,
many have already died.
To be alive to hear this song is a victory.

Traditional, West Africa

The Rag and the Bone Shop of the Heart
A Poetry Anthology
Robert Bly, James Hillman and Michael Meade editors

Một trang Tin Văn cũ

Đừng tìm kiếm danh vọng nhiều quá
Nhưng đừng tìm kiếm sự tối tăm.
Hãy hãnh diện
Nhưng cũng đừng nhắc nhở thế giới về những chiến công của bạn
Chơi trội, OK, nếu bạn phải chơi trội.
Nhưng đừng chơi trò nổi cộm với cả thế gian
Nhiều vị anh hùng chưa sinh ra
Nhiều người đã chết
Sống, và vô 1 trang TV cũ, đọc, thì đã là một chiến thắng khổng lồ rồi!
hãy thêm củi vào lò
đốt cho cháy hết những tháng năm này
để mùa đông dài thật dài
và chén đắng cay tưởng không bao giờ cạn

Đại Lục Kim Dung

1/4/13

ý nghĩa của đối thủ

nếu có viết chưởng, chưởng của tôi sẽ rất bựa và sẽ có xen như thế này: hai cao thủ đấu với nhau đến hồi kịch liệt, nhìn từ bên ngoài thì như hai thằng dở hơi ngồi đờ đẫn nhìn nhau nhưng thật ra đã tới lúc nhúc nhích một li một tấc là có kẻ toi mạng, con ruồi nào lỡ bay qua là trúng huyệt bách hội lăn quay thở dốc liền, trên đầu mỗi đồng chí có một mảnh khói bốc lên lờ mờ; và như mọi cuộc oánh nhau, bu lại xung quanh là rất đông cao thủ hạng bốn hạng năm của thiên hạ, chúng chỉ trỏ xì xào, lại còn phân tích tích phân loạn cào cào, vừa nãy là chiêu Ngũ Hành xào tỏi, bây giờ thì đang đấu Nguyên Khí sắn luộc vân vân và vân vân; hai cao thủ trong vòng đấu bực mình lắm vì bọn chúng cứ lao xao điếc cả tai và điếc thêm một thứ nữa, đến hồi không chịu nổi nữa, một người móc luôn cứt mũi búng một đàn chỉ thần thông, một chú ở vòng ngoài bỗng ngã lăn, miệng ú ớ, từ đó bị phế bỏ võ công vĩnh viễn, suốt đời mắc chứng viêm phế quản 

chưởng của Kim Dung những bộ lớn có rất nhiều điều đáng ngưỡng mộ, nhưng một ấn tượng rất lớn mà Kim Dung để lại trong tôi là Tuyết Sơn Phi Hồ, đặc biệt là đoạn Kim Diện Phật Miêu Nhân Phượng đấu với Liêu Đông đại hiệp Hồ Nhất Đao trong Tuyết Sơn Phi Hồ này, Kim Dung đẩy lên đến mức trác tuyệt quan niệm về đối thủ trong giang hồ 

giang hồ lồng lộng (bờ sông trắng hoa dương/chia ly buồn đứt ruột/giậm chân hát mà từ biệt... vạt áo xanh giang hồ) sở dĩ kỳ thú là bởi có những cặp đối thủ; đối thủ tầm thường thì mong giết được nhau, mong thắng được một chiêu, tiên thủ vi cường, dĩ bẩn trị địch, mong nhanh hơn nó một sát na để xử lý xong nó rồi đi lên đỉnh đồi đứng nhìn về xa xăm, áo choàng thẫm máu tung bay trong gió mùa hoang lạnh 

cao thủ thượng thặng không có cái tâm lý ấy; những gì tinh túy nhất của chưởng không dính đến chết chóc (phim action của Hollywood ta luôn luôn thấy có mùi rẻ tiền là vì nhiều máu quá), Morris cũng phải quyết định để anh lonesome cowboy không bao giờ bắn chết người nữa thì Lucky Luke mới có cơ bước vào thế giới của sự vĩ đại và bất tử 

