Chào Mừng Năm Con Chó
Chó Bên Đường

Hommage de toute l'Europe aux six millions de morts de l'Holocauste
AFP
[ vendredi 27  janvier  2006 - 17h09 ]
"Auschwitz est le plus grand cimetière européen où il n'y a pas de tombes. Il est d'autant plus important de garder la mémoire de ce qui s'est passé ici (...), de la garder pour les prochaines générations, en hommage aux victimes et comme un avertissement à un monde toujours empli de haine et d'agression", a déclaré sur place le Premier ministre polonais Kazimierz Marcinkiewicz.

Âu châu tưởng niệm sáu triệu người chết tại Lò Thiêu
Auschwitz là nghĩa địa lớn nhất ở Âu Châu, nơi không có một nấm mồ. Đừng bao giờ quên. Nhớ cho cả đời sau. Hãy tưởng nhớ họ và không quên để mắt  tới cái thế giới lúc nào cũng sôi sục hận thù và hung hăng chỉ muốn xâm lăng, xâm lấn. Thủ Tướng Ba Lan tuyên bố tại Birkenau, nhân kỷ niệm lần thứ 61 trại tù này được giải phóng.


Balzac ở Việt Nam


"Le Premier Cercle" de Soljenitsyne adapté à la télévision russe
AFP
[ jeudi 26  janvier  2006 - 10h44 ]
Tầng Đầu Địa Ngục lên TV Nga!

Hãy thử tưởng tượng Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovich, của Solzhenitsyn, được quay tại Liên-bang Xô-viết. Hay Đêm của Elie Wiesel, quay ngay tại Lò Thiêu Auschwitz.
Ông là Đồ Phổ Nghĩa, tôi đoán vậy

Bạn có đọc Amos Oz?. Có một câu thật là tuyệt vời của ông ta: Trong cuộc sống của những cá nhân, và của những dân tộc cũng vậy, những cuộc tranh chấp tệ hại nhất, thường nổ ra giữa những con người bị bách hại, giữa những dân tộc bị bách hại.
Spielberg, trả lời phỏng vấn Thời Báo, Time, Dec 12, 2005

Những "đấu đá", "thù hận"," xâu xé"...  giữa người Việt hải ngoại, giữa những cộng đồng người Việt hải ngoại, có thể hiểu được theo nghĩa trên.

Câu trên còn có ý nghĩa cay đắng hơn, khi bạn sống ở trong trại tù cải tạo. Bạn không sợ cán bộ quản giáo, bằng sợ mấy ông, cũng tù cải tạo, nhưng được quản giáo tin cậy, ban cho chức này chức nọ. Hai Lúa cũng còn giữ được một vài kỷ niệm về mấy tay này.

Amoz Oz, người Do-thái, viết văn bằng tiếng Do-thái Hebrew, sinh năm 1939 tại Jerusalem. Năm 14 tuổi ông vào kibbutz (một làng, hoặc ấp Do-thái chuyên về canh nông. Ấp chiến lược của Ngô Đình Nhu là được "gợi hứng" từ những kibbutz). Sau ông làm thầy giáo dậy học tại đây. Ông viết về những chủ đề đương đại, nhắm vào tội lỗi, sự bách hại, ngược đãi. Cuốn tiểu thuyết quan trọng làm ông nổi tiếng, viết năm 1972: "Bikhá el Sheli", tên tiếng Anh: "My Michael" ("Michael của tôi"), được tờ New York Times đánh giá là một "Bà Bovary" (1857, tác phẩm của nhà văn Pháp Flaubert), của văn chương Do-thái. Những tác phẩm của ông gồm có: "Makom Aber" (1966), bản tiếng Anh: "Elsewhere Perhaps" ("Một nơi nào đó, Có lẽ", 1973); "Har Ha-Etsah Ha-Raah" (1976), bản tiếng Anh: "The Hill of Evil Council" ("Ngọn Đồi Của Ác Hội", 1978); "Beor Hatkhelet Há aza", (1979), bản tiếng Anh năm 1995: "Under the blazing light", "Dưới ánh sáng chói chang"; "Israel" (1983); "A Perfect Peace" ("Một Hòa bình Hoàn hảo"), 1984. Cuốn tiểu thuyết "To Know a Woman" ("Để hiểu một người Đàn bà"), là chuyện một cô gái Do-thái khi còn nhỏ có bạn trai người Ả Rập. Bị phân chia do chiến tranh, lớn lên, cô gái lấy chồng, nhưng không làm sao quên được những xúc động, tình cảm đầu đời, từ mối tình thơ dại với người bạn Ả Rập. Đây vẫn là chủ đề cơ bản của thế kỷ 20, về một người đàn bà ngoại tình...
Oz đọc Chekhov và Kafka

