*

The evil that ordinary men can do

Jonathan Littell's extraordinary Holocaust novel asks what it is that turns normal people into mass killers. By Jason Burke
Guardian đọc Những kẻ thiện tâm, bản dịch tiếng Anh, The Kindly Ones: Cái Ác mà thường nhân có thể làm.
Whatever reaction his novel sparks, Littell has undoubtedly succeeded where many ambitious writers have failed. The Kindly Ones reveals something that is desperate and depressing but profoundly important, now as ever. Max Aue, the SS executioner, states the truth with typically brutal clarity: "I am a man like other men, I am a man like you."
Littell thành công ở chỗ mà nhiều nhà văn ham hố khác thất bại. “Tớ là một người đàn ông như mọi người đàn ông khác. Tớ y hệt cậu,” tên SS đao phủ phán.

Elektra in Tehran
By Anita Desai
Things I've Been Silent About: Memories
by Azar Nafisi
Random House, 336 pp., $27.00

Azar Nafisi là tác giả Đọc Lolita ở Teheran. Những điều mà tôi ngậm tăm là tác phẩm thứ nhì.
*
Chúng tôi sống trong một văn hóa từ chối bất cứ mùi vị nào dễ ngửi của văn chương, nếu cái mùi này không phải là mùi ý thức hệ. Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội, bắt buộc phải như vậy.
Mô phỏng: We lived in a culture that denied any merit to literary works, considering them important only when they were handmaidens to something seemingly more urgent - namely ideology. Reading Lolita in Teheran
*
Yet "sometimes I caught myself looking in the mirror and seeing my mother's face.... There she was in the mirror, not kind or generous, but cold and relentless." The reader may ask, "Mother—or Motherland"?
Ui chao, đọc, lại nhớ đến cuộc đấu sinh tử giữa hai má con Thảo Trần!
Ngày cưới con má cũng không về, năm đó nước lụt ngập tràn quốc lộ, phải rước dâu bằng thuyền, con sắp bước vào cuộc đời làm vợ, làm mẹ mà không hề nghe được một lời dặn dò thân thiết nào của ngay chính người đã sanh đẻ ra mình. Sau này con mới biết là ba má nuôi con không cho má hay, khi má hay thì con đã theo chồng. Ba má nuôi con đã yêu thương con như ruột thịt đã nuôi nấng cho con ăn học nên người, họ cũng không muốn mất con và cũng có nói xấu má, những điều đó đã ăn sâu vào tiềm thức con, rồi khi lớn lên thêm ba mớ chữ nghĩa lại làm cho con hợm mình và tưởng đâu chính mình mới là người có quyền tha thứ cho đấng sanh thành.

Hòa Mun


President Diem - Madame Ngo Dinh Nhu
http://www.flickr.com/photos/34067378@N05/sets/72157613346747211/show/
*

http://www.vimeo. com/3177499 ,

Nếu vì lý do gì link bị xòa, hay không mở được.
Download Phim: Việt Nam! Việt Nam (591MB)


Bàn Tay Năm Ngón
Truyện ngắn mới nhất của Thảo Trường

Hậu Hiện Đại

Cha đẻ của từ này, theo Jordan Davis, khi điểm cuốn “The Devil gets his due”, the uncollected essays of Leslie Fiedler, là Fiedler! [TLS 2.1.2009]
Câu này của ông, chẳng bảnh sao: Phê bình gia đừng lo, đúng, mà lo, điều mi phán đó, có đáng đọc không? "Critics should be more worried about being worth reading than about being right"


Uống rượu một mình
Thơ Hoàng Lộc


The Writer as Migrant

Miếng bấc hòn chì thì cũng là quê mẹ
L’opinion est comme une patrie

L’opinion est comme une patrie.
Câu trên, theo Fowles, của Claire Ourika (1824), và trong bài viết “Ghi chú về một cuốn tiểu thuyết chưa hoàn tất”, [Notes on an Unfinished Novel], ông dịch là “Ideas are the only motherland”, nhưng ông cho biết thêm, The Modern Language Association (1995), đề nghị dịch là:
A view of life is like a motherland.
Một quan niệm về cuộc đời, thì cũng giống như đất mẹ.


