Chúc Mừng Năm Mới, Kỷ Sửu, 2009

&

Giai Thoại của Thi Sĩ

Làm Thơ Ở Sài Gòn

Có vẻ như độc giả ưa đọc thơ, và, đọc, viết về thơ.
Đây là kinh nghiệm riêng của Tin Văn, từ thuở khai sinh của nó tới giờ. Cũng được sáu, bẩy niên, nếu kể luôn thời ăn nhờ ở đậu VHNT của PCL. Phải từ 1998 hoặc 1999. Thời chấm dứt, và mở ra thiên niên kỷ!
"Hot Item" của Tin Văn hiện nay là Giọt Mưa Trời KhócMần Thơ Ở Sài Gòn.
Cũng như trước đây, mấy trang thơ NLV, THH đều là Top 25 trong tháng.
Chính vì thế mà trong tương lai, càng cận ngày xuống lỗ, Tin Văn sẽ chỉ còn có mỗi một Item, hot hay khong hot: Thơ.
*
Nhớ lúc phong phanh áo mỏng rất gần tim
PTVA
Câu thơ làm Gấu nhớ Tiếng động thời gian, tập tản văn [không Thứ Sáu], của Osip Mandelstam.
Hành trang của Mandelstam, là những cuốn sách, và "tiếng động của thời gian", "le bruit du temps".
[Georges Nivat giới thiệu tập tản văn của nhà thơ Nga]
Và nỗi hoài nhớ quá khứ ám ảnh ông:
Người ta sống khá hơn, trước đây
Thật ra, người ta không thể so sánh
Máu bây giờ
Và máu ngày xưa
Nó rù rì khác nhau như thế nào.
On vivait mieux auparavant
A vrai dire, on ne peut pas comparer
Comme le sang ruisselait alors
Et comme il bruit maintenant.
[Trích Tiếng động thời gian, bản tiếng Tây, lời giới thiệu]
Hà Nội của anh, trước 1954, tụi này không có.
Sài Gòn của anh, trước 1975, tụi này cũng không có.
Nhưng Vàng Anh, có, Sài Gòn sau 1975, đám kia chẳng ai có được.
Liệu có quá không, khi nói, đây là hơi thở [hơi thơ, cũng được], đầu tiên của Sài Gòn hồi sinh, sau cái chết 30 Tháng Tư của nó? (1)
Máu chảy ở Sài Gòn, ngày xưa, Gấu có.
Máu chảy ở Sài Gòn, bây giờ, Gấu không có.
Áo phong phanh,
Rất mỏng,
Rất gần tim.
PTVA
Nhớ Sài Gòn như thế mới là nhớ chứ !
Nỗi nhớ Sài Gòn buốt trên đầu ngón tay
NQT
Prose nerveuse, ramassée, dure et tendue comme un poème
Tản văn bồn chồn, cô đặc, cứng, và căng, như là một bài thơ.
Nivat viết về "tản văn không Thứ Sáu" của Mandelstam.
Bỗng thèm đọc tản văn [có] Thứ Sáu của PTVA.
NQT
(1)
 What are poets for ?
Tại sao thi sĩ?
Thi sĩ để làm cái quái gì?
". . . and what are poets for in a destitute time?" asks Holderlin's elegy "Bread and Wine." We hardly understand the question today. How, then, shall we grasp the answer that Holderlin gives?
". . . and what are poets for in a destitute time?" The word "time" here means the era to which we ourselves still belong.
For Holderlin's historical experience, the appearance and sacrificial death of Christ mark the beginning of the end of the day of the gods. Night is
falling. Ever since the "united three"— Herakles, Dionysos, and Christ—have left the world, the evening of the world's age has been declining toward its night.
"... và tại sao thi sĩ cho một thời khốn kiếp? ai điếu "Bánh Mì và Rượu Vang" của Holderlin, hỏi.
Chúng ta, ngày này, [sau 30 Tháng Tư, với chúng ta, những cư dân của Sài Gòn. NQT], khá rành câu hỏi. Nhưng làm sao nắm bắt câu trả lời mà nhà thơ Đức đem đến cho chúng ta?
"... và thi sĩ để làm cái quái gì cho một thời khốn kiếp?"
Từ "thời" ở đây, có nghĩa thời kỳ mà chúng ta còn thuộc về nó. Bởi vì, với kinh nghiệm lịch sử của Holderlin, sự xuất hiện và cái chết của Chúa Ky Tô đánh "dấu ấn" cho sự bắt đầu chấm dứt ngày của những vị thần. Đêm xuống. Kể từ đó, ba ngôi tụ lại - Herakles, Dionysos, and Christ - rời bỏ thế giới, buổi chiều tàn đời của thế giới ngả dần sang đêm tối của nó.
Heideigger: Thơ ca, Ngôn ngữ, Tư Tưởng