cao thủ như Miêu Nhân Phượng và Hồ Nhất Đao coi cái sự gặp được nhau là một hạnh ngộ bất tuyệt trong đời, đấu mãi với nhau thì nảy sinh lòng mến phục và trân trọng; tìm được đối thủ xứng tầm cũng thú ngang với tìm được một tuyệt sắc giai nhân không sợ bị gọt đầu bôi vôi mà đi theo mình kẻ lông mày cho mình, ngang tìm được một tri kỷ đối ẩm luận đời quên ngày tháng 

quý trọng đối thủ, Miêu Nhân Phượng coi cái chết của Hồ Nhất Đao là nỗi bất hạnh lớn lao của đời mình; vào giây phút ấy, Miêu Nhân Phượng hiểu rằng sẽ chẳng bao giờ mình còn tìm được một ai như Hồ Nhất Đao nữa; đối thủ ở một mức nào đó là duy nhất, không thể thay thế, như người bạn thân 

ý nghĩa của đối thủ là khiến cho ta thấy đời đáng sống, ngày ngày ta được đối thủ nâng lên một tầm mức mới vì đối thủ bắt ta lúc nào cũng phải suy nghĩ để phá một chiêu, khiến ta nghi hoặc, khiến ta hậm hực, khiến ta ngưỡng mộ trước tài năng xuất chúng, trước khí độ hiên ngang, trước tấc lòng trượng phu, trước những quái đản bất ngờ 

và rất bực khi đối thủ của mình bị mấy bọn cao thủ Tây Vực mặt giặc đến quấy nhiễu, để đối thủ không thể tập trung vào cuộc đấu với ta; trong cuộc đấu giữa Hồ Nhất Đao và Miêu Nhân Phượng, có một đêm Miêu Nhân Phượng đã bỏ đi, sáng ra phi ngựa về vứt dưới chân Hồ Nhất Đao một cái đầu người, là một kẻ thù của Hồ Nhất Đao, làm vậy là để Hồ Nhất Đao đỡ phải bận tâm với những thứ vớ vẩn 

những điều như thế là quý giá 

(viết riêng tặng Mr. Tin Văn)

Blog NL


Quách Tường tiểu muội

QT là…  nick của Gấu Cái, khi viết cho 1 tờ báo địa phương, đúng bài viết vào dịp 30 Tháng Tư 1975, năm đầu tiên qua Xứ Lạnh.
Sau Gấu chôm, đưa vô “Tự Truyện”, và là cái thư gửi Cô Út.
Bài viết của Huỳnh Ngọc Chiến, tuyệt, nhưng theo Gấu, chưa tới, chưa hết được cái đẹp của "nhân vật" này.

*

Granta 100

Ta sẽ nhớ mi vô cùng khi ta ngỏm
Đáng yêu nhất của những nụ cuời
Mềm mại nhất ở trên giường khi cả hai còn trẻ
Quách Tường của ta ơi
Hãy nhớ rằng khi ta ngỏm rồi
Mi v
ưỡn sống đời đời trong tim trong đầu của ta

V/v Khi ta đã ngỏm rồi

For how hard it is
to understand the landscape
as you pass in a train
from here to there
and mutely it
watches you vanish.

Căng, thật căng
Khi ngồi tầu suốt
Nhìn phong cảnh
Lặng, lặng ngắt
Nhìn Gấu biến mất

The intention is sealed
of preserved signs.
Come through rain
the address has smudged.
Suppose the "return"
at the end of the letter!
Sometimes, held to the light,
it reads: "of the soul."

Toan tính, tính rồi
Đóng khằn, khằn đóng
Thế rồi mưa tới
Làm mờ cảnh vật
Làm nhòa những chữ
“Trả lại người gửi”, return
Soi đèn
Đọc:
“Của linh hồn”, of the soul


W.G. Sebald: Across The Land and The Water

Note: Norfolk

The physical (or, rather, metaphysical) attitude of the passenger, who is “sailing backwards with banished time”, is reminiscent of Walter Benjamin's "angel of history": the "storm [from Paradise] irresistibly propels him into the future to which his back is turned, while the pile of debris before him grows skyward" (Illuminations, trans. Harry Zohn, London: 1973 [p. 260]). The reason for the poem's description of Norfolk as a Louisianan landscape is obscure....

