&
Jen & Lesley @ The Camp, August 12, 2008
The Camp 08

Trân trọng giới thiệu:
Tản Mạn
Cao Thoại Châu

Nhà văn Sơn Nam qua đời

Trong những tác phẩm của Sơn Nam, có một, ít được nhắc tới, nhưng đối với cá nhân người viết, có lẽ đây là cuốn hay nhất của ông: Hình Bóng Cũ. Những tác phẩm như Hương Rừng Cà Mâu, Chim Quyên Xuống Đất... là một Miền Nam sau này, hoặc vẫn tiếp tục còn đó, tuy đã tang thương dâu bể. Hình Bóng Cũ là một Miền Nam đã mất hẳn, như một Viễn Tây của lịch sử Hoa Kỳ. Ở đó, huyền thoại lấn át thực tại, và khi huyền thoại biến mất, nó kéo theo cùng với nó, những con người nửa hư nửa thực. Tất cả biến thành thần. Những vị phúc thần (anges gardiens).

Tôi đọc cuốn sách đã lâu. Sau cố tìm gặp lại nhưng không thể. Như thể cái duyên giữa cuốn sách và tôi đã trọn vẹn: Một đứa bé di cư, một mình xuống tầu há mồm vào Nam tìm gặp Hòn Ngọc Viễn Đông, vô tình khám phá viên quặng làm nên hòn ngọc đó.

Câu chuyện một xóm nhỏ, có một "thầy ký nhựt trình", như dân trong xóm vẫn thường trầm trồ về một anh chàng ngụ cư. Bản thân anh ta lâu lâu có một bài thơ được nhà báo thương tình đăng lên, thay vì để trống một khoảng nhỏ.

Một bữa có một bà tới kiếm, tính mướn anh viết hồi ký cho "bả". Người đàn bà ôm trong mình cả một kho tàng. Đã từng là đào hát, chủ gánh, sau bỏ hết, gá nghĩa cùng một ông tây thuộc địa, một trong những người khai phá ra những cánh đồng thẳng cánh cò bay, tiền thân của những ông Hương, ông Cả trong những cuốn tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, tiền thân của những cô Ba, cô Tư trong những câu chuyện ngồi lê đôi mách, cà kê, dê ngỗng của một số tác giả Miền Nam hiện nay. Một nhân vật kiểu Faulkner, sự tàn bạo, dã man không thua, số người bị giết do ông, bởi chính ông chắc cũng không kém. Người đọc chỉ đoán lờ mờ những chi tiết "thực" đó. Chỉ lờ mờ biết được quá khứ của một Lọ Lem một bữa biến thành Công chúa Thuộc Địa. "Bả" có cay đắng khi phải "bó thân về với triều đình", khi phải đồng hóa Miền Nam với chủ nghĩa thực dân khai hóa... nào ai biết được. Tất cả chỉ là những "tầng kiến giải" về một huyền thoại. Về một Hình Bóng Cũ.


Tribute
*
Cù lần đến tận chót!