Day la film của Canada dài 58 phut co tua de: "Sad song of yellow skin" va duoc dich ra la "Ca khu'c da va`ng," quay lai hinh anh sinh hoat của Saìgon (va dong bang song Cuu Long)  vao nam 1970
 Song of Yellow Skin
Michael Rubbo, 1970, 58 min 5 s
A film about the people of Saigon told through the experiences of three young American journalists who, in 1970, explored the consequences of war and of the American presence in Vietnam. It is not a film about the Vietnam War, but about the people who lived on the fringe of battle. The views of the city are arresting, but away from the shrines and the open-air markets lies another city, swollen with refugees and war orphans, where every inch of habitable space is coveted.
Kindly click to the following link: http://beta.nfb.ca/film/sad-song-of-yellow-skin/

The Writer as Migrant
Nhà văn thiên di
Lời nói đầu
Đôi khi thật khó mà phân biệt giữa lưu vong, và nhập cư. Nabokov là cả hai, nhập cư và lưu vong. Nhưng nhà văn lớn lao này coi một sự phân biệt như thế là không cần thiết, quốc tịch là thứ yếu, nghệ thuật mới là căn cước thực sự của nhà văn. Trong những chương sau đây, khi chọn từ thiên di, tôi muốn ôm lấy đủ kiểu dời đổi, hay bắt buộc phải dời đổi từ một xứ sở này qua một xứ sở khác, nào là lưu vong, nào là di cư, nào là nhập cư nào là tị nạn. Bằng cách đặt nhà văn vào cái thế thiên di như thế, chúng ta có thể điều tra, nghiên cứu một vài khiá cạnh siêu hình của cuộc sống của một nhà văn thiên di, và tác phẩm của người đó….
Tôi viện dẫn nhiều tác phẩm văn học, bởi vì tôi tin tưởng, sự hữu ích và vẻ đẹp của văn chương nằm ở trong khả năng làm sáng lên cuộc sống của nó. Tôi xoáy vào một số tác phẩm quan trọng - những bản văn có thể cung cấp một mảnh đất chung để bàn luận. Tôi sẽ nói nhiều về một số nhà văn lưu vong, không phải vì tôi tự coi mình là một trong số đó – nhưng chủ yếu là vì thứ văn chương có ý nghĩa nhất bàn về sự thiên di của con người thì được viết về kinh nghiệm lưu vong. Ngược lại, nhập cư chỉ là một đề tài thứ yếu, và là của Mỹ. Từ đó, thách đố lớn lao đối với những nhà văn viết về kinh nghiệm nhập cư, là, làm sao từ một kinh nghiệm thứ yếu như vậy mà có thể đáp ứng với những truyền thống văn chương lớn lao hơn.
Những nhận xét của tôi thì chỉ là của tôi. Với mỗi một cá thể nhà văn là những hoàn cảnh cá biệt của người đó, và mỗi nhà văn có một cách riêng để sống sót và hành xử nghệ thuật của mình. Tuy nhiên, tôi hy vọng tác phẩm của tôi sẽ soi sáng được phần nào về sự hiện diện của nhà văn như là một kẻ thiên di. Đó là mục tiêu của cuốn sách này.


