*
Cái đầu cực kỳ thông minh nè!
OLD MARX
Cụ Mác
Self-Portrait

Trang thơ Zagajewski
Tưởng Niệm Czeslaw Milosz [1911-2004]

Trí Tuệ và Những Bông Hồng
Adam Zagajewski

Lần qua Cali mới rồi, buổi tối sáng sớm hôm sau trở về Xứ Lạnh, Gấu ngồi uống rượu với mấy ông bạn, thật cũ, có, cũ, có, mới có, thật mới tinh, có, nhân bàn về thơ, về một nhận xét của DT về TTT: Không có truyền nhân, một ông nhà thơ cùng ngồi nhậu sửng cồ, không có truyền nhân thì đã sao? Cần đếch gì truyền nhân!
Gấu này vẫn bị băn khoăn về lời phán của DT đối với cõi thơ TTT, cho đến khi đọc Milosz, và đọc bài viết tưởng niệm ông, trên.
Thơ TTT có gì giống thơ Milosz, cái mùi vị của nó là từ trí tuệ, chứ không chỉ là hương hoa hồng.
Bữa hôm sau, trên chuyến máy bay về lại Xứ Lạnh, Gấu ói đến mật xanh mật vàng.
Vì bữa rượu chăng, Gấu tự hỏi?
*
Trong Native Realm chúng ta thấy có những chương về lịch sử, và luôn cả, kinh tế, như thể Milosz muốn nói, tôi sẽ chỉ ra cho bạn thấy, là, thơ có thể được làm từ không-thơ [nonpoetry], là, tứ thơ mạnh là nhờ được nuôi dưỡng tẩm bổ bởi những thức ăn của trần gian, chứ không phải do chúi mãi vào vùng nội tại, cõi riêng tư. Không bay bổng, cũng không “bỏ chạy” như là Đảng buộc tội, nhưng thẩm thấu, đó là phương pháp của Milosz. Không thẩm thấu khô khan nghèo nàn [sterile], giống như người ta tiêm nước biển ở bệnh viện, không khách quan, không bắt chước – người ta làm thì mình cũng làm như vậy. Nhưng đây là một phương pháp thẩm thấu cá nhân, và theo một nghĩa nào đó, nó mang tính đạo hạnh, tới mức có thể coi đây là một phương pháp tu thân, tu đạo, bởi vì thơ là nhắm tới hiểu cái không thể hiểu, một phương pháp tri hành mà tôi muốn gọi là “nhân văn, nhân bản” [humanistic], nhưng từ này đã bị người đời quá lạm dụng ở trong những sảnh đường đại học, nên nó đã bị tổn thương, hư hại.

Đặc biệt hơn, Milosz nhắm tới chuyện, không loại bỏ đối nghịch, xung đột. Những tài năng kém cỏi hơn thường chọn và phát triển khuynh hướng trùm chăn, hay mũ ni che tai, hay sên chui vào vỏ, để trốn tránh những luồng gió trái nghịch, những tư tưởng đối đầu, và ở trong túp lều, trong vỏ sò, họ sáng tạo những bài thơ nho nhỏ, những tiểu phẩm. Vừa như là một nhà thơ, vừa như là một nhà tư tưởng, Milosz can đảm ôm trọn cả một cánh đồng, một môi trường để thử nghiệm chính mình, chống lại những kẻ thù, như thể ông tự nói với chính ông, ta sẽ sống sót thời của ta, bằng cách nuốt trọn lấy nó, tiêu huỷ nó ở trong ta, thẩm thấu nó, coi nó như là một món ăn mầu mỡ, [để nuôi mình và nuôi thơ]. Tuy nhiên, những kẻ thù đó, thường xuyên tấn công ông, vào những lúc không chờ nhất, chẳng đợi nhất. Và chàng sinh viên ở Đại học Wilno chẳng thể nào tưởng tượng ra được, biết bao trở ngại mà anh ta phải hiểu ra, chấp nhận, và vượt qua, biết bao lần thấy mình kề cận bên cái chết, sự câm lặng, và tuyệt vọng, chán chường…
Trí tuệ và những bông hồng
*
Mới đây thôi, Gấu thấy trên net, một ông nhà thơ Việt Nam "va chạm" với Milosz, nhưng ông không cho biết, "nguyên tác", hoặc, bản tiếng Anh (1), thành thử thật khó nói. Vào cái thời net như hiện nay, tốt nhất, nên có nguyên bản kèm bản tiếng Việt, như vậy đỡ va chạm bậy. Trên Tin Văn, cố làm như vậy, vừa dễ cho bạn đọc, khi cần tra cứu nguyên gốc, vừa đỡ cho dịch giả, khi có độc giả chỉ cho biết, bản dịch chưa đạt.