APPRECIATION

Aleksandr Solzhenitsyn.
The prophetic power and gentle touch of the man who could not be silenced
BY RADHIKA JONES
I MET ALEKSANDR SOLzhenitsyn at his home in Vermont in 1993, through his eldest son, with whom I went to college. It was snowing hard, and he came in from the small separate house he used as his study to join the family for dinner. He looked a bit gruff, but his eyes were kind. He asked me what my major was, and I told him it was literature. "What kind?" he asked. "English," I said. He said, "There are other kinds of literature, you know."
We were standing in the living room, and I looked at the shelves full of foreign editions of The Gulag Archipelago and at the writer with the biblical beard and piercing gaze and thought perhaps I should consider studying Russian.
I went to Moscow in 1995, four years after the fall of the Soviet Union and a year after Solzhenitsyn had 1eturned from exile. By then I had read Gulag, and every time I walked through the Byelorusskaya metro station, I thought of the first chapter, in which he describes his arrival in Moscow in 1945, II days after he was arrested for criticizing Stalin in a letter. He is escorted by three intelligence officers, but "not one of the three knew the city," he writes, "and it was up to me to pick the shortest route to the prison ...
"I was leading the SMERSH men through the circular upper concourse of the Byelorussian-Radial subway station on the Moscow circle line, with its white-ceilinged dome and brilliant electric lights, and opposite us two parallel escalators, thickly packed with Muscovites, rising from below. It seemed as though they were all looking at me! They kept coming in an endless ribbon from down there, from the depths of ignorance-on and on beneath the gleaming dome, reaching toward me for at least one word of truth-so why did I keep silent?"
In the end, he did not keep silent. His writing alternately saved and condemned him. One Day in the Life of Ivan Denisovich, his searing account of the Soviet-labor camp experience, found favor during Khrushchev's thaw and was published in 1962. By the time the temperature chilled again, Solzhenitsyn's international fame was such that he could not be altogether dispensed with. In 1974, when the Brezhnev regime decided it would not tolerate the foreign publication of Gulag, Solzhenitsyn was arrested and put on a plane. He breathed a little easier when the plane took off westward and not toward Siberia.
Whether at home or in exile, Solzhenitsyn was disciplined and unwavering. As a young man he had served a term of internal exile in Kazakhstan; deprived of writing supplies and the freedom to use them, he composed in his head, committing entire plays to memory. In Vermont, where he lived from 1976 to 1994, he kept a rigorous schedule. Bearing witness to millions of terrorized voices does not indulge writer's block, nor allow for vacations. It was a family affair. His wife Natalya, a gracious, fearless woman, made it her priority to ensure that he could work undisturbed. His sons helped too. There were letters to answer, writings to translate. Even a non-Russian-speaking guest could chip in. On a summer visit, I was dispatched to pick raspberries for dessert. We ate them with ice cream. The Solzhenitsyns spoke Russian at home, but they were good Vermonters; they kept Ben & Jerry's in the freezer.
In 1995, Solzhenitsyn published a memoir, Invisible Allies, in which he honors the people who helped him protect his writings from the state. It reads like a spy novel-coded messages, boxes with false bottoms-yet the danger was real. Were it not for these friends, from the fellow zeks (labor-camp inmates) who assisted him to the foreign journalists who smuggled out manuscripts, Gulag might not have seen the light of day.
Writers often speak of the courage it takes to face the blank page. Solzhenitsyn's courage was of a completely different order. Equally strong was his belief that the communist system he had so thoroughly damned in his work would collapse in his lifetime, allowing him to return home.
On the property of the Vermont house is a large rock, the subject of family lore: in the '70S, Solzhenitsyn sat his sons astride the rock and told them that someday it would turn into a flying horse and take them back to Russia. It was the sort of fairy tale you might expect a writer to tell his kids, but this one came true.
Time August 18, 2008
Bài trên Time, là do bạn học của ông con trai, cư dân Vermont, viết.
Có chi tiết thật thú vị, đọc, Gấu mới nhớ ra, và nhớ luôn kỷ niệm của ông cậu, Cậu Toàn, về những ngày đám người rừng Bắc Việt về tiếp thu thủ đô.
Cũng y chang!
Ba ông cớm bắt Solz đưa về thủ đô, nhưng chẳng ông nào biết đường, thành thử người tù bèn phải ra tay nghĩa hiệp!
Chi tiết trên lại còn làm nhớ đến TTT. Ông đi tù, đi lao động, chẳng có ai canh gác, nhưng chiều chiều, tới giờ bò về chuồng là ngoan ngoãn bò về trại!