Fowles viết, Miền đã mất, The Lost Domain [Le Grand Maulnes], là, về nỗi nhức nhối sâu thẳm, và niềm bí ẩn của tuổi mới lớn [the deepest agony and mystery of adolescence].
Tuổi mới lớn, tuổi vào đời, thời thanh niên… không được giới nghệ sĩ hâm mộ, nhất là nữ nghệ sĩ. Bà nào thì cũng đau đáu đến tận già, tới khi xuống lỗ, về một 'vết thương dậy thì', như Tuý Hồng đã từng miêu tả, chẳc hẳn thế?
Chàng quay ra đóng cửa phòng, và quay vô đóng đinh tôi lên giường! Tuyệt, tuyệt!
Còn Trần Thị NGH, thì, ôi má ơi, má ơi, nó làm thịt con rồi! [Dzui thôi mà, đừng giận nhé! NQT]
Sự khôn ngoan, wisdom, trưởng thành, maturity, và vai vế trong cộng đồng, là những điều mà chúng ta tìm kiếm, cả ở trong giới nghệ sĩ lẫn phê bình, như Thomas Hardy chỉ ra trong cuốn tiểu thuyết sau cùng của ông, The Well-Beloved. Tuổi thơ thích đáng, childhood proper, bất hạnh hay không bất hạnh, thì cũng đành chịu. Nhưng tuổi vào đời thì có thể là một tuổi người lớn rất không ư hoàn hảo, a very imperfect adulthood. Nó, tuổi mới lớn, thì lý tưởng, nổi loạn, dữ dằn, mơ hồ, một mầu xanh trải dài, không chín, chưa chín, còn non, unripe – tuổi ‘lãng mạn’ theo đủ nghĩa xấu xa của từ này.
Và, giờ đây, với cuốn này, Miền Đã Mất, Anh Môn: cuốn tiểu thuyết vĩ đại nhất về thời mới lớn của văn chương Âu Châu.


Trang Vila-Matas

Quê hương tưởng tượng

Comment échapperions-nous à notre passé nous qui nommons “passé” le pauvre souvenir qui nous en est resté?
William MATTHEWS, Flood.
[Làm sao thoát khỏi dúm kỷ niệm khốn khổ còn lại mà chúng ta gọi là 'quá khứ'?]
*
"A real 'wasteland' is much more terrible than any imaginary one".
Czeslaw Milosz: A Treatise on Poetry
Một "hoang địa" thật, thì khủng khiếp hơn bất cứ một hoang địa tưởng tượng nào.
*
L’individu ne vit pas une tragédie en perdant sa culture d’origine à condition qu’il en acquière une autre; c’est d’avoir une langue qui est constitutuif de notre humanité, non d’avoir une telle langue.
[Tạm dịch: Cá nhân không sống bi kịch, khi mất văn hóa gốc, nếu có được một văn hóa khác. Có được một tiếng nói khác, để tiếp tục làm người]
Todorov: Kẻ Bán Xới [L’homme dépaysé]
*
Tzvetan Todorov gốc Bulgarie. Ông kể chuyện những ngày đầu bỏ chạy quê hương, qua Pháp: Tôi tìm đủ mọi cách để hội nhập tối đa. Chỉ nói tiếng Tây, tránh hết mọi bạn quí cũ, đồng hương, đồng bào, tôi có thể nhắm mắt, mà vẫn nhận ra đủ thứ mùi rượu vang, đủ thứ phó mát khác nhau, của Tây, tôi mê toàn Đầm… cuối cùng, có một thằng Bulgarie mất đi, và thêm một thằng Pháp, nhân loại thì vẫn vậy: il y aurait eu à là fin de l’opération, un Bulgare de moins et un Francais de plus. La solde aurait été nul, sans perte ni gain pour l’humanité….