 

Norfolk

Dong buồm ngược
Như một hành khách
Mà thời gian bị biếm,

Một quang cảnh Louisina
Được cư ngụ bởi những chủ cối xay gió vô hình

Nơi người Ai Cập
Trong chiếc thuyền sơn của mình
Dong buồm giữa những cánh đồng

Cung cách thể chất (hay có thể nói, siêu hình) của một hành khách “du hành ngược lại…. với thời gian bị biếm”, làm nhớ đến “thiên thần lịch sử” của Walter Benjamin: Trận bão [từ Thiên Đàng] đẩy anh ta, không làm sao cưỡng lại được về tương lai, lưng anh ta quay lại, trong khi đống điêu tàn đổ nát trước mặt anh ta cứ thể mà ùn mãi lên, tới tận ngọn đỉnh trời (Illuminations).

Whatever Happened

Whatever happened had already happened.
Four tons of death lie on the grass
and dry tears endure among the herbarium's leaves.
Whatever happened will stay with us
and with us will grow and diminish.
But we must live,
the rusting chestnut tells us.
We must live,
the locust sings.
We must live,
the hangman whispers. 

Adam Zagajewski

Bất Cứ Cái Chó Gì Xẩy Ra
 

Bất cứ cái chó gì xẩy ra thì đã xẩy ra mất mẹ nó rồi.
Bốn tấn người chết nằm trên cỏ,
Ba triệu người chết ở cả Nam lẫn Bắc Kít,
và những giọt nước mắt cứ thế ở mãi cùng những chiếc lá bàng
ở trong truyện Ðôi Bạn của Nhất Linh
[những chiếc lá của cây herbarium: cây mẫu]
Cái chó gì xẩy ra thì sẽ bám chặt lấy chúng ta
và cùng với chúng ta, sẽ lớn mãi ra, và nhỏ mãi đi. 

Nhưng chúng ta phải sống,
[Thằng Còi, Cái Hĩm… không, không, Anh Phải Sống]
cây hạt rẻ gỉ sét bảo chúng ta.
Chúng ta phải sống,
con châu chấu hát.
Chúng ta phải sống,
HPNT thì thầm bên tai Gấu.

Khiem Do liked this.
Follow
1 hr · Edited ·

Mấy hôm anh Tường cứ đòi ra Huế chơi, cái Líp con gái anh bận lắm nhưng vẫn cố sắp xếp đưa ba mạ ra Huế. Ra Huế được ba ngày, thăm bạn bè đầy đủ xong đột nhiên anh đổ bệnh thập tử nhất sinh. Sự sống tính từng giờ. Cái Líp khóc quá, nó làm bài thơ:" Xin ba vài năm nữa" rất cảm động, anh Tô Nhuận Vĩ nói ai đọc bài thơ cũng ứa nước mắt. Có lẽ anh Tường cảm động quá nên làm theo ý con. Từ sáng nay anh đã khá lên phần nào, tuy vẫn nằm thở ô xy.

P/S: Anh Tường đang ốm đau, kẻ nào chĩa mồm vào đây biêu riếu anh ấy sẽ bị coi là quân mất dạy và sẽ bị chặn ngay lập tức.

*****

Sợ lâu lắm mới đi được.
Cầu được như Võ Tướng Quân!
GCC


Tribute to Võ Phiến

Võ Phiến, nhà văn Bình Định

Trường hợp Võ Phiến
Note: Ông con đấu tố ông bố.

Khi viết những dòng này mình vẫn không tin nhà văn Nhật Tuấn đã rũ bỏ "Nơi Hoang Dã" đi về cõi khác!

