*

Tribute
























Tưởng nhớ TTT

Nguyễn Chí Kham

Đọc bài viết của NCK, Gấu nhận ra một sự thực "chói lòa":
Đối với lũ chúng tôi, TTT là thần tượng, không phải văn chương, mà đời thường, và qua bài viết này của NCK, đời tù!
Mấy thằng ngu, thấy Gấu này hay nhắc tới ông, hay nhắc tới Faulkner, bèn tức điên lên, tại sao mày không nhắc đến chúng tao, cũng thi sĩ, cũng nhà văn, cũng bạn quí!
Chúng đâu có hiểu, cả trong đời sống lẫn trong cõi mộng, Gấu này bảnh hơn chúng rất nhiều: Đều có Thầy!
*
Gấu đã từng nghe, một vì giáo sư Ăng Lê, đã từng dậy một ông bạn quí của Gấu. Gấu quen ông, những ngày cuối đời, ở hải ngoại. Có lần, nhân nhắc đến đấng bạn quí, ông bèn kể, có lần thầy gặp lại trò, trong một chốn đông người, và có thể, không có cách nào để tránh mặt thầy, ông học trò bèn lừ lừ đến, chìa tay bắt tay vị thầy ngày nào, gật gù: Ngày trước moa có học toa!
Câu chuyện trên Gấu nghe "đích thân" ông giáo sư Ăng Lê, kể, nhưng cách kể của Gấu “đểu", so với thái độ "minh triết" của vị giáo sư.
Steiner, nhiều học trò như thế, vậy mà khi được hỏi, ông chỉ nhớ, một em sinh viên, nói thắng vào mặt Thầy, moa chán những bài học minh triết của toa quá rồi, moa đếch thèm học nữa. Cô bỏ đi, lặn lội đến một nơi tận cùng trái đất, để làm một cô giáo tỉnh lỵ, chắc thế, chân trần... Trên Tin Văn hình như có nhắc tới chuyện này rồi. (1)

(1) Trong đời tôi, tôi đã gặp được năm hoặc sáu sinh viên phú bẩm (doués), sáng láng (créatifs) hơn tôi. Một lần ở [Đại học] Cambridge, một trong những nữ sinh viên, con chim đầu đàn của khóa học, đã nói với tôi: "Tôi ghê tởm tất cả những gì thầy dậy tôi; tôi quá chán tất cả những gì mà thầy đại diện; tôi chẳng bao giờ thèm nghe nói về văn hóa, và tôi bỏ đi làm một người y sĩ chân trần ở Trung quốc." Vài năm sau, tôi được mời thăm Bắc kinh, và vị Đại sứ Anh quốc đã cho tôi tin tức về người đàn bà này. Bà là một y sĩ, trong một làng quê không điện không nước… Vậy đó, bà ta có lẽ là một thành công độc nhất của tôi.
Văn hóa không làm tăng tính người
*