Người ta đưa tôi lên vùng thượng du phía bắc, cách biệt hẳn thế giới bên ngoài, người ta thả tôi vào thiên nhiên, "tự do" với "chỉ tiêu gỗ mỗi ngày", với cơ hội trốn trại. Nhưng mỗi ngày qua đi, tôi lại tìm ra con đường trở về trại tù. Điều gì đã khiến tôi làm như vậy? Phải chăng là "chẳng còn hy vọng chi" hay là nỗi "vô vọng của một con người bị bỏ rơi, tuyệt vọng"? Khi đó, tôi thực sự ở trong niềm hy vọng về không sinh tồn (inexistence); trong một vùng không thể lọt qua (impénétrable), trong tình trạng vô-liên (non-relation). Chẳng có chi là rõ ràng đối với tôi.

Đây còn là một đề tài cho một bài viết trên TLS: Tại sao trại tù Đức Quốc Xã rất ít lính gác, gần như không cần lính gác?
Trại cải tạo cũng rứa?


Tờ Spiegel (Tấm Gương) là tạp chí xuất bản hàng tuần của Đức, có xuất bản bằng tiếng Anh trên internet. Tôi không biết tác giả Lê Quân có sử dụng phiên bản tiếng Đức để dịch bài viết của mình hay không, và tôi tin rằng bản tiếng Đức của bài báo này cũng sẽ tương tự như bản tiếng Anh. Nhưng so với cách dịch của bài đã nêu trên thì người dịch đã lược bỏ đi nhiều chi tiết, sự kiện và phát biểu quan trọng. Nói khác đi, người dịch/ban biên tập bài báo này đã kiểm duyệt và cắt bỏ nhiều nội dung không có lợi về chính trị cho họ.
Nguồn
Có thể nói, hầu như tất cả các thông tin, bản văn... từ báo chí quốc tế, đều bị cắt xén, thay đổi, sao cho hợp với cái giường của nhà nước.
Thê thảm nhất, trong khi toàn thế giới đều mừng rỡ về cái vụ sụp đổ đế quốc Đỏ, thì nhà nước, qua chân lý, dịch là cắt cho vừa cái giường này, rất lấy làm buồn. Bữa nọ, Gấu có đọc một bài từ trong nước, theo cái kiểu 'nguồn tin tổng hợp thế giới', cho rằng Gorbachov bị Tây Phương lừa, chứ nếu không đế quốc Đỏ vẫn còn!
Ôi chao, Gorbachov trúng quả lừa, thế giới mừng, nhà nước buồn, Miền Nam trúng quả lừa, cả thế giới đau lòng, nhà nước, và những ông như nhà thơ BMQ trên kia thì lại lấy làm tự hào, chân ní ở phiá trên, khác chân lý ở phía dưới, dẫy Trường Sơn, là vậy.
*
Nhưng, đâu phải chỉ riêng nhà nước ta. Như
tin thế giới qua diễn đàn ĐBSCL, Solz. cũng mới vừa được nhà nước Nga cho lên nằm cái giường của Putin. (1)
Còn diễn đàn này, thì vừa được đưa lên giường đẻ, giải phẫu, sửa nhan sắc, đổi tên, thành vanchuongviet, thay vì ĐBSCL!
(1) I am old enough to remember how, as Soviet schoolboys, we were from time to time given a talk by a guest lecturer, an Old Bolshevik, on the horrors of the tsarist regime. The aim was to demonstrate how happy and bright our days in the Soviet paradise were. It is alarming to see that Solzhenitsyn's legacy is now being used by the new governors of Russia in a similar way

Nguồn
Bài viết này, đăng trên TLS, có cái tên, ở trang mặt, 'Solz dưới thời Putin'. Nhà nước Nga đang sử dụng tên tuổi của ông, như đã từng sử dụng đám Cựu Bôn Xê Vích.
Sau Tầng Đầu tới... Sông Côn Mùa Lũ, lên màn ảnh nhỏ.
Chúc mừng bạn hiền thêm một lần nữa, lần này mừng sánh ngang với nhà văn Nobel văn chương Nga!