Kỷ niệm đẹp nhất trong đời viết văn

Tổ Quỉ


Cuộc Tình Bỏ Đi

Phỏng vấn PHT


Đỉnh cao chói lọi

Trên tờ TLS số 2 Tháng Giêng 2009, có bài Địa lý về sự mất mát, Geogaphies of loss, viết về những tiểu thuyết mới ra lò của Đức, chúng đều nhắm vào sự hoài nhớ, và tội lỗi, [Recent German novels deal with nostalgia and guilt].
Chúng ta thì đều quá rành về một Miền Nam Mỹ Ngụy, nhưng còn Miền Bắc?
Tiểu thuyết gia Đức Uwe Tellkamp, trong Cái Tháp, DER TURM, được giải thưởng 2008 German Book Prize, đưa ra câu hỏi, Đông Đức là cái quái gì? (1), khi viết về một dúm gia đình trí thức trưởng giả, đúng ra không thể có, tại đây.
Mít chúng ta đã biết về những anh nông dân Bắc Kít, như Cu Sài của Lê Lựu, nhỏ máu ngón tay viết đơn tình nguyện vô Nam chiến đấu, nhưng chưa hề biết về một Miền Bắc, khác?
Liệu có một Miền Bắc, khác?
(1) Hà Nội là cái quái gì? TTT
Der Turm còn một cái tiểu tít là: Chuyện về một xứ sở đã mất, Tale from a lost country. Chúng ta, Mít, hình như cũng có một câu chuyện về một xứ sở đã mất, và chắc chắn, không phải là Miền Nam !
*
“Nhận định này không đồng nghĩa với việc chia sẻ hay ủng hộ các nỗ lực phục hồi Việt Nam Cộng Hoà như thường thấy ở không ít cộng đồng người Việt tị nạn."
PTH
Gấu này, tuy không tham gia, nhưng cũng theo dõi, và chưa hề thấy một cộng đồng hải ngoại nào "nỗ lực phục hồi VNCH". Vậy mà bà chủ quán cá dám phán ẩu 'thường thấy ở không ít...".
Cũng có những chính phủ ma, quân đội dởm, chiến khu lèo... nhưng chưa hề có tay nào, đoàn thể nào, cộng đồng nào - ngay của lực luợng chiến khán chán quá -  tuyên bố, họ nỗ lực phục hồi VNCH, cho dù về thực chất, chế độ này hơn gấp bội chế độ CS.
Đây là trò khốn nạn, xập xí xập ngầu, muốn biến ước vọng, về một nền dân chủ sẽ thay thế chế độ toàn trị tại Việt Nam, thành chuyện dựng dậy thây ma VNCH.
Cũng một giọng như vậy, mấy ông bà nhà văn VC than thở, mình muốn đám hải ngoại về đây cùng hội ngộ, "bao nhiêu năm mới có ngày này" nhưng tụi nó cứ lắc đầu hoài, chúng còn "máu" lắm!
Một khi còn nâng bi quá khứ chống Mỹ cứu nước, vờ hẳn hiện trạng đất nước hiện nay, thì khó có thể nói bất cứ chuyện gì, nói chi chuyện giao lưu hòa giải. Những người đã chết, ngay cả, và nhất là, đám liệt sĩ VC, không chịu nổi chuyện đó, nói chi Ngụy: Làm sao giải thích cho những liệt sĩ VC, những Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Trỗi…  về một "cõi thiên thai" LKP, thí dụ?
Bởi vậy, Gấu rất tởm đám Yankee hải ngoại, nhất là những cây viết trong số họ. Giả như có thêm tiếng nói của bọn khốn kiếp này, thì tiếng nói dân chủ sẽ mạnh thêm rất nhiều. Gấu đã từng hớn hở vì sự có mặt của những nhà văn ra đi từ Miền Bắc, tạo nên “khởi đầu đầu tiên” cho dòng văn học hải ngoại.
Bao nhiêu hy vọng, rồi hoàn toàn thất vọng!
*
Quả là có một mảng lịch sử rất ư là cận đại mà đám nhà văn Yankee mũi tẹt không dám đụng vô, không hẳn vì nhà nước VC cấm đoán, mà chính họ, thí dụ như bà chủ sạp cá, không dám đụng tới, mà nếu có đụng tới, thì bèn dạng háng, làm sao với được cả hai bên, cứ xem cái câu bà phán (1), là đủ hiểu. Một khi không dám đụng vô, là còn khốn khổ khốn nạn với nó.
(1) Kết cục của chiến tranh Việt Nam không phải là sự sụp đổ của Hợp chúng quốc Hoa Kì, mà là sự tiêu vong của Việt Nam Cộng Hoà, quốc gia từng hiện diện trên một nửa lãnh thổ Việt Nam không kém hợp pháp hơn người anh em của nó ở phiá Bắc, và - bất chấp tất cả sự thối nát của những nội các cụ thể, sự bất lực của các nhân vật lãnh đạo cụ thể - là nhà nước đầu tiên trong lịch sử Việt Nam thiết lập trên những nguyên tắc căn bản của nền dân chủ hiện đại. Nhận định này không đồng nghĩa với việc chia sẻ hay ủng hộ các nỗ lực phục hồi Việt Nam Cộng Hoà như thường thấy ở không ít cộng đồng người Việt tị nạn. Lịch sử không thể làm lại, mặc dù có thể viết lại. PTH
*
Cuốn tiểu thuyết Bud’te Kak Deti [Trở thành như trẻ thơ, Become like children] của nhà văn Nga Vladimir Sharov, hai lần vô danh sách chót, finalist, của hai giải thưởng lớn năm 2008, và được chọn là cuốn tiểu thuyết hay nhất trong năm, Book of the Year 2008, của Hội Chợ Sách quốc tế, ở Moscow, cũng như những cuốn khác của ông, là những suy tưởng về lịch sử Nga, nhập nhằng giữa cái đã xẩy ra với cái nên xẩy ra, và với cái chẳng hề xẩy ra. [TLS 2.1.2009].
Văn học Mít, theo Gấu, cũng có một sự nhập nhằng - tránh né, đúng hơn - khi phải đối diện với lịch sử hiện đại của nó.

