Album | Thơ | Tưởng Niệm | Nội cỏ của thiên đường | Passage Eden | Sáng tác | Sách mới xuất bản | Chuyện văn
Dịch thuật | Dịch ngắn | Đọc sách | Độc giả sáng tác | Giới thiệu | Góc Sài gòn | Góc Hà nội | Góc Thảo Trường
 Lý thuyết phê bình | Tác giả Việt | Tác giả ngoại | Tác giả & Tác phẩm | Text  Scan | Tin văn vắn | Thời sự | Thư tín | Phỏng vấn | Phỏng vấn dởm | Phỏng vấn ngắn
Giai thoại | Potin | Linh tinh | Thống kê | Viết ngắn | Tiểu thuyết | Lướt Tin Văn Cũ |  Kỷ niệm | Thời Sự Hình | Gọi Người Đã Chết
  Ghi chú trong ngày | Thơ Mỗi Ngày | Chân Dung | Jennifer Video
Nhật Ký Tin Văn / Viết
Nhật Ký Tin Văn [TV last page] 

Sách Báo

    Review

*

BIOGRAPHY
A most elusive man

IN 2003, I TOOK THE SLEEPER TRAIN FROM LONDON DOWN to Cornwall to interview David Cornwell, better known as the novelist John le Carré, for this magazine. Having never taken a sleeper train before, I mistakenly thought it was possible to sleep on one. I showed up at his magnificent cliff-top home exhausted and very much the worse for wear. But I realize now that I would have been no match for him even on the best day of my life.
    Le Carré-as we'll call him-is the most demonically charming and articulate writer I've ever met. It's ironic that the man who de mystified James Bond, substituting in his place the sweating, gray-faced, raincoated spy- masters of the Smiley novels, is himself as smooth and charismatic as a real-life 007 and twice as inscrutable. As such he makes elusive quarry for Adam Sisman In John le Carré: The Biography-but Sisman is an implacable hunter, and the pursuit is well worth following.
    Le Carré was educated at Eton and Oxford, but his childhood was no patrician idyll. His father Ronnie was an irredeemable con man who did time for fraud. "He could put a hand on your shoulder and the other in your pocket," le Carre's brother Tony says, "and both gestures would be equally sincere." Le Carré inherited from him good looks, great verbal and social facility and a powerful gift for invention. For a boy raised on deception, the professions of spy and novelist seem over- determined: MI5 recruited him as an undergraduate, and he spent six years there and at MI6. His disillusionment-with espionage, war, politics, humankind-ultimately boiled over into The Spy Who Came In From the Cold, the book that made his name, a magnificent thriller and a devastating account of the appalling compromises and human consequences of the shadow war.
    This much is clear. Other facts are harder to pin down-we all confabulate our identities, but in le Carre's case it can seem like a compulsion, and he has his father's gift for making it all utterly plausible. "Everything he says;' Sisman writes, "needs to be examined skeptically." Even his oddly francophone pseudonym has multiple origin stories. For le Carré, his gift for fiction seems to have been both a blessing and a curse, a means of expressing deep, urgent truths about the world around him but also of glossing over difficult truths about his own life. It makes him a maddening biographical subject but also an endlessly intriguing one. The truth behind the fictions may be that if you were born out in the cold, as le Carré was, you can never quite come all the way back in. - LEV GROSSMAN

Sách Báo 

China: Novelists Against the State

Perry Link

Death Fugue

by Sheng Keyi, translated from the Chinese by Shelly Bryant
Artarmon, Australia: Giramondo, 375 pp., AU$29.95 (paper)

A Map of Betrayal

by Ha Jin
Pantheon, 280 pp., $26.95

Kinder Than Solitude

by Yiyun Li
Random House, 327 pp., $26.00; $16.00 (paper)