(1) "Điều khác biệt giữa những nhà thơ Bắc Mỹ và những nhà thơ Đông Âu và Châu Mỹ La-tinh là những nhà thơ Bắc Mỹ dùng bản thân như một nguồn gốc, trong khi những nhà thơ kia dùng bản thân như một dụng cụ…".
Trích Da Mầu

Câu trên, bị cắt ra khỏi nội dung của nó, thành thử không thể nào mà hiểu được, và càng thật vô phương, coi nó là "thức ăn của tư tưởng".
Nhà thơ Việt nói trên, biết Milosz qua bản dịch của Diễm Châu, mà ông này, thú thực, Gấu không dám tin ở tài dịch của ông, ấy là vì ông dịch đủ thứ thơ, đủ thứ thi sĩ, và dịch nhanh, dịch giỏi, chính những điều hay điều giỏi của ông làm Gấu nghi ngại.
Bởi vì thơ không dễ dịch, ngay cả việc, hiểu một bài thơ tiếng Việt, làm bởi một người Việt.
Nói một cách khác, một khi bạn, Mít, đọc, một bài thơ Mít, mà "cảm" nó, như vậy là bạn đã "dịch" nó.
Hiểu, có nghĩa là dịch, là vậy!
Theo nghĩa này, Coetzee khuyên, không nên đọc hết, hiểu xong, một bài thơ, rồi mới bắt tay vào việc dịch. Cứ dịch tới đâu, hiểu tới đó. Nghĩa của bài thơ từ từ lộ ra, khi được chuyển qua một ngôn ngữ khác. (1)

(1) The translator does not first need to understand the text before he translates it. Rather, translating the text becomes part of the process of finding - and making - its meaning; translating turns out to be only a more intense and more demanding form of what we do whenever we read.
Coetzee: Rainer Maria Rilke, in “Stranger Shores”.

Gấu biết đến Milosz và một số nhà văn bỏ chạy thiên đàng khác, thí dụ Manea, là qua tờ Partisan Review. Đây là những nhà văn nhà thơ mà dân Mít cần đọc, và Gấu tự hỏi, tại sao không có một tay nào như họ, ở trong đám những ông Yankee mũi tẹt bỏ chạy thiên đàng, và liệu đây có phải là lý do đất nước Mít của chúng ta thật khó rũ bỏ nọc độc Mác xít? (1)

(1) Kinh nghiệm của Milosz, khi sống dưới chế độ CS, thật quá quí báu cho chúng ta. Không chỉ riêng ông, mà còn của vài người như ông, thí dụ Manea.
Ông rất buồn, khi nghĩ rằng, ta được người đời biết đến, chỉ như là tác giả, của cuốn Cái đầu bị cùm!
Thí dụ, kinh nghiệm sau đây, của ông, mà chẳng thú sao?

January 9, 1988
Two days ago I saw Bertolucci's film The Last Emperor. It is about the beneficent influence of prison pedagogy, which, after ten years of brain-washing, is capable of transforming even a former emperor and collaborator with the Japanese into an honorable citizen. A hymn in praise of ispravitel'notrudovye lageri [Russian for "corrective labor camps"] in their Chinese incarnation. I remember the film A Path into Life about the superb pedagogues of the NKVD. But the American public, enchanted by the of the stage sets, does not even notice the thesis that is being served up to it and assimilates only the information that the Japanese were naughty and the collaborators were punished humanely (gumanno).

Milosz: A year of the hunter
*
Ui chao, Gấu đọc, và lại nhớ tới những bài tự kiểm nổi tiếng của mấy ông sĩ quan cải tạo, vinh danh nhà nước ta!
Và nhớ, những ngày làm báo Cách Mạng của chính Gấu, thời gian ở công trường cải tạo Đỗ Hòa!
Thú thực, đó là những ngày tuyệt vời nhất, trong đời Gấu!