Đỉnh cao chói lọi
Sinh nhạt Bác
Viên gạch Bác

Cứ giả sử, nhân dân đều biết tỏng, Bác ôm cục gạch ấm áp mềm mại trong tay mà đã phịa ra cục gạch sần sùi gói trong tờ báo, liệu nhân dân "giận thì giận nhưng thương thì vẫn thương"?
Đây cũng là câu hỏi tờ TLS nêu ra khi điểm cuốn tiểu sử Koestler, liên quan đến vấn đề đạo hạnh, đời tư của người viết.
Sự khác biệt, là, ông Hồ là nhà chính trị, còn Koestler, nhà văn.


**

Le Magazine Littéraire, Juin, 2008, đặc biệt về những nữ tiểu thuyết gia Anh, từ Jane Austen tới Zadie Smith. Có một bài luận văn chưa từng được in [inédit] của Emily Bronte: Lâu Đài của Thần Chết, viết bằng tiếng Tây, khi 'em' du học Pháp, tại Bruxelles
Tờ Văn Học Pháp đổi mới, bỏ một số mục, kể cả mục do Linda Lê chủ trì, Trở về với những nhà văn cổ điển, tuy cả hai, Tran Minh Huy và Linda Lê vẫn viết thường trực trong mục tiểu luận, phê bình.
Dương Thu Hương
Những Tác phẩm: Bên kia bờ ảo vọng, Những Thiên Đường Mù, Tiểu thuyết vô đề, Chốn Vắng.
Phan Huy Đường dịch, Nhà xuất bản Robert Laffont, 1056 trang. 36E
Năm 2006, đại chúng biết đến Dương Thu Hương khi bà cho xuất bản Chốn Vắng (Giải Thưởng của nữ độc giả báo Elle, năm 2007), một quyển tiểu thuyết bậc thầy nói về cuộc đấu tranh của cá nhân chống lại chế độ toàn trị. Đây không phải là cuốn sách đầu tiên của bà, chúng ta biết điều này khi nhà xuất bản Robert Laffont cho xuất bản tuyển tập đầu tiên những tác phẩm của bà, và ngoài Chốn Vắng ra, còn ba quyển tiểu thuyết “hải đăng”, thứ tiểu thuyết dẫn lối chỉ đường khác
Trong các câu chuyện kể này, công khai nói về chính trị, và đây là tầm vóc của chúng, những yếu tố chủ chốt, mang tính xây dựng đều có mặt, và ở đúng vị trí ở trong một cuốn sách bậc thầy, bắt đầu bằng một vài hình ảnh: người lính ma với nhân vật kể chuyện trong Tiểu Thuyết Không Đề, hay người phụ nữ bị xâu xé bởi hai người đàn ông trong Bên kia bờ Ảo vọng. Hoặc liên minh giữa đạo Khổng xưa cũ với kỷ luật Đảng Cộng Sản Việt Nam để chà đạp tự do cá nhân. Trong lời nói đầu tuyệt vời của Antoine Andouard, ông nhắc tới điều, tất cả các nhân vật của Dương Thu Hương đều có chung một số phận: “Họ bị chiến tranh và lịch sử nghiền nát.”. Cho nghĩa cả. Sự nghiệp văn chương của nữ sĩ này luôn luôn đứng sau cuộc đấu tranh chính trị, đến mức bà thường coi mình, chỉ là một “văn sĩ nghiệp dư”, một “tài tử”. Nữ anh hùng thời chiến, cựu đảng viên Cộng Sản, từ lâu người phụ nữ này đã trả giá tự do của mình để đấu tranh cho dân chủ và cho quyền làm người. Tác phẩm của bà đẫm mình ở trong cuộc chiến đấu đó, và đây là điều Antoine Andouard vinh danh bà, thật nhiều, trong phần giới thiệu. Nhưng ông nói thêm: “Người ta có thể đọc các tác phẩm, mà chẳng cần biết đến đời tư của bà, và kinh nghiệm này, thì thật khó quên.” Tam Van Thi

*

Chuyện cái hồ nước hiện ra chỉ sau một đêm, và những chuyện cổ tích Việt Nam khác. do Minh Huy Tran trình bầy, và kể.

