Nguyễn Quốc Trụ
phụ trách
CHUYỂN NGỮ
|
Trí
Tuệ và Những Bông Hồng
Trong
Tản Mạn về
Phim và Những ngày ở Sài Gòn, nhân
thiên hạ
đang bàn về cuốn phim Mê Thảo, từ Chùa Đàn của Nguyễn Tuân mà ra, tôi
có “liều
lĩnh” coi Chùa Đàn, gồm ba phần, mang trong nó thai đố mà con nhân sư
đã đặt ra
cho Oedipe: con vật nào buổi sáng đi bốn chân, buổi trưa hai, buổi
chiều ba.
Thật thú
vị,
mới đây thôi, đọc
Adam Zagajewski trong bài tưởng niệm nhà thơ Milosz vừa mới mất trên tờ
Điểm
Sách Nữu Ước, số đề ngày 23 tháng Chín 2004, Trí Tuệ và Bông Hồng, ông
cũng coi
cuộc đời của Milosz gồm ba giai đoạn, có thể coi như câu trả lời cho
thai đố mà
con nhân sư đặt ra cho thế kỷ 20.
Tưởng Niệm
Czeslaw Milosz
[1911-2004]
Trí Tuệ và Những Bông Hồng
Adam Zagajewski
Bài tiểu
luận sau đây được viết
như là bài điểm tập thơ “This” [Cái
này, đây này…], bản tiếng Ba Lan,
xuất bản
năm 2000. Bài thơ nhan đề “This”, bản tiếng Anh, có trong Tuyển Tập
Thơ, New
and Collected Poems:
1931 – 2001,
xb năm 2001. Bài tiểu luận sẽ có trong cuốn A Defence of Ardor [Bảo Vệ
với Nhiệt
Tình], nhà xb Farrar, Strauss and Giroux phát hành vào Tháng Mười, 2004.
Điểm Sách Nữu Ước.
“Một
tay
chạy 100 mét, tại vận động
trường Olympic, trước muôn vàn khán giả, từ điểm xuất phát, anh ta bật
lên, dán
mình vào đường chạy, mắt nhìn đích phía trước, như muốn nuốt chửng lấy
nó. Tới
nửa cuộc đua, anh ta bật thẳng người, như ngọn núi Mont Blanc, và khi
gần tới
điểm tới, anh quay người nhìn lại, không phải chỉ vì mệt, nhưng mà còn
để chime
ngưỡng sự cân xứng ẩn giấu của vũ trụ. Đây chính là hình ảnh về cõi thơ
của
Milosz. Vào những năm đầu đời, những tiếng thơ thầm thì đáng yêu của
ông đọc ra
những bí ẩn của những thế giới và những ngọn lửa, những tai ương kỳ
tuyệt. Tới
lúc trưởng thành, ông quan sát, ngợi ca, và chỉ trích thế giới thực,
thế giới
của lịch sử và của tự nhiên, và tới những năm thuộc giai đoạn chót của
cuộc
đời, ông trở nên ngoan ngoãn tuân theo những đòi hỏi của hồi ức, vừa
riêng tư,
vừa siêu riêng tư [suprapersonal].
Lẽ dĩ
nhiên ông đâu phải là tay
chạy 100 mét, mà là một người đã đạt tới tuổi chín mươi, một tay chạy
đường
dài, không mệt mỏi. Tác phẩm “This” của ông là một trong những thành
quả lớn
lao mà ông đã đạt được. Và vận động trường kia thì thường là trống vắng
một
cách đau thương, hay đầy những khán giả mặt hầm hầm thù hận hay ra vẻ
nhạo
báng; người vận động viên cũng có phần của nỗi cô đơn của mình ở trong
đó. Trả
lời cho thai đố của con nhân sư đặt ra cho Oedipe, chính là sự tiến hóa
của cõi
thơ Milosz, qua ba dáng đứng, lúc khởi đầu, giữa cuộc đua, và khi tới
đích.
Stendhal
có nói, văn chương là
nghệ thuật của sự sàng lọc, tuyển chọn, kể từ khi mà nó được trao cho
trách
nhiệm “hãy để qua một bên”, nghĩa là hãy lọc ra, những rác rưởi.