The Dog: Stories

by Jack Livings
Farrar, Straus and Giroux, 226 pp., $25.00


* *

SUBMISSION, A NOVEL BY FRENCH  author Michel Houellebecq that is newly available in English, tells the story of an Islamic political party overtaking France's government at the ballot box and fundamentally changing society. It became an instant best seller in Europe when it was released on Jan. 7, the same day Muslim extremists murdered 12 people at the Paris offices of Charlie Hebdo. In the months since, an already tense Europe has dealt with a wave of migrants and refugees from Syria against a backdrop of fear of historic transformation. In the U.S., presidential candidate Ben Carson stated that no Muslim should be elected to the White House. Houellebecq is never easy reading, but on those grounds alone, Submission may be the most relevant book of the year.
    Over the course of the novel, a fictional Muslim Brotherhood consolidates power in France by joining with the neutered Socialists in the 2022 elections, narrowly wresting control from Marine Le Pen (the right-wing politician, here rendered by Houellebecq as impassioned but ineffectual). The changes the new political party enacts seem to make life only more difficult in a nation that, in Houellebecq's imagining, had already been teetering on the verge of collapse. Change occurs at a bizarre remove: from the forced veiling of women to the defunding of education to the encouragement of Jewish immigration to Israel, everyone more or less goes along.
Before the election, the book's central character, a literature professor, reflects that his long-held hope of a calm life is now impossible, no matter which side wins: "There was no reason that I should be spared from grief, illness, or suffering. But until now I had always hoped to leave this world without undue violence:' It's the sort of dream only someone raised in an industrialized nation in the latter half of the zoth century might have had. So much for that.
    But Houellebecq stops short of portraying violence or even resistance; the book ends with the professor's conversion to Islam, about which he feels little but a nihilistic comfort at having behaved in the socially correct manner. The lack of narrative fireworks is particularly jarring given Houellebecq's resume, which contains more instances of provocation than it does fiction. He was acquitted in 2002 after being charged with inciting racial hatred for calling Islam "the stupidest religion" and has referred to himself as "probably" Islamophobic.
    Houellebecq's restraint on the page, though, his schematic logic and bland refusal to indulge panic, seems somehow realer than real life. And Submission has less to do with religion than you might think. It examines rapid political change in general: How much of it are we meant to live through? And does it move inevitably toward extremes? If it weren't the Muslim Brotherhood ruling France, after all, it would be Le Pen. She too is animated by beliefs that, if given purchase, would change the face of Europe.
    Even those with concerns about Houellebecq's subject can acknowledge the present moment's potential for radical change, in one direction or another. At a moment in which American novelists seem wary of delving into politics, Houellebecq has clomped onto the world stage and delivered a book whose brash conceit is getting far more attention than its frightened heart. It's not Muslims whom Houellebecq is scared of. It's the future. -DANIEL D'ADDARIO

Note: Thời Báo điểm cuốn Thần Phục, Submission, của Houellebecq

Nhân cú Paris bị khủng bố, tưởng niệm nạn nhân, và, bèn đi 1 đường lèm bèm, về cuộc cách mạng Pháp thế kỷ 21, và cái câu kết, “không phải tác giả sợ Hồi Giáo, mà là tương lai”.

*

Houellebecq's misogyny is related to the cynical brutality and cheerless lucidity with which he writes about sex. His fiction seems motivated by a need to expose all that is mechanical, alienated, onanistic, and disembodied about male desire.

Trên tờ Người Nữu Ước, Jan 23, 2012, James Wood điểm cuốn mới nhất của Houellebecq, “Bản đồ và Vùng đất” [đã được dịch sang tiếng Việt]. Chê thấu trời. Chẳng có gì ngoài sex, thí dụ:
Tính ghét hôn nhân của H. mắc mớ tới sự tàn bạo đểu giả và sự sáng suốt ủ rũ, qua đó, ông ta viết về sex. Tiểu thuyết của ông như được thúc đẩy bởi sự cần thiết phải phơi bày cái ham muốn nhục dục của giống đực, qua các “trạng thái, đặc tính” của nó, như: máy móc, phóng thể, chỉ khoái may tay không thích may máy, và hồn lìa khỏi xác…
Ông H nổi tiếng về cả hai mặt, tính con heo nọc, (porno fervor: sôi nổi, nhiệt tình heo) của văn xuôi của ông, và cái thú lèm bèm trong những xen sex.
Thành thực mà nói, GCC không làm sao đọc nổi Houellebecq.

Không hiểu tại sao bạn NL lại ưa dịch tay này? (1)
Kundera, Màn, chắc là Le Rideau? Cuốn này, theo GGC cũng… dở.
Oách, là Gặp Gỡ, Encounter. Trên  TV có chôm & dịch vài đoạn.
Đã tính đi trọn cuốn!