Nhật ký Tin Văn

*
Gorky đi thăm tù Gulag

Maxim Gorky - bậc thày của nền văn học Nga Xô viết

Nếu bạn tò mò một chút, chắc là nhận ra, trong hầu hết những hồi ký của đám biệt động thành sống sót trong vụ Tết Mậu Thân, đều có chi tiết này: họ đều được dặn dò, hãy quyết tử, hãy bám trụ, đừng rút lui, đừng đầu hàng, sẽ có đại quân tiếp viện.
Nhưng, như "lịch sử" cho thấy, làm gì có đại quân tiếp viện.
Hai Lúa có đọc đâu đó, rằng thì là, vụ Tết Mậu Thân là một cú nướng người anh em giải phóng, của VC miền bắc. Có thể như vậy.
Nhưng, những nông dân miền bắc, những trai làng, liệu chính họ, cũng bị nướng? Và đó là lý do thực sự của cuộc chiến: Huỷ sạch, tẩy sạch đám nông dân ngu đần, để có giai cấp mới, con người mới?
Chuyện đã từng xẩy ra, tại Liên Xô, cái nôi của Cách Mạng Vô Sản.
"Bởi vì đối với Stalin, như Khrushchev cho chúng ta biết, nông dân chỉ là cặn bã, và đám cặn bã này, là 90% dân chúng Nga."
"Nhà nhân bản [The humane] Maxime Gorky, vào năm 1922, đã diễn tả niềm ao ước của ông, 'đám dân chúng không văn hoá, ngu đần, huênh hoang, bốc phét, ở trong những làng mạc Nga, sẽ chết sạch, tất cả cái đám dân ngu cu đen đáng khiếp, đáng sợ này.... và một giống mới, có học, biết đường hơn thiệt, có nghị lực, sẽ thế chỗ.'"
"Ao ước của ông đã được Stalin ngó xuống, chấp thuận, và biến thành hiện thực."
D.M. Thomas: Solzhenitsyn, thế kỷ trong ta. Chương 9: Một Con Sói đối với Con Người. Sự ngu xuẩn của cuộc sống làng xã [The idiocy of village life... Karl Marx] 

D.M. Thomas cho rằng sự chuyển hoá từ Christ qua Demon, [ông viết, Christ và Devil đổi chỗ cho nhau], Kẻ Cứu Rỗi thành Quỉ Sứ, đã xẩy ra vào thời kỳ đầu Cách Mạng Vô Sản ở Nga, và được khắc họa, bằng những tác phẩm văn học, như "Demons" của Pushkin, "Twelve" của Blok (1), và Bài Thơ Không Có Anh Hùng, "Poem Without a Hero", của Akhmatova. Trong khi tại Việt Nam, vào lúc kết thúc cuộc chiến. Sau một đêm 30 Tháng Tư, ngủ dậy, thay vì thấy một cái nhà Việt Nam to đẹp hơn, một con người Việt Nam hạnh phúc hơn, thanh thản hơn, thì chỉ có một con bọ. Nguyễn Huy Thiệp đã nhìn thấy sự chuyển hóa này qua con quỉ chuồng heo [cũng một hình tượng văn học khác, từ Kafka, trong Y Sĩ Đồng Quê], biến thành con bọ phố phường.

 (1) Năm 1918, Blok xuất bản trường thi 12 Vệ Binh Đỏ, thô bạo và hung dữ, chỉ với một ước muốn trả thù tụi trưởng giả, đi giữa cơn bão tuyết trên đường phố Petrograd, cướp và giết, được dẫn dắt bởi một sức mạnh vô hình. Ở đoạn thơ cuối, bóng dáng Jesus Christ xuất hiện trong bộ đồ trắng dẫn đầu đám người hung bạo. Blok coi việc Bôn-sê-vích nắm quyền, được "chúc phúc" bởi Chúa.
Nơi Người Chết Mỉm Cười.
D.M. Thomas viết, ... đằng sau 12 Vệ Binh Đỏ là một con chó đói - hình ảnh cựu thế giới, trước khi có Cách Mạng Vô Sản. Đám vệ binh đỏ tính thọc cho con chó một mũi lê, nhưng quay qua chú ý tới lá cờ đỏ mờ mờ hiện ra trong màn tuyết dầy đặc. Người cầm lá cờ, dẫn đầu đám giết người, bước như bay trên mặt tuyết đó, là...  Chúa Giê Su.