Widekind cũng
nói một điều tương tự như vậy, và chắc là còn nhiều người nữa, đặc biệt
là
những nhà hiện đại, the modernists. Tác phẩm của Czeslaw Milosz hình
như là
đuợc tạo thành, từ một nguyên lý đối nghịch hẳn với cái ở trên: Đừng bỏ
gì
hết! Không phải theo nghĩa dập xóa, thêm
bớt, khi tác phẩm còn đang ở trong dạng bản thảo - bởi vì hiển nhiên
làm sao có
tác phẩm nếu không có đắn đo lựa chọn, gạch xóa - nhưng mà là theo
nghĩa “chính
trị mang chất thơ” [poetic politics] của Milosz, vốn đã được nhiều
người cảm
nhận. Muốn hiểu rõ thêm, bạn chỉ cần mở ra một tác phẩm có tính tự
thuật, Cõi
Quê, Native Realm [1958], Cầm Tưởng, Captive Mind [1953], hay bất kỳ
một tập
thơ nào của ông.
Trong
Native Realm chúng ta thấy
có những chương về lịch sử, và luôn cả, kinh tế, như thể Milosz muốn
nói, tôi
sẽ chỉ ra cho bạn thấy, là, thơ có thể được làm từ không-thơ
[nonpoetry], là,
tứ thơ mạnh là nhờ được nuôi dưỡng tẩm bổ bởi những thức ăn của trần
gian, chứ
không phải do chúi mãi vào vùng nội tại, cõi riêng tư. Không bay bổng,
cũng
không “bỏ chạy” như là Đảng buộc tội, nhưng thẩm thấu, đó là phương
pháp của
Milosz. Không thẩm thấu khô khan nghèo nàn [sterile], giống như người
ta tiêm
nước biển ở bệnh viện, không khách quan, không bắt chước – ngươi ta làm
thì
mình cũng làm như vậy. Nhưng đây là một phương pháp thẩm thấu cá nhân,
và theo
một nghĩa nào đó, nó mang tính đạo hạnh, tới mức có thể coi đây là một
phương
pháp tu thân, tu đạo, bởi vì thơ là nhắm tới hiểu cái không thể hiểu,
một phương
pháp tri hành mà tôi muốn gọi là “nhân văn, nhân bản” [humanistic],
nhưng từ
này đã bị người đời quá lạm dụng ở trong những sảnh đường đại học, nên
nó đã bị
tổn thương, hư hại.
Đặc biệt
hơn, Milosz nhắm tới
chuyện, không loại bỏ đối nghịch, xung đột. Những tài năng kém cỏi hơn
thường chọn
và phát triển khuynh hướng trùm chăn, hay mũ ni che tai, hay sên chui
vào vỏ,
để trốn tránh những luồng gió trái nghịch, những tư tưởng đối đầu, và ở
trong
túp lều, trong vỏ sò, họ sáng tạo những bài thơ nho nhỏ, những tiểu
phẩm. Vừa
như là một nhà thơ, vừa như là một nhà tư tưởng, Milosz can đảm ôm trọn
cả một
cánh đồng, một môi trường để thử nghiệm chính mình, chống lại những kẻ
thù, như
thể ông tự nói với chính ông, ta sẽ sống sót thời của ta, bằng cách
nuốt trọn lấy
nó, tiêu huỷ nó ở trong ta, thẩm thấu nó, coi nó như là một món ăn mầu
mỡ, [để nuôi
mình và nuôi thơ]. Tuy nhiên, những kẻ thù đó, thường xuyên tấn công
ông, vào
những lúc không chờ nhất, chẳng đợi nhất. Và chàng sinh viên ở Đại học
Wilno
chẳng thể nào tưởng tượng ra được, biết bao trở ngại mà anh ta phải
hiểu ra,
chấp nhận, và vượt qua, biết bao lần thấy mình kề cận bên cái chết, sự
câm
lặng, và tuyệt vọng, chán chường…
****
Ông
là nhà
thơ của thông minh lớn
và tuyệt cảm lớn [a poet of ‘great intelligence and great ecstasy’];
thơ
của ông
sẽ không thể sống sót nếu thiếu hai món này. Thiếu thông minh, là sẽ
rớt vào
trò cãi tay đôi với một trong những đối thủ này nọ, rồi cứ thế mà tủn
mủn, tàn
tạ đi [bởi vì, những con quỉ của thế kỷ 20 này, chúng đâu có thiếu khả
năng
biện chứng, chẳng những thế, chúng còn tự hào về những “biện chứng
pháp” duy
này duy nọ…]. Thiếu tuyệt cảm, làm sao vươn tới được những ngọn
đỉnh trời? Thiếu nó, là sẽ chỉ suốt đời
làm một anh ký giả tuyệt vời! Ông tự gọi mình là một tay bi quan tuyệt
cảm
[ecstatic pessimist], nhưng chúng ta cũng sẽ vấp vào những hòn đảo nho
nhỏ của
sự tuyệt cảm mà Bergson coi đây là dấu
hiệu khi chạm tới được một sự thực nội tại.