*
Như đã từng kể, hồi nhỏ, nhà nghèo, mỗi lần được người lớn cho ăn một miếng thịt, thằng cu Bắc Kỳ Gấu không dám ăn liền, mà giấu xuống đáy bát cơm, để dành, tới giờ chót, tàn bữa ăn tuyệt vời, thì mới mang nó ra để mà nhâm nhi, thưởng thức cái mùi thịt. Kinh nghiệm này, Gấu nghiệm ra, không chỉ ở Gấu, mà còn ở bà nội của Gấu. Vào những ngày Gấu còn bé, Bà đã ao uớc giùm cho Gấu, khi nào mày được 15 tuổi, mỗi lần giỗ lớn của dòng họ Nguyễn, là mày có phần thịt đấy cháu ạ. Trước khi chết, Bà của Gấu chỉ mong, giá mà có bát phở Trung Hà mà ăn rồi chết, thì thật là tuyệt, tuyệt!
Thành thử cái ông tiến sĩ kinh tế gì đó, phán, Ngụy tham nhũng gấp 10 lần Cách Mạng, là không hiểu tới tận gốc vấn đề tham nhũng của đám Yankee mũi tẹt.
Trong cái vụ vơ vét chiến lợi phẩm, tiềm ẩn ở trong đó, có giấc mơ của bà nội của Gấu!
Ui chao biết bao giờ mới tàn bữa ăn tuyệt vời ăn cướp Miền Nam!
*
Ui chao, biết đến kiếp nào, mới quên được, món ăn đầu tiên được BHD gắp cho! (1)
*

Căn nhà gỗ, vách ván, nền tráng xi măng, mái thấp, đứng ở ngoài hiên, hơi kiễng chân có thể lùa tay dọc theo con máng, lùa mớ lá khô, rồi sau đó, lấy rẻ ướt vét sạch lớp bụi cát do những chuyến xe đò chạy trên đường lộ lùa tới, lưu cữu dưới lòng máng sâu, mùi xăng nhớt lẫn trong luồng hơi nóng bị vách ván cùng những cánh cửa sổ đóng kín, ngăn chặn, quanh quẩn trong hiên, đánh thức những giấc ngủ trưa chập chờn, bài hoải trên chiếc ghế bố ở cuối hiên, đánh thức luôn những xúc động nhỏ nhặt, những ước muốn mơ hồ, không rõ rệt... Một lần giở một khúc máng gỉ nát tính sửa chữa, tình cờ tìm lại được cả một tập thư tình viết cho L.H. Những bức thư tình viết đầu tiên trong đời, trong đêm khuya, dưới ánh đèn lén lút chiếu sáng vừa đủ trang giấy, lo sợ, không phải ánh sáng đèn, nhưng mà là những xúc động rồn rập (nhiều lúc làm nghẹt thở), làm mọi người thức giấc; càng về khuya, chữ càng thêm nặng nề, nhưng vẫn không thể nói hết, thỉnh thoảng viết được một vài điều thật cảm động, (những kể lể sướt mướt, những lời nói họa hoằn của nàng vẫn còn đọng lại, tiếng cười, cử chỉ của nàng khi vẫy tay từ giã, hẹn kỳ hè tới sẽ gặp lại...), vội vã tắt đèn, ngồi yên lặng trong bóng tối, sợ hãi chính nỗi xúc động của mình, chúng có thể gây nên những tiếng động lịch kịch như tiếng bàn ghế di chuyển, làm ngọn đèn cháy sáng trở lại, nỗi xúc động giống như nỗi cô đợn nhiều khi đột nhiên thái quá, làm ngây ngất, khó chịu. Những bức thư viết nhưng không bao giờ gửi, không phải sự sợ hãi, không phải quá rụt rè khi gặp nàng, nhưng mỗi lần tính đưa, thì một cử chỉ vô tình của nàng làm khựng lại, ngay chính người đưa thư cũng nhận ra sự vô ích, thừa thãi, nhưng tại sao vẫn.... Tưởng tượng nếu nàng đọc những bức thư đó, có cảm giác chết cứng vì tủi hổ, nỗi cô đơn đột nhiên bị tước đoạt, cảm giác trần truồng trước mặt nàng, trước người khác... Những bức thư được giấu kỹ trong đống sách vở, ở dưới đệm giường, ở dưới lòng máng, chỗ an toàn nhất không sợ chị Thu lục lọi ngăn kéo hộc bàn tìm mẩu viết chì, thỏi gôm, lật những cuốn tập, vô tình thấy, tò mò đọc, chắc chắn sẽ cười cợt, chế giễu, nhưng có thể sẽ thương hại; xấp giấy được giấu kỹ như những món quà, bánh được ba má chia đều cho hai chị em, thường để dành, tìm chỗ cất giấu, nhiều khi mải chơi, quên luôn, khi nhớ tìm lại, kiến bu quanh, hoặc chuột đã tha đi đâu mất tích, xấp giấy nay cũng bị gián nhấm tả tơi, chữ thiếu hụt, chỗ còn mất, nước mưa làm nhiều chỗ trở nên trắng bệch, mất cả buổi sáng tìm cách vá víu, chắp nối, nhưng không thể, quá khứ...
Mùa Hè Miền Nam
(1) Đang nhớ em đến phát khùng, đọc mấy dòng này, muốn khùng thực:

Mưa Đèo Ngang
Đèo Ngang, mưa. Loay hoay bên Hoành Sơn Quan, tự hỏi, ngày trước đứng ở đâu mà Bà Huyện có thể nhìn thấy mấy ngôi nhà và những chú tiều. Cơn mưa do đợt gió mùa cuối cùng đưa về khiến cho những ngọn gió tháng Tư trở nên mềm mại. Nhưng, phải xuống đèo mới thấy, những gì mà nó mang lại còn ý nghĩa hơn nhiều.
Chiều, như khói, lam phủ những cánh đồng. Lúa lầm lũi rảo tận chân núi hoặc trải kín tới những rặng tre. Tự dưng liên tưởng tới mười năm trước, trên đường 5, cùng với Vinh, một designer, đi xuống Hải Phòng, giúp anh kiếm nhà của người yêu cũ. Giữa thập niên 80, từ Hội An, Vinh vượt biên, mấy chục ngày lạc đường lênh đênh trên biển, chứng kiến những ánh mắt hoảng hốt của những người sắp chết lo sợ những người còn lại sẽ cố giữ mạng sống bằng cách ăn thịt mình. Thế nhưng, Vinh đã sống 4 năm vô vọng trong trại tị nạn Hồng Kông. Cao uỷ tị nạn LHQ khi ấy, thay vì tìm một nước thứ ba cho những người vượt biên định cư, cố gắng đưa Vinh về nước.
Ở Hồng Kông Vinh quen một cô gái người Hải Phòng. Họ yêu nhau nhưng cảm thấy tuyệt vọng nếu như cuộc vượt biển đầy chết chóc của họ bất thành. Vinh trở về, chấp nhận để cho người yêu nhận lời bảo lãnh từ một người đàn ông khác. Cuộc sống đưa đẩy, mãi tới năm ấy nhân nhận lời làm một tờ báo cùng tôi, Vinh mới có dịp, lần đầu tiên ra Bắc. Trong buổi chiều đầu tiên ra Hà Nội, Vinh có nguyện vọng xuống Hải Phòng. Tôi đã sử dụng tất cả các mối quen biết, thế nhưng, không làm sao giúp Vinh kiếm được nhà của cô gái ấy.
Trên đường trở về, tôi một bên, Vinh một bên, cả hai nhìn ra ngoài cửa xe. Những cánh đồng dọc theo đường 5 chiều ấy cũng như ảo. Thỉnh thoảng, những đụn khói lặng lẽ loang ra từ những khóm đốt đồng. Tôi không nỡ nhìn vào mặt Vinh, không nỡ hỏi. Tự dưng, có cái gì đó, dâng lên ở bên trong, căng căng, nghèn nghẹn. Có lẽ đấy là một cảm giác chia sẻ. Có lẽ, khi ấy tôi cũng nghĩ tới người phụ nữ mà tôi đang yêu. Cảm giác nghèn nghẹn cũng từng xuất hiện mỗi khi điện thoại không kiếm được em. Và, nhớ da diết mỗi khi em sơ ý trở mình dịch xa tôi một chút.
Những cánh đồng ôm sát bìa làng đã từng nuôi nấng những cảm giác của tôi. Năm 16 tuổi, tôi vẫn rảo chân bên những rìa làng để gặp một cô gái học dưới tôi một lớp. Sáng, tới trường cùng nhau. Trưa, trở về cùng nhau. Mà, vẫn nhớ không thể nào chịu nổi. Chiều, vẫn tìm cách vượt một quãng đồng nhỏ chạy tới nhà em. Em biết. Em ngồi nhặt rau, xích ra bậc cửa một chút cho tôi nhìn thấy. Ngày nào em không nhặt rau, trong tôi, lại có cái gì đó dâng lên, gần như nghẹt thở.
Cử chỉ mà tôi vẫn cho là sự dâng hiến của em cho tuổi 16 của tôi là những ngón tay mảnh mai, dịu dàng, một lần duy nhất, đưa lên mở chiếc cúc áo sơ mi trên cùng vốn vẫn được tôi cài kín và nói rất nhỏ: “Như thế này, nom cậu nghiêm quá”. Cho tới tận bây giờ, áo tôi mặc vẫn hay cài kín. Chỉ thỉnh thoảng, bất giác, tự đưa tay mở chiếc cúc trên cùng. Rất lạ là vẫn thấy nghẹn nơi lồng ngực.
Blog Osin