*

Gorky và Trùm Mật Vụ Nga


Trận đói của Lenin, 1933: The Terror-Famine, cướp đi, theo Amis [trích dẫn Grossman], chừng 5 triệu người ở Ukraine, 2 triệu ở Kuban, Don, Volga, và Kazakhstan, và đây có lẽ là mùa gặt được mùa nhất tại Liên Xô.

Con số người chết do trận đói năm Ất Dậu, do Nhật gây nên, và do nhử Mẽo vô Việt Nam, cũng đâu có nhằm nhò gì, theo cái kiểu tính toán của Stalin:
Cái chết của một người thì bi thương, cái chết của một triệu người chỉ là thống kê.
[The death of one person is tragic, the death of a million is a mere 'statistic']
*
Sở dĩ hai ông bạn vàng Edmund Wilson và Nabokov cắt bào đoạn nghĩa, là do Lenin gây nên. Để đáp lễ Wilson phạng mình, Nabokov đã lịch sự nghĩ rằng, bạn hiền của ta, do không hiểu thực tại Bolshevik, nên cũng không thể nào hiểu được lời sỉ nhục.
[Nabokov is bearing in mind that Wilson, not understanding the Bolshevik reality, does not understand the insult].
Thật đúng là hòn đất ném đi, cục vàng ném lại!
[Gấu nhớ nằm lòng câu trên, mỗi khi mài dao kéo, sửa soạn đưa lên bàn mổ, những bạn hiền văn chương của mình!]
*
Thê thảm nhất, là, cuộc chiến Việt Nam không thể nào tránh được. Như Cách Mạng Nga, cũng không thể nào tránh được!
Pushkin chẳng đã từng van vái, Lạy Trời đừng bao giờ bắt con phải chứng kiến một cuộc cách mạng Nga!
Dọn
Bức hình trên, từ cuốn Koba The Dread, của Martin Amis, nhà văn Tây phương đầu tiên viết về Gulag, theo Anne Applebaum. Đọc Solz, thì cũng nên đọc thêm Amis, nhất là cuốn Nhà Hội.
Một tuyệt tác viết về Gulag.Tay điểm sách trên tờ TLS, đọc Nhà Hội, mà ngửi ra được cái mùi của Gulag, thế mới thần sầu.
Amis nhận xét về sự khác biệt giữa Cái Ác Nazi với Cái Ác Đỏ:
Chủ nghĩa Nazi không huỷ diệt xã hội dân sự. Chủ nghĩa Bolshevism hủy diệt xã hội dân sự. Đó là một trong những lý do cho thấy "phép lạ" của sự hồi phục của nước Đức. Stalin không huỷ diệt xã hội dân sự. Lenin huỷ diệt xã hội dân sự.
*
Đọc, Gấu nhận ra, điều này quá đúng với Việt Nam sau 1975. Sự huỷ diệt xã hội dân sự bắt đầu cùng với chiến thắng của VC.
Chính vì lý do này, sẽ chẳng thể nào có sự hồi phục.
*
Chủ nghĩa Bolshevism có thể xuất cảng được, và sản xuất ra những hiệu quả gần như là đồng nhất với nguyên bản, ở khắp nơi. Chủ nghĩa Nazi không thể sao chép. So sánh với nó, những nhà nước phát xít khác chỉ là trò tài tử.
Amis: Koba The Dread


Gấu có nhớ nhà không?