Một bữa ở Luân đôn, sương mù dầy đặc, đến nỗi, bạn xòe tay ra ngay trước mặt mà cũng chẳng nhìn thấy nó, có một người đàn ông nhận được một cú điện thoại, nói ông ta phải tới liền một bệnh viện ở mép bờ phiá bên kia của thành phố, vì đứa con của ông, bị bệnh nặng và đã được chở vô đó. Người đàn ông mở cửa, chạy ra đường, và trước mặt ông là một khối đen kịt. Ông kêu cứu, nhưng chẳng xe cộ, mà cũng chẳng bộ hành.
Bất thình lình, một bàn tay từ đâu đặt lên vai ông, và một giọng nói vang lên: "Tôi sẽ dẫn anh tới đó."
Và thế là người lạ kia dẫn người cha xốn xang lo lắng xuyên qua thành phố Luân đôn sương mù đen kịt, thỉnh thoảng nhắc nhở, này coi chừng chỗ này, coi chừng chỗ kia, này quẹo trái, này quẹo phải...
Khi tới được bệnh viện, người cha hỏi, làm sao mà ông lại có thể đi xuyên qua biển sương mù dầy đặc như thế, con người tốt bụng kia trả lời:
"Đêm tối, sương mù chẳng thể nào làm phiền nổi tôi. Vì tôi là một người mù."
Amos Oz: Dưới Ánh Sáng Chói Chang.
Nếu Đi Hết Biển

Nhưng phải những nhà văn sống ở "giữa hai lằn đạn", như nhà văn Do Thái, Amos Oz, mới ngộ ra, sạch, là nguy hiểm chết người!
Mới sống cái kinh nghiệm giao lưu hoà giải bi thương nhất của thế kỷ: Ngủ Với Kẻ Thù. Sleeping with the enemy.

Mời một ông nón cối, hay một cô văn công vô nhà, chưa ăn thua gì hết.

Phải "ngủ" với luý, hay với ẻn, thì mới "giải oan cho cuộc biển dâu này" được!
Mấy ông VC sẽ nói: Thì vẫn kinh nghiệm "tam cùng" của tụi tớ!
Nhưng ngủ với luý hay với ẻn, mà không yêu, cũng vứt đi.
"Khi người ta yêu, người ta không phản bội", một nhân vật của Oz phát biểu.
Biển Nhớ


Người đàn bà ngoại tình.
Đọc Biển của Miêng

 Đọc Biển, tôi cũng bị ám ảnh bởi một cuốn Sau Hỗn Mang như thế. Như thể bao nhiêu giọt nước mắt của người đàn bà ngoại tình nhỏ xuống, là để khóc than cho một tác phẩm vĩ đại:
 Giả sử, những người đã chết vẫn còn sống, cuộc phiêu lưu trên biển cả chỉ là những chuyến ngao du, chẳng hề có hải tặc, hãm hiếp, nhục nhã, cay đắng...


Nhà điêu khắc vô ưu

TRẦN HỮU HOÀNG
Xuân Xứ Tuyết

Một Chủ Nhật Khác
19

Thoạt tiên Thùy quyết đoạn tuyệt. Sự phản bội của Kiệt công khai trắng trợn đến độ nghe nói nàng không tin. Kiệt ngang nhiên sống với nhân tình, trong nửa tháng Thùy đi xa, ở khách sạn P. giữa thành phố. Hai đứa du ngoạn, diễu trước mắt thiên hạ như đôi vợ chồng hưởng tuần trăng mật. Kiệt bỏ nhiệm sở, sắp sửa bị báo cáo đào ngũ, bị giam một tuần lễ. Điều Thùy không thể tưởng tượng là Kiệt không chối. Thái độ của Kiệt nhơn nhơn sỉ nhục nàng.