|
Album | Thơ | Tưởng Niệm | Nội cỏ của thiên đường | Passage Eden | Sáng tác | Sách mới xuất bản | Chuyện văn
Dịch thuật | Dịch ngắn | Đọc sách | Độc giả sáng tác | Giới thiệu | Góc Sài gòn | Góc Hà nội | Góc Thảo Trường
Lý thuyết phê bình
| Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm |
Text Scan | Tin văn vắn | Thời sự | Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ | Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
Ghi chú trong ngày | Thơ Mỗi Ngày | Chân Dung | Jennifer
Video
Nhật Ký Tin Văn / Viết
Nhật Ký
Tin Văn [TV last page]
Sách Báo
BIOGRAPHY
A most elusive man
IN 2003, I TOOK THE SLEEPER TRAIN FROM LONDON DOWN to Cornwall to interview
David Cornwell, better known as the novelist John le Carré,
for this magazine. Having never taken a sleeper train before, I mistakenly
thought it was possible to sleep on one. I showed up at his magnificent
cliff-top home exhausted and very much the worse for wear. But I realize
now that I would have been no match for him even on the best day of
my life.
Le Carré-as we'll call him-is
the most demonically charming and articulate writer I've ever met.
It's ironic that the man who de mystified James Bond, substituting
in his place the sweating, gray-faced, raincoated spy- masters of
the Smiley novels, is himself as smooth and charismatic as a real-life
007 and twice as inscrutable. As such he makes elusive quarry for Adam
Sisman In John le Carré: The Biography-but Sisman is an
implacable hunter, and the pursuit is well worth following.
Le Carré was educated at Eton
and Oxford, but his childhood was no patrician idyll. His father Ronnie
was an irredeemable con man who did time for fraud. "He could put
a hand on your shoulder and the other in your pocket," le Carre's brother
Tony says, "and both gestures would be equally sincere." Le Carré
inherited from him good looks, great verbal and social facility and
a powerful gift for invention. For a boy raised on deception, the professions
of spy and novelist seem over- determined: MI5 recruited him as an undergraduate,
and he spent six years there and at MI6. His disillusionment-with espionage,
war, politics, humankind-ultimately boiled over into The Spy Who
Came In From the Cold, the book that made his name, a magnificent
thriller and a devastating account of the appalling compromises and human
consequences of the shadow war.
This much is clear. Other facts are
harder to pin down-we all confabulate our identities, but in le Carre's
case it can seem like a compulsion, and he has his father's gift for
making it all utterly plausible. "Everything he says;' Sisman writes,
"needs to be examined skeptically." Even his oddly francophone pseudonym
has multiple origin stories. For le Carré, his gift for fiction
seems to have been both a blessing and a curse, a means of expressing deep,
urgent truths about the world around him but also of glossing over difficult
truths about his own life. It makes him a maddening biographical subject
but also an endlessly intriguing one. The truth behind the fictions may be
that if you were born out in the cold, as le Carré was, you can never
quite come all the way back in. - LEV GROSSMAN
Sách Báo
China:
Novelists Against the State
Perry Link
Death Fugue
by Sheng Keyi, translated from the
Chinese by Shelly Bryant
Artarmon, Australia: Giramondo, 375
pp., AU$29.95 (paper)
by Ha Jin
Pantheon, 280 pp., $26.95
by Yiyun Li
Random House, 327 pp., $26.00; $16.00
(paper)
The Dog:
Stories
by Jack Livings
Farrar, Straus and Giroux, 226 pp.,
$25.00
SUBMISSION,
A NOVEL BY FRENCH author Michel Houellebecq that is newly available
in English, tells the story of an Islamic political party overtaking France's
government at the ballot box and fundamentally changing society. It became
an instant best seller in Europe when it was released on Jan. 7, the same
day Muslim extremists murdered 12 people at the Paris offices of Charlie
Hebdo. In the months since, an already tense Europe has dealt with
a wave of migrants and refugees from Syria against a backdrop of fear of
historic transformation. In the U.S., presidential candidate Ben Carson stated
that no Muslim should be elected to the White House. Houellebecq is never
easy reading, but on those grounds alone, Submission may be the most
relevant book of the year.
Over the course of the novel, a fictional Muslim
Brotherhood consolidates power in France by joining with the neutered
Socialists in the 2022 elections, narrowly wresting control from Marine
Le Pen (the right-wing politician, here rendered by Houellebecq as impassioned
but ineffectual). The changes the new political party enacts seem to make
life only more difficult in a nation that, in Houellebecq's imagining, had
already been teetering on the verge of collapse. Change occurs at a bizarre
remove: from the forced veiling of women to the defunding of education to
the encouragement of Jewish immigration to Israel, everyone more or less
goes along.