Nhớ lần về Việt Nam nhà văn Nhật Tuấn chỉ đường cho mình tới nhà anh ở Bình Dương. Đang lớ ngớ hỏi đường thấy anh ấy đi xe máy ra trên xe treo lủng lẳng 4 con gà chết. Anh nói: chó nhà mình nó cắn mấy con này. Em có biết làm thịt gà không? Mình trả lời em biết, nhưng em và bạn em thêm anh nữa làm sao ăn hết cả 4 con.
- Để mình đưa cho ông hàng xóm 2 con nhờ ông ấy vặt lông. Ba người 2 con, lại còn nhiều đồ mồi tớ mua rồi, ăn không hết đâu. À mà sao Tuấn sống ở nước ngoài bao nhiêu năm rồi mà gầy thế? Thế thì anh phải hỏi "nước ngoài", em cũng chịu, mình trả lời.

Thấy anh sống một mình nhà đất thì rộng mình nói: ở một mình thế này, nhớ có chuyện gì thì sao, khi trái gió trở trời? Anh Nhật Tuấn nói: không sao đâu, tớ quen rồi.

Tối hôm trước mình uống nhiều nên nhức đầu. Anh Nhật Tuấn bảo: cậu vào phòng tớ mà nghỉ, tớ ngồi tiếp bạn cậu, rồi nấu nướng sau. Vào phòng mình cũng không ngủ được cứ nhớ về tiểu thuyết "Đi Về Nơi Hoang Dã" của anh Nhật Tuấn mà người gửi cho mình là anh ruột anh ấy, nhà văn Nhật Tiến (hiện định cư tại California - Mỹ.)

Xuống bếp, mình làm 2 món gà xé phay và om sả ớt, xào mực, nấu canh chua cá lóc...
Uống bia xanh cổ rụt Sài Gòn là chính, ăn chỉ là...gia vị. Bao nhiêu là chuyện để nói. Trong câu chuyện có nhắc tới nhân vật Beo Hồng... mình nói: thôi anh, nhắc làm gì, chua cả miệng. Anh em mình có bao nhiêu chuyện để nói...
Cách đây chưa lâu, anh còn nhắn vào FB của mình: có thời gian về nhậu với tớ đi...
Thế mà!

Lúc này đây mình cứ day dứt, băn khoăn câu hỏi: anh sống một mình, trước lúc anh rời bỏ "Miền Hoang Dã" có ai bên cạnh anh không?
Tạm biệt anh.
(Praha - 6 -10 - 2015)

(Ảnh mình chụp với nhà văn Nhật Tuấn tại nhà anh ở Bình Dương cuối năm 2013.).

Một số tác phẩm của nhà văn Nhật Tuấn:

Trang 17 (1978)
Con chim biết chọn hạt (1981)
Bận rộn (1985)
Mô hình và thực tế (1986)
Lửa lạnh (1987)
Biển bờ (1987)
Tín hiệu của con người (1987)
Đi về nơi hoang dã (1988)
Niềm vui trần thế (1989)
Những mảnh tình đã vỡ (1990)
Tặng phẩm cho em (1995)
Một cái chết thong thả (1995)

Ngoc Tuan Tran's photo.

RIP

Sếp 1 thời của Gấu Cà Chớn. Gấu đã kể ra rồi, thời gian nhà xb Văn Học tính tái bản cuốn Mặt Trời Vẫn Mọc, dịch Hemingway.
Anh được Hoàng Lại Giang ra lệnh cùng làm việc với Gấu. 


Thời Sự

Nobel Vật Lý

Kajita and McDonald win Nobel physics prize for work on neutrinos
Takaaki Kajita and Arthur McDonald win for discovery of neutrino oscillations, which show that neutrinos have mass

Nobel vật lý về tay hai tác giả khám phá ra những rung động của neutrios, và điều này chứng tỏ, chúng có khối lượng!
Ui chao, đúng là THNM, vì bèn nhớ ra câu tự xoa đầu thần sầu, cái gì gì selfie, Những ngày ở Xề Gòn.

Note: neutrino, là neutron, tiếng Tẩy, không phải hạt cơ bản, mà là trung hòa tử, như Gấu còn nhớ được, nó không có khối lượng. Cái sự kiện có khối lượng này sẽ gây chấn động trong giới giang hồ vật lý học.
Một đấng Canada, một đấng Nhật Bổn chia nhau giải Nobel vật lý

*


Nobel Y học

DESPITE what the romantic poets would have you believe, the natural world is not a friendly place. It is full of dangerous creatures, and some of the most dangerous are the smallest: the bacteria, viruses and parasites that between them debilitate and kill millions of people every year. But it is possible, with a bit of cunning, a bit of luck and a lot of hard work, to turn a bit of nature against itself—to humanity's benefit. And it is for exactly this sort of work that Sweden's Royal Academy of Sciences has awarded the 2015 Nobel prize in physiology or medicine.