Vào thời
đại của Beckett, một nhà
văn lớn lao, dí dỏm, và cũng rất ư là sầu muộn, Milosz bảo vệ chiều
hướng tông
giáo của kinh nghiệm của chúng ta, bảo vệ quyền được vuơn tới cõi vô
cùng của
chúng ta. Bức điện tín của Nietzsche, thông báo cho những con người ở
Âu Châu,
rằng Thượng Đế đã chết, bức điện đã tới tay Milosz, nhưng ông không từ
chối ký
nhận, và cứ thế gửi trả cho người gửi.
Tôi không
tin tưởng, rằng Milosz
– như ông thường gọi mình như vậy – là một tay Manichaean. Về tất cả
những
chuyện này, tuy nhiên, tôi nhìn thấy ở trong thơ ông, một sự gần gụi
rất đặc
thù, mà cũng rất hứng khởi, giữa tư tưởng và hình ảnh, giữa tranh luận
và nhiệt
tình, giữa thiên nhiên vùng California và ý thức hệ của thế kỷ 20, giữa
quan
sát và giao giảng sự thực.
Milosz
cũng còn là một nhà thơ
chính trị lớn: những gì ông viết ra về sự huỷ diệt những người Do Thái,
sẽ còn
hoài, và không chỉ còn hoài ở trong những tài liệu, những tuyển tập
dành cho
sinh viên. Trong những năm thê thảm nhất của chủ nghĩa Stalin những
sinh viên
đọc Luận về Đạo Đức, Cách Ở Đời của ông [Treatise on Morals, 1948],
giống như
một triết gia La Mã, Boethius, của những ngày này. Ông không im tiếng,
khi xẩy
ra phong trào bài Do Thái vào năm 1968, đây đúng là một nỗi nhục cho
báo chí Ba
Lan, và một số người thuộc tầng lớp trí thức. Sự hiện hữu của những từ
ngữ
trong sạch của Milosz, đã và sẽ luôn luôn vẫn là một ân huệ, một lợi
ích, cho độc giả Ba Lan, kiệt quệ vì sự tàn bạo của chủ nghĩa Stalin,
tả
tơi sau
thời gian dài sống dưới sự thử thách của chủ nghĩa Cộng Sản, sự lỗ mãng
thô bỉ
của [cái gọi là] nền dân chủ của Nhân Dân. Nhưng có lẽ, ý nghĩa sâu xa
nhất của
thái độ chính trị của Milosz thì nằm ở một nơi nào đó; theo gót những
bước chân
của Simone Weil vĩ đại, ông mở ra cho mình một kiểu suy nghĩ, nối liền
đam mê
siêu hình với sự nhủ lòng, trước số phận của một con người bình thường.
Và còn
điều này, trong một thế kỷ mà những nhà tư tưởng tông giáo và những nhà
văn
thường được coi thuộc cánh hữu [thí dụ như Eliot], trong khi những nhà
hoạt
động xã hội bị thường bị coi là vô thần, một khuôn mẫu như là Milosz có
một ý
nghĩa thật là lớn lao, và sẽ tiếp tục phục vụ chúng ta rất nhiều trong
tương
lai.