Before the election, the book's central character, a literature
professor, reflects that his long-held hope of a calm life is now impossible,
no matter which side wins: "There was no reason that I should be spared
from grief, illness, or suffering. But until now I had always hoped to
leave this world without undue violence:' It's the sort of dream only
someone raised in an industrialized nation in the latter half of the zoth
century might have had. So much for that.
But Houellebecq stops short of portraying violence
or even resistance; the book ends with the professor's conversion to Islam,
about which he feels little but a nihilistic comfort at having behaved
in the socially correct manner. The lack of narrative fireworks is particularly
jarring given Houellebecq's resume, which contains more instances of provocation
than it does fiction. He was acquitted in 2002 after being charged with
inciting racial hatred for calling Islam "the stupidest religion" and
has referred to himself as "probably" Islamophobic.
Houellebecq's restraint on the page, though,
his schematic logic and bland refusal to indulge panic, seems somehow
realer than real life. And Submission has less to do with religion than
you might think. It examines rapid political change in general: How much
of it are we meant to live through? And does it move inevitably toward
extremes? If it weren't the Muslim Brotherhood ruling France, after all,
it would be Le Pen. She too is animated by beliefs that, if given purchase,
would change the face of Europe.
Even those with concerns about Houellebecq's
subject can acknowledge the present moment's potential for radical change,
in one direction or another. At a moment in which American novelists
seem wary of delving into politics, Houellebecq has clomped onto the world
stage and delivered a book whose brash conceit is getting far more attention
than its frightened heart. It's not Muslims whom Houellebecq is scared of.
It's the future. -DANIEL D'ADDARIO
Note: Thời Báo điểm cuốn Thần Phục, Submission, của Houellebecq
Nhân cú Paris bị khủng bố, tưởng niệm nạn nhân,
và, bèn đi 1 đường lèm bèm, về cuộc cách
mạng Pháp thế kỷ 21, và cái câu kết, “không
phải tác giả sợ Hồi Giáo, mà là tương lai”.
Houellebecq's misogyny is related
to the cynical brutality and cheerless lucidity with which he writes about
sex. His fiction seems motivated by a need to expose all that is mechanical,
alienated, onanistic, and disembodied about male desire.
Trên tờ Người Nữu Ước,
Jan 23, 2012, James Wood điểm cuốn mới nhất của Houellebecq, “Bản đồ và
Vùng đất” [đã được dịch sang tiếng Việt]. Chê thấu trời.
Chẳng có gì ngoài sex, thí dụ:
Tính ghét hôn nhân của H. mắc mớ tới sự
tàn bạo đểu giả và sự sáng suốt ủ rũ, qua đó,
ông ta viết về sex. Tiểu thuyết của ông như được thúc
đẩy bởi sự cần thiết phải phơi bày cái ham muốn nhục dục của
giống đực, qua các “trạng thái, đặc tính” của nó,
như: máy móc, phóng thể, chỉ khoái may tay
không thích may máy, và hồn lìa khỏi
xác…
Ông H nổi tiếng về cả hai mặt, tính con heo nọc, (porno
fervor: sôi nổi, nhiệt tình heo) của văn xuôi của ông,
và cái thú lèm bèm trong những xen sex.
Thành thực mà nói, GCC không làm
sao đọc nổi Houellebecq.
Không hiểu
tại sao bạn NL lại ưa dịch tay này? (1)
Kundera, Màn, chắc
là Le Rideau?
Cuốn này, theo GGC cũng… dở. Oách, là Gặp Gỡ,
Encounter. Trên TV có chôm & dịch vài đoạn.
Đã tính đi trọn cuốn!
Quà Noel. Tính đi Mẽo
chơi, thăm bạn, vé mắc quá, Noel mà, Gấu Cái
lắc đầu, no money. Đành cầm tí tiền còm đi "sáchping".
Cuốn “microscripts” khủng lắm. Đây là 1
cách viết do Walser phịa ra. Phương pháp “vi-viết”,
micro-script method
Walter Benjamin không biết tới cách viết
này, khi viết về Walser.
Mới ra lò, 2012.
Từ từ, TV khoe hàng tiếp!
Note:
“Ba tì”, sách cũ.
Cuốn này, chắc là trong nước chưa được
đọc.