Mr Tin Văn: mỗi thời một "mùi" :p Bác từng ngửi ra mùi Malaparte (la part du mal, ngược chiều Bonaparte) thì tôi ngửi ra mùi Houellebecq (le bec du trou :p) cái tôi thấy dở lại là bài "Off the map" của James Wood.
*

Chắc là già rồi, không chịu nổi.
Chúc mừng năm mới
NQT

*

Ngửi ra mùi “la part du Mal”.
Tks.
Many Tks.
NQT

Tết này, đúng Giao Thừa, GCC ngộ ra 1 điều, trang TV chính là hai giấc đại mộng của Walter Benjamin cùng được thực hiện [Viết lịch sử từ đáy, viết 1 đại tác phẩm chỉ gồm toàn trích dẫn].
Bây giờ được bạn NL ban cho câu trên.
“Thế lày” thì đi xa được rồi!
NQT


Our Far-Flung Correspondents August 31, 2015 Issue

The Other France
Are the suburbs of Paris incubators of terrorism?

By George Packer
http://www.newyorker.com/magazine/2015/08/31/the-other-france


A Very Different Paris
http://www.nybooks.com/articles/archives/2015/nov/19/very-different-paris/

*

*

Quà Noel. Tính đi Mẽo chơi, thăm bạn, vé mắc quá, Noel mà, Gấu Cái lắc đầu, no money. Đành cầm tí tiền còm đi "sáchping".
Cuốn “microscripts” khủng lắm. Đây là 1 cách viết do Walser phịa ra. Phương pháp “vi-viết”, micro-script method
Walter Benjamin không biết tới cách viết này, khi viết về Walser.
Mới ra lò, 2012.
Từ từ, TV khoe hàng tiếp!

*


*
Note: “Ba tì”, sách cũ.
Cuốn này, chắc là trong nước chưa được đọc.
"Bóng Đêm giữa ban ngày", được, cả bản dởm, lẫn bản thực.
Tin Văn post bài viết của… Nguyên Ngọc Niên Xô, người khám phá ra Solz, mà như ông kể, đang nằm, đọc vài dòng “Một Ngày”, bèn nhỏm dậy, tắm rửa 1 phát, đi 1 bộ đồ lớn, rồi ngồi vô bàn...
Gấu đoán, NN chắc cũng làm như thế, khi phát giác Tướng Về Hưu?
Thì NN cũng là 1…  Tướng Về Hưu, suốt đời sống bằng máu của kẻ khác, và bằng thịt lợn vỗ béo bằng thai nhi!

*

Alexander Tvardovsky, chủ biên tờ Novy Mir, vào năm 1961,
chỉ ít lâu trước khi trải qua trọn một đêm không ngủ, đọc bản thảo của một tác giả vô danh
[Hình từ D.M Thomas: Solz. thế kỷ ở trong ta]

Nhưng câu chuyện của ông không phải của chỉ đơn độc một thế kỷ. Khi Alexander Tvardovsky, chủ biên tờ Novy Mir cho người vời nhà văn vô danh tới, để thảo luận về bản thảo "Một ngày trong đời Ivan Denisovich", trên đường tới gặp, Solz bèn ghé Quảng trường Strastnaya, đứng bên dưới tượng Pushkin, chơi một pô hình, một phần, mong thi sĩ phù hộ [support: hỗ trợ], một phần, hứa hẹn: Đàn em biết con đường phải đi theo. Và sẽ đếch thèm xin thuận buồm xuôi gió! [I knew the path I must follow and would not stray from it].
Một thứ cầu nguyện, theo Thomas.
Không phải theo kiểu thường nhân ghé đứng chụp hình kế bên Shakespeare, vừa tưởng niệm vừa hưởng tí vinh dự: Solz nhìn ở Pushkin như người đồng thời của mình.
Nhưng cái cử chỉ, hành động ghé tượng Pushkin đã khiến Thomas có một vision về cuốn sách mình sẽ viết. Nó làm ông nhớ đến bài thơ hách xì xằng của Pushkin, Kỵ Sĩ Đồng, 1833.
Ui chao, lạ làm sao, nó làm Gấu nhớ tượng Đức Thánh Trần và ngón tay của Người chỉ ra cửa biển Vũng Tầu!

NB. Dân trong nước đọc Một ngày trong đời Ivan Denisovitch rất nhiều là khác, hoặc bản dịch trước 1975 của Sài Gòn, hoặc bản dịch gần đây của Đào Tuấn Ảnh.
Blog NL


*

Số Mùa Thu, năm ngoái. Fate. Số mệnh. Cầm lên, đọc loáng thoáng, vớ đúng bài Joseph Roth viết về “nơi cuộc chiến bắt đầu”, Sarajevo, 1923.
Bài intro cũng tuyệt. Cả 1 thế kỷ đã qua, Roth thì cũng chết từ đời tám hoánh. Ông chết, và bài essay thuộc thứ, nhìn lại. Chúng ta nhìn tới, cuộc chiến thứ nhì, cuộc chiến Bosnia, cuộc chiến chấm dứt mọi cuộc chiến…

I wanted from Chicago what I had got from Sarajevo: a geography of the soul


“Vẫn là nó. Nhưng không phải là nó!”