Độc giả Kim Dung hẳn là nhớ câu phán trứ danh của ông, nơi nào phát sinh độc, thì quanh quẩn đó, có thứ trị độc.

Giải Nobel Y học năm nay, bảnh hơn, phán, thuốc trị độc, là từ thuốc độc mà ra!

Mặc dù những nhà thơ lãng mạn khiến bạn tin rằng, thiên nhiên vốn hiền hoà.
Đếch phải như thế. Nó là nơi đầy những sinh vật nguy hiểm, và một vài thứ nguy hiểm nhất, thì nhỏ nhất…
Nhưng có thể, với tí cà chớn, tiếu lâm, láu cá, tí cơ may, và lao động tới chỉ, con người làm cho thiên nhiên vs thiên nhiên, để thủ lợi.
Nobel 2015, về diện mạo học hay là y học, được ban cho những con người làm cái thứ việc kể trên.

Cô Rơm và những truyện ngắn khác

    Cô Rơm là người Hà-nội. Theo như tôi biết, hay tưởng tượng rằng mình biết, cô có tên mộc mạc này, là do bà mẹ sinh ra cô trên một ổ rơm, khi gia đình chạy khỏi thành phố Hà-nội, những ngày đầu "Mùa Thu".
Kim Dung cho rằng thiên nhiên khi "bịa đặt" ra một tai ương, thường cũng bịa đặt ra một phương thuốc chữa trị nó, quanh quẩn đâu gần bên thảm họa.
Ông kể về một thứ cỏ chỉ có ở một địa phương lạnh khủng khiếp, và người dân nghèo đã dùng làm giầy dép.
Những người dân quê miền Bắc chắc không thể quên những ngày đông khắc nghiệt, và để chống lại nó, có ổ rơm. Tôi nghĩ Trần Mộng Tú tin rằng "rơm" là phương thuốc hữu hiệu, không chỉ để chống lại cái lạnh của thiên nhiên, mà còn của con người.
    Ít nhất, chúng ta biết được một điều: tác giả đã mang nó tới miền Nam, rồi ra hải ngoại, tạo thành thứ tiếng nói hiền hậu chuyên chở những câu chuyện thần tiên.
"Ba mươi năm ở Mỹ làm được dăm bài thơ, viết được vài truyện ngắn. Lập gia đình vốn liếng được ba đứa con (2 trai, 1 gái: các cháu 22, 20, 19), một căn nhà để ở.... lúc nào tôi cũng nghĩ tôi là người giầu có lắm.... trong túi luôn có một bài thơ đang làm dở. Thấy Trời rộng lượng với mình quá. Mấy chục năm trước Trời có lấy đi nhà cửa người thân. Bây giờ Trời lại đền bù. Còn quê hương thì lúc nào cũng thấy ở trong tim, chắc khó mà mất được...".
Nguyễn Quốc Trụ

Cô Rơm và những truyện ngắn khác, nhà xb Văn Nghệ (Cali) 1999.

Nghĩ lại về những bài học quá khứ của Âu Châu

Guardian Weekly, 2 & 8 Oct 2015,  đọc Black Earth, Đất Đen: Lò Thiêu như là Lịch sử và như là Cảnh báo, của Snyder
TV sẽ đi bài này. Tác giả bài viết phê bình cách nhìn của sử gia Snyder, xuất phát từ những nỗi sợ sinh thái.