Có người tu hang Pắc Bó

Ngoại ô đèn vàng
Trong “Bẩy ngọn đèn của kiến trúc”, John Ruskin dành nhiều trang của chương “Hồi nhớ” cho những vẻ đẹp kiến trúc, do tính ngẫu nhiên “tình cờ” của nó, ngược vẻ đẹp đặc biệt của những hình thức cổ điển, vốn có tính chi ly dàn dựng. Vì vậy, ông dùng từ “đẹp như tranh” [picturesque] để miêu tả một phong cảnh kiến trúc, một vẻ đẹp trở nên đẹp theo dòng thời gian, theo một đường hướng mà chính kẻ sáng tạo ra nó cũng không đoán trước được. Theo Ruskin, “đẹp như tranh”, là nhờ những chi tiết, và những chi tiết này chỉ lộ ra, khi tòa nhà trải qua hàng trăm năm, qua bao mùa mưa gió, trơ gan cùng tuế nguyệt, giữa đám cỏ dại, những chùm giây leo, những cánh đồng cỏ, và những rong rêu của thời gian, những trải dài của thiên nhiên (những sóng biển, những mây bay, những sỏi, những đá, những trời xanh nơi em về, tất nhiên, làm sao không?). Bởi vậy, làm gì có vẻ đẹp kiến trúc ở nơi tòa nhà còn thơm mùi vôi vữa? Một tòa building mới tinh như thế đó, phải đợi hàng trăm năm mới tới thời của nó. Nó chỉ trở nên đẹp như tranh, khi lịch sử ban cho nó cái vẻ đẹp tình cờ, ngẫu nhiên và bảo đảm cho chúng ta một viễn ảnh mới.
Cái đẹp mà tôi nhìn thấy ở ngôi giáo đường Suleymaniye Mosque, là ở những đường nét, những khoảng không gian duyên dáng bên dưới những vòm, ở trong cách mở ra những vòm phụ, ở trong sự dàn dựng, cân đối giữa những bức tường và không gian trống rỗng, ở nghịch điểm, là những ngọn tháp chống đỡ, và những cổng tò vò, ở trong sự trắng toát, ở trong vẻ tinh khiết, giản dị của những đỉnh vòm của chiếc mái bằng chì của ngôi giáo đường, cái đẹp mỹ học mà tôi cảm nhận đó thật khác với cái đẹp được gọi là “đẹp như tranh”. Ngay cả bốn trăm năm sau khi nó được xây cất, tôi có thể nhìn Suleymaniye, và ngôi giáo đường vẫn đang đứng sừng sững đó trong cái toàn thể của nó, y hệt như nó đã từng, kể từ khi được xây cất, và nhận ra rằng, nó được xây cất lên, là để được nhìn như vậy.
Chẳng có một công trình vinh danh, tưởng niệm nào trấn ngự vòm trời Istanbul. Bóng dáng tuyệt vời của thành phố vẽ lên bầu trời có được là nhờ Suleymaniye, nhưng cũng còn nhờ thánh đường Hagia Sophia, Byazit, và Yavuz Sultan Selim, và nhiều thánh đường lớn khác ở trung tâm thành phố, ngoài ra, còn nhờ những ngôi giáo đường nhỏ được mấy bà vợ và con cái của những vì sultan xây dựng lên, và tất cả những tòa buidings cổ lỗ sĩ của nhà nước, chúng vẫn phản chiếu những tư tưởng mỹ học toát ra từ kiến trúc của chúng. Chỉ khi chúng ta thoáng nhìn những tòa buildings từ một khoảng trống bên trong con phố, hay từ trên phố cao nhìn xuống một con đường, hai bên đường viền bằng những hàng cây vả, hay là khi chúng ta nhìn ánh sáng từ phía biển nô rỡn trên những bức tường của những tòa nhà, chỉ vào những lúc đó, thì chúng ta mới gật gù, đây rồi, đây rồi, “đẹp như tranh vẽ”.
Vẻ đẹp mà những xóm nghèo dâng tặng cư dân thành phố Istanbul, xuất hiện ở nơi cỏ hoang mọc đầy, nơi dây leo chằng chịt trên những bờ thành hoang phế, xiêu vẹo, khúc còn khúc mất, và ở những khúc mất cây cối thi nhau mọc đầy, ngay từ khi tôi còn là một đứa con nít, hay ở trên những tòa tháp của bờ thành, hay trên tường của pháo đài Rumelihisart và Anadoluhisart. Vẻ đẹp của một giếng nước bể vỡ, một biệt thự xiêu vẹo, một trạm xăng hoang tàn, già khằn trăm tuổi, những bức tường đổ của một ngôi giáo đường, những dây