Câu trên là của ông Tổng Giám Đốc Bưu Điện - và còn là một trong những ông Thầy dạy Gấu, khi học trường Quốc Gia Bưu Điện - phán về sếp trực tiếp của GCC, sau khi ông ra khỏi bịnh viện và trở về Bưu Điện làm việc lại.
Ông bị mất khẩu súng, trong vụ mìn Mỹ Cảnh, GCC đã lèm bèm nhiều lần rồi.

Sở dĩ nhắc lại, là vì trong cái “memoir” viết về cuộc vây hãm Sarajevo, có 1 anh chàng phóng viên, trở về lại Berlin, trở về lại căn phòng của mình, và, xỏ vô quần, và, cái quần tuột ra khỏi anh ta.

Thoạt đầu, anh ta nghĩ, đếch phải quần của mình, nhưng nhìn lại thì đúng là quần của mình. Và anh ngộ ra, mình thì vẫn là mình, đếch mất cái chó gì cả - tất nhiên, súng vưỡn còn – nhưng, một cách nào đó, về thể chất lẫn tinh thần, anh ta đếch còn như xưa!

Đúng là tình cảnh của Gấu. Sau cú Mỹ Cảnh, tuy súng ống còn nguyên, nhưng có 1 cái gì đã mất đi, theo nó.

*

Chôn thường dân chết trong trận vây hãm, Jan 1993

MEMOIR

LIFE DURING WARTIME

Remembering the siege of Sarajevo

By Janine di Giovanni

There was spring rain and pale fog in Sarajevo as my plane approached the city last April, veering over the green foothills of Mount Igman. Through the frosted window I could see the outline of the road we used to call Snipers' Alley, above which Serbian sharpshooters would perch and fire at anyone below. Twenty years had passed since I'd arrived in Sarajevo as a war reporter. During the siege of the city, most foreign journalists had lived in the Holiday Inn, and it was in that grotty hotel that the man who was to become my husband and the father of my child professed undying love. I met some of my best friends in Sarajevo and lost several others-to alcoholism, drugs, insanity, and suicide. My own sense of compassion and integrity, I think, was shaped during those years. 

Janine di Giovanni has won four major awards for her war reporting and is a member of the Council on Foreign Relations. She is currently writing a book about Syria, to be published by Norton. She lives in Paris.

Janine di Giovanni đợp bốn giải thưởng bự nhờ phóng sự chiến trường và là thành viên của "Council on Foreign Relations" [Hội Đồng Những Liên Hệ Ngoại]. Hiện đang viết 1 cuốn sách, sẽ do Norton xb. Sống ở Paris.

HARPER'S MAGAZINE / APRIL 2013

Tin Văn sẽ post bài này, và dịch lai rai, song song với bài Novel, của Fuentes

Why was it that Sarajevo, and not Rwanda or Congo or Sierra Leone or Chechnya-wars that all of us went on to report-captured us the way this war did? One of us, I think it was Christiane Amanpour, called it "our generation's Vietnam." We were often accused of falling in love with Sarajevo because it was a European conflict-a war whose victims looked like us, who sat in cafes and loved Philip Roth and Susan Sontag. As reporters, we lived among the people of Sarajevo. We saw the West turn its back and felt helpless.

Đây là "Việt Nam của thế hệ chúng tôi". Chúng tôi thường bị buộc tội tương tư Sarajevo, bởi vì đây là cuộc xung đột Âu Châu - một cuộc chiến mà nạn nhân trông giống chúng tôi, những kẻ ngồi trong những tiệm cà phê, mê Philip Roth và Susan Sontag

Khe Sanh,1968

MICHAEL HERR IN A BLOODSWARM

I looked and there was a pale green horse! Its rider's name was Death, and Hades followed with him.   
 
-Book of Revelations, c. 90

Tôi nhìn và thấy 1 con ngựa xanh nhợt nhạt! Tên kỵ sĩ là Thần Chết, và Diêm Vương, đằng sau anh ta.

Khe Sanh 1968, Sarajevo 1992, Cõi Khác 1969... là cùng dạng “memoir”, kể cả "Nỗi Buồn Chiến Tranh" của Bảo Ninh. Chúng có chung cái air "độc thoại". Đoạn mở ra Sarajevo, đọc 1 phát là nhập vô liền:

There was spring rain and pale fog in Sarajevo as my plane approached the city last April, veering over the green foothills of Mount Igman.