Trong "Trở thành như con nít", tác giả tưởng tượng Lênin cạo đầu đi tu, the religious conversion of Lenin. Đám phê bình gia Nga rất nể tiểu thuyết của Sharov. Một tiếp cận lịch sử, như trên diễn tả, cũng chằng có gì là mới mẻ, [nếu cái mũi của Cléopatre, nếu Quang Trung ra Bắc nhét kít, nếu Nguyễn Huệ cũng thường thường bậc trung như NMG...], tuy nhiên cách viết theo kiểu hậu hiện đại, của Sharov, thì khó có ai bắt chước được, và dòng văn xuôi của ông, prose, được cảm nhận rộng rãi trong toàn nước Nga. Tiểu thuyết của ông gần như không có đối thoại., theo bài điểm sách, Như con ong thụ phấn, Like a pollinating bee, của Oliver Ready trên TLS, khi đọc một số tiểu thuyết Nga mới ra lò. Nguời điểm sách nhận xét, nuớc Nga của Sharov bị mắc bẫy ở trong tư duy nhị phân. Nhắm sự giản dị hài hoà, nhưng chỉ có được sự rắc rối, da dạng, chia rẽ, phân biệt. [Liệu đó cũng là số phận văn học Mít?]. Trong "Lazarus sống lại", 2003, Charov đề xuất ý tưởng, vai trò mà Thượng Đế ban cho con người là của một nhà phiên dịch đếch làm sao tin vào ngôn ngữ của chính người đó: Cũng lại một đề xuất thật tuyệt vời cho văn học Mít!
*
30 tháng Tư 2002, nhìn lại văn học hải ngoại
1. Lời Ước
Nhìn lại thế kỷ, tuần báo Văn Học Nghệ Thuật trên lưới (internet), do Phạm Chi Lan chủ trương, có làm một cuộc phỏng vấn bỏ túi (mini). Trong số những câu hỏi có một: Anh/Chị coi Y2K là một ý niệm hay một sự kiện?
Văn học hải ngoại hình như mang cả hai yếu tố - như một ý niệm, khi vẫn luôn luôn phải nhìn lại chính nó, tự hỏi về chính nó, liệu có một dòng văn học hải ngoại, sau cuộc tháo chạy tán loạn, mất quê hương, chọn biển cả thay vì đất liền, để dựng nước mới.... - hay như một sự kiện quan trọng: cùng nhân loại chấm dứt thế kỷ hung bạo, với những biểu tượng của nó là Hitler và Lò Thiêu, Stalin và trại cải tại, Pol Pot và cánh đồng giết người...
Trong một truyện cực ngắn, Lời Ước, Walter Benjamin kể chuyện, sau một bữa lễ sabbath, mấy người Do Thái, từ xóm đông xóm đoài kéo nhau tới một cái quán tồi tàn nhất trong làng. Chuyện bá láp một hồi, một ông đưa ra ý kiến, từng người sẽ nói lên một lời ước của mình. Thôi thì đủ thứ ước ao: thêm căn nhà, thêm tí nhau, thêm tí thu nhập, thêm chiếc xế... Khi đã chán chê, họ mới chú ý tới một "kẻ lạ" ngồi thu lu ở một góc. Chẳng ai biết anh ta. Trông cách ăn mặc, rõ ra một nhân vật cái bang. Anh ta cũng không tỏ vẻ hăm hở nói lên lời ước của mình:
-Tôi ao uớc được làm một vị hoàng đế rất hùng mạnh, trị vì một vương quốc thẳng cánh cò bay; một đêm đang ngủ trong tòa lâu đài của tôi, quân thù thình lình vượt biên giới và trước khi ánh dương đầu tiên xuất hiện, đám giặc đã vào tới bên trong lâu đài... Tôi chẳng còn đủ thì giờ vớ đủ bộ quần áo, cứ thế chạy trối chết, ngày này qua ngày nọ, đêm này qua đêm khác, cuối cùng tìm được một chỗ trú ẩn, là góc quán này. Đó là lời ước của tôi.
Cả bọn, người nọ ngó người kia, chưng hửng
-Thế anh có thêm được một món đồ nào không?
-Có, một chiếc áo thun!
Liệu chúng ta có thể nhìn lại văn học hải ngoại, bắt đầu bằng lời ước của nhân vật cái bang kể trên?