nho, dây tiêu huyền quấn quit, làm rợp bóng những bức tường cũ mèm, đen thui, của một ngôi nhà gỗ - những cảnh đẹp như vậy thì đều tình cờ, ngẫu nhiên. Nhưng khi tôi thăm viếng những con phố sau của thành phố, khi còn là một đứa trẻ, những bức tranh như vậy thì nhiều đến nỗi, tới một điểm nào đó, thật khó mà coi chúng như là không có dụng ý, chỉ là tình cờ, ngẫu nhiên được: những điêu tàn buồn bã này (bây giờ đã biến mất), chính chúng, đã đem đến cho Istanbul một linh hồn. Nhưng để “khám phá” linh hồn của thành phố ở trong những điêu tàn, để nhìn những điêu tàn này, như một biểu hiện của cái gọi là yếu tính của thành phố, bạn phải trượt dài mãi xuống, theo một con đường giống như một mê cung, đầy những trắc trở, chướng ngại mà chúng ta có thể gọi là “những tai nạn của lịch sử”.
Để ngắm nghía, để hít hà, để nhâm nhi những con phố sau của thành phố, để thưởng ngoạn những dây nho, và những cây lá đem đến cho những điêu tàn của thành phố niềm ân sủng tình cờ, ngẫu nhiên, bạn phải, trước hết, và hơn hết, là một kẻ xa lạ đối với khu xóm này, một khu xóm nghèo nàn khốn khổ nhưng thật giầu có những điêu tàn, hoang phế. Một bức tường đổ, một tekke bằng gỗ - bị kết án, bị bỏ hoang, và bây giờ rớt vào tình trạng bê trễ - một giếng nước mà những vòi nước chẳng hề có nước chẩy ra, một cơ xưởng tám mươi năm chẳng sản xuất ra được một món đồ, một tòa building sắp sập, một dẫy nhà bị bỏ hoang bởi những người Hy Lạp, Armenian, và Do Thái, khi nhà nước quốc gia kỳ thị những sắc dân thiểu số, một ngôi nhà nghiêng về một bên, như thách đố cái nhìn kiến trúc, viễn tượng, hai nhà nhà xiêu vẹo nương tựa vào nhau để mà cố đứng vững, mấy tay chuyên vẽ tranh hí họa chắc hẳn phải mê cảnh này, những vòm, những mái trông như thác rủ, một dẫy nhà với những khung cửa sổ gẫy bể - những thứ này chẳng đẹp đẽ gì, nếu bạn là chủ nhân, hay cư ngụ ở trong đó, và, thay vì khen đẹp, họ nói tới những ổ chuột, sự bỏ bê, thôi đành, vô vọng, hết thuốc chữa. Những người cảm thấy thật thích thú ở cái đẹp tình cờ ngẫu nhiên của sự nghèo khổ và sự lão hóa, suy tàn lịch sử, những người trong số chúng ta nhìn vẻ đẹp như tranh vẽ ở trong những điêu tàn – luôn luôn là những kẻ đến từ phía bên ngoài, những kẻ ngoại cuộc  (cũng tương tự như vậy, đối với những người Bắc Âu mê đến khùng điên những điêu tàn La Mã, mà người dân ở đó, chính họ, chẳng ai thèm để ý đến nữa). Bởi vậy, khi Yahya Kemal và Tanpinar coi những con phố sau, của một “Istanbul trinh nguyên, trong trắng, và xa xưa”, như là những nơi chốn con người vẫn cố ôm lấy những truyền thống cổ xưa, khi cả hai chiến đấu để đem “công lý thi ca” tới cho những cái đẹp của những khu ngoại ô đèn vàng như thế, và lo lắng, nền văn hóa “trong trắng, trinh nguyên” của họ sẽ biến mất cùng với đà Tây phương hóa – trong khi họ hoà nhập giả tưỏng đáng yêu, nên thơ mà những khu xóm ngoại ô dèn vàng được ân sủng nhờ đạo đức của những phường, bang, hội cổ, nhờ những đặc tính được chuyền xuống đời này qua đời khác, bởi những “cha ông, tổ tiên” đáng kính, cần cù lao động của chúng ta – Yahya Kemal, chính ông ta, sống ở Pera, nơi mà ông một lần đã diễn tả như là một “một quận lỵ nơi người ta chưa từng nghe thấy lời kêu gọi, hãy cầu nguyện”, trong khi Tanpinar thì sống ở một nơi còn thoải mái hơn nhiều, tại Beyoglu, một quận lỵ mà ông đôi khi chê bai, nhạo báng đến gần như thù ghét nó.