Có mưa Xuân và sương mù lợt tạt ở Sarajevo, Tháng Tư vừa rồi, khi chiếc phi cơ của tôi loay hoay chọn hướng đáp xuống thành phố, bên trên những ngọn đồi thấp, màu xanh, của núi Mount Igman.

Câu văn còn làm nhớ câu thơ phổ nhạc của Phạm Duy, “Ngày mai đi nhận xác chồng”, cái gì gì, “phi cơ đáp xuống một chiều...” (1)
Thê lương thật. Sống thêm vài kiếp nữa, chắc vẫn chưa quên nổi cuộc chiến.
Mà quên làm khỉ gì không biết!

(1)

Tưởng như còn người yêu

Ngày mai đi nhận xác chồng
Say đi để thấy mình không là mình
Ngày mai đi nhận xác anh
Cuồng si thuở ấy, hiển linh bây giờ
Cao nguyên hoang lạnh ơ hờ
Như môi góa phụ nhạt mờ vết son
Tình ta không thể vuông tròn
Say đi mà tưởng như còn người yêu

Phi cơ đáp xuống một chiều
Khung mây bàng bạc mang nhiều xót xa
Dài hơi hát khúc thương ca
Thân côi khép kín trong tà áo đen
Chao ôi ! Thèm nụ hôn quen
Chong đèn, hẹn sẽ đêm đêm đợi chờ

Bây giờ anh phủ mầu cờ
Bây giờ anh phủ mầu cờ 

Em không nhìn được xác chàng
Anh lên lon giữa hai hàng nến trong
Mùi hương cứ tưởng hơi chàng
Ôm mồ cứ tưởng ôm vòng người yêu !

Lê Thị Ý
[net]

Lần đầu tiên Gấu nghe, 1 buổi sáng Chủ Nhật không phải đi lao động, tại nông trường cải tạo Đỗ Hòa, Nhà Bè, đặc khu Rừng Sát cũ. Nghe 1 phát là rùng hết cả mình, nhớ lần đi lấy xác đứa em trai tử trận tại Sóc Trăng.
Đó cũng là lần đầu Gấu biết được mùi thịt chuột, và nó ngon đến cỡ nào, và phải cơ may [“máy trời” xoay chuyển] như thế nào mới được thưởng thức!

Germany and Europe
The indispensable European
http://www.economist.com/news/leaders/21677643-angela-merkel-faces-her-most-serious-political-challenge-yet-europe-needs-her-more?spc=scode&spv=xm&ah=9d7f7ab945510a56fa6d37c30b6f1709
Angela Merkel faces her most serious political challenge yet. But Europe needs her more than ever

*

Do you really think that hundreds of thousands leave their home and embark on this difficult journey only because of a selfie with the chancellor?" she asked Anne Will, a television talk-show host, on October 7th. Since then, however, Mrs Merkel has turned defiant and bold, as though inspired by a clear moral purpose.
Không lẽ hàng trăm ngàn người bỏ nhà bỏ cửa lao vào cuộc hành trình đầy gian nan, để chơi 1 cú "xeo phi" với... tui?

... on the writer as a witness?

Where are we going in the twenty-first century? We should be going to a place where we can observe reality with clarity. We need to see the problems of people's lives, and the complicatedness of people and their weakness. We are all mere witnesses, and the best thing we can do is see things as they are.
You are not the creator, you can't overcome the world, but you can bear witness. And when it comes to art, to talk about a country is meaningless. A writer is a witness to humankind, a witness to humanity.

ASIA LITERARY REVIEW

 Về nhà văn như 1 chứng nhân

Thế kỷ 21 chúng ta đi đâu? Chúng ta đi tới một nơi chốn mà chúng ta có thể quan sát thực tại với sự rõ ràng. Chúng ta cần nhìn những vấn đề của những cuộc sống của dân chúng, và sự rắc rối nhiêu khê của họ, sự yếu đuối của họ. Tất cả chúng ta chỉ là những người chứng, và điều tốt nhất chúng ta có thể làm là nhìn những sự vật như chúng là. Bạn đây phải ông trời, đấng sáng tạo, bạn không thể vượt thế giới, nhưng bạn có thể vô vai người chứng. Và khi nói đến nghệ thuật, lèm bèm về 1 xứ sở là vô nghĩa. Nhà văn là chứng nhân của nhân loại.