"Bóng Đêm giữa ban ngày", được, cả bản
dởm, lẫn bản thực.
Tin Văn post bài viết của… Nguyên Ngọc
Niên Xô, người khám phá ra Solz, mà
như ông kể, đang nằm, đọc vài dòng “Một Ngày”,
bèn nhỏm dậy, tắm rửa 1 phát, đi 1 bộ đồ lớn, rồi
ngồi vô bàn...
Gấu đoán, NN chắc cũng làm như thế, khi
phát giác Tướng Về Hưu?
Thì NN cũng là 1… Tướng Về Hưu,
suốt đời sống bằng máu của kẻ khác, và bằng
thịt lợn vỗ béo bằng thai nhi!
Alexander
Tvardovsky, chủ biên tờ Novy Mir, vào năm 1961,
chỉ ít lâu trước khi trải qua trọn một
đêm không ngủ, đọc bản thảo của một tác giả vô
danh
[Hình từ D.M Thomas: Solz. thế kỷ ở trong ta]
Nhưng câu chuyện của ông không
phải của chỉ đơn độc một thế kỷ. Khi Alexander Tvardovsky, chủ biên
tờ Novy Mir cho người vời nhà văn vô danh tới, để
thảo luận về bản thảo "Một ngày trong đời Ivan Denisovich",
trên đường tới gặp, Solz bèn ghé Quảng trường Strastnaya,
đứng bên dưới tượng Pushkin, chơi một pô hình, một
phần, mong thi sĩ phù hộ [support: hỗ trợ], một phần, hứa hẹn:
Đàn em biết con đường phải đi theo. Và sẽ đếch thèm
xin thuận buồm xuôi gió! [I knew the path I must follow
and would not stray from it].
Một
thứ cầu nguyện, theo Thomas.
Không
phải theo kiểu thường nhân ghé đứng chụp hình
kế bên Shakespeare, vừa tưởng niệm vừa hưởng tí vinh
dự: Solz nhìn ở Pushkin như người đồng thời của mình.
Nhưng
cái cử chỉ, hành động ghé tượng Pushkin đã
khiến Thomas có một vision về cuốn sách mình
sẽ viết. Nó làm ông nhớ đến bài thơ hách
xì xằng của Pushkin, Kỵ Sĩ Đồng, 1833.
Ui chao, lạ làm sao, nó làm
Gấu nhớ tượng Đức Thánh Trần và ngón tay
của Người chỉ ra cửa biển Vũng Tầu!
NB.
Dân trong nước đọc Một ngày trong đời Ivan Denisovitch rất
nhiều là khác, hoặc bản dịch trước 1975 của Sài
Gòn, hoặc bản dịch gần đây của Đào Tuấn Ảnh.
Blog NL
Số Mùa Thu, năm ngoái. Fate. Số mệnh. Cầm lên,
đọc loáng thoáng, vớ đúng bài Joseph Roth
viết về “nơi cuộc chiến bắt đầu”, Sarajevo, 1923.
Bài intro cũng tuyệt. Cả 1 thế kỷ đã qua, Roth
thì cũng chết từ đời tám hoánh. Ông chết,
và bài essay thuộc thứ, nhìn lại. Chúng
ta nhìn tới, cuộc chiến thứ nhì, cuộc chiến Bosnia, cuộc
chiến chấm dứt mọi cuộc chiến…
I wanted from Chicago what I
had got from Sarajevo: a geography of the soul
“Vẫn là nó. Nhưng
không phải là nó!”
Câu trên là
của ông Tổng Giám Đốc Bưu Điện - và còn
là một trong những ông Thầy dạy Gấu, khi học trường Quốc
Gia Bưu Điện - phán về sếp trực tiếp của GCC, sau khi ông
ra khỏi bịnh viện và trở về Bưu Điện làm việc lại.
Ông bị mất khẩu súng, trong vụ mìn Mỹ Cảnh,
GCC đã lèm bèm nhiều lần rồi.
Sở dĩ nhắc
lại, là vì trong cái “memoir” viết về cuộc vây
hãm Sarajevo, có 1 anh chàng phóng viên,
trở về lại Berlin, trở về lại căn phòng của mình, và,
xỏ vô quần, và, cái quần tuột ra khỏi anh ta.
Thoạt đầu, anh ta nghĩ, đếch
phải quần của mình, nhưng nhìn lại thì đúng
là quần của mình. Và anh ngộ ra, mình thì
vẫn là mình, đếch mất cái chó gì cả
- tất nhiên, súng vưỡn còn – nhưng, một cách
nào đó, về thể chất lẫn tinh thần, anh ta đếch còn
như xưa!