Liệu Miền Bắc có được một thứ nhà văn, như thế? Nguyễn Tuân ư? Ông thuộc thế hệ tiền chiến, chúng ta kính nhi viễn chi, đọc ông, và… đọc ông. Còn những ông sau tiền chiến, thời xây dựng Miền Bắc XHCN, đánh địa chủ, đánh Thiên Chúa giáo, đánh Miền Nam…  lương tâm ông nào, bà nào hình như cũng có tí kít.
Miền Nam, gần như “tuyệt đại” đa số nhà văn của nó, chưa từng phải viết một dòng nịnh bợ nhà nước. Có chăng, là trường hợp nịnh tướng Râu Kẽm, vốn mê Cô Gái Đồ Long, chưởng Kim Dung, và nhân cuộc tình “Kỳ Duyên Mai”, một ông nhà thơ nhà binh [phải là nhà binh, chứ nhà thơ dân sự, đừng hòng!], bèn đi một đường "Ông về ông kẻ lông mày tí chăng?". Áo thụng vái nhau, có, trong khi đó, thử đọc lý lịch trich ngang của bất cứ nhà văn Miền Bắc, hay, đọc chân dung của họ, qua Xuân Sách, hay gần đây nhất, đọc hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh là thấy tởm! Tầng lớp tinh anh như thế, làm sao không ảnh hưởng đến tất cả xã hội?
Đâu có phải tự nhiên mà PTH phán, rũ bụi không dám làm quen!
Câu này có hai nghĩa, xuôi, và ngược.
Nghĩa ngược, cay đắng, tủi nhục, và đúng, với trường hợp PTH. Nên nhớ, bà này đã từng xổ toẹt cả đám Nhân Văn, tác phẩm để lại cho đời của họ đâu có nhiều nhặn gì, và đâu có ghê gớm gì?
Gấu, trước, cố gắng tìm cách ‘giao lưu hoà giải’, nhưng nay, thất vọng hoàn toàn, đành xổ toẹt hết: Chẳng hy vọng gì ở đám này nữa!
Đành phải nói theo HNH: Cái nước mình nó thế!
*
Viết văn là phải có Thầy, ông anh dậy. Đúng quá. Đúng với cả một nền học vấn, giáo dục, như ở trong nước hiện nay.
Đếch có thầy!
*
Anh Tâm rất hiểu tôi là người ham mê đọc tiểu thuyết. Anh cũng biết, tôi thích cuốn sách anh đã viết, nên chiều đó, với nguồn cảm hứng trong văn chương, anh rất vui lắng nghe tôi nói về cuốn tiểu thuyết của anh. Lúc này, tôi nhắc đến Thạch, Ðồng, An, Liên, và Nga là những nhân vật trong cuốn Ung Thư. Và, trong Ung Thư có một chi tiết thật cảm động, tôi rất thích đó là bối cảnh Hà Nội trong cơn hấp hối, thành phố sắp tan rã, suốt đêm Thạch đi tìm Liên khắp Hà Nội, nhưng không có nàng, sau đó anh trở về lại con hẻm cũ nơi có nhà nàng ở, đứng đầu hẻm với nỗi nhớ người yêu Thạch bụm tay lên miệng cất tiếng hú gọi tên Liên... Liên... Liên, tiếng hú vang dội đã làm bầy chó rống lên, sủa ran cả một khu phố. Tôi gợi lại chi tiết nhớ được đó, anh Tâm mỉm cười nhìn qua tôi, tôi đọc được ở trong cặp mắt anh một niềm vui rất thơ trẻ.
*
Gấu cũng nhớ đoạn văn trong Ung Thư, và nhờ nó, viết đoạn sau.
Đoạn Gấu tả, thực sự xẩy ra, và Gấu nghĩ, đoạn văn trên, cũng vậy.
Ông em TTT cho biết, những nhân vật của TTT, đa số đều có thực. Liên, có thực. Thạch, chắc là Vũ Đạo Ánh, người được đề tặng Bếp Lửa, sau tử trận. Đoạn mở Ung Thư, là cảnh Thạch rời quân trường Nam Định, nếu Gấu nhớ không lầm.
*
Nhiều lần tới nhà khi đã quá khuya, trong nhà đèn đã tắt, tất cả chắc đã yên ngủ từ lâu: Hoặc hết sức muốn gặp. Muốn nhìn thấy bóng dáng. Nghe tiếng chân di động. Tiếng lách cách mở cửa. Rồi tiếng nói, tiếng nói... Muốn liều lĩnh đập cửa ầm ầm. Bắt buộc cô hốt hoảng trở dậy, vội vã bật đèn, vội vã mở cửa. Bắt buộc cô phải nghe, phải nói, phải gật đầu ưng thuận, trong khi không có thì giờ để phân vân, cân nhắc...
Hoặc không hề có ý định gặp. Không hề trông mong cô sẽ giúp đỡ, thông cảm... Đứng yên lặng trước mái hiên hàng giờ, nghe tiếng chuột chạy trên đám lá khô, tiếng mèo kêu thảm thiết trên mái ngói, chờ cơn cuồng nộ vô ích tàn lụi dần rồi thất thểu rời con ngõ.
Cõi khác
*
Đây là tác phẩm "đầu tay", khi vừa tái định cư tại Đệ Tam quốc gia, tái ngộ cô bạn Văn Khoa ngày nào (1), nhờ vậy, mà đẻ ra được nó, đăng lần đầu trên một tờ báo địa phương, thời gian bán nước miếng, và một em du học sinh Bắc Kít đã đọc, đã điện thoại cho Gấu, mơ màng, thủ thỉ, ui chao, giá mà cháu cũng viết được như thế, nhỉ, chú nhỉ, nhỉ, nhỉ, và cúp máy đánh cụp khi nghe nhắc đến Gấu Cái!
(1)
Nghe nói mùa Thu ở đây đẹp lắm
Tụi mình chạy xe đuổi theo lá đổi mầu
Trên xa lộ
Trong thơ Nguyễn Du
Trong hạnh ngộ.
Thơ Gấu
*
Chúng ta là những người sinh ra để đi một mình suốt đời. Thanh hãy can đảm nhận lấy điều ấy. Đi một mình suốt đời khó nhọc đấy chứ. Không có một sự gì ràng buộc ta, thật là bất hạnh.
Những buổi trời lạnh, tự sửa soạn bữa ăn lấy, anh nhớ Thanh hơn hết. Anh chỉ còn có Thanh và chắc Thanh chỉ còn có anh. Hãy cho anh sự tin tưởng khi anh có dịp trở về quê hương, anh đã có sự ràng buộc, ấy là Thanh. Không phải những người bạn. Bạn chưa đủ. Buộc vào quê hương phải là những người cùng máu mủ với mình.
Bếp Lửa
Câu văn kết thúc Bếp Lửa, “Buộc vào quê hương phải là những người cùng máu mủ với mình”, sau này, đọc Benjamin viết về con bọ của Kafka, Gấu "nghi", cả hai [TTT & Benjamin] đều cùng dòng suy tưởng:
"Không phải ngẫu nhiên, Gregor Samsa thức giấc, như một con bọ, ở trong nhà bố mẹ, mà không ở một nơi nào khác."
Walter Benjamin viết về Franz Kafka, nhân ngày giỗ thứ mười, (trong Illuminations, nhà xb Schocken Books, New York).
Thành thử cái đám bỏ chạy, không đọc nổi TTT.
Luôn cả cái thứ "Tôn Phu Nhân qui Thục", thì cũng rứa!