The Man Who Flew

Svetlana Alexievich, translated by Jamey Gambrell
http://www.nybooks.com/articles/archives/2015/nov/19/man-who-flew/

Over the course of several decades and numerous books, Alexievich has pursued a distinctive kind of narrative based on journalistic research and the distillation of thousands of firsthand interviews with people directly affected by all the major events of the Soviet and post-Soviet period. She has uncovered the unknown but crucial work that Soviet women did in World War II, recounted the memories of children caught up in the “Great Patriotic War,” documented the realities facing soldiers in the Soviet-Afghan war, which were kept from the Soviet public, and recorded the experiences of those who lived through the Chernobyl nuclear disaster.

In her most recent book, she deftly orchestrates a great chorus of diverse voices to chronicle the human toll—emotional, physical, economic, and political—of the collapse of the USSR, a country that once made up a sixth of the world’s land mass.1 Alexievich’s oeuvre comprises nothing less than a history of epic proportions, which she has called “Voices of Utopia.” This undertaking has brought the writer many awards and accolades from Western European countries in particular, and from Russia, where her books have been printed and reprinted many times; she is a well-known critic of the Putin regime. In her home, Belarus, however, under the dictatorship of Aleksandr Lukashenko, she has been subject to the same political censorship and pressure as many of her colleagues (as Timothy Snyder pointed out in the NYR Daily 2). For over a decade she lived in various European cities, because it was not safe to return to Minsk (though she did in 2011), and her books have not been published in Belarus since 1994.

Trong vài thập niên, với vài cuốn sách, Alexievich theo đuổi một loại tự sự riêng biệt, đặc biệt, dựa vào nghiên cứu mang tính ký giả, và sự chắt lọc, từ hàng ngàn những cuộc phỏng vấn đầu tiên, mới tinh, nóng hổi, thứ nhất, firsthand, với những người trực tiếp trúng đạn, trúng miểng, do tham dự vào những biến động lớn, thời kỳ Xô Viết và Hậu Xô Viết. Bà đã vén lộ, trình ra, những gì mà người phụ nữ Xô đã thực hiện, từ trước đến giờ kể như chưa được biết, nhưng thật chủ yếu, trong Đệ Nhị Chiến; thu gom, nhặt nhạnh hồi ức của những đứa trẻ bị mắc nạn, dính trấu, của cái gọi là Cuộc Chiến Vệ Quốc Lớn; thu thập tài liệu Hồng Quân xâm lăng A Phú Hãn, những sự thực được giấu nhẹm không cho dân chúng biết tới, và ghi nhận, ghi âm những kinh nghiệm của những con người trải qua tai ương lò hạt nhân ở Chernobyl
Trong cuốn sách mới nhất, bà đi 1 đường đồng ca lớn, gồm nhiều giọng khác nhau, nhằm ký sự, biên niên hồi chuông báo tử - cảm xúc, vật chất, kinh tế  và chính trị - của sự sụp đổ của Liên Xô, một xứ sở đã có thời bao gồm 1/6 đất đai thế giới. Tác phẩm của bà, được bà gọi là “Những tiếng/giọng nói của Không Tưởng”.

In announcing the award, the Swedish Academy called Alexievich’s “polyphonic writings…a monument to suffering and courage in our time.” “By means of her extraordinary method—a carefully composed collage of human voices,” the Academy went on to say, “Alexievich deepens our comprehension of an entire era.” As she writes:
I don’t just record a dry history of events and facts, I’m writing a history of human feelings. What people thought, understood and remembered during the event. What they believed in or mistrusted, what illusions, hopes and fears they experienced. This is impossible to imagine or invent, at any rate in such multitude of real details. We quickly forget what we were like ten or twenty or fifty years ago….
I’m searching life for observations, nuances, details. Because my interest in life is not the event as such, not war as such, not Chernobyl as such, not suicide as such. What I am interested in is what happens to the human being….
Svetlana Alexievich’s interest in what happens to the human being is evident on every page of her writing. Among other things, her work testifies to the immense power of compassion to create understanding of our fellow human beings.
The text below is from a collection of more than a dozen tales of suicide that Alexievich published in Russia in 1994 under the title Zacharovannye smert’iu (Enchanted by Death). In the introduction she wrote that she sought to “distinguish…the lonely human voice. They all sound different. Each one has its own secret.”
—Jamey Gambrell

30.4.2014


Let the Past Collapse on Time!