Đúng là tình
cảnh của Gấu. Sau cú Mỹ Cảnh, tuy súng ống còn
nguyên, nhưng có 1 cái gì đã mất đi,
theo nó.
Chôn thường dân chết
trong trận vây hãm, Jan 1993
MEMOIR
LIFE DURING WARTIME
Remembering the siege of Sarajevo
By Janine di Giovanni
There was spring rain and pale
fog in Sarajevo as my plane approached the city last April, veering
over the green foothills of Mount Igman. Through the frosted window I
could see the outline of the road we used to call Snipers' Alley, above
which Serbian sharpshooters would perch and fire at anyone below. Twenty
years had passed since I'd arrived in Sarajevo as a war reporter. During
the siege of the city, most foreign journalists had lived in the Holiday
Inn, and it was in that grotty hotel that the man who was to become my husband
and the father of my child professed undying love. I met some of my best
friends in Sarajevo and lost several others-to alcoholism, drugs, insanity,
and suicide. My own sense of compassion and integrity, I think, was shaped
during those years.
Janine di Giovanni has won four
major awards for her war reporting and is a member of the Council on
Foreign Relations. She is currently writing a book about Syria, to be
published by Norton. She lives in Paris.
Janine di Giovanni đợp bốn giải
thưởng bự nhờ phóng sự chiến trường và là thành
viên của "Council on Foreign Relations" [Hội Đồng Những Liên
Hệ Ngoại]. Hiện đang viết 1 cuốn sách, sẽ do Norton xb. Sống
ở Paris.
HARPER'S MAGAZINE / APRIL 2013
Tin Văn sẽ post bài này,
và dịch lai rai, song song với bài Novel,
của Fuentes
Why was it that Sarajevo, and
not Rwanda or Congo or Sierra Leone or Chechnya-wars that all of us
went on to report-captured us the way this war did? One of us, I think
it was Christiane Amanpour, called it "our generation's Vietnam." We were
often accused of falling in love with Sarajevo because it was a European
conflict-a war whose victims looked like us, who sat in cafes and loved
Philip Roth and Susan Sontag. As reporters, we lived among the people of
Sarajevo. We saw the West turn its back and felt helpless.
Đây là "Việt Nam
của thế hệ chúng tôi". Chúng tôi thường bị
buộc tội tương tư Sarajevo, bởi vì đây là cuộc xung
đột Âu Châu - một cuộc chiến mà nạn nhân trông
giống chúng tôi, những kẻ ngồi trong những tiệm cà
phê, mê Philip Roth và Susan Sontag
Khe Sanh,1968
MICHAEL HERR IN A BLOODSWARM
I looked and there was a pale
green horse! Its rider's name was Death, and Hades followed with him.
-Book of Revelations, c. 90
Tôi nhìn và
thấy 1 con ngựa xanh nhợt nhạt! Tên kỵ sĩ là Thần Chết,
và Diêm Vương, đằng sau anh ta.
Khe Sanh 1968, Sarajevo 1992,
Cõi Khác 1969... là cùng dạng “memoir”,
kể cả "Nỗi Buồn Chiến Tranh" của Bảo Ninh. Chúng có chung
cái air "độc thoại". Đoạn mở ra Sarajevo, đọc 1 phát là
nhập vô liền:
There was spring rain and pale
fog in Sarajevo as my plane approached the city last April, veering
over the green foothills of Mount Igman.
Có mưa Xuân và
sương mù lợt tạt ở Sarajevo, Tháng Tư vừa rồi, khi chiếc
phi cơ của tôi loay hoay chọn hướng đáp xuống thành
phố, bên trên những ngọn đồi thấp, màu xanh, của núi
Mount Igman.
Câu văn còn làm
nhớ câu thơ phổ nhạc của Phạm Duy, “Ngày mai đi nhận xác
chồng”, cái gì gì, “phi cơ đáp xuống một
chiều...” (1)
Thê lương thật. Sống thêm vài kiếp nữa,
chắc vẫn chưa quên nổi cuộc chiến.
Mà quên làm khỉ gì không biết!