Về Đỉnh Cao Chói Lọi.

Trong The Noise of Time, Tiếng động của thời gian, lời giới thiệu, có một giai thoại thật thú vị liên quan tới Pasternak, vụ bắt nhà thơ Osip Mandelstam và một cú phôn của Bác Xì, từ Điện Cẩm Linh.
Liền sau khi Osip bị bắt, nhà thơ được Stalin đích thân hỏi tội. Đây là một đặc ân chưa từng một nhà thơ nào được hưởng, do quyền uy của nhà thơ [perhaps the profoundest tribute ever paid by the Soviet regime to the power of Mandelstam’s pen]. Do chính Boris Parternak kể lại.
Một bữa bà vợ Mandelstam đến gặp ông năn nỉ xin can thiệp để Osip được thả. Đó là lần đầu tiên ông biết Osip bị bắt. Cả hai không hề là bạn thân. [Ngay cả về thơ, thì hai ông cũng đếch chịu nhau, theo như Pasternak nhận xét, thơ Osip từ trong sáng qua hũ nút, còn Pasternak, từ rắc rối qua giản dị]. Tuy nhiên, do bà vợ M. năn nỉ quá, P. hứa sẽ làm hết sức mình. Đúng vào thời gian đó, có một ông to lắm ở trong BCT lăn cổ ra chết, và theo đúng nghi thức, xác của ông ta phải chường ra tại Nhà Hội [the Columned Hall of the House of Unions], cho những quan Xô Viết đến thăm lần chót. P. đến, và nhận thấy trong đám này có Bukharin, và bèn tới năn nỉ giùm bà vợ Osip. B. nói, khó đấy, nhưng sẽ cố. Vài đêm sau đó, một đêm, trong bữa tụ tập tại nhà P. giữa đám Bọ L.,  Bọ PXN… [?], thì điện thoại reo. Giọng người bên đầu kia hỏi, có đồng chí Pạt tẹc nặc đó không; đồng chí Xì muốn nói chuyện, từ điện Cảm Linh. Một lát sau, có giọng nhừa nhựa nghe ra dân Georgian:
-Phải Pạt đó không? Đây là Xì ta lìn.
-Good Evening, Comrade Stalin. By the way, this is not a leg-pull, is it? [Này đừng có bịp tụi này nhé]
-No, no, this is Stalin, all right.
Nghe tên Stalin cả phòng im ắng. Pạt nói:
-Hiện trong phòng có 26 người. và họ đều đang nghe. Có được không? [Does that make any difference?]
Xì nói, OK, này, về Mandelstam, thì sao?
-Tôi muốn làm điều gì đề giúp anh ấy.
-Anh có nghĩ, anh ta là một nhà thơ bảnh, a very good poet?
-Đồng chí Xì. Đồng chí cũng biết là chẳng nên hỏi một nhà thơ, anh ta nghĩ gì, về một nhà thơ khác. Cũng như chẳng ai hỏi một người đàn bà đẹp, về một người đàn bà đẹp khác.
-Đồng chí nói như vậy, có nghĩa là, đồng chí không khoái thằng chả đó? [Then am I to take it you don’t think much of him?]
-Không, không, đồng chí lầm rồi. Tôi là một nhà thơ thật khác ông ta. Chỉ có vậy. Tôi nghĩ, ông ta là người viết bảnh, a good writer.
-“Tốt lắm, cám ơn”. Ngưng. “Tại sao không ghé tôi chơi?”
-Cái này thì hơi bị kẹt. Đúng ra, ở địa vị đồng chí, thì đồng chí phải mời, thì tôi mới dám tới.
Xì cười lớn và chúc Pạt một buổi tối ra trò. Ngày hôm sau Mandelstam được thả. [Nhưng chẳng được lâu].
*
Chói lọi mới chẳng trói lại!
Này đừng có bịp tụi này đấy nhé!