“Dzhugashvili [Stalin] is there, preserved in a jar,” as the poet Joseph Brodsky wrote in 1968. This jar is the people’s memory, its collective unconscious.
“Stalin ở trong đó, được gìn giữ ở trong 1 lọ sành”, như Brodsky viết, vào năm 1968. Cái lọ sành là hồi ức của dân tộc, cái vô thức tập thể của nó.

“Tẫu Cút Đi”: Trong cái lọ sành đựng hồi ức của Bắc Kít, hình như đếch có chỗ dành cho Tẫu, trong cả hai cuộc chiến thần kỳ, chống thực dân cũ, Pháp, và mới, Mẽo.

“You were not who you were, but what you were rationed to be”:
Mi không phải là mi, mà là kẻ được cái chế độ tem phiếu đó nắn khuôn.


Yiyun Li


Cái chuyện Miền Nam, tức Ngụy, chống Tẫu, thì rõ như ban ngày.
Còn cái chuyện Bắc Kít chống Tẫu, thì có cái gì đó cực kỳ vô ơn ở trong đó
Không có Tẫu, là cả hai cuộc chiến không có.
Nhìn rộng ra, nhìn suốt 1 cõi 4 ngàn năm văn hiến của.. Bắc Kít, có hai yếu tố không có, lòng nhân từ và lòng biết ơn.
Hai yếu tố làm nên con người "hoàn toàn" [từ này của Mạc Xịt, l'homme total]
Vương Đại Gia, đại phê bình gia Bắc Kít phán, may mà có [văn học] Ngụy, sau khi...  phần thư nó.

Trên tờ Guardian số cuối tuần, có 1 bài viết về lòng biết ơn, khi nó xẩy ra đúng vào thời kỳ Lò Thiêu, thật tuyệt. TV post ở đây, và chuyển ngữ sau.

*

Di chúc Bác Hồ có câu, ta thà ngửi cứt Tây 5 năm, còn hơn là ngửi cứt Tầu cả đời. Cái tay viết tiểu sử Graham Greene trích dẫn, nhưng anh ta thòng thêm 1 câu, Bác nói thì Bác nói, gái Tẫu, Tẫu dâng, Bác không tha, khí giới Tẫu cung cấp để giết Ngụy, Bác cũng nhận, gạo Tẫu viện trợ cho Bắc Kít khỏi chết đói, OK hết.

Don't you realize what it means if the Chinese stay? ... The last time the Chinese came, they stayed one thousand years!
The French are foreigners . . . Colonialism is dying out. Nothing will be able to withstand world pressure for independence. They may stay for a while, but they will have to go because the white man is finished in Asia. But if the Chinese stay now, they will never leave.
As for me, I prefer to smell French shit for five years, rather than Chinese shit for the rest of my life.

Tháng Ba, 1946, năm năm trước khi Greene tới Việt Nam, Ho [HCM] ký hòa ước với Tây, thừa nhận, sự ra đi của họ để lại một khoảng trống. Viễn ảnh một Việt Nam độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp, do Tây nhử, làm Ho khoái.
Ông chửi đám bộ hạ phò Tầu:

Mấy bồ có hiểu nghĩa là gì, chuyện đám Tầu ở lại? Lần chót tụi nó ở một ngàn năm! Tây dù sao cũng mũi lõ, họ có thể ở một thời gian, và rồi sẽ cút, vì tụi da trắng hết thời ở Á Châu rồi. Ta thà ngửi cứt Tây năm năm còn hơn ngửi cứt Tầu cả đời!
Norman Sherry: Tiểu sử Greene, chương 24: Bonjour Vietnam [Sherry trích câu này từ Hồ Sơ Ngũ Giác Đài, The Pentagon Papers, Senator Gravel Edition, vol 1, Beacon Press, 1979, trang 49-50]

*

Tẫu tiến vô Cao Bằng

(

Cái cú đưa sĩ quan Ngụy đi cải tạo tại vùng Cực Bắc Bắc Việt không giống giải pháp chót [final solution] của Nazi, mà mô phỏng Gulag của Xì.
Cuối cùng, lũ Ngụy chỉ còn 1 quê hương là Trại Tù, Lò Cải Tạo. Dù có thả chúng ra, thì chúng cũng không có nơi nào để mà trở về.
Trên TV có dành 1 trang để viết về cú độc này, tất nhiên của Thầy của VC, là Xì.
Cuộc chiến VC Bắc Kít vs Tẫu làm hỏng chương trình tàn độc này.

Lạ, là không chỉ não bị sứt một mẩu, mà hồi ức VC cũng thủng 1 hố to tổ bố. Chúng chửi Tẫu ra rả, mà không hề nhớ, cái lông chim ngày nào của chúng, cũng “made in China”!

* |*
 

Ui chao, đọc chỉ cái tít, là bèn nhớ ra liền cái cảm giác lần đầu tiên được ăn cái món thịt hun khói, jambon parfumé, khi được bà cô, Cô Dung đem về nuôi, cho ăn học, những ngày ở Hà Nội.
Nó ngon khủng khiếp đến nỗi Gấu quên con ốc nhồi ở ao làng Thanh Trì, Quốc Oai Sơn Tây.
Chỉ đến khi đi làm Bưu Điện, có tí tiền còm rồi, thì con ốc nhồi mới thức giấc, phán, đi chứ.

Ghi chú trong ngày

2/4/12

nghịch dại

Đọc bài viết của NL, thì GCC lại nghĩ đến 1 trong những ẩn dụ, ở đầu cuốn dạy tiếng Anh, mà cái tít của nó, là từ bài thơ của Frost, "Dừng ngựa bên rừng chiều tuyết phủ", trong có câu, tôi còn những lời hứa, trước khi lăn ra ngủ, Promises To Keep.

Một trong những lời hứa phải giữ, là 1 ẩn dụ, mà GCC tóm tắt sau đây.
Ẩn dụ này khiến GCC tự hỏi, nếu Cái Ác Bắc Kít gây họa, thì liệu, Cái Đói Bắc Kít, thay vì Cái Đẹp của Dos, sẽ cứu chuộc… thế giới?

Có 1 anh chàng khi còn nghèo khổ, được ăn 1 trái chuối, nhớ hoài, đến khi giầu có, tha hồ ăn chuối, thì không làm sao thấy ngon như lần đầu.

Cái trái chuối đó, với GCC là con ốc nhồi, vớt được ở cái ao, ở bên ngoài cổng nhà cô Hồng Con, cô con gái địa chủ, sau này bị cả làng của GCC bỏ cho chết đói, và trong đêm, đói, bịnh, khát nước [do sốt thương hàn], bò ra khỏi nhà, tới ao, bò lết xuống, chết ngay ở bờ ao.

GGC nhớ hoài, con ốc nhồi nằm dưới 1 đám bèo. Gấu gạt đám bèo, con ốc lộ ra, chưa kịp lặn, là thằng cu Gấu hớt  liền. Bèn nổi lửa ngay bên bờ ao, chơi liền.

Sau này, vào Nam, Gấu quá mê món bún ốc, nhất là của cái bà có cái sạp ở Passage Eden, 1 phần là vậy.
Cũng là cái trái chuối trong ẩn dụ kể trên. Và từ đó, là vấn nạn, cái đói BK cứu chuộc thế giới.
Còn 1 quán bún ốc, ở trong 1 cái hẻm, kế bên rạp chiếu bóng ngay đường Lê Lợi, quán Ba Ba Bủng, hình như vậy, cũng ngon, nhưng không bằng.

&
SAIGON 1967 - Đường Thủ Khoa Huân
Bên trái hình có quán bún chả và bún riêu của bà Ba Bủng rất nổi tiếng thời xưa của giới Bắc Kỳ 54 ngày xưa trước 1975...!!!

manhhai


Pico Iyer

Theo GCC, cuốn Người Mỹ Trầm Lặng được phát sinh, là từ cái tên Phượng, đúng như trong tiềm thức của Greene mách bảo ông.
Cả cuốn truyện là từ đó mà ra. Và nó còn tiên tri ra được cuộc xuất cảng người phụ nữ Mít cả trước và sau cuộc chiến, đúng như lời anh ký giả Hồng Mao ghiền khuyên Pyle, mi hãy quên “lực lượng thứ ba” và đem Phượng về Mẽo, quên cha luôn cái xứ sở khốn kiếp Mít này đi!



Mít vs Lò Thiêu Người

KIỀU

Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Thiên hạ ai người khóc Tố Như
Nguyễn Du

...Continue Reading

2015 Nobel prize in literature

Cuốn sách những sinh vật tưởng tượng




Orhan Pamuk


*

Pamuk: Under the Spell of Istanbul
http://www.nybooks.com/articles/archives/2015/nov/05/pamuk-under-spell-istanbul/
Dưới bùa chú của.... Xề Gòn!

Tớ cần nỗi đau cô đơn, the pain of loneliness, để làm cho trí tưởng tượng làm việc, GCC - Pamuk phán.
Và rồi thì là, tớ hạnh phúc
And then I’m happy.

Tin Văn sẽ đi bài này!