(1)
Tưởng như còn người yêu
Ngày mai đi nhận xác
chồng
Say đi để thấy mình không là mình
Ngày mai đi nhận xác anh
Cuồng si thuở ấy, hiển linh bây giờ
Cao nguyên hoang lạnh ơ hờ
Như môi góa phụ nhạt mờ vết son
Tình ta không thể vuông tròn
Say đi mà tưởng như còn người yêu
Phi cơ đáp xuống một chiều
Khung mây bàng bạc mang nhiều xót xa
Dài hơi hát khúc thương ca
Thân côi khép kín trong tà
áo đen
Chao ôi ! Thèm nụ hôn quen
Chong đèn, hẹn sẽ đêm đêm đợi chờ
Bây giờ anh phủ mầu cờ
Bây giờ anh phủ mầu cờ
Em không nhìn được
xác chàng
Anh lên lon giữa hai hàng nến trong
Mùi hương cứ tưởng hơi chàng
Ôm mồ cứ tưởng ôm vòng người yêu !
Lê Thị Ý
[net]
Lần đầu tiên Gấu
nghe, 1 buổi sáng Chủ Nhật không phải đi lao động, tại nông
trường cải tạo Đỗ Hòa, Nhà Bè, đặc khu Rừng Sát
cũ. Nghe 1 phát là rùng hết cả mình, nhớ lần
đi lấy xác đứa em trai tử trận tại Sóc Trăng.
Đó cũng là lần đầu Gấu biết được mùi thịt
chuột, và nó ngon đến cỡ nào, và phải cơ
may [“máy trời” xoay chuyển] như thế nào mới được thưởng
thức!
Do
you really think that hundreds of thousands leave their home and embark
on this difficult journey only because of a selfie with the chancellor?"
she asked Anne Will, a television talk-show host, on October 7th. Since
then, however, Mrs Merkel has turned defiant and bold, as though inspired
by a clear moral purpose.
Không lẽ hàng trăm ngàn người bỏ nhà
bỏ cửa lao vào cuộc hành trình đầy gian nan, để
chơi 1 cú "xeo phi" với... tui?
...
on the writer as a witness?
Where are we going in the twenty-first century? We
should be going to a place where we can observe reality with clarity.
We need to see the problems of people's lives, and the complicatedness
of people and their weakness. We are all mere witnesses, and the best
thing we can do is see things as they are.
You are not the creator, you can't overcome the world,
but you can bear witness. And when it comes to art, to talk about
a country is meaningless. A writer is a witness to humankind, a
witness to humanity.
ASIA LITERARY REVIEW
Về nhà văn như 1 chứng nhân
Thế kỷ 21 chúng ta đi đâu? Chúng
ta đi tới một nơi chốn mà chúng ta có thể quan
sát thực tại với sự rõ ràng. Chúng ta
cần nhìn những vấn đề của những cuộc sống của dân chúng,
và sự rắc rối nhiêu khê của họ, sự yếu đuối của họ.
Tất cả chúng ta chỉ là những người chứng, và điều
tốt nhất chúng ta có thể làm là nhìn
những sự vật như chúng là. Bạn đây phải ông
trời, đấng sáng tạo, bạn không thể vượt thế giới, nhưng
bạn có thể vô vai người chứng. Và khi nói
đến nghệ thuật, lèm bèm về 1 xứ sở là vô
nghĩa. Nhà văn là chứng nhân của nhân loại.
The Man Who Flew
Over the course
of several decades and numerous books, Alexievich has pursued
a distinctive kind of narrative based on journalistic research
and the distillation of thousands of firsthand interviews with people
directly affected by all the major events of the Soviet and post-Soviet
period. She has uncovered the unknown but crucial work that Soviet
women did in World War II, recounted the memories of children caught
up in the “Great Patriotic War,” documented the realities facing
soldiers in the Soviet-Afghan war, which were kept from the Soviet public,
and recorded the experiences of those who lived through the Chernobyl
nuclear disaster.
In her most recent
book, she deftly orchestrates a great chorus of diverse voices
to chronicle the human toll—emotional, physical, economic, and
political—of the collapse of the USSR, a country that once made up
a sixth of the world’s land mass.1
Alexievich’s oeuvre comprises nothing less than a history of
epic proportions, which she has called “Voices of Utopia.” This undertaking
has brought the writer many awards and accolades from Western European
countries in particular, and from Russia, where her books have been
printed and reprinted many times; she is a well-known critic of the
Putin regime. In her home, Belarus, however, under the dictatorship
of Aleksandr Lukashenko, she has been subject to the same political
censorship and pressure as many of her colleagues (as Timothy Snyder
pointed out in the NYR Daily 2).
For over a decade she lived in various European cities, because
it was not safe to return to Minsk (though she did in 2011), and
her books have not been published in Belarus since 1994.