Tying the Holocaust to modern-day ecological fears is a flawed premise, says Richard J Evans
Black Earth: The Holocaust as History and Warning by Timothy Snyder
Bodley Head, 480pp
We have got the Holocaust all wrong, says Timothy Snyder, and so we have failed to learn the lessons we should have drawn from it. When people talk of learning from the Nazi genocide of some 6 million European Jews during the second world war, they normally mean that we should mobilize to stop similar genocides happening in future. But Snyder means something quite different, and in order to layout his case, he provides an engrossing and often thought- provoking analysis of Hitler's antisemitic ideology and an intelligently argued country-by-country survey of its implementation between 1939 and 1945.
    Hitler, Snyder correctly observes, was a believer in race as the fundamental feature of life on Earth. History was a perpetual struggle for the survival of the fittest race, in which religion, morality and secular ethics all stood in the way of the drive for supremacy. His political beliefs reduced humankind to a state of nature, sweeping aside the claims of modern science to improve the natural world. Interfering in nature, for example by improving crop yields in order to overcome the food supply deficit in Germany during the first world war, was wrong: the way to achieve this aim was to conquer the vast arable lands of eastern Europe.
    Race, in Hitler's thought, replaced the state as the most important characteristic of human society. What he wanted was anarchy, a virtually stateless society, denuded of rules, laws and ethics, that allowed the Nazis to do what they had to in the interests of the "Aryan" (ie German) race. He had already begun to achieve this in Germany itself, where the expanding world of the stormtroopers, the SS, the camps, the special courts and the Nazi party was rolling back the frontiers of the established German state and its institutions well before the war started. But it was only with the conquest of eastern Europe that Hitler had the opportunity to create a truly anarchic society in which expropriation, murder and extermination of those he considered racially inferior - Poles, Ukrainians, Belarusians and other "Slavs" - could be practiced without restraint.
    For Hitler, as Snyder notes, Jews fell into a different category. They were not a regional nor even a European enemy, but a universal, global one. Rather than being an inferior race they were a "non -race" or a "counter-race", not following the laws of nature, as Slavs, Teutons, Latins and the rest of them did. Hitler's global vision potentially targeted Jews wherever they could be found.
    If the killing fields of eastern Europe could be the site of mass extermination by virtue of the aboli- tion of the state - the Polish state, the Soviet state (in the areas conquered by the Nazis), the Estonian, Latvian and Lithuanian states - then the impact of Nazi exterminism in other countries depended largely on how far the state and its institutions had managed to survive. Thus most Jews escaped being murdered in Belgium and Denmark, where the institutions of the state, headed by the monarchy, remained largely in place, while in the Nether- lands, where the monarch and the leading politicians had fled, they did not. Similarly, despite the antisemitism of the Vichy regime, most French Jews managed to survive the war.
    Snyder delivers what is surely the best and most unsparing analysis of eastern European collaborationism now available, though the preceding sections on the history of Polish and Russian antisemitism are perhaps longer and more detailed than was necessary. Overlong, too, are the chapters on partisan resistance. And although it is better by some distance than Snyder's previous, overpraised book Bloodlands, Black Earth shares some of the same failings as that flawed work, delivering an account of the Holocaust that is skewed far too much towards eastern Europe; it also misunderstands the ideological roots of the genocide, which, as most historians would now agree, was set in motion not as an act of revenge against an imagined Jewish world conspiracy following the failure of Operation Barbarossa in December 1941, but as an act of hubris launched the previous July, as Hitler and the leading Nazis considered the operation a resounding success.
    This is not a comprehensive history of the Nazi genocide of the Jews, therefore, but a book with a thesis: and it is here that it really goes off the rails. In his concluding chapter, Snyder describes the Holocaust as an act of "ecological panic", the belief of Hitler that the Jews were "an ecological flaw": nature's harmony could only be restored through their complete elimination.
    In the 21 first century, he speculates, climate change could lead to wholesale food shortages caused by desertification of huge areas of the planet, or alternatively drastic economic collapse. The consequences of the destruction of the state, so obvious in Eastern Europe between the wars, can now be seen in Iraq and Syria. Territorial conquest and exterminatory wars might occur with increasing frequency as the condition of the Earth deteriorates. China might invade Africa. Russia has already invaded Ukraine. Some Muslims are starting to blame Jews and gays. American evangelical Christians decry the work of scientists. Climate change, they say, is a myth, de- signed to give the state greater powers. But this is -just what Hitler said about the state. Far better, Snyder concludes, to use governments to slow down and eliminate climate change, reduce its harmful effects and ensure everyone has enough to eat.
    Such proposals seem reasonable enough, but do they really constitute lessons we should all learn from the Holocaust? Snyder here is surely confusing Hitler's global crusade against the Jewish "world-enemy" with his regional agenda of ensuring Germany's food supplies, which the science of the 1930s was not capable of guaranteeing on the basis of German agricultural production alone. His speculations about possible Chinese or Russian wars of conquest driven by the need for resources are wild in the extreme. This is a pity: much of this book makes for compelling and convincing reading, but tying historical arguments to ecological nostrums in this way does not really work.
Bắt Trẻ Đồng Xanh

