*

Diary
















Merry Christmas & Happy New Year 2009

*

Hồ & Sương mù & Tuyết và Gấu
&
*
Cu Sang, cháu nội, đứng phía sau, Cu Tia, cháu ngoại Gấu
Vientiane 22.12.08


Đêm Thánh Vô Cùng

Đêm Giáng Sinh, làm sao Chúa bỏ quên lũ chúng tôi! Người cũng không quên mấy đứa nhỏ: tụi nó đã sửa soạn lễ Giáng Sinh cùng với mẹ, ngay từ đầu tháng, bằng cách cặm cụi làm côngfetti, không phải để ném lên đầu nhau, mà là để bán cho người dân Sài Gòn, đông nghẹt quảng trường Kennedy, đêm Chúa ra đời. Nếu khát nước, bạn có thể vừa mua côngfetti, vừa uống ly nước trà của bà mẹ chúng, trên chiếc bàn dã chiến, di động chung quanh tượng Đức Mẹ, có khi tới tận Nhà Hát Lớn trên đường Tự Do.


*
Vĩnh Biệt Bạn Cờ

Việc đánh cờ có ba điều kỵ: khai cuộc khi cờ chưa định, kỵ ở sự tham; vào đến giữa cuộc, sát khí đang vượng, kỵ ở chữ đấu; đến lúc cờ tàn, cái thế lớn đã đi rồi, kỵ ở ham được. Nay tiên sinh với ta đã cùng đường, miễn cưỡng cầm cự còn mong giữ được mình, hà tất phải mưu đồ gì chứ?”
“Thứ lỗi cho Tra mỗ thẳng lời, ván cờ vừa nãy thấy tiên sinh, sức cờ thiếu căng, trong lúc ứng đối lộ vẻ trì trệ. Tôi e rằng trong người tiên sinh có tật bệnh, mong hãy chữa trị sớm.”
[Đàm Ca: Tuyệt Kỳ]
Nếu đi hết biển
*
Trong những ván cờ nổi tiếng, có ván cờ Hư Trúc, quái dị nhất, ấy là vì khi Hư Trức đi nước cờ, chỉ để cứu người, thay vì mong thắng bại.
Có lần Gấu này đi một đường lèm bèm về nó, và đây là bài Tạp Ghi đầu tiên của Gấu ở hải ngoại, đăng trên báo Văn Học của NMG, thời gian chưa hầu dưới trướng của Người. Gấu có ví von cuộc cờ trên, với cuộc chiến Quốc Cộng của dân Mít. Sau này ngẫm nghĩ lại, mới hiểu ra, cái nước cờ chết người đó, chính là, để cho Miền Bắc làm thịt Miền Nam, xong xuôi, thì cửa sinh mới hé ra được. Tuy nhiên, đây là do “lòng Trời”, chứ không do lòng người, ấy là vì Mít, đông như thế, hùng như thế… không thể có được một tay, nhập cuộc cờ, là để cứu… Mít.
Nước Cờ Của Hư Trúc
Vĩnh Biệt Kỳ Vương
Kim Dung có nhiều xen, xen nào cũng ly kỳ, về kỳ [cờ]. Ván cờ Hư Trúc, khỏi nói.
Ván cờ, chưa đánh, chỉ mới vẽ bàn cờ, mà đã mở ra một trường tình trường, và một trường tai kiếp: cuộc gặp gỡ giữa Côn Luân Tam Thánh, trước, với Quách Tường, và sau, với nhà sư già gánh nước đổ vô giếng, trên Thiếu Lâm Tự. Ván cờ thổ huyết mở cõi tù cho Nhậm Ngã Hành...
Ván cờ Fischer vs Spassky được coi là ván cờ của thế kỷ.
*
Một trong những yêu cầu của cờ liên quan tới trí nhớ của con người. Và cái sự nhớ đó, cũng rất ly kỳ, mỗi thiên tài có một kiểu nhớ khác nhau.
Gấu còn nhớ, có đọc một bài báo, nói về trí nhớ của vua cờ Kasparov. Truớc một trận đấu, ông coi lại một số trận đấu lừng danh trên chốn giang hồ, và bộ não của ông chụp [copy] chúng, khi gặp nước cờ tương tự, là cả bàn cờ lộ ra, cùng với sự thắng bại của nó.
Cũng trong bài viết, còn nhắc tới một diễn viên, nhớ, và nhập vai, trong một vở tuồng, xong, là xóa sạch, để nạp cái mới.
Ván cờ trên núi Thiếu Thất. Khi hứng cờ nổi lên, Côn Luân Tam Thánh vận nội lực, dùng chỉ lực vẽ bàn cờ, Giác Viễn thiền sư nghĩ tay này muốn so tài, bèn vận nội lực vô bàn chân, đi từng bước, xóa sạch: Cửu Dương thần công lần đầu tiên dương oai.
Ván cờ không xẩy ra, nhưng trước đó, Côn Luân Tam Thánh, ngồi buồn, tự vẽ bàn cờ, hai tay là hai địch thủ, phân thua thắng bại, Quách Tường đứng ngoài, mách nước, sao không bỏ Trung Nguyên lấy Tây Vực, giang hồ kể như đã phân định.
*
Nhưng, như Steiner viết, nhân vật B. trong Người Chơi Cờ, cũng đã trải qua tai kiếp, khi bị Gestapo giam lỏng, bằng cách tưởng tượng ra mình, trong hai vai, đen và trắng....
His rival turns out to be a Viennese doctor whom the Gestapo held in solitary confinement. An old book on chess was the prisoner's sole link with the outside world (a cunning symbolic inversion of the usual role of chess). Dr B. knows all its hundred and fifty games by heart, replaying them mentally a thousand times over. In the process, he has split his own ego into black and white.
Địch thủ của anh Cu Sài, bộ đội Cụ Hồ, “đả biến thiên hạ vô địch thủ”, “con lừa Balaam”, là một vị bác sĩ thành Viên, đã từng bị Gestapo giam lỏng, và một cẩm nang cũ kỹ dậy đánh cờ là mối liên hệ độc nhất với thế giới bên ngoài. Vị bác sĩ thuộc lòng một trăm năm chục cuộc cờ, và chơi đi chơi hoài, hàng trăm hàng ngàn lần, ở trong cái đầu của mình, và trong những cuộc cờ như vậy, ông phân thân làm hai, lúc là mình, lúc kế tiếp, là địch thủ của mình.


*

Oui sait de quoi hier sera fait?
A l'est de l'ancien rideau de fer
Oublier le communisme?
Par Sophie Cœuré
Le système communiste avait confisqué le passé. Redoutable épreuve, pour les nouvelles démocraties, que de renouer le fil de l'histoire, sans rouvrir les plaies ni céder à la tentation de l'amnésie.
VC tịch thu quá khứ!
Thử thách mới đáng sợ làm sao: Làm sao nối lại được sợi dây lịch sử, mà không cần mở banh những vết thương, và không lạc vào vườn quên lãng?


Đỉnh cao chói lọi
The Portage to San Cristobal of A.H. (Cuộc di chuyển A.H. tới San Cristobal), tiểu thuyết của Steiner, viết về một toán biệt kích Do Thái, 30 năm sau khi Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt, đã bắt được một ông già trong rừng sâu ở Amazone. Ông già này chính là Adolf Hitler. Họ thông báo về Jerusalem bằng mật mã dựa trên Cựu Ước; nhưng ở những thành phố lớn trên thế giới như London, Paris, Hoa Thịnh Đốn, Moscow đã bắt được tín hiệu, và giải mã được thông điệp. Trong khi cả thế giới đổ dồn về San Cristobal, toán biệt kích đã trải qua một cuộc hành trình gian nan, khắc khoải, nhằm đưa được Đệ Nhất Ác Nhân ra khỏi rừng sâu, về với thế giới văn minh đang nóng nẩy đợi chờ, và đưa ông ta ra tòa vì những tội ác của ông.
*
Khi "nghe" loáng thoáng trên net, DTH sẽ viết về HCM, Gấu đã mường tượng ra một cú như thế, mường tượng ra một nữ luật sư của Quỉ, hay gì  gì đó, đại loại, nhưng tẽn tò.
*
Chương chót của cuốn The Portage, một cú của bậc thầy của sự căng thẳng về đạo hạnh và về văn phong, of great ethical and stylistic tension, Hitler [của Steiner] đã tự bào chữa bằng những luận cứ dựa trên nghịch lý của viên Phán Quan trong Anh em nhà Karamazov của Dos. Trong cuốn tiểu thuyết của Dos, viên Phán Quan tuyên bố, giả như Chúa Ky Tô trở lại, thì Nhà Thờ bắt buộc phải trừ khử, để bảo vệ lý thuyết Ky Tô [In Dos’s novel the Inquisitor declares that, if Christ were to come back, the Church would be forced to suppress him in defense of Christian doctrine].
 Trong cuốn The Portage, của Steiner, Hitler coi [claim] ông như là Thiên sứ, người đã làm cho sự ra đời của nhà nước Israel trở thành khả thể, thông qua [through] Tế Thiêu [Shoah].
*
DTH bỏ ra muời năm để viết về Bác Hồ. Như trên đã viết, Gấu cứ nghĩ, nó sẽ là một tác phẩm văn học [10 năm rồi lại 10 năm nữa], nằm trong dòng của những Lâu Đài ở trong Rừng, hay Les Bienveìlantes, hay Một nửa của Hitler. Nhưng không phải. Chất văn học của Đỉnh cao chói lọi quá yếu, và đây là nhược điểm của nhà văn DTH, mà người đọc tinh ý đã nhận ra từ những tác phẩm trước. Ngoài ra, còn ám ảnh chính trị, nào là tố cáo, nào là trả thù, nào là đưa ra một HCM đích thực, một đỉnh cao chói lọi.
Nhưng đâu phải chỉ riêng DTH.
Ở TQ, ngay cả giới trẻ, khi chụp hình, cái nền phải là chân dung Bác Mao, như dưới đây.
*


*

Qui sait de quoi hier sera fait ?
Le vrai Mao reste inconnu dans son pays
Chinois, si vous saviez!
Par Jean-Luc Domenach
L'infirmité de la mémoire historique sur le communisme national, ses erreurs et ses horreurs, est largement responsable du mépris populaire pour tout ce qui est politique
Người Quan Sát  Mới, số đặc biệt "Lịch sử ra tòa" [L'histoire en procès], tháng 10/11. 2008

*
Sự què quặt của hồi ức lịch sử, về chủ nghĩa CS quốc gia, những lầm lẫn và những ghê rợn, những kinh hoàng của nó,chúng dẫn tới sự khinh bỉ đối với tất cả những gì liên quan tới chính trị.
Nhận xét như thế thì thật quá đúng đối với không chỉ TQ. Nhưng với xứ Mít, cái sự khinh miệt chính trị có tí khác, và là do những lời dối trá về cuộc chiến thần thánh.
*
Chính trị mới là đỉnh cao của… văn chương. Tây có câu, “cái còn lại là văn chương”, là để miệt thị thứ văn chương bỏ qua nỗi đau, nỗi khổ của người đương thời, mà chỉ đắm đuối trong cõi mộng, trong cõi chân thiện mỹ. Naipaul chửi Borges là cũng ý đó, ông ta lôi chữ “bất tử” ra, và cứ thế đùa nghịch với nó, quên mẹ mọi chuyện. Steiner phán, những người khóc khi coi truyện tình lãng mạn "Werther" hay nghe nhạc Chopin đâu có biết rằng, họ đi qua địa ngục thực.
Đọc blog trong nước, của những nhà văn thứ thiệt, than thở, đừng nói chuyện chính trị, chán lắm, là cũng nghĩa đó.
Nên nhớ, vẫn nên nhớ, chẳng cần đến Steiner, văn học quốc tế, dân Mít ngày xưa, học TQ, cũng đã biết được ‘tu thân, tề gia, bình thiên hạ’.


Tribute to Harold Pinter


Ta La Tai

Có một sự thất vọng nặng nề về sự vô dụng của một diễn đàn mà đa số là những cây viết ra đi từ Miền Bắc, và cùng với nó, là sự thất vọng về tài năng, về tri thức, về trí thức, về sự đóng góp của họ, so với những người ra đi từ những nước CS khác, thí dụ từ Đông Âu, thí dụ những nhà văn như Milosz, như Kundera, như Manea
Chúng đưa đến kết luận về một miền đất: Tại làm sao mà nó nghèo nàn, khô kiệt đến như thế?
Đã nghèo nàn, mà lại ưa cấu xé lẫn nhau. Kẻ ra được bên ngoài, ngoái cổ lại chửi những người ngày nào còn là bạn của họ.
Trong quá khứ quán cá chưa hề có một bài viết nào về DTH. NHT có, nhưng chê, thí dụ bài của DT, và Gấu phải nhẩy vô ‘phản biện’, như đã từng "phản biện", trong những trường hợp liên quan tới HNH, PTVA, PHT…
Sự thực, Gấu này chẳng hề có hiềm khích gì với bà chủ quán cá. Ngay cả việc gọi như vậy, cũng chẳng hề cảm thấy mình hạ tiện, mà cũng chỉ là theo kiểu của Đặng Tiến, dzui thôi mà. Nhưng, chính là nỗi thất vọng, sao bao hoài vọng, mà đành phải lên tiếng, đòi cho được một nửa linh hồn của mình.
Một khi còn thiếu một nửa linh hồn, thì vẫn không phải là.. linh hồn, nói theo kiểu, một nửa mẩu bánh mì thì OK lúc đói lòng, nhưng một nửa sự thực thì là một lời dối trá.
Cô con gái, con ông chủ nhà xuất bản trong truyện Eva của J.H. Chase, trước khi chết, đã nói với anh chồng của mình: Một người viết một tác phẩm như thế, không thể hành xử như thế. Tôi lầm rồi, anh không phải là người viết cuốn sách đó.
Gấu cũng nghĩ như thế về bà chủ quán cá.
Và xin chấm dứt bài viết về Ta La Tai. NQT


Nguyễn Chí Kham

Hà Nội
Buổi sáng mùa đông ngây ngất, trưa còn xa.
Tôi nhớ vừa rồi đi cạnh tôi trên vỉa hè nhiều lá vàng lăn chạy, Thanh rất đẹp.
Bếp Lửa
It is a mistake to think of Oliver Twist as a realistic story: only late in his career did Dickens learn how to write realistically of human beings; at the beginning he invented life... these characters in Oliver Twist are simply parts of one huge invented scene, what Dickens in his own preface called "the cold wet shelterless midnight streets of London."
Graham Greene: The Young Dickens
Thật lầm lẫn khi coi Oilver Twist là một câu chuyện hiện thực. Chỉ muộn màng trong nghề Dickens mới đành phải học, làm thế nào viết về những con người một cách hiện thực; lúc thoạt vào nghề, ông phịa ra cuộc đời... những nhân vật trong Oliver Twist  giản dị chỉ là những phần của một khung cảnh lớn được bịa đặt ra, mà, trong lời mở đầu của chính tác giả, ông gọi là "những con phố nửa đêm không nơi trú ẩn, ướt, lạnh của London".
G. Greene: Dickens trẻ
Tôi tin rằng, những người Hà Nội bây giờ, đọc Bếp Lửa, sẽ nghĩ, đây là một chuyện phịa, theo nghĩa, không hiện thực!
*
Đoạn văn tả cuộc nói chuyện giữa ông Chính và Tâm, và nói rộng ra, toàn thể chương I của Bếp Lửa, đã tiên đoán, sửa soạn cho mọi biến động diễn ra sau đó. Tất cả những nhân vật quan trọng đều xuất hiện, và nhất là, hồn ma của một bà mẹ, cũng xuất hiện. Nhưng không thể thiếu nhân vật, tuy thứ yếu, nhưng đóng vai xúc tác, không có là phản ứng hóa học không thể xẩy ra. Nhân vật xuất hiện chỉ một lần rồi bỏ đi vĩnh viễn, bởi đã hoàn tất  phần số của nó: Mưa.
Mưa Hà Nội.
Tác giả, miêu tả những xúc động của hai nhân vật, hai thế hệ "gần nhau nhất cũng không thể hiểu nhau", bằng âm thanh, cường độ của trận mưa.
Chi tiết là Thượng Đế ở trong văn chương là như vậy.
Bạn nào đã từng xem phim OK Corral, chắc là còn nhớ, trước khi xẩy ra trận thanh toán, nhân vật chính ra thăm thú nơi mình có thể chết. Như tình cờ, anh ta châm ngọn đèn dầu trên chiếc xe. Khi trận đấu súng xẩy ra, anh ta bắn vô cây đèn, chiếc xe bốc cháy, đám người ẩn sau nó phải chạy ra.
Trong phim Shane, hình ảnh con chó từ từ rời khỏi chỗ, nhường sàn gỗ cho hai tay đấu súng.
Mưa trong Giã Từ Vũ Khí của Hemingway.
Bùn trong Bẩy Hiệp Sĩ, Seven Samourai...
Với bậc thầy, cái sự sửa soạn mới là cần thiết, mới là quan trọng.
Trong Kim Dung, Lãnh Nguyệt Bảo Đao, cuộc gặp gỡ thứ nhất giữa Miêu Nhược Lan và Hồ Phỉ, xẩy ra, khi ông bố Miêu Nhân Phượng bế con gái chạy theo vợ, bỏ đi theo trai, đuổi kịp tại Thương Gia Bảo khi tất cả mọi người bị cơn mưa cầm chân. Cô bé khát sữa mẹ, khóc ngất, bà mẹ rời tình nhân, đi vài bước tới tính cho con bú, nhưng tàn nhẫn quay ngược lại, ngồi xuống kế bên đống lửa, kế bên anh bồ đẹp trai. Thằng oắt Hồ Phỉ cáu quá, chạy ra mắng, tại sao lại có người đàn bà tàn nhẫn như thế, Miêu Nhân Phượng nhìn, nản quá, bèn bế con trở về, tha cho cả hai.
Sau đó, trong lần gặp sau cùng, cô nói với anh:
Tôi sẽ không như mẹ tôi đâu.

Như thể, cô nhìn thấy và còn nhớ hoài, cảnh tượng lần đầu gặp nhau tại TGB.
Cuộc gặp gỡ giữa cô bé còn nằm trong nôi, với người yêu còn là thằng nhóc tì làm Hai Lúa nhớ đến bài ca dao sau đây.

Sao Vua chín cái nằm kề,
Thương Em từ thuở Mẹ về với Cha.
Sao Cày ba cái nằm ngang,
Thương Em từ thuở Mẹ mang trong lòng.
Sao Vua chín cái nằm chồng,
Thương Em từ thuở Mẹ bồng trên tay.
Sao Cày ba cái nằm xoay,
Thương Em từ thuở Em hay khóc nhè.

Và nhớ luôn cả vẻ mặt của ông bạn thân, và còn là người đưa thư, khi thấy thằng bạn mình mê BHĐ:
-Làm sao mà mày có thể mê nó? Tao đã từng thấy nó ỉa đùn, từ trên đầu cầu thang chảy xuống tới mãi mấy bực bên dưới hồi nhà nó còn ở đường PĐP!
Bếp Lửa_Hà Nội
*
Bà vợ của Đả Biến Thiên Hạ Vô Địch Thủ Kim Diện Phật Miêu Nhân Phượng, sở dĩ tàn nhẫn đến mức như vậy, là cũng có lý do.

Độc giả Kim Dung thường chỉ mê những tác phẩm nổi cộm của ông, nhưng với riêng Gấu  này - và chắc chắn, còn khá đông độc giả - cuốn tuyệt nhất của ông phải là câu chuyện về chú bé Hồ Phỉ, tức Tuyết Sơn Phi Hồ.
Nếu Bích Huyết Kiếm được coi là một trong Tân Lục Tài Tử, thì Tuyết Sơn Phi Hồ sợ còn xứng đáng hơn nó nhiều.
Thời gian ở tù tại nông trường cải tạo Đỗ Hoà, bổng lộc ngoại của Gấu, ngoài thăm nuôi mỗi tháng một lần của gia đình, là do kể chuyện chưởng mà có được. Và bổng lộc ngoại này mới thật là tuyệt vời, thuờng là trà, thuốc lào, và đồ ăn mặn, thí dụ, mắm cá linh, ba khía.


Kỷ niệm đẹp nhất trong đời viết văn


Dọn

Hiếp
Gấu, trong khi lướt net, đọc được một lời bàn của một độc giả, tại một diễn đàn, độc giả này khen, truyện ngắn Hiếp của Đặng Thân hay hơn Bóng Đè của Đỗ Hoàng Diệu rất nhiều. Tò mò, Gấu đọc thử, và thấy không phải như vậy.
Đã tính viết một bài phân tích, nhưng quên đi, và nay, Hiếp được xb thành sách, và được ca ngợi hết mực.
Gấu, lúc đầu đọc Bóng Đè, cũng không thích, và có đi một đường về truyện ngắn này, trên Tin Văn. Nhưng đây là vấn đề khiếu thưởng ngoạn.  Gấu không mê truyện sex, nhất là thứ sex văn học. Giả như cần đọc sex, là phải đọc thứ thật thô, thật tục, thật hạ cấp, để "cân bằng" với những, nào Steiner, nào Benjamin, nào Lukacs… Nếu không là thể nào cũng tẩu hoả nhập ma!
[Lại tự sướng!]
*
-Tư tưởng trừu tượng chắc hẳn bị đám đông quần chúng trên đường phố rù quyến, một cách nghịch thường, có lẽ vậy?
-Nói như vậy, chỉ là để cho rằng, có sự khát khao hành động, nhập vào bùn nhơ, từ trên chót vót của trừu tượng, trong cuộc sống trí thức tuyệt đối thuần túy. Có thể nó chỉ là tiềm thức, nhưng hầu như tuyệt vọng. A. J. Ayer cho rằng, ông chỉ hạnh phúc khi coi đá banh (fooball); với Wittgenstein, thì là phim cao bồi Viễn Tây: cứ mỗi xuất trưa, là ông phải mò đi coi, vẫn một phim cao bồi này, hay là một phim trinh thám khác. Chỉ để nghỉ, tôi nghĩ vậy, chỉ để xả hơi. Và nghỉ xả hơi là có thể trở thành Nazism; hay như trong trường hợp của Sartre, trở thành tất cả những lời dối trá Stalinist; với Plato, là bạo chúa Dionysus mà ba lần Plato mong mỏi được làm thủ tướng. Nghỉ xả hơi kiểu đó thật là quá đắt, nhưng tôi nghĩ họ chẳng có một cách nào khác.

Phỏng vấn Steiner
*

Trích dẫn trong ngày

…. với một tác giả hải ngoại, viết, là viết cho độc giả ở trong nước đọc, như đã có lần Hai Lúa viết. Nếu không, cái viết của bạn cũng thuộc loại cứt đái.
"Debauchery is perhaps an act of despair in the face of infinity."
Edmond De Goncourt (1822-1896) and Jules De Goncourt (1830-1870). French writers. The Goncourt Journals (1888-1896).
[Phóng tác: Hiện tượng Bóng Đè chắc là do chán ngán trước vô cùng. Debauchery: Trác táng, trụy lạc, ưa khoe hàng…]
Tin Văn trích danh ngôn trên, thời gian đọc Bóng Đè. Quên luôn. Tình cờ lướt net, thấy có một vị sử dụng câu trên để giới thiệu một truyện ngắn "thật cao tay, hơn hẳn Bóng Đè", theo vị này, [trên website ttvn]:
Truyện này tác giả viết thật cao tay. Xin bàn zô hôm khác. Zì bi zờ phải nàm việc dồi. Trước khi tạm piệt xin tặng đôi dòng nầy của cụ Nguyễn Quốc Trụ trên tanvien.net:
"Debauchery is perhaps an act of despair in the face of infinity."
*
Truyện này, thật cao tay, là Hiếp, của Đặng Thân, trên tienve.org. Đọc, thấy câu này:
Bạch Trĩ đã thấy kinh lần đầu ngay trước lễ tốt nghiệp đại học rực màu cờ đỏ và các loại cờ đèn kèn trống.
*
Ui chao, Cụ Trụ!
*
Hiếp không cao tay hơn Bóng Đè. Đúng ra phải nói, chúng không cùng một thể loại, tuy đều là về "debauchery"!
Thứ văn chương như Hiếp, đầy rẫy trong xã hội Mít. Cái cảnh làm tình trên chiếc giường dưới chân bàn thờ và mặc khải về lá cờ, và nhờ nó mà có kinh đúng ngày lễ ra trường rợp bóng cờ, tưởng giống mà khác hẳn nhau.
Nguồn
*

Đè
*

Rồi ông được giao làm những thước phim đầu tiên cho truyền hình Sài Gòn. Hồi ấy chưa có đài phát, phải phát từ máy bay bay quanh thành phố.
Nguồn
Không hẳn như vậy.
Lúc đó, cũng chưa có Đài số 9 của VNCH. Trong khi chờ đợi xây cột ăng ten, quân đội Mẽo phát hình từ máy bay cho quân nhân Mẽo coi.
Tay NTT này, bài viết nào cũng có lỗi. Tên người, tên địa chỉ, và cái này là do tính cẩu thả của người viết, và còn do thái độ coi thường chính mình, và độc giả của mình. Bởi vì vào cái thời google, bạn thật dễ kiểm tra những sai sót như thế.
Tuy nhiên cú này thì thực không thể tha thứ được.
Trên trang Hội Ngộ Văn Chương của thi sĩ, có post một bài dịch, của một tay nào đó. Dịch một bài phỏng vấn Murakami, trên tờ Time. Murakami cho biết, hồi còn thanh niên, ông thật mê cuốn The Great Gatsby của nhà văn Mẽo, F. Scott Fitzgerald. Nhưng ông thú thực nội lực tiếng Anh của ông khi đó chưa đủ, mãi sau này, mới dám đụng vô. Cái tay dịch bèn đổi trắng thay đen, để vô miệng ông Nhật này lòng say đắm Liên Xô của ông ta, và thay The Great Gasby bằng Ruồi Trâu.
Khốn nạn thật.
Gấu thấy bất nhẫn quá, bèn đã hai lần lên tiếng, cả ở Tin Văn lẫn trên trang web của ông thi sĩ. (1)
Nhưng ông thi sĩ coi như pha!
Những chuyện nho nhỏ như thế liên quan đến danh dự của cả một đất nước. Thử hỏi, có một ông Mít nào đọc, rồi nói cho Murakami biết, thì sẽ ra sao. Nên nhớ tay nhà văn này rất "đau đáu" với cuộc chiến Việt Nam. Khi còn trẻ, ông tin rằng, người Nhật có thể tìm ra giải pháp cho cuộc chiến.
(1) Cuốn tiểu thuyết mà M. tính dịch, khi còn trẻ, không phải Ruồi Trâu. Tôi đã lưu ý nhà thơ NTT một lần rồi, trên trang Tin Văn của tôi, nhưng chắc là thi sĩ không để ý. Xin coi bài dịch của eVăn, cũng bài trên tờ Time về Murakami.
http://evan.vnexpress.net/News/chan-dung/2008/11/3B9AE192/
Một lầm lẫn như thế này, đúng ra là không nên có, và không thể hiểu nổi. NQT
Viết bởi NQT |11/11/2008, 01:05
*
Nên nhớ, Murakami mặc khải là nhà văn vào tháng tư, 1978. Vài năm trước đó, như một số sinh viên Nhật, ông tin rằng người Nhật có thể đem lại một giải pháp hòa bình cho Việt Nam.
Nguồn
*
Đọc bài viết về thời gian nhà đạo diễn Lê Hoàng Hoa bị tù VC về cái tội vượt biên, và ‘sống sót’, nhờ tài vẽ của ông, Gấu lại nhớ đến những ngày ở tù Đỗ Hòa, và cũng ‘sống sót’, nhờ cái tài viết của Gấu.


Like the Coleridge hero who wakes to find himself holding the rose of his dreams, I knew these objects were not of the second world, which had brought me so much contentment as a child, but of a real world that matched my memories.
Như nhân vật của Coleridge thức giấc thấy mình cầm khư khư trong tay bông hồng đen của giấc mộng, tôi biết, tất cả những gì ở trong
Tứ Khúc thì không phải là từ thế giới tưởng tượng bước ra, chúng thuộc cuộc đời này. Và chúng là một, với hồi ức của tôi, những ngày ở Sài Gòn.


Salman Rushdie
Những đứa con giờ Tý
Chương 1
Miếng vải đục lỗ
Ngày xửa ngày xưa… tôi sinh ra tại thành phố Bombay. Ô, như vậy không được, có nơi sinh nhưng thiếu ngày tháng. Tôi sinh ra tại bảo sanh viện của bác sĩ Narlikar ngày 15 tháng Tám, 1947. Ô, vẫn không được, sinh vào giờ nào?  Sinh ra nhằm giờ nào là một điều rất quan trọng. Nếu vậy, thì, tôi sinh ra vào lúc ban đêm. Vẫn chưa được. Như vậy thì nói lại, tôi sinh ra đúng vào lúc nửa đêm, chuông đồng hồ đổ muời hai tiếng, và hai cây kim, như hai cánh tay bắt tay nhau, trân trọng chào mừng tôi ra đời. Và điều này mới thật là quan trọng: Vào đúng 12 giờ đêm ngày 15 Tháng Tám năm 1947, Ấn độ tuyên bố độc lập, và tôi lóp ngóp ra đời. Có những tiếng hào hển. Và ngoài kia, bên ngoài cửa sổ, là tưng bừng sặc sỡ những pháo bông, là lũ lượt những dòng người. Vài phút sau, cha tôi té bể mũi. Nhưng một biến cố như thế thì thật quá nhỏ nhoi, so với điều xẩy ra cho tôi vào giây phút khuya khoắt trọng đại đó: Bởi vì nhờ ở tính bạo chúa thần bí của những chiếc đồng hồ, trong dáng điệu hai cây kim bắt chéo tay nhau trân trọng chào mừng như thế, tôi như được trói chặt tay, trao cho lịch sử, và số mệnh tôi cũng bị xiềng chặt với số mệnh xứ sở tôi. Trong ba thập kỷ kế tiếp đó, thật vô phương đào tẩu. Những ông thầy bà thầy tiên tri về tôi, báo chí chào mừng tôi ra đời, chính trị gia phê chuẩn sự xác thực của tôi. Tôi chẳng có tiếng nói về những sự kiện như vậy. Tôi, Saleem Sinai, với những cái nick tiếp nối theo sau, Thằng thò lò mũi xanh, thằng mặt dơ, thằng trụi lông, thằng sụt sịt mũi, Ông Phật, và, chưa hết, Mẩu mặt trăng, tất cả những biệt danh như thế cũng theo tôi mà tưng bừng can thiệp vào với Số mệnh – và ngay cả ở thời điểm đẹp đẽ nhất, thì vẫn là một sự can thiệp rất ư là nguy nàn. Nguy nàn đến nỗi, tôi chẳng có lấy một phút, để mà lau cái mũi thò lò của mình.
Hỡi ơi, bây giờ, vào giờ này, quỹ thời gian kể như cạn kiệt đối với tôi, và nếu như chưa cạn kiệt, thì tôi cũng chẳng biết làm gì với nó, hoặc ngược lại, nó cũng chẳng biết dùng tôi vào việc gì. Chẳng mấy nả, tôi ba mươi mốt tuổi trời. Có thể. Nếu cái thân thể rệu rạo này cho phép. Nhưng tôi chẳng có chút hy vọng chi về cái chuyện dành dụm đời mình, và tôi cũng chẳng trông mong gì có được một ngàn lẻ một đêm bầy ra trước mắt. Tôi phải làm việc, cật lực làm việc, như người đẹp Scheherazade, nếu tôi muốn hiểu ra một điều gì đó, đúng như vậy. Điều mà tôi sợ nhất, đó là sự phi lý.
Và có rất nhiều điều để kể, quá nhiều, biết bao cuộc đời, biến động, phép lạ, nơi chốn, điều này tiếng kia, những dây mơ rễ má như thế quyện vào nhau, dầy đặc, tạo thành thiên la địa võng của những chuyện đâu đâu và trần tục. Tôi là kẻ nuốt chửng hằng hà sa số những cuộc đời, và để hiểu, chỉ tôi thôi, bạn cũng sẽ phải nuốt chửng hằng hà sa số những cuộc đời. Một con số khổng lồ những cuộc đời như vậy được nuốt vô, được tiêu hóa, chúng xô đẩy, chen lấn, kèn cựa nhau, cố vạch ra một lối đi ở bên trong tôi, được dẫn dắt bởi hồi ức của một miếng vải, được sử dụng làm một tấm khăn trải giường lớn, mầu trắng, với một cái lỗ tròn tròn, chừng bẩy inches ở giữa, và, như được móc vào giấc mơ về một miếng vải hình vuông, đục lỗ, bị cắt ra thành nhiều mảnh - miếng vải này chính là bùa chú, là ‘hạt vừng kia, hãy mở ra” của tôi – tôi phải bắt đầu tạo dựng lại cuộc đời của mình, từ điểm nó thực sự bắt đầu, ba mươi hai năm trước đó, cũng sờ sờ, cũng hiển nhiên trước mắt, như là sự ra đời của tôi, dính tí máu tội ác, và bị chi phối bởi những chiếc đồng hồ.
(Nhân tiện, xin nói thêm, miếng vải trải giường cũng dính ba giọt máu đỏ, cũ xì, từ đời thuở nào. Như kinh Koran phán: Hãy cầu nguyện, nhân danh Đức Sáng  Tạo, Người đã tạo ra con người, từ một cục máu).
Vào một buổi sáng, ở Kashmir, vào đầu mùa Xuân năm 1015, ông tôi, Aadam Aziz đập cái mũi của ông vào mặt đất cứng như đá vì giá lạnh, trong lúc tính cầu nguyện. Ba giọt máu, khô quánh liền sau khi từ lỗ mũi bên trái chảy ra bên ngoài khí trời giá lạnh, nằm lăn lóc trước mắt ông tôi trên tấm thảm cầu nguyện, và biến thành ba hòn bi ve. Ông tôi cố gượng dậy, rồi cố quì trở lại, và một khi đầu ngửng cao, ông nhận ra mình đã khóc, và những giọt nước mắt thì cũng đã khô quánh lại. Vào đúng thời điểm đó, trong lúc gỡ những viên kim cương ra khỏi lông mi, ông quyết định cho chính mình, là sẽ chẳng bao giờ hôn mặt đất, vì bất cứ ai, thần thánh cũng không, và người trần thì cũng không. Một quyết định như thế, hỡi ơi, cũng tạo một lỗ hổng ở trong ông tôi, một sự trống vắng, ở một phần thiết yếu, sống động, ở bên trong con người của ông, khiến ông trở nên rất dễ bị tổn thương, bởi những người đàn bà, và lịch sử. Lúc đầu, ông không nhận ra sự kiện này, và cũng chẳng thèm bận tâm, và, mặc dù vừa hoàn tất môn học y khoa, ông đứng dậy, cuộn tấm thảm lại, trông chẳng khác gì một điếu xì gà khổng lồ, kẹp nó ở bên dưới cánh tay phải, và ông ngắm nhìn thung lũng bằng cặp mắt trong sáng, đã được giải thoát những hòn bi ve nước mắt.
Thế giới lại trở nên mới. Sau thời kỳ thai nghén mùa đông, thung lũng nở tung ra, giống như một chú chim non dùng mỏ phá vỡ cái vỏ băng, và nhập vào vùng không gian mở rộng, ẩm ướt và vàng tươi. Một đời cỏ mới chờ đợi giờ của nó ở bên dưới mặt đất. Những ngọn núi lui mình về phiá trên cao, trả lại thế giới cho một mùa ấm áp. (Vào mùa đông, khi thung lũng khép mình lại vì giá lạnh, những ngọn núi ùa xuống, xúm lại, và gầm rú, bằng những chiếc hàm giận dữ của chúng, bên trên thành phố bên hồ).
Vào những ngày đó, cột phát tín đài phát thanh chưa được xây cất, và ngôi đền Sankara Acharya, một cái vòm nho nhỏ mầu đen ở trên đồi mầu xanh kaki, vẫn còn ngự trị ở bên trên những đường phố và con hồ Srinagar. Vào những ngày đó, chưa có trại lính ở bên cạnh hồ, chưa có những con rắn dài ngoằng ngoẵng, là những đoàn công voa xe cam nhông, xe díp nhà binh ngụy trang nối đuôi nhau trên những con đường ngoằn ngoèo bên sườn núi, chưa có những binh lính ẩn mình ở những chỏm núi quá Baramulla và Gulmarg. Vào những ngày đó, khách du lịch chưa bị bắn bỏ như là những gián điệp nếu họ có lỡ chụp hình những cây cầu, và, ngoại trừ những chiếc thuyền được sử dụng như những căn nhà để ở của người Anh ở trên mặt hồ, thung lũng gần như chẳng thay đổi chi nhiều, kể từ thời Đế quốc Mông cổ, cùng với không gian, thời tiết thay đổi, trở thành mới tinh cùng với mỗi lần mùa xuân trở lại; nhưng đôi mắt của ông tôi, như tất cả những gì còn lại của ông, một người hai mươi lăm tuổi – nhìn sự vật một cách khác… và cái mũi của ông bắt đầu ngọ ngoạy.
Hãy bật mí, sự bí mật làm thay đổi cái nhìn của ông tôi: ông trải qua năm năm, năm mùa xuân, xa nhà. (Dúm đất quyết định, mặc dù nó hiện diện một cách ngẫu nhiên ở bên dưới tấm thảm cầu nguyện mà ông tôi đã quỳ lên, tác động của nó, ở vào lúc thoạt kỳ thuỷ, thì cũng chẳng khác gì một chất xúc tác). Bây giờ, trở về nhà, ông nhìn cảnh vật qua con mắt của một kẻ du lịch. Thay vì cái thung lũng nhỏ bé, xinh xắn, được bao bọc bởi những chiếc răng của một tên khổng lồ, ông cảm nhận sự chật hẹp của nó, và sự gần gụi của đường chân trời: trở về nhà, bị giam cầm trong không gian tù túng, chật hẹp, ông thấy buồn bã. Ông còn cảm thấy – và điều này không làm sao giải thích được – nơi chốn cũ, căn nhà xưa trách cứ ông, và sự trở về như là một con người có học, cùng với cái ống chẩn bệnh. Dưới cái lạnh giá của mùa đông, xứ sở ông có vẻ lạnh lùng dửng dưng, nhưng, không hồ nghi gì hết, những năm tháng du học tại Đức đã biến ông trở thành thù nghịch với môi trường quê hương cũ. Nhiều năm sau đó, khi cái lỗ hổng ở bên trong ông được lấp đầy bằng hận thù, ông tới dâng mình trước bàn thờ vị thần đá đen, trong ngôi đền trên đỉnh đồi, và ông mơ màng nhớ lại những mùa xuân thiên đàng thời thơ ấu của ông, trước khi cuộc du lịch, miếng đất, và những chiếc xe tăng nhà binh làm tan tành tất cả.
Vào buổi sáng khi thung lũng như được vo tròn lại thành chiếc thảm cầu nguyện, và, giống như chiếc găng tay, nện cho ông tôi một cú vào mũi, đó là lúc ông đang cố gắng tưởng tượng, hay làm ra vẻ chẳng có gì xẩy ra. Và thế là ông nhỏm dậy, trong cái buốt giá 2 độ 5, tắm rửa, kỳ cọ thân mình đúng như được chỉ dẫn, ăn vận chỉnh tề, đội lên đầu chiếc mũ astrakhan của cha ông, sau đó, ông ôm chiếc thảm cầu nguyện được cuộn tròn như điếu xì gà khổng lồ, và đi vô khu vườn nhỏ ở bên hồ ở phía trước căn nhà u ám, cũ kỹ của gia đình và trải nó ra miếng đất đang chờ đợi. Mặt đất mềm mại dưới chân làm ông thất vọng, như thể bị đánh lừa, và điều này khiến ông có cảm giác bất an, ngần ngại. “Nhân danh Thượng Đế, Thương Xót Chúng Sinh, Từ Bi…” - đoạn mào đầu, và cái kiểu vòng hai tay khẩn cầu, nói như một cuốn sách đang mở ra, làm sống lại một phần người của ông, nhưng lại làm cho phần còn lại lớn lao hơn nhiều kia cảm thấy khó chịu. “Vinh Danh Chúa Allah, Chúa Tể Sáng Tạo….” – nhưng đúng vào lúc đó, Heidelberg xâm nhập đầu ông; đây là Ingrid, hay ngắn gọn, Ingrid của ông, với bộ mặt khinh bỉ, chế nhạo, mi là con vẹt đang làm xàm, láp báp, với cái đầu hướng về Đất Thánh Mecca, đây là những bạn bè của họ, Oskar và Ilse Lubin, những tên vô chính phủ, chúng chế nhạo lời cầu nguyện của ông với chủ trương bài bác ý thức hệ của chúng – “Thượng Đế Đầy Thương Xót, Trắc Ẩn, Đấng Từ Bi, Chúa Tể của Phán Xét Cuối Cùng!...” – Heidelberg là nơi qua đó, cùng với môn học y khoa và chính trị, ông hiểu ra rằng Ấn độ - như phóng xạ - đã được những người Âu châu “khám phá”ra; ngay cả Oskar cũng trầm trồ ngưỡng mộ Vasco da Gama, và điều làm ông tách ra khỏi đám bạn bè, đó là niềm tin của họ, qua đó, ông, một cách nào đó là một phát minh của những tổ tiên của ông – ‘Hãy chiêm ngưỡng, thờ phụng Mi, và chỉ Mi là người mà chúng ta cầu cứu sự hỗ trợ” – và, ông, vào lúc này, mặc dù sự hiện diện của họ ở trong đầu, cố tái hợp với cái tôi trước đây của ông, khi chưa bị họ ảnh hưởng, nhưng hiểu biết tất cả mọi điều cần phải hiểu biết, thí dụ như về sự phục tùng, về điều mà ông đang làm vào lúc này, trong khi hai tay múa may theo sự dẫn dắt của hồi ức, ngón tay cái đè vào tai, mấy ngón tay kia xoè ra, thân hình ông khuỵ xuống theo hai đầu gối – “Xin dẫn dắt chúng con đi trên con đưòng ngay thẳng, chân chính, con đường mà Người đã lựa chọn cho họ”.. – nhưng, như vậy đâu có được, ông bị chết cứng ở giữa hai dòng nước, giữa niềm tin và sự báng bổ, và tất cả cái trò này nói cho cùng chỉ là trò chơi, trò đố chữ - “ Không phải những người khiến Người phẫn nộ, Không phải những người lầm đường, lạc lối.” Ông tôi cúi rạp mình đưa cái trán chạm đất, và đất, được phủ bởi tấm thảm cầu nguyện cuộn tròn, phủ lên ông tôi. Và đó là khoảnh khắc xẩy ra sự “dúm đất”. Như là một sự quở trách, bất thình lình, nào là lse-Oskar-Ingrid-Heidelberg, nào là thung lũng-và-Thượng Đế, chúng nhất tề đấm cho ông tôi một cú vào sống mũi. Ba giọt máu rớt xuống. Những viên hồng ngọc, kim cương. Và ông tôi, lập tức ngồi thắng người. Đứng dậy. Cuộn chiếc thảm cầu nguyện. Nhìn qua phiá bên kia hồ. Và, như chết sững ở giữa hai dòng nước, ông tôi không thể nào cầu nguyện Thượng Đế mà ông không còn tin vào sự hiện hữu của Người. Một sự thay đổi chung quyết, hằng hằng, mãi mãi: một lỗ hổng.
Vị bác sĩ trẻ, vừa mới tốt nghiệp, Dr Aadam cứ thế ngồi chết sững, nhìn đăm đăm ra mặt hồ mùa xuân, hửi hửi mùi vị của sự thay đổi; trong khi ông đưa cái lưng (ông ngồi cứng đơ) hướng về những sự thay đổi khác. Cha của ông bị tim quật trong khi ông ở nước ngoài, mẹ ông không báo tin cho ông, coi đó là một bí mật, ‘việc học của con rất quan trọng, con trai của mẹ’, bà thì thầm nói, bằng giọng khắc kỷ. Bà mẹ của ông, suốt đời quanh quẩn lo việc trong nhà, với tấm khăn che mặt, bỗng nhiên tỏ ra là một con người thật mạnh mẽ, ra ngoài xã hội, trông lo công chuyện làm ăn của gia đình (một tiệm nhỏ bán đá quí, đồi mồi, hồng ngọc, kim cương), nhờ vậy Aadam có thể học xong y khoa, cùng với sự trợ giúp của một học bổng, và khi ông trở về thì trật tự gia đình tưởng chừng như chẳng bao giờ thay đổi, đã lộn tùng phèo hết trơn, bà mẹ của ông thì ra ngoài làm việc, trong khi ông bố, ẩn náu đằng sau một tấm màn, bộ não tê liệt sau cú sốc tim, trên một chiếc ghế gỗ, trong một căn phòng tối, và gây ra những tiếng động giống như chim. Chừng ba chục loài chim khác nhau tới thăm ông, đậu trên thành cửa sổ có chấn song. Chúng ríu ra ríu rít nói chuyện với ông, và, ông tỏ ra khá hạnh phúc.
(… Và tôi như nhìn ra sự lập đi lập lại bắt đầu, bởi vì bà tôi chẳng phải to lớn, rềnh ràng hay sao… cú sốc tim đâu phải độc nhất… và Con Khỉ bằng Đồng đã có những con chim… lời nguyền rủa đã xẩy ra, vậy mà chúng ta chẳng hay biết gì hết).
Hồ nước không còn đóng băng. Mùa băng tan tới thật nhanh, như thường lệ, rất nhiều thuyền nhỏ, shakaras, ngỡ ngàng vì băng tan, chuyện này thì cũng bình thường, trong khi những chiếc thuyền đại lãn này được kéo lên mặt đất khô, và đang ngủ, ngáy khò khò bên cạnh chủ, chiếc thuyền già nua nhất thì đã cựa quậy, như những người già cả thường vẫn như vậy, và đó là chiếc thuyền đầu tiên di chuyển trên mặt hồ hết còn đóng băng. Chiếc shikara của Tai… và chuyện này thì cũng là thường lệ.
Hãy nhìn chủ thuyền, ông già Tai đứng nghiêng nghiêng sau mạn thuyền, thoải mái di chuyển trên mặt hồ xuyên qua làn nước mù sương. Cái mái chèo bằng lõi cây ở đầu cây gậy mầu vàng tung tăng giữa đám cỏ, ông già đứng trong khi chèo thuyền, và đó là một trong những lý do người ở đây nghĩ, ông già lắm rồi. Ông Tai cần gặp Dr. Aziz vì một trường hợp khẩn cấp và ông có vẻ như đã sẵn sàng làm cho lịch sử chuyển động… trong khi Aadam nhìn xuống làn nước, nhớ lại điều ông già Tai dậy ông nhiều năm trước đó: “Băng luôn luôn đợi ngay ở bên dưới mặt nước, chú bé Aadam biết không?” Aadam có cặp mắt mầu xanh trong, một mầu xanh trong đến ngỡ ngàng của bầu trời vùng núi, vốn có thói quen lặn vào mắt những người đàn ông Kashmir: Họ chưa quên họ như thế nào, ôi chao, ở đây, tại vùng này, họ như bóng ma, ngay ở bên dưới mặt nước hồ Lake Da! - một miền thanh nhã, những đường nét không mầu sắc đan quyện nhau như một mớ bòng bong, những nguồn mạch lạnh giá của tương lai đang chờ đợi. Những năm tháng ở Đức làm mờ đi mọi chuyện, nhưng không làm mất cái nhìn tài năng của ông. Quà tặng của Tai. Ông nhìn lên, con thuyền hình chữ V của Tai tiến lại gần, và giơ tay vẫy chào. Tai giơ tay – nhưng đó là một mệnh lệnh. “Hãy đợi!” Ông tôi đợi, và, lợi dụng thời khắc gián đoạn này, trong khi ông tôi trải qua sự bình an cuối cùng của cuộc đời của ông, một thứ bình an lầy lội, hắc ám, tôi mô tả ông tôi.
Hãy bỏ ra ngoài sự thèm muốn của một người đàn ông xấu xí, khi đứng trước một cái đẹp gây ấn tượng, và nếu như thế, tôi có thể nói, ông tôi là một người cao lớn. Đứng thẳng người, ép sát vào bức tường nhà, chiều cao của ông tôi đo được hai muơi lăm hòn gạch [một hòn gạch cho mỗi năm của đời ông], hay, đúng “sáu phút hai”. Ông tôi còn là một người đàn ông mạnh mẽ. Bộ râu của ông thì rậm và mầu đỏ - nó làm mẹ ông bực bội. Bà nói, chỉ những Hajis, tức là những người đi hành hương tới Đất Thánh Mecca thì hãy nên để râu đỏ. Tuy nhiên tóc ông mầu tối đậm. Mắt của ông xanh trong mầu trời, điều này thì bạn biết rồi. Ingrid nói: “Họ trở nên khùng về mầu sắc, khi họ làm ra khuôn mặt anh”. Nhưng nét chủ chốt về tướng vị học, hay cơ thể học của ông tôi, thì không liên quan tới râu, hay tóc hay chiều cao, hay sức mạnh, hay cái lưng thẳng: Phản chiếu từ mặt nước, trông ông tôi như có một tầu lá chuối khùng, phất phơ ở ngay giữa mặt… Aadam, trong khi chờ đợi Tai, ngắm nghiá cái mũi rợn sóng của mình. Ngắm nghía bộ mặt của một người khác thì thấy đỡ thê thảm hơn là ngắm nghía bộ mặt của chính mình. Nhưng đâu phải chỉ một mình ông cảm thấy thê thảm như vậy: Ngay bạn bè, lần đầu tiên ngó mặt ông, là nhớ đời. “Một cái mũi cyranose,” Ilse Lubin nói, và Oskar nói thêm, “Một cái mũi voi”, còn Ingrid thì thông báo, “Bạn có thể băng qua sông nhờ một cái mũi như vậy.” (Cái cầu của nó thì rộng).

Cái mũi của ông tôi: Lỗ mũi tròn, loe ra như mấy người nhẩy múa. Giữa hai lỗ mũi, là cái sống mũi, trông giống như một khải hoàn môn chiến thắng, trước hết hiên ngang vọt lên mãi, và bung ra, rồi sau đó, hạ xuống và lặn vào, chạm môi trên của ông, bằng một cú phất tuyệt vời, và, vào lúc này, đỏ hon hỏn. Đúng là một cái mũi dễ hít đất! Tôi thật muốn đăng ký lòng biết ơn của tôi, đối với một cái mũi đáng nể vì như vậy - nếu không có nó, làm sao thiên hạ biết được, tôi thực sự là con trai của má tôi, và là cháu trai của ông tôi? Cái mũi vĩ đại, khổng lồ đó chẳng phải là cũng nằm trong quyền lợi của tôi, từ khi mở mắt chào đời? Cái mũi của Bác sĩ Aziz - chỉ có thể so sánh được với nó, và thật xứng đáng để so sánh với nó, là cái vòi của Ganesh, vị thần đầu voi.  Và chính vì có một cái mũi như thế, mà chẳng ai có thể tranh cãi, hoặc nghi ngờ, quyền của ông, thế giá của ông, là của một vì trưởng lão, một bố già. Và chính là Tai đã dậy ông biết điều này. Khi thằng bé Aadam vừa mới qua tuổi dậy thì, ông già chèo thuyền xơ xác tiên tri: “Đây là một cái mũi mà dựa trên nó, người ta có thể tạo dựng nên cả một gia đình, hoàng tử nhỏ của tôi ơi. Chẳng thể nào có sự lầm lẫn, về chuyện, những bầy đoàn cùng máu mủ, từ cái mũi đó mà sinh sôi nẩy nở mãi ra, sẽ nhiều như thế nào. Những vị hoàng đế Mông cổ sẽ rất ư là bằng lòng, nếu phải đổi bàn tay phải của họ lấy một cái mũi như vậy. Ở bên trong cái mũi đó, là biết bao triều đại đế vương đang chờ đợi… “, và tới đây, thì ông già chèo thuyền Tai trở lại với sự thô lỗ của mình, “