Trong vài thập niên, với vài cuốn
sách, Alexievich theo đuổi một loại tự sự riêng biệt,
đặc biệt, dựa vào nghiên cứu mang tính ký
giả, và sự chắt lọc, từ hàng ngàn những cuộc
phỏng vấn đầu tiên, mới tinh, nóng hổi, thứ nhất, firsthand,
với những người trực tiếp trúng đạn, trúng miểng, do tham
dự vào những biến động lớn, thời kỳ Xô Viết và Hậu
Xô Viết. Bà đã vén lộ, trình ra, những
gì mà người phụ nữ Xô đã thực hiện, từ trước
đến giờ kể như chưa được biết, nhưng thật chủ yếu, trong Đệ Nhị Chiến;
thu gom, nhặt nhạnh hồi ức của những đứa trẻ bị mắc nạn, dính
trấu, của cái gọi là Cuộc Chiến Vệ Quốc Lớn; thu thập tài
liệu Hồng Quân xâm lăng A Phú Hãn, những sự
thực được giấu nhẹm không cho dân chúng biết tới, và
ghi nhận, ghi âm những kinh nghiệm của những con người trải qua
tai ương lò hạt nhân ở Chernobyl
Trong cuốn sách mới nhất, bà đi 1 đường
đồng ca lớn, gồm nhiều giọng khác nhau, nhằm ký sự,
biên niên hồi chuông báo tử - cảm xúc,
vật chất, kinh tế và chính trị - của sự sụp đổ
của Liên Xô, một xứ sở đã có thời bao gồm
1/6 đất đai thế giới. Tác phẩm của bà, được bà
gọi là “Những tiếng/giọng nói của Không Tưởng”.
In announcing the award, the Swedish Academy
called Alexievich’s “polyphonic writings…a monument to suffering
and courage in our time.” “By means of her extraordinary method—a
carefully composed collage of human voices,” the Academy went on
to say, “Alexievich deepens our comprehension of an entire era.”
As she writes:
I don’t just record a dry history of events and
facts, I’m writing a history of human feelings. What people thought,
understood and remembered during the event. What they believed
in or mistrusted, what illusions, hopes and fears they experienced.
This is impossible to imagine or invent, at any rate in such multitude
of real details. We quickly forget what we were like ten or twenty
or fifty years ago….
I’m searching life for observations, nuances, details.
Because my interest in life is not the event as such, not war
as such, not Chernobyl as such, not suicide as such. What I am interested
in is what happens to the human being….
Svetlana Alexievich’s interest in what happens
to the human being is evident on every page of her writing. Among
other things, her work testifies to the immense power of compassion
to create understanding of our fellow human beings.
The text below is from a collection of more than
a dozen tales of suicide that Alexievich published in Russia
in 1994 under the title Zacharovannye smert’iu (Enchanted by
Death). In the introduction she wrote that she sought to “distinguish…the
lonely human voice. They all sound different. Each one has its own
secret.”
—Jamey Gambrell
30.4.2014
Let the Past Collapse on Time!
“Dzhugashvili [Stalin] is there,
preserved in a jar,” as the poet Joseph Brodsky wrote in 1968. This
jar is the people’s memory, its collective unconscious.
“Stalin ở trong đó, được gìn giữ ở trong 1 lọ sành”,
như Brodsky viết, vào năm 1968. Cái lọ sành là
hồi ức của dân tộc, cái vô thức tập thể của nó.
“Tẫu Cút Đi”: Trong cái
lọ sành đựng hồi ức của Bắc Kít, hình như đếch
có chỗ dành cho Tẫu, trong cả hai cuộc chiến thần kỳ,
chống thực dân cũ, Pháp, và mới, Mẽo.
“You were not who you were, but what you were rationed
to be”:
Mi không phải là mi, mà là kẻ được cái
chế độ tem phiếu đó nắn khuôn.
Yiyun Li
Cái chuyện Miền Nam, tức Ngụy, chống Tẫu, thì rõ
như ban ngày.
Còn cái chuyện Bắc Kít chống Tẫu, thì
có cái gì đó cực kỳ vô ơn ở trong đó
Không có Tẫu, là cả hai cuộc chiến không
có.
Nhìn rộng ra, nhìn suốt 1 cõi 4 ngàn
năm văn hiến của.. Bắc Kít, có hai yếu tố không có,
lòng nhân từ và lòng biết ơn.