http://www.diendantheky.net/2010/12/bat-tre-ong-xanh1.html

Note: Bài viết này, lần đầu đăng trên nhật báo Tiền Tuyến, tờ báo của quân đội VNCH. Chi tiết này rất quan trọng, đến nỗi Phan Lạc Phúc, chủ bút, phải đi 1 đường cám ơn.
Có thể nói, khi cho đăng, chọn báo đăng, là VP đã chấp nhận thái độ chính trị, tôi là nhà văn chống cộng.
Trong số báo Văn, đặc biệt về VP, có chi tiết này. 

Cái dã tâm ăn cướp cho bằng được Miền Nam, có, từ khi còn ở trong bụng mẹ của từng tên Bắc Kít.
Đẻ ra 1 phát, là ngửi ngay liền cái đói, là bèn nghĩ đến ăn cướp!
Đây là cách giải thích mới nhất về Nazi, của sử gia Snyder, mà TV đang giới thiệu.
Áp dụng vào xứ Mít, quá đúng.
Nhưng cái vụ bắt trẻ này, không đúng.
Đám VC Nam Bộ tự động dâng con nít cho Bắc Kít, khi bắt con cái của chúng vượt Trường Sơn.
Thế mới dã man.
Cũng như khi được lệnh tập kết, thì tên Nam Bộ nào cũng còn được lệnh, phải làm cho 1 cô gái Nam Kít mang bầu, trước khi đi.

Hitler’s World
“Nature,” he wrote, “knows no political boundaries.”
Thiên nhiên, Hítler  phán, đếch biết đến cái gọi là biên cương chính trị.

Why We Keep Studying the Holocaust

Mít vs Lò Thiêu Người

Sách Báo

*

*

Vietnam,  1965. Noel @ Đức Lập with GI, and “Vĩnh Biệt Tình Em, Dr. Zhivago”, with Julie Christie.
Vẹm chửi Tẩy mũi lõ, chia để trị, khi phân ra Nam Kỳ tự trị, Bắc Kỳ bảo hộ.
Không phải.
Có cái gì đó, khiến Tẩy rất dễ gần với Nam Kít.
Maugham, trong bài viết vế Huế cũng nhận ra.
Chính cái điều này, càng khiến Bắc Kít, không phải thù Tẩy mũi lõ, mà thằng em ruột Nam Bộ của nó.
Chán thế!
*


Cuốn sách những sinh vật tưởng tượng
Viết mỗi ngày

Borges Conversations  

In Memory of Borges



Cô bạn, cô phù dâu ngày nào, Gấu gặp lại ở hải ngoại. Cô phán, cực kỳ bi thương, cực kỳ hạnh phúc, tại làm sao mà bao nhiêu năm trời, tình cảm của anh dành cho tôi vẫn như ngày nào.
Nhờ gặp lại cô, Gấu viết lại được, không chỉ thế, mà còn làm được tí thơ!
Bài viết về cô, Cầm Dương Xanh, được một vị nữ độc giả, Bắc Kít, Hà Lội, mê quá, bệ ngay về trang FB của cô.
Cô tình cờ thấy trang TV, trong khi lướt net, tìm tài liệu về Camus.

Book of Fantasy


*

SAIGON 1970 by Charley Seavey - Walking towards the market - Chợ chim chó, thú, đường Hàm Nghi (đoạn giữa Pasteur và Công Lý)
Hình manhhai

*