Khi tôi
còn là một sinh viên ở Krakow,
vào cuối thập niên 1960, những tác phẩm của Milosz - những tác
phẩm của một nhà thơ di dân Ba
Lan mà giới tự điển bách khoa định nghĩa là, một kẻ thù của Nhân Dân Ba
Lan -
bị cấm. Tuy nhiên, bằng cách sử dụng mưu này, cách nọ, bạn có thể sờ
được những
cuốn trên giá sách có những dòng ghi chú như là “Res” [Dành Riêng,
Reserved].
Khi đọc tác phẩm của ông, tôi bị chấn động, về một điều gì đó thật khó
xác
định, khó gọi tên [ngay cả cơ cấu học, rất ư là có ảnh hưởng vào thời
kỳ đó,
cũng không thể áp dụng vào trường hợp của Milosz hoặc đưa ra được bất
cứ một
điều gì], sự nở rộng về trí thức của nó, sự thoáng đãng, rộng rãi của
không
gian, môi trường. Milosz, giống như Cavafy hay Auden, thuộc dòng những
thi sĩ
mà thơ ca của họ dậy lên mùi hương của trí tuệ chứ không phải mùi hương
của
những bông hồng.
Nhưng
Milosz hiểu từ trí tuệ,
reason, intellect, theo nghĩa thời trung cổ, có thể nói, theo nghĩa
“Thomistic”
[nói theo kiểu ẩn dụ, lẽ dĩ nhiên]. Điều này có nghĩa là, ông hiểu nó
theo một
đường hướng trước khi xẩy ra cuộc chia ly đoạn tuyệt lớn, nó cắt ra,
một bên
là, sự thông minh, trí tuệ của những nhà duy lý, còn bên kia là của sự
tưởng
tượng, và sự thông minh, trí tuệ của những nghệ sĩ, những người không
thường
xuyên tìm sự trú ẩn ở trong sự phi lý, irrationality. Hàn gắn sự chia
cắt? Liệu
được chăng ? Đây là một trong những dự án không tưởng của Milosz, tham
vọng của
một nhà văn mà bản thân mình đã từng chiến đấu với không biết bao nhiêu
là
những không tưởng khác. Thật khó mà coi ông như là một tay bảo thủ cổ
điển, tuy
nhiên, đây còn là một con người thương tiếc cho sự sa sút, thoái trào
của văn
hóa của thời chúng ta, than van cho cuộc ly dị giữa hai dạng trí tuệ,
thông
minh. Ông quá bận rộn, tả xung hữu đột trong cái việc làm 'giao lưu,
hòa giải',
làm mới lại cuộc hôn phối giữa hai dạng thông minh kể trên. Trong một
tiểu luận
nho nhỏ, nhan đề là "Điều tôi học được từ Jeanne Hersch", trong tập
tác phẩm "This", chúng ta tìm được một đòi hỏi đáng yêu sau đây:
"Trí tuệ đó là món quà tặng của Thượng Đế, và chúng ta nên tin vào khả
năng của nó, trong việc cảm thông thế giới". Hiển nhiên là, "trí tuệ
đó" đâu có mắc mớ gì tới tư tưởng cẩn trọng [the cautious idea] được sử
dụng bởi những triết gia của ngày hôm nay.
Trong cùng
bài thơ, Milosz còn
nói: "Thái độ đúng đắn nhất đối với đồng loại, là kính trọng, và chúng
ta
phải tránh xa chuyện đồng hành với những người hạ thấp kẻ khác với sự
thô bỉ,
cộc cằn, và ca ngợi hư vô." Không ai có thể xa lánh chuyện đồng hành
với
những cuốn sách của Czeslaw Milosz .
Clare
Cavanagh dịch từ tiếng Ba
Lan
Điểm Sách Nữu
Ước số đề ngày 23
tháng Chín, 2004
NQT
chuyển qua tiếng Việt.
|