Hai yếu tố làm nên con người "hoàn toàn"
[từ này của Mạc Xịt, l'homme total]
Vương Đại Gia, đại phê bình gia Bắc Kít phán,
may mà có [văn học] Ngụy, sau khi... phần thư nó.
Trên tờ Guardian số cuối tuần, có 1 bài viết
về lòng biết ơn, khi nó xẩy ra đúng vào thời
kỳ Lò Thiêu, thật tuyệt. TV post ở đây, và chuyển
ngữ sau.
Di chúc Bác Hồ có
câu, ta thà ngửi cứt Tây 5 năm, còn hơn là
ngửi cứt Tầu cả đời. Cái tay viết tiểu sử Graham Greene trích
dẫn, nhưng anh ta thòng thêm 1 câu, Bác nói
thì Bác nói, gái Tẫu, Tẫu dâng, Bác
không tha, khí giới Tẫu cung cấp để giết Ngụy, Bác
cũng nhận, gạo Tẫu viện trợ cho Bắc Kít khỏi chết đói, OK
hết.
Don't
you realize what it means if the Chinese stay? ... The last time the Chinese
came, they stayed one thousand years!
The French are foreigners . . . Colonialism is dying out. Nothing
will be able to withstand world pressure for independence. They may stay
for a while, but they will have to go because the white man is finished
in Asia. But if the Chinese
stay now, they will never leave.
As for me, I prefer to smell French shit for five years, rather
than Chinese shit for the rest of my life.
Tháng
Ba, 1946, năm năm trước khi Greene tới Việt Nam, Ho
[HCM] ký hòa ước với Tây, thừa nhận, sự ra đi của họ
để lại một khoảng trống. Viễn ảnh một Việt Nam độc lập trong khối Liên
Hiệp Pháp, do Tây nhử, làm Ho khoái.
Ông chửi đám bộ hạ phò Tầu:
Mấy
bồ có hiểu nghĩa là gì, chuyện đám Tầu ở lại?
Lần chót tụi nó ở một ngàn năm! Tây dù
sao cũng mũi lõ, họ có thể ở một thời gian, và rồi sẽ
cút, vì tụi da trắng hết thời ở Á Châu rồi. Ta
thà ngửi cứt Tây năm năm còn hơn ngửi cứt Tầu cả đời!
Norman Sherry: Tiểu sử Greene, chương 24: Bonjour Vietnam [Sherry
trích câu này từ Hồ Sơ Ngũ Giác Đài,
The Pentagon Papers, Senator Gravel Edition, vol 1, Beacon Press, 1979,
trang 49-50]
Tẫu tiến vô Cao Bằng
Cái
cú đưa sĩ quan Ngụy đi cải tạo tại vùng Cực Bắc Bắc Việt
không giống giải pháp chót [final solution] của Nazi,
mà mô phỏng Gulag của Xì.
Cuối cùng, lũ Ngụy chỉ còn 1 quê hương là
Trại Tù, Lò Cải Tạo. Dù có thả chúng
ra, thì chúng cũng không có nơi nào để
mà trở về.
Trên TV có dành 1 trang để viết về cú
độc này, tất nhiên của Thầy của VC, là Xì.
Cuộc chiến VC Bắc Kít vs Tẫu làm hỏng chương trình
tàn độc này.
Lạ,
là không chỉ não bị sứt một mẩu, mà hồi ức
VC cũng thủng 1 hố to tổ bố. Chúng chửi Tẫu ra rả, mà không
hề nhớ, cái lông chim ngày nào của chúng,
cũng “made in China”!
Ui chao, đọc chỉ cái tít, là
bèn nhớ ra liền cái cảm giác lần đầu tiên được
ăn cái món thịt hun khói, jambon parfumé, khi
được bà cô, Cô Dung đem về nuôi, cho ăn học, những
ngày ở Hà Nội.
Nó ngon khủng khiếp đến nỗi Gấu quên con ốc nhồi ở ao làng
Thanh Trì, Quốc Oai Sơn Tây.
Chỉ đến khi đi làm Bưu Điện, có tí tiền còm
rồi, thì con ốc nhồi mới thức giấc, phán, đi chứ.
Ghi chú trong ngày
Đọc bài viết của NL,
thì GCC lại nghĩ đến 1 trong những ẩn dụ, ở đầu cuốn dạy tiếng Anh,
mà cái tít của nó, là từ bài thơ
của Frost, "Dừng ngựa bên rừng chiều tuyết phủ",
trong có câu, tôi còn những lời hứa, trước khi
lăn ra ngủ, Promises To Keep.
Một trong những lời hứa phải
giữ, là 1 ẩn dụ, mà GCC tóm tắt sau đây.
Ẩn dụ này khiến GCC tự hỏi, nếu Cái Ác Bắc Kít
gây họa, thì liệu, Cái Đói Bắc Kít, thay
vì Cái Đẹp của Dos, sẽ cứu chuộc… thế giới?
Có 1 anh chàng
khi còn nghèo khổ, được ăn 1 trái chuối, nhớ hoài,
đến khi giầu có, tha hồ ăn chuối, thì không làm
sao thấy ngon như lần đầu.
Cái trái chuối
đó, với GCC là con ốc nhồi, vớt được ở cái ao, ở bên
ngoài cổng nhà cô Hồng Con, cô con gái
địa chủ, sau này bị cả làng của GCC bỏ cho chết đói,
và trong đêm, đói, bịnh, khát nước [do sốt thương hàn], bò ra khỏi nhà,
tới ao, bò lết xuống, chết ngay ở bờ ao.
GGC nhớ hoài, con ốc
nhồi nằm dưới 1 đám bèo. Gấu gạt đám bèo, con
ốc lộ ra, chưa kịp lặn, là thằng cu Gấu hớt liền.
Bèn nổi lửa ngay bên bờ ao, chơi liền.
Sau này, vào Nam,
Gấu quá mê món bún ốc, nhất là của cái
bà có cái sạp ở Passage Eden, 1 phần là vậy.
Cũng là cái trái chuối trong ẩn dụ kể trên.
Và từ đó, là vấn nạn, cái đói BK cứu chuộc
thế giới.
Còn 1 quán bún ốc, ở trong 1 cái hẻm, kế
bên rạp chiếu bóng ngay đường Lê Lợi, quán Ba Ba
Bủng, hình như vậy, cũng ngon, nhưng không bằng.
SAIGON 1967 - Đường Thủ Khoa Huân
Bên trái hình có quán bún chả
và bún riêu của bà Ba Bủng rất nổi tiếng thời
xưa của giới Bắc Kỳ 54 ngày xưa trước 1975...!!!
manhhai
Pico Iyer
Theo GCC, cuốn Người
Mỹ Trầm Lặng được phát
sinh, là từ cái tên Phượng, đúng như trong tiềm
thức của Greene mách bảo ông.
Cả cuốn truyện là từ đó mà ra. Và nó
còn tiên tri ra được cuộc xuất cảng người phụ nữ Mít
cả trước và sau cuộc chiến, đúng như lời anh ký giả
Hồng Mao ghiền khuyên Pyle, mi hãy quên “lực lượng thứ
ba” và đem Phượng về Mẽo, quên cha luôn cái xứ
sở khốn kiếp Mít này đi!
Cuốn sách
những sinh vật tưởng tượng
Pamuk: Under the Spell of Istanbul
http://www.nybooks.com/articles/archives/2015/nov/05/pamuk-under-spell-istanbul/
Dưới bùa chú của.... Xề Gòn!
Tớ
cần nỗi đau cô đơn, the pain of loneliness, để làm cho trí
tưởng tượng làm việc, GCC - Pamuk phán.
Và rồi thì là, tớ hạnh phúc
And then I’m happy.
Tin Văn sẽ đi bài này!
|
Mr Tin Văn: mỗi thời một "mùi" :p Bác từng ngửi ra mùi Malaparte (la part du mal, ngược chiều Bonaparte) thì tôi ngửi ra mùi Houellebecq (le bec du trou :p) cái tôi thấy dở lại là bài "Off the map" của James Wood.
*
Chắc là già rồi, không chịu nổi.
Chúc mừng năm mới
NQT
*
Ngửi ra mùi “la part du Mal”.
Tks.
Many Tks.
NQT
Tết này, đúng Giao Thừa, GCC ngộ ra 1 điều, trang TV chính là hai giấc đại mộng của Walter Benjamin cùng được thực hiện [Viết lịch sử từ đáy, viết 1 đại tác phẩm chỉ gồm toàn trích dẫn].
Bây giờ được bạn NL ban cho câu trên.
“Thế lày” thì đi xa được rồi!
NQT
Our Far-Flung Correspondents August 31, 2015 Issue
The Other France
Are the suburbs of Paris incubators of terrorism?
By George Packer
http://www.newyorker.com/magazine/2015/08/31/the-other-france
A Very Different Paris
http://www.nybooks.com/articles/archives/2015/nov/19/very-different-paris/