Nhắc lại nhận xét của Walter Benjamin, những người ở ngoài thành thành phố thường quan tâm đến những vẻ đẹp hương xa cỏ lạ, dành cho du khách, và vẻ đẹp như tranh vẽ của nó. Hai nhà văn ‘quốc hồn quốc túy” trên chỉ nhìn cái đẹp của thành phố ở những phần mà họ cảm thấy, họ là những người ở bên ngoài, khi nhìn chúng. Tình huống này làm nhớ tới tiểu thuyết gia lớn lao của Nhật, Tanizaki. Trong cuốn Ca ngợi bóng dâm, [L’éloge de l’ombre], sau khi mất công xây dựng một căn nhà theo truyền thống Nhật bản, đã nói với bà vợ, ông không thể nào sống trong căn nhà đó, vì thiếu thoải mái, tiện nghi Tây phương.

Đạo hạnh lớn lao nhất của Istanbul là khả năng của những cư dân của nó, khi họ có thể nhìn thành phố quê hương của họ bằng cả hai con mắt Đông phương và Tây phương. Những trình bầy đầu tiên về lịch sử địa phương trong giới báo chí Istanbul, thì đều là những thái quá, những cường điệu, theo kiểu Sir Richard Burton rất mê, ông này là dịch giả cuốn Ngàn lẻ một đêm, hay theo kiểu của Nerval, người Tây gọi là ‘kỳ cục’. Kocu chẳc hẳn là người đã đẩy cái kiểu trình bầy kỳ cục này tới mức tuyệt hảo, qua những điều “chẳng giống ai” của ông, khiến độc giả đọc ông đều nghĩ họ đang đọc một cuốn sách về một nền văn minh xa vời, và đến từ một hành tinh lạ lẫm. Ngay cả khi còn là một đứa trẻ, khi thành phố đang trên đà triệt phá những dấu vết tồn cổ của nó để theo kịp trào lưu Tây phương hóa, những cư dân nguyên gốc đều có cảm giác, một nửa linh hồn của họ, là ngoại lai. Tùy thuộc cách nhìn của họ, mà họ cảm thấy, thành phố của mình thì, hoặc Đông quá, hay Tây quá. Và hậu quả, là nỗi bất an, không biết mình thuộc về bên nào!

Khi Yahya Kemal và Tanpinar sống ở một phía của thành phố (khu Pera đã được Tây phương hóa), hai ông bèn nhoài người, cố vươn tới phía bên kia, để mà chiêm ngưỡng những phong cảnh đẹp, có tính quốc gia, buồn ơi là buồn, và đẹp như tranh vẽ, của những khu xóm nghèo khổ thuộc vùng Cổ Thành, để sáng tạo ra hình ảnh một Istanbul Cổ Xưa cho những thế hệ sau