Quê hương tưởng tượng

Kỷ niệm đẹp nhất trong đời viết văn

Khi phịa ra cái nick Jennifer Tran, Gấu như mơ hồ nhằm trả lời một câu than vãn của Ngài Tiên Chỉ VP, nhà văn Mít [như ông, thí dụ, nhà văn Miền Nam trước 1975] khi qua Mẽo, do chạy vội quá, chắc hẳn, cho nên không kịp mang theo độc giả của mình!
Với Gấu do chạy muộn quá, thì không phải là một câu than, mà là một thách đố, mình thử viết từ hư vô như thế, liệu có gì vọng lại từ hư vô?
Từ "hư vô" này, là của NMG, khi ông than, nhà văn Mít ở hải ngoại, viết cứ như viết vào hư vô.

Tuy nhiên, Gấu mới đọc tay Ha Jin, có vẻ như ông cũng có cùng nỗi băn khoăn của Gấu, [ui chao lại thuổng Nỗi băn khoăn của Kim Dung, cái tít của NMG], khi cho biết, trong một vài lần ông có nói, ông sẽ ngưng viết về Trung Quốc đương thời, và có người chất vấn, "tại sao đốt cầu", và ông trả lời, trái tim của ông không còn thuộc về nơi đó nữa. Và khi nhìn lại, ông nhận ra, quyết định, vờ TQ đương thời trong những gì viết ra, là một cách để chối từ [negate] vai trò phát ngôn viên mà ông thường trói ông vào với nó. Tôi phải đứng một mình, tự vịn mình mà đứng dậy, và đứng một mình, như là một nhà văn.


Cuộc Tình Bỏ Đi
Nhưng nếu coi cuộc chiến khốn kiếp là Ngày Hội Nhân Gian thì Một Chủ Nhật Khác lại bảnh nhất trong những cuốn bảnh nhất, so với Anh Môn Vĩ Đại Gatsby Vĩ Đại
Chắc chắn TTT phải đã từng đọc Fitzgerald, và có trong đầu cuốn Cuộc Tình Bỏ đi, trong khi viết Một Chủ Nhật Khác
Xuất bản 'Đại gia Gatsby' ở Việt Nam
V/v Đại gia Trịnh Lữ. Gấu mới biết, trên Tiền Vệ cũng có nhiều người lên tiếng.
*
Thoạt đầu, Fitz cho Cuộc Tình Bỏ Đi một cái tiểu tít, là "Romance" [Chuyện Tình]. Cái tít sau cùng, là từ thơ của Keats, Ode to a Nightingale:
Away! Away! for I will fly to thee
... on the viewless wings of Poesy
Though the dull brain perplexes and retards:
Already with thee! tender is the night....


Dọn
Ngoảnh mặt với cuộc chiến (1)