30.4.2008: Người xa vắng biết đâu nấm nhà buồn?
Nhân đọc bút ký chính trị của Nguyễn Khải
Tôi làm sử kinh tế, có đầy đủ số liệu chứng minh, họ chịu.
Nguồn

Cái này, chỉ một mình ông phán, một mình ông nghe.
Ông làm sử kinh tế? Cái món này nghe cũng mới đấy. Từ hồi nào? Trước đây, hay là sau này?
Và bộ cứ làm sử kinh tế là có đủ số liệu chứng minh? Ông lấy ở đâu ra vậy? Hay là cái đám tham nhũng Miền Nam ngày nào, mỗi lần bán thuốc Tây cho VC là phải thông báo cho ông?
Nếu đúng như thế, ông còn bảnh hơn cả Phạm Xuân Ẩn.
Nổ vừa vừa thôi, cha nội!
Ẩn câm như hến, vậy mà chết còn khó đi, nổ kiểu này, sợ hết đi luôn!
*
Tính hài hước là cái thứ mà người cộng sản ghét nhất vì nó có thể biến mọi chuyện thiêng liêng thành trò cười. Một học thuyết không thể chứng minh sự đúng đắn của nó trong thực tiễn thì trước sau sẽ biến thành tôn giáo. Vì tôn giáo là niềm tin, là thói quen, là tập quán, là vâng phục, là ở thế giới này chỉ có một chân lý, ngờ vực nó, đặt quá nhiều câu hỏi về nó chỉ là kẻ phản đồ, phải bị trục xuất khỏi cộng đồng, phải bị cách ly, bị ngồi tù để tránh mọi sự truyền nhiễm có thể.
Nguyễn Khải: Bút ký chính trị
*
Cái sự người CS ghét hài hước, Kundera đã từng chỉ ra. Những gì ông viết đều xoáy vào đề tài này. Người CS ghét nhất nó, chắc chắn, nhưng không "chỉ vì nó có thể....", mà còn là vì, đây là hiện đại tính, vẫn theo Kundera:

Kundera coi tiểu thuyết là sản phẩm của Âu châu. Và nó là một cuộc hôn nhân giữa sự không-nghiêm trọng và chuyện chết người. Chúng ta sẽ cùng với ông chứng kiến một cảnh trong "Cuốn Sách Thứ Tư" của Rabelais. Giữa biển cả, chiếc thuyền của Pantagruel gặp một con tầu chở cừu của mấy người lái buôn. Một người trong bọn thấy Panurge mặc quần không túi, cặp kiếng gắn lên nón, đã lên tiếng chế riễu, gọi là anh chàng mọc sừng. Panurge lập tức trả miếng: anh mua một con cừu, rồi ném nó xuống biển. Vốn có thói quen làm theo con đầu đàn, những con kia cứ thế nhào xuống nước. Bọn lái buôn hoảng hốt, cố níu lại, và bị kéo theo, vì quá tiếc của. Panurge cầm cây chèo xua ra xa mỗi lần họ cố bám vào thuyền, trong khi rao giảng về những sự khổ đau của cõi này, so với hạnh phúc đời đời ở nơi họ sắp tới. Câu chuyện không thực, vô lý, không thể xẩy ra; nhưng liệu có một bài học đạo đức từ đó? Phải chăng Rabelais muốn tố cáo sự thô lỗ, tính bủn xỉn, keo kiệt của những người lái buôn, và cách trừng phạt họ, của anh, làm chúng ta hài lòng? Hay là ông muốn chúng ta phải phẫn nộ, vì sự độc ác của Panurge? Hay là tác giả muốn "phỉ báng" tôn giáo? Chúng ta tha hồ đoán, nhưng mỗi câu hỏi là một cái bẫy.
Octavio Paz nói: "Không có diễu cợt, trong Homer hay Virgil; Arosto có vẻ như đã thấp thoáng nhận ra, nhưng phải tới Cervantes nó mới định hình... Diễu cợt là phát kiến lớn lao nhất của tinh thần hiện đại". Cần phải nhấn mạnh, đây là ý tưởng cơ bản: Diễu cợt không phải là một lề thói cư xử (practice), của cổ nhân. Rằng diễu cợt (humor) không phải là tiếng cười (laughter), sự nhạo báng (mockery), châm biếm (satire), nhưng là một thể loại đặc biệt của "tếu" (comic); Paz nói, "tếu" đụng tới đâu là làm cho mọi chuyện trở nên hàm hồ tới đó. Những người chẳng cảm thấy "tếu", về cảnh tượng Panurge rao giảng cõi sau hạnh phúc, trong khi dìm những người lái buôn xuống biển, họ sẽ chẳng hiểu một tí gì về nghệ thuật tiểu thuyết.

Những đứa con của tiểu thuyết

Một học thuyết không thể chứng minh sự đúng đắn của nó trong thực tiễn thì trước sau sẽ biến thành tôn giáo. Vì tôn giáo là niềm tin, là thói quen, là tập quán, là vâng phục, là ở thế giới này chỉ có một chân lý, ngờ vực nó, đặt quá nhiều câu hỏi về nó chỉ là kẻ phản đồ, phải bị trục xuất khỏi cộng đồng, phải bị cách ly, bị ngồi tù để tránh mọi sự truyền nhiễm có thể.
NK
Những lèm bèm, như trên, của Nguyễn Khải nhảm, đại nhảm.
Lạ, là ông khởi nghiệp văn, bằng cú đánh thẳng vào "hang ổ" của Ky Tô giáo, ở Miền Bắc, là vùng Quỳnh Lưu, Phát Diệm, nếu Gấu nhớ không lầm.


*

Russia's iron-willed leader has rebuilt his country as a great power-and an irritant to the West

By Madeleine Albright

I HAVE FRIENDS WHO PREDICT THAT VLADIMIR PUTIN WILL FIND HIS NEW POSITION AS RUSSIAN PRIME MINister a comedown after eight years as President. I doubt it. Putin is more likely to define his job than be defined by it. After our first meetings, in 1999 and 2000, I described him in my journal as "shrewd, confident, hardworking, patriotic, and ingratiating." In the years since, he has become more confident and-to Westerners decidedly less ingratiating.
Some believe Putin's KGB background explains everything, but his allegiance to the KGB is in turn explained by his intense nationalism-which accounts for his popularity in Russia. Timing matters in history, and Putin has had the benefit of high oil prices and the contrast with his predecessor, Boris Yeltsin. His vision of Russia is that of a great power in the old-fashioned European sense. Such powers have spheres of influence and subjugate lesser powers. At home, they celebrate national traditions and prize collective glory, not individual freedom.
Tolstoy described the 19th century count Mikhail Speransky as a "rigorous-minded man of immense intelligence, who through his energy ... had come to power and used it solely for the good of Russia." What one found disconcerting, though, "was Speransky's cold, mirror-like gaze, which let no one penetrate to his soul [and) a too-great contempt for people." It is possible to love the idea of a nation without caring too much for its citizens.
It is unlikely that Putin, 55, will wear out his welcome at home anytime soon, as he has nearly done with many democracies abroad. In the meantime, he will remain an irritant to NATO, a source of division within Europe and yet another reason for the West to reduce its reliance on fossil fuels.
Albright is a former U.S. Secretary of State
*
Time ra số đặc biệt 100 tay ảnh hưởng nhất trên thế giới. Đứng đầu là Đức Phật Sống, thứ tới Nga Hoàng Đỏ, Putin, mỗi người được viết bởi một chuyên gia rất rành về người mình viết về.
Bài viết về Dalai Lama, dưới đây, có những câu thật thú: "Hàng triệu người nhìn về Ngài, cầu niềm hứng khởi. Nhưng Ngài nhìn về ai?"
Hay câu này, của Dalai Lama: "Tôi không không thích người Trung Quốc, chỉ không thích những hành động của họ" [I don't dislike the Chinese, only their actions].

Dalai Lama.
Tibet's beacon of peace maintains a calm compassion-even as Beijing cracks down on his people

By Deepak Chopra
MILLIONS OF PEOPLE TURN TO THE DALAI LAMA for inspiration, but to whom does he turn? He and his people have struggled all their lives with the audacity of hopelessness. Oppression and exile are their daily bread. Yet the Dalai Lama, 72, remains calm in the face of cruelty. What does he think of the human race? "We are the superior species on Earth but also the biggest troubleemakers," he once told me.
China's rulers aren't like the British masters of colonial India, and the Dalai Lama's Gandhiesque nonviolent struggle won't give them twinges of conscience, leading to Tibet's freedom. If anything, Beijing has grown more ruthless in suppressing Tiibetan aspirations, as we've seen this Olympic year. And yet he has found a way to think kindly of those who oppress his people and vilify his name. I found him unwilling to show any harshness. He said to me, "I don't dislike the Chinese, only their actions."
To me, the most mystical thing about him is also the most ordinary: the Dalai Lama is happy. He's happy in the midst of chaos and turmoil. The most inspiring thing he ever told me was to ignore all organized faiths and keep to the road of higher con· sciousness. "Without relying on religion, we look to common sense, common experience and the find· ings of science for understanding," he said. I do the same thing, but I still marvel at this model of calm and compassion. I'm sure neuroscientists would love to know what's going on inside that brain.
To whom, then, does the Dalai Lama turn for inspiration? It's not a person but a place-beyond I and thou, beyond self and nonself. The wonder isn't that such a place can be found. The wonder is that one man makes it look so easy.
*
Chopra, who has met the Dalai Lama several times, is auuthor of more than 50 books on spirituality and medicine.
*
Gấu, mô phỏng Ngài, phán:
Gấu không không thích Yankee mũt tẹt, chỉ không thích một tên Yankee mũi tẹt: Gấu!

"Điều thần bí nhất ở Ngài, cũng là điều bình thường nhất: Ngài hạnh phúc!"
Tuyệt!
Nhưng, bất giác, Gấu nhớ đến câu của Gấu, viết về cô bạn, từ trước 1975, đúng những ngày Mậu Thân:

Những ngày Mậu Thân căng thẳng, Đại Học đóng cửa, cô bạn về quê, nỗi nhớ bám riết vào da thịt thay cho cơn bàng hoàng khi cận kề cái chết theo từng cơn hấp hối của thành phố cùng với tiếng hỏa tiễn réo ngang đầu. Trong những giờ phút lặng câm nhìn bóng mình run rẩy cùng với những thảm bom B52 rải chung quanh thành phố, trong lúc cảm thấy còn sống sót, vẫn thường tự hỏi, phải yêu thương cô bạn (một cách bình thường, giản dị) như thế nào cho cân xứng với cuộc sống thảm thương như vậy...

Ui choa, bình thường thì có, nhưng không có hạnh phúc!
*

Trong những kỳ tới, Gấu sẽ nhẩn nha đi vài đường giới thiệu một số trong 100 danh nhân kể trên. Trong bài viết của Roddick, cao thủ tennis, về Andre Agassi, có trích câu của Ashe, đều là cao thủ tennis:
Từ cái mà chúng ta có được, chúng ta sống nhờ nó; tuy nhiên, điều mà chúng ta cho đi, làm nên một cuộc đời.
From what we get, we can make a living; what we give, however, makes a life.
Khi đàn em Roddick hỏi đàn anh, điều đàn anh ân hận là gì, đàn em nghĩ, đàn anh sẽ ban cho một lời vàng ngọc về nghệ thuật chơi tennis, không ngờ đàn anh buồn rầu than, giá mà tớ thành lập cái hội giúp đỡ trẻ em (1) sớm hơn một tị thì hay biết mấy!
(1) Andre Agassi College Preparation Academy, a school for disadvantaged children in Las Vegas.
Không có ông hay bà nhà văn nào trong số 100 người do Time chọn.