V/v "buộc với quê hương phải là những người máu mủ ruột thịt... ".
The Paris Review: Vai trò của nhà phê bình?
Faulkner: Nghệ sĩ không có thì giờ nghe phê bình gia lải nhải. Chỉ những kẻ muốn trở thành nhà văn thì mới đọc điểm sách. Những người muốn viết chẳng có thì giờ đọc điểm sách. Phê bình gia cũng cố nói điều này, “Kilroy thì ở đây.” Phận sự của anh ta không nhắm vào chính người nghệ sĩ. Nghệ sĩ bảnh hơn phê bình gia, bởi vì nghệ sĩ viết ra một điều gì đó gây ấn tượng, làm cảm động nhà phê bình. Nhà phê bình viết ra một điều gì đó, gây ấn tượng, làm cảm động mọi người, trừ nghệ sĩ.
Những nhà phê bình cho rằng, có cái gọi là liên hệ máu huyết, và nó là trung tâm, trong những tác phẩm của ông.
Thì cũng là một quan điểm, nhưng tôi nói rồi, tôi đâu đọc họ.
*
Tin Văn sẽ chuyển ngữ bài phỏng vấn Faulkner, của The Paris Review. Một bài phỏng vấn hách xì xằng nhất, trong tất cả những bài phỏng vấn. Pamuk đã nhờ nó mà vượt qua cơn đại nạn, khi bị đồng bào của ông chửi là thằng mất gốc. Trong bài viết, được sử dụng làm bài giới thiệu tuyển tập những bài phỏng vấn của tờ The Paris Review, vol II, ông kể lại kinh nghiệm này.
Driven by Demons
*
Luôn mơ và bắn cao hơn là mình nghĩ rằng mình có thể. Đừng ngu si so bì với mấy gã cùng thời, hay mấy tên đi trước. Hãy cố mà so bì, kèn cựa, với chính mình. Nghệ sĩ là loài bị quỉ truy. Anh ta không hiểu tại sao quỉ lại chọn anh ta, và thường quá bận rộn nên cũng chẳng có thì giờ để mà tìm hiểu. Anh ta hoàn toàn vô hạnh đến nỗi trấn lột, mượn đỡ, xin xỏ, hay trộm cắp, bất cứ ai, bất cứ điều gì, miễn sao xong việc.
Nghệ sĩ chỉ có mỗi bổn phận, là nghệ thuật của mình. Anh ta sẽ khốn kiếp vô cùng [ruthless: nhẫn tâm, độc địa] nếu là một tay bảnh, có thớ. Anh ta có một giấc mộng. Nó hành anh ta, cho tới khi anh ta rứt ra khỏi nó. Chỉ tới lúc đó, anh ta mới có được cái gọi là hòa bường, bường an [peace]. Mọi chuyện coi như pha: danh dự, danh giá, hãnh diện, đoan trang, lịch sự, an toàn, bảo đảm, hạnh phúc... tất cả, bởi vì bằng mọi giá, miễn sao viết xong cuốn sách. Nếu nhà văn phải trấn lột bà cụ thân sinh ra mình, anh ta cũng sẽ chẳng có chút ngần ngại; chẳng bà già nào so được với "Ode on a Grecian Urn". [Tụng Thi về một Bình Cổ Hy Lạp. Tên một bài thơ của John Keats]
Nghệ thuật giả tưởng
*
It was consoling to read these words in a country where the demands of the community came before all else.
Pamuk
Thật ấm lòng khi đọc những dòng trên, trong một xứ sở mà đòi hỏi của cộng đồng là trước tiên, là số 1.
*
INTERVIEWER Can writing for the movies hurt your work?
FAULKNER
Nothing can injure a man's writing if he's a first-rate writer. If a man is not a first-rate writer, there's not anything can help it much. The problem does not apply if he is not first-rate because he has already sold his soul for a swimming pool.
INTERVIEWER
Does a writer have to compromise when writing for the movies?
FAULKNER
Always, because a moving picture is by its nature a collaboration, and any collaboration is compromise because that is what the word means-to give and to take.
INTERVIEWER Which actors do you like to work with most?
FAULKNER
Humphrey Bogart is the one I've worked with best. He and I worked together in To Have and Have Not and The Big Sleep.
INTERVIEWER Would you like to make another movie?
FAULKNER
Yes, I would like to make one of George Orwell's 1984. I have an idea for an ending that would prove the thesis I'm always hammering at: that man is indestructible because of his simple will to freedom.
*
Ông vẫn còn mê làm một cuốn phim khác?
Ừ. Cuốn phim về 1984 của Orwell. Tôi có một cái kết rất thú, chứng thực một đề tài mà tôi quần quật với nó: rằng, con người thì bất khả huỷ diệt, giản đơn là do ý chí kiên cường của nó, về tự do.


William Faulkner
The Art of Fiction
William Faulkner was born in 1897 in New Albany, Mississippi, where his father worked as a conductor on the railroad that was built by the novelist's great-grandfather, Colonel William Falkner (without the u), author of The White Rose of Memphis. The family soon moved to Oxford, thirty-five miles away, where young Faulkner, although a voracious reader, failed to earn enough credits to graduate from the local high school. In 1918 he enlisted as a student flyer in the Royal Canadian Air Force. He spent a little more than a year as a special student at the state university, Ole Miss, and later worked as postmaster at the university station until he was fired for reading on the job.
Encouraged by Sherwood Anderson, he wrote Soldier's Pay (1926). His first widely read book was Sanctuary (1931), a sensational novel that he claims he wrote for money after his previous books-including Mosquitoes (1927), Sartoris (1929), The Sound and the Fury (1929), and As I Lay Dying (1930)-failed to earn enough royalties to support his family.
A steady succession of novels followed, most of them related to what is now known as the Yoknapatawpha saga: Light in August (1932), Pylon (1935), Absalom, Absalom! (1936), The Unvanquished (1938), The Wild Palms [If I Forget Thee, Jerusalem) (1939), The Hamlet (1940), and Go Down, Moses, and Other Stories (1941). Since World War II his principal works have been Intruder in the Dust (1948), A Fable (1954), and The Town (1957). His Collected Stories received the National Book Award in 1951, as did A Fable in 1955. In 1949 Faulkner was awarded the Nobel Prize in Literature.
Although shy and retiring, Faulkner has recently begun to travel widely, giving talks under the auspices of the United States Information Service.
This conversation took place in New York City, early in 1956.
-Jean Stein, 1956
INTERVIEWER
Mr. Faulkner, you were saying a while ago that you don't like being interviewed.
WILLIAM FAULKNER
The reason I don't like interviews is that I seem to react violently to personal questions. If the questions are about the work, I try to answer them. When they are about me, I may answer or I may not, but even if I do, if the same question is asked tomorrow, the answer may be different.

INTERVIEWER How about yourself as a writer?
FAULKNER
If I had not existed, someone else would have written me, Hemmingway, Dostoyevsky, all of us. Proof of that is that there are about three candidates for the authorship of Shakespeare's plays. But what is important is Hamlet and A Midsummer Night's Dream-not who wrote them, but that somebody did. The artist is of no importance. Only what he creates is important, since there is nothing new to be said. Shakespeare, Balzac, Homer have all written about the same things, and if they had lived one thousand or two thousand years longer, the publishers wouldn't have needed anyone since.
[còn tiếp]
*
Ông nhận xét thế nào về ông, như là một nhà văn?
Faulkner: Nếu không có tôi, thì cũng sẽ có một người nào đó. Hemingway, Dos, tất cả chúng ta. Chứng cớ: Có chừng 300 ứng viên nhận mình là tác giả những vở kịch của Shakespeare. Nhưng điều quan trọng, là, Hamlet, là Giấc Mộng Đêm Hè - chứ không phải ai viết chúng. Có một người nào đó viết, vậy là OK. Nghệ sĩ không quan trọng. Chỉ cái mà người đó sáng tạo ra, quan trọng, kể từ khi mà chẳng có gì mới được nói ra
. Shakespeare, Balzac, Homer, tất cả viết về cùng một điều, và nếu họ sống dai như đỉa, một ngàn năm, hai ngàn năm, những nhà xb chẳng cần ai nữa, kể từ đó.
*

Hà Nội
Buổi sáng mùa đông ngây ngất, trưa còn xa.
Tôi nhớ vừa rồi đi cạnh tôi trên vỉa hè nhiều lá vàng lăn chạy, Thanh rất đẹp.
Bếp Lửa
It is a mistake to think of Oliver Twist as a realistic story: only late in his career did Dickens learn how to write realistically of human beings; at the beginning he invented life... these characters in Oliver Twist are simply parts of one huge invented scene, what Dickens in his own preface called "the cold wet shelterless midnight streets of London."
Graham Greene: The Young Dickens
Thật lầm lẫn khi coi Oilver Twist là một câu chuyện hiện thực. Chỉ muộn màng trong nghề Dickens mới đành phải học, làm thế nào viết về những con người một cách hiện thực; lúc thoạt vào nghề, ông phịa ra cuộc đời... những nhân vật trong Oliver Twist  giản dị chỉ là những phần của một khung cảnh lớn được bịa đặt ra, mà, trong lời mở đầu của chính tác giả, ông gọi là "những con phố nửa đêm không nơi trú ẩn, ướt, lạnh của London".
G. Greene: Dickens trẻ
Tôi tin rằng, những người Hà Nội bây giờ, đọc Bếp Lửa, sẽ nghĩ, đây là một chuyện phịa, theo nghĩa, không hiện thực!
*
Đoạn văn tả cuộc nói chuyện giữa ông Chính và Tâm, và nói rộng ra, toàn thể chương I của Bếp Lửa, đã tiên đoán, sửa soạn cho mọi biến động diễn ra sau đó. Tất cả những nhân vật quan trọng đều xuất hiện, và nhất là, hồn ma của một bà mẹ, cũng xuất hiện. Nhưng không thể thiếu nhân vật, tuy thứ yếu, nhưng đóng vai xúc tác, không có là phản ứng hóa học không thể xẩy ra. Nhân vật xuất hiện chỉ một lần rồi bỏ đi vĩnh viễn, bởi đã hoàn tất  phần số của nó: Mưa.
Mưa Hà Nội.
Tác giả, miêu tả những xúc động của hai nhân vật, hai thế hệ "gần nhau nhất cũng không thể hiểu nhau", bằng âm thanh, cường độ của trận mưa.
Chi tiết là Thượng Đế ở trong văn chương là như vậy.
Bạn nào đã từng xem phim OK Corral, chắc là còn nhớ, trước khi xẩy ra trận thanh toán, nhân vật chính ra thăm thú nơi mình có thể chết. Như tình cờ, anh ta châm ngọn đèn dầu trên chiếc xe. Khi trận đấu súng xẩy ra, anh ta bắn vô cây đèn, chiếc xe bốc cháy, đám người ẩn sau nó phải chạy ra.
Trong phim Shane, hình ảnh con chó từ từ rời khỏi chỗ, nhường sàn gỗ cho hai tay đấu súng.
Mưa trong Giã Từ Vũ Khí của Hemingway.
Bùn trong Bẩy Hiệp Sĩ, Seven Samourai...
Với bậc thầy, cái sự sửa soạn mới là cần thiết, mới là quan trọng.
Trong Kim Dung, Lãnh Nguyệt Bảo Đao, cuộc gặp gỡ thứ nhất giữa Miêu Nhược Lan và Hồ Phỉ, xẩy ra, khi ông bố Miêu Nhân Phượng bế con gái chạy theo vợ, bỏ đi theo trai, đuổi kịp tại Thương Gia Bảo khi tất cả mọi người bị cơn mưa cầm chân. Cô bé khát sữa mẹ, khóc ngất, bà mẹ rời tình nhân, đi vài bước tới tính cho con bú, nhưng tàn nhẫn quay ngược lại, ngồi xuống kế bên đống lửa, kế bên anh bồ đẹp trai. Thằng oắt Hồ Phỉ cáu quá, chạy ra mắng, tại sao lại có người đàn bà tàn nhẫn như thế, Miêu Nhân Phượng nhìn, nản quá, bèn bế con trở về, tha cho cả hai.
Sau đó, trong lần gặp sau cùng, cô nói với anh:
Tôi sẽ không như mẹ tôi đâu.

Như thể, cô nhìn thấy và còn nhớ hoài, cảnh tượng lần đầu gặp nhau tại TGB.
Cuộc gặp gỡ giữa cô bé còn nằm trong nôi, với người yêu còn là thằng nhóc tì làm Hai Lúa nhớ đến bài ca dao sau đây.

Sao Vua chín cái nằm kề,
Thương Em từ thuở Mẹ về với Cha.
Sao Cày ba cái nằm ngang,
Thương Em từ thuở Mẹ mang trong lòng.
Sao Vua chín cái nằm chồng,
Thương Em từ thuở Mẹ bồng trên tay.
Sao Cày ba cái nằm xoay,
Thương Em từ thuở Em hay khóc nhè.
Và nhớ luôn cả vẻ mặt của ông bạn thân, và còn là người đưa thư, khi thấy thằng bạn mình mê BHĐ:
-Làm sao mà mày có thể mê nó? Tao đã từng thấy nó ỉa đùn, từ trên đầu cầu thang chảy xuống tới mãi mấy bực bên dưới hồi nhà nó còn ở đường PĐP!
Bếp Lửa_Hà Nội
*
Bà vợ của Đả Biến Thiên Hạ Vô Địch Thủ Kim Diện Phật Miêu Nhân Phượng, sở dĩ tàn nhẫn đến mức như vậy, là cũng có lý do.

Độc giả Kim Dung thường chỉ mê những tác phẩm nổi cộm của ông, nhưng với riêng Gấu  này - và chắc chắn, còn khá đông độc giả - cuốn tuyệt nhất của ông phải là câu chuyện về chú bé Hồ Phỉ, tức Tuyết Sơn Phi Hồ.
Nếu Bích Huyết Kiếm được coi là một trong Tân Lục Tài Tử, thì Tuyết Sơn Phi Hồ sợ còn xứng đáng hơn nó nhiều.
Thời gian ở tù tại nông trường cải tạo Đỗ Hoà, bổng lộc ngoại của Gấu, ngoài thăm nuôi mỗi tháng một lần của gia đình, là do kể chuyện chưởng mà có được. Và bổng lộc ngoại này mới thật là tuyệt vời, thuờng là trà, thuốc lào, và đồ ăn mặn, thí dụ, mắm cá linh, ba khía.