Thật sự mà nói, chúng ta chưa có tác phẩm đích thực về cuộc chiến. Ở Miền Bắc, những tác phẩm về cuộc chiến, thí dụ như Thời Xa Vắng của Lê Lựu, chỉ cho thấy một mặt, mặt chính thức, tập thể, phải đạo của cuộc chiến. Phải đến Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh, thì mới có tiếng nói thực sự của một cá nhân, như là người lính, như là nhà văn. Nên nhớ, tiểu thuyết, là câu chuyện của một cá nhân, không phải của tập thể. Một thứ kinh thánh của chỉ một con người.
Tuy nhiên, Nỗi Buồn Chiến Tranh, thời điểm của nó, là cuối cuộc chiến. Sau cuộc chiến, chưa hề có một tác phẩm nào, tiểu thuyết cũng như phê bình văn học, viết về nó.
Cái sự ngoảnh mặt với cuộc chiến ở những nhà văn Mít ở trong nước, có nguyên nhân.
Nếu viết, là phải đối đầu với nó, thí dụ, như DTH, chẳng hạn.
Hay như Steiner phán:
Chúng ta tới "sau", và đây là [vấn đề] cân não của thân phận chúng ta. Sau, là sau cái điêu tàn chưa từng có trước đây - do tính thú vật chính trị của thời đại chúng ta - về những giá trị con người, và những hy vọng.
Điêu tàn là điểm khởi đầu của bất cứ một suy nghĩ nghiêm túc về văn chương và chỗ đứng của văn chương trong xã hội. Văn chương đụng - một cách thiết yếu, một cách liên tục - tới hình ảnh của con người, tới vóc dáng và động cơ hành xử của con người. Bây giờ, chúng ta không thể xử sự - cho dù là nhà phê bình hay giản dị là một con người hữu lý - như thể chẳng có một liên quan riết róng nào đã xẩy ra cho sự cảm nhận của chúng ta, về khả năng của con người; như thể việc làm cỏ - bằng cái đói và sự hung bạo - cỡ chừng 70 triệu đàn ông, đàn bà, và trẻ con tại Âu Châu và Nga Xô trong thời kỳ 1914 và 1945: chuyện như vậy đã không lay động tới gốc rễ phẩm chất nỗi quan hoài, niềm âu lo của chúng ta. Chúng ta không thể giả đò rằng [trại tù] Belsen chẳng liên quan gì tới cuộc sống có trách nhiệm của trí tưởng tượng. Điều con người làm tổn thương con người, vào ngay đúng lúc này, đã ảnh hưởng tới chất liệu đầu tiên của nhà văn - cái giếng sâu không thể cạn của hành vi, cách xử sự mang tính người - và nó đè lên não, một vết đen mới.
Hơn thế nữa, nó đặt thành câu hỏi, về những ý niệm đầu tiên của một nền văn hóa nhân văn. Ngay ở trái tim Âu Châu, từ đó nở ra, chủ nghĩa man rợ chính trị, với đỉnh cao tối hậu của nó. Hai thế kỷ sau khi Voltaire tuyên bố hết rồi: tra tấn trở thành một tiến trình bình thường của hành động chính trị. Không phải chỉ là vấn đề: rằng việc gieo giắc đại cương những giá trị văn học, văn hóa đã tỏ ra chẳng ngăn bờ rào giậu gì được, trước chủ nghĩa toàn trị; nhưng trong nhiều thời điểm đáng kể, nghệ thuật và học vấn mang tính nhân bản ở những vị thế cao, đã đón mừng và hỗ trợ nỗi kinh hoàng mới mẻ này. Chủ nghĩa man rợ đã lấn lướt, ngay tại mảnh đất từ đó nở hoa chủ nghĩa nhân bản Ky-tô, nền văn hóa Phục hưng và chủ nghĩa thuần lý cổ điển. Chúng ta biết, một số người nghĩ ra và điều hành [lò thiêu] Auschwitz, họ đã được dậy một điều: hãy đọc và tiếp tục đọc Shakespeare và Goethe.
 Điều này thật hiển nhiên thật tởm lợm, cho việc nghiên cứu và giảng dậy văn chương. Nó làm chúng ta phải đối đầu với câu hỏi, rằng sự hiểu biết những bản văn, những tư tưởng tối hảo hạng: liệu chúng mở rộng, làm tinh khiết những suối nguồn tinh thần nhân loại, như Matthew Arnold khẳng định? Nó bắt buộc chúng ta tự hỏi, điều mà Dr. Leavis gọi là "tính gốc người" ("the central humanity") thực sự hướng tới hành vi nhân đạo, hay ngược lại: có một khoảng trống rộng lớn hay một tréo cẳng ngỗng, giữa đạo đức trí tuệ phát triển trong nghiên cứu văn chương, và đạo đức trí tuệ do chọn lựa xã hội và chính trị, đòi hỏi. Cái khả năng sau mới thật bực mình. Có chứng cớ rằng một sự dấn thân chuyên nghề và đeo đẳng vào đời sống của chữ in, một khả năng, nhập sâu mà có tính phê phán, vào các nhân vật và các tình tự tưởng tượng, làm suy giảm tính tức thời, sắc bén của hoàn cảnh thực. Chúng ta có khuynh hướng đáp ứng một cách sắc bén với nỗi buồn văn chương hơn là sự khốn cùng của người hàng xóm. Chính nơi đây, mà cái thời mới xẩy ra, cho chúng ta những bằng chứng cay nghiệt. Những người khóc khi coi truyện tình lãng mạn "Werther" hay nghe nhạc Chopin đâu có biết rằng họ đi qua địa ngục thực sự.
Nhân Văn