Thật khó mà quên được lời ước, với bất cứ một người Việt nào đã từng kinh nghiệm cuộc bỏ chạy tán loạn. Nhưng với thời gian, nó biến đổi, hoặc bị những lời ước khác, tức thời hơn, khẩn cấp hơn, làm quên lãng.
Những tác phẩm văn học hải ngoại những năm gần đây cho thấy, hai mặt của cùng một lời ước đó. Có những cuốn sách mà "người ta" cho rằng, đã hội nhập, không còn hoang tưởng, hết còn ở trong ghetto. Ở đây, cần phải nói rõ một điều, người ta đã lầm lẫn, hoặc đã cố ý đồng hoá, một tác phẩm văn học với một hiện tượng xã hội. Và cái ghetto mà người ta ngụ ý một số nhà văn hải ngoại đã vượt ra ngoài được chính là cái ghetto VNCH. Nhưng cho tới nay, chẳng hề có một tác phẩm văn học nào hoang tưởng đến độ, muốn dấy lên một cuộc chiến, để tái lập một chế độ. Và cũng chưa có tác phẩm nào cho thấy, con người Việt Nam đã hội nhập thực sự ở quê hương mới. Tôi thật sự không tin, những tác giả của những cuộc tình chốc lát ở nơi đất người, trong lúc kiếm sống, lại tự hào mình đã hội nhập! Họ thực ra là đã từ bỏ đề tài những năm ngay sau 1975, mà chủ yếu là tố cáo cái ác của chủ nghĩa cộng sản, và hậu quả của nó, những thảm họa khi vượt biển tìm tự do. Bây giờ, hoặc là đề tài này không còn ăn khách, hoặc là chính tác giả của chúng cũng chán, hoặc nội lực không đủ để đương đầu với nó, bèn quay ra kể chuyện cuộc sống thường nhật của người Việt, đã có một công ăn việc làm ổn định, đã có va chạm chút xíu với người bản xứ. Va chạm chút xíu, nhưng không phải là xung đột, bởi vì ở đâu có hội nhập, ở đó có xung đột; theo nghĩa, anh mới tới muốn nơi đây thoải mái như là nhà của mình, còn chủ nhà thì muốn chui vào tận trong ngõ ngách tâm hồn người khách, để coi nó có gì khác ta.
Nhà văn, nhìn một cách nào đó, là kẻ đến sau biến động. Nếu những năm sau 1975, đề tài trại cải tạo, vượt biển có lượng nhưng thiếu phẩm, trong những năm gần đây, đề tài này trở lại, trầm hơn, nặng hơn, và dĩ nhiên chất lượng hơn. Ở những tác phẩm trước đó, tác giả thi nhau tố cáo cái độc, cái ác, và những đau khổ mà bản thân hay gia đình, và đất nước đã phải chịu đựng. Vô tình, chỉ có tính chính trị, thời cuộc. Kundera đã chỉ đích danh tác phẩm được coi là khuôn mẫu của văn chương chống cộng, cuốn 1984 của Orwell: đây chỉ là chính trị giả danh văn chương. Tác phẩm 1984 giản lược chế độ cộng sản vào danh sách những tội ác của nó, và như thế, vô hình trung, cũng rơi vào thế giới xám xịt của những trại tù! Rồi ông chứng minh, ngay cả trong thế giới mê cung là Vụ Án, hay Lâu Đài, nhân vật của Kafka cứ hở được chút nào là loay hoay kiếm một cái cửa sổ, để thở! Và ông nhặt ra được không biết bao nhiêu là chi tiết thơ, trong một thế giới không thơ, tức thế giới toàn trị.
Hơn nữa, khi hăm hở tố cáo, chính nạn nhân không biết, không còn có thì giờ nhận ra, cái phần tha hóa ở nơi họ: bất cứ một con người nào, ở trong thế giới đó, cũng bị tổn thương. Nói như Todorov, chủ nghĩa cộng sản là thử nghiệm tối hậu về đạo đức của con người. Nhân vật chính, viên sĩ quan trong Đá Mục của Thảo Trường, có vẻ như thấy hết, hiểu hết, và tỏ ra có một thái độ vượt lên khỏi những đau thương, giận dữ; nhưng được như vậy, là nhờ đệ tử, một anh lính truyền tin. Anh này làm độc giả nhớ tới nhân vật chính trong Một ngày trong đời Ivan Denisovich, của Solzhenitsyn (độc giả Đá Mục chắc khó quên "xen" đệ tử kiếm việc làm nhàn rỗi cho sư phụ, và sư phụ lầm lẫn trứng gà bồi dưỡng; đúng ra là của con heo đực).
Thảo Trường đi tù tất cả 17 năm. Qua đây, ông đã cho xuất bản liền mấy cuốn, riêng trong năm qua là Đá Mục và Tầm Xa Cũ, Bắn Hiệu Quả . Trong một phỏng vấn trên đài Kicon, mạng Internet, ông cho biết, trong tù ông cứ thế nghiền ngẫm, và đã "bỏ túi" năm bẩy cuốn sách, qua đây tuần tự xuất bản. Ông sống lại một lần nữa thời gian dài 17 năm. Nhưng nếu chúng ta theo sát những bài viết của ông, sẽ nhận ra, đã có dấu vết thay đổi, giữa những truyện ngắn đầu, và mới đây. Tác giả tuy bỏ túi vài tác phẩm thực, nhưng khi viết ra, nó không giống như là lúc ông còn ở trong trại tù, đã tưởng tượng mặt mũi của chúng. Ông ngày trầm hơn, văn ngày thấm hơn, vượt lên nỗi cay đắng còn đè nặng hồi ức những ngày tù.
Ở Lâm Chương cũng vậy. Khi trả lời phỏng vấn, hình như ông cho biết, chỉ vào nhà tù, ông mới biết căm thù nghĩa là gì. Nhưng càng viết, ông càng bớt căm thù. Bởi vì, hận thù, với một nhà văn, là thất bại của trí tưởng tượng. Trong truyện của ông, người đọc nhận ra những cay đắng, nhưng còn nhận ra, vết thương đang lành. Trong một bài tổng quan, thật khó mà đưa ra chi tiết chứng minh, hy vọng sẽ có dịp được viết rõ hơn về từng tác giả. Vả chăng, khi người ta "trung thành" với một điều gì, cùng lúc người ta "phản bội" một điều khác: chống Cộng, ở một số nhà văn Miền Nam mang tính công dân (thù nhà, nợ nước?), hơn là mang chất văn chương.
Chính chúng ta, độc giả, khi phải nhìn lại (đọc lại) một số tác phẩm văn học, cũng thấy mình đã đổi khác. Tác phẩm có thể vẫn vậy, nhưng con người đổi khác. Trước đây, những độc giả Miền Nam thật khó mà chấp nhận một tác phẩm của một người ra đi từ Miền Bắc, lại có thời rất thân cận với cung đình Bắc Bộ Phủ, như Vũ Thư Hiên. Và người ta nhận ra một điều, ngay cả những lúc phải "ăn nằm" với chế độ toàn trị, tiếng nói của một miền đất vẫn giữ riêng cho nó một khoảng cách. ["Đi tù với một bông hồng", là tên một bài viết của Đỗ Quang Nghĩa, trên báo Diễn Đàn, về tác phẩm "Đêm Giữa Ban Ngày" của Vũ Thư Hiên.] Rõ rệt nhất là ở Lê Minh Hà, với hai tác phẩm xuất bản liền trong hai năm vừa qua, Trăng Góa, và Gió Biếc.
Có người cho rằng ở Lê Minh Hà, truyện không ra truyện, tủn mủn, manh mún. Với Gió Biếc (1999), có người chỉ thấy những cảnh đời nhếch nhác của một số người Việt, phải bỏ nước ra đi, rồi cố tìm cách để khỏi phải trở về. Nhưng vẫn như trong trường hợp Kundera nói về sự khác biệt giữa Orwell và Kafka: Bạn phải kiếm cửa sổ để mà thở, thay vì cố chứng minh, đây là những nhà tù!
Vẫn có những tác giả đã không thể quên ước mơ thoạt đầu, ngày xưa. Họ không nói tới, nhưng chúng ta cảm thấy, qua cách viết, qua hành động của nhân vật. Trong truyện ngắn Biển (của Miêng) là chia sẻ tấm áo thun, ở đây là những giọt lệ nhỏ xuống cho một kẻ điên khùng, không còn nhận ra chính mình, nhưng lại nhận ra người vợ, và qua đó, những đứa con đã chết trên biển cả. Hay như Kẻ Lạ (của Hồ Như), khi trở về, và nghe quê hương xì xào: Kìa ai như Cô Thắm... Hay như nhân vật trong truyện Trở Về (tạp chí Hợp Lưu) của Phạm Hải Anh, về để thấy rằng, quê hương không từ chối anh. Hay như nhân vật Nữ Độc Thủ của Linda Lê la lên: Ông ta chết rồi, hãy để cho ông ta yên thân!
Theo tôi, văn chương Việt hải ngoại trong năm 1999 là một năm được mùa. Mùa gặt mới, trong đó có cả lúa chín muộn: sự góp mặt của một tác giả như Trần Thị NGH. Đây là một tác giả trước 1975 tại Miền Nam, vừa xuất hiện đã gây chấn động giới viết lách ở Sài Gòn, với truyện ngắn Nhà Có Cửa Khoá Trái. Nếu trí nhớ không phản bội tôi, hình như truyện đầu tay của bà là về một người đàn ông có vợ, đến gặp một người đàn bà không chồng, nhưng có con; thằng nhỏ bữa đó bị đau, anh chàng đi mua thuốc cho đứa nhỏ. Chuyện chỉ có vậy, nhưng tôi vẫn còn nhớ cái cảnh cô đơn của người đàn ông gầy còm ốm yếu, ngơ ngơ ngác ngác trước tiệm thuốc tây, trước cuộc chiến, và trước cuộc tình vụng trộm. Ở những truyện viết sau này (trong tập truyện ngắn do nhà Văn Nghệ xuất bản, 1999), nhân vật của bà vui hơn, tuy vẫn chưa quên được những người tình cũ, cuộc đời con gái, cũ.
Nếu phải chọn một tác phẩm, tôi chọn tập truyện ngắn của Miêng. Do cái phần tâm linh của nó, hơn là do cách dựng truyện, cách dựng nhân vật. Với Lê Minh Hà, tôi chọn ngôn ngữ, hơn là truyện ngắn. Có một cái gì đó, làm tôi phải tự hỏi: làm sao cái mầm sống của chữ nghĩa, của một miền đất, sau bao nhiêu đọa đầy, nhưng vẫn không chịu bị bẻ gẫy, ở đôi chỗ, vẫn tươi mát đến như vậy?
Walter Benjamin, trong một truyện cực ngắn khác, Chữ Ký, kể câu chuyện xẩy ra tại cung đình nữ hoàng Catherine, ở Nga. Vị cận thần của bà, Potemkine, đang trong cơn sa sút tinh thần trầm trọng, kéo dài ngày này qua ngày khác. Không ai được tới gần căn phòng của ông. Không ai dám xì xào về căn bệnh của vị cận thần sủng ái. Khổ một nỗi, bao nhiêu giấy tờ đệ trình nữ hoàng, là phải có chữ ký của Potemkine. Đám quan chức hàng đầu trong triều không biết phải giải quyết ra sao.
Bữa đó, may quá, một viên chức thuộc loại vô danh tiểu tốt, tên là Chouvalkine, không hiểu vì lý do nào, lại có mặt tại căn phòng bầu dục. Thấy mấy sếp mặt mày nhăn như bị, anh ta mới rụt rè vấn an, và khi biết được sự tình, bèn xung phong: để em xông vô phòng, với mớ giấy tờ cần chữ ký của Ngài Bí Thư. Mọi người thấy, đâu có mất gì, bèn gật đầu.
Chouvalkine ôm mớ giấy tờ, mở cửa phòng, thấy Ngài Potemkine đang ngồi mơ màng trên chiếc ghế bành. Anh tới gần, Ngài cũng chẳng biết. Thế là anh cầm cây viết, chấm mực, dí vào tay Ngài; và Ngài cứ thế ký lia lịa, hết tờ này tới tờ khác. Xong, anh trở ra. Mọi người vồ lấy mớ giấy đã được thị thực. Mở ra, tất cả các chữ ký, từ chính tay Potemkine, nhưng đều biến thành... Chouvalkine!
Với câu chuyện cực ngắn Chữ Ký, chúng ta nhìn về trong nước. Cái me-xừ Potemkine, phải chăng là chủ nghĩa hiện thực xã hội (thứ thiệt?), mà những anh chàng Chouvalkine vẫn hy vọng viết dưới ánh sáng của nó?

*

Lâu nay đa số chúng ta cứ nghĩ thưởng thức văn chương tùy thuộc gu, mĩ cảm riêng mỗi người, nên việc chọn và đánh giá tác phẩm không tránh khỏi chủ quan.
Điều đó đúng, nhưng chưa rốt ráo. Nếu đặt tác phẩm văn chương trong tiến trình phát triển của một nền văn học, vấn đề sẽ rất khác. Bởi, nếu sáng tác thơ văn cứ mãi ở lại với hệ mĩ học cũ, lối viết cũ, thì văn học sẽ đi đến đâu? Giậm chân tại chỗ là cái chắc.
Văn học như là tiến trình - ít ra là với văn chương tiếng Việt trong thời đại toàn cầu hóa. Câu hỏi đặt ra là: tác phẩm đó góp gì vào khai vỡ hiện thực cuộc sống hay bề tối lịch sử xã hội không? Có khai phá lối nghĩ hay thủ pháp mới lạ nào không?
Inrasara [BBC]
Tôi sợ có sự hiểu lầm trong tư duy ở đây.
Cái chuyện thưởng thức một tác phẩm văn học, là thuộc phần người đọc. Và người đọc nào cũng có gu riêng của người đó, và bắt buộc phải - chứ không phải ‘không tránh khỏi’ - chủ quan.
Cái chuyện đặt văn chương trong tiến trình gì gì đó, thì lại thuộc giới đọc sách, phê bình sách. Một người phê bình, đọc một cuốn sách, khác hẳn một độc giả bình thường, cũng đọc cuốn đó.
Bây giờ nói đến chuyện nhìn tác phẩm từ phía tác giả.
Nhà văn, khi viết, chỉ có mỗi một trách nhiệm, là với ngôn ngữ của người đó, theo Cao Hành Kiện, qua bài viết Tin Văn đang giới thiệu dưới đây.
Giả như nhà văn nhà thơ Việt Nam chu toàn được những đòi hỏi mà Inrasara nêu ra, “tác phẩm đó góp gì vào khai vỡ hiện thực cuộc sống hay bề tối lịch sử xã hội không? Có khai phá lối nghĩ hay thủ pháp mới lạ nào không?”, chắc chắn tác phẩm của người đó bị cấm, tác giả có khi vô tù, theo như CHK nhận định, về nhà văn TQ:
TQ là một nhóm ngôn ngữ rộng lớn trên thế giới hiện nay nếu tính đến con số những người nói thứ ngôn ngữ này, nhưng với một người sử dụng nó, người đó có được bao lăm tự do. Trước hết, đây là một vấn đề chính trị, rồi tới những sức ép xã hội, chúng gây tự chế ở nơi nhà văn, và sau hết, đây là một vấn đề tự thân của chính ngôn ngữ. Nhà văn đối đầu chỉ với ngôn ngữ, trong những gì ông viết ra, nhưng trước tiên người đó phải đụng [deal] tới không biết bao nhiêu là sức ép và tìm kiếm cách để vượt qua [transcend] chúng. Nhà văn viết bằng tiếng TQ thường xuyên chiến đấu một cách vô vọng với những gánh nặng cực kỳ nặng này, bởi vậy, tới khi ông phải đương đầu với nghệ thuật ngôn ngữ, thì đã mệt nhoài, hết hơi. Người ta có thể nói nhà văn TQ quả là có quá nhiều điều để mà vật lộn với chúng.
Nhà văn TQ có quá nhiều điều để vật lộn, nhà văn Mít, đàn em, cũng không thua đâu!


Văn chương và siêu hình: Về cuốn Linh Sơn

Tôi nhận thấy, thứ ngôn ngữ Trung Quốc Âu Châu hóa, không thể chịu nổi.