Chúng ta, Mít, cũng tới “sau”. Sau Lò Cải Tạo, và đó là vấn đề cân não của thân phận chúng ta!
Chúng ta có, ngoài Nỗi Buồn Chiến Tranh ra, Nỗi Buồn Văn Chương: Không chỉ Ngoảnh Mặt Với Cuộc Chiến, mà còn với Văn Chương.

Nhưng, khác với Steiner, một nhà văn TQ nói, cái sự vờ chiến tranh, vờ chính trị, của nhà văn [TQ], là do cái máy tẩy não mà ra!
Mít thì cũng rứa. mà còn hơn rứa. Cái sự vờ chiến tranh, chính là do nhục nhã vì quá tin tưởng vào nó, vào chân lý Đường ta trận mùa này đẹp lắm! Nhục nhã, vì, "Chúng ta đã bị lừa, bị lừa!" như DTH đã từng than.
*
Cái sự ngoảnh mặt với chiến tranh, có khi còn là do anh chị nào cũng hưởng tí sái, sau chiến thắng Miền Nam, cũng nên!
*
The document below, signed by more than two thousand Chinese citizens, was conceived and written in conscious admiration of the founding of Charter 77 in Czechoslovakia, where, in January 1977, more than two hundred Czech and Slovak intellectuals formed a loose, informal, and open association of people...united by the will to strive individually and collectively for respect for human and civil rights in our country and throughout the world.
The Chinese document calls not for ameliorative reform of the current political system but for an end to some of its essential features, including one-party rule, and their replacement with a system based on human rights and democracy.
The prominent citizens who have signed the document are from both outside and inside the government, and include not only well-known dissidents and intellectuals, but also middle-level officials and rural leaders. They chose December 10, the anniversary of the Universal Declaration of Human Rights, as the day on which to express their political ideas and to outline their vision of a constitutional, democratic China. They want Charter 08 to serve as a blueprint for fundamental political change in China in the years to come. The signers of the document will form an informal group, open-ended in size but united by a determination to promote democratization and protection of human rights in China and beyond.
Following the text is a postscript describing some of the regime's recent reactions to it.

Perry Link

Được gợi hứng từ Hiến chương 77 của Czechoslovakia, Hiến chương 08 của Trung Quốc không kêu gọi cải thiện cải thiếc, đổi mới đổi miếc, cởi trói cởi chiệc, cái hệ thống chính trị hiện thời, mà là dẹp mẹ nó một số quái trạng xung yếu của nó, thí dụ như luật độc đảng, và thay thế bằng một hệ thống dựa trên nhân quyền và dân chủ…
*
Liệu mấy bạn văn VC của Gấu chơi được cú xêm xêm, chăng?
*
“the history of modern
China is a history of negation, a denial of the value of humanity, a murder of individuality. It is a history without a soul.”
Ma Jian
Tiananmen's wake
Lịch sử Trung Quốc hiện đại là lịch sử của sự phủ định, chối từ giá trị nhân loại, và sát hại cá thể. Đó là một lịch sử không có một linh hồn.
*
Gấu này sợ rằng, Mít cũng rứa. Chứng cớ, báo net trong nước, một chiếc xe đò lỡ đi vô đường cấm, anh cớm giao thông VC bèn chạy ngang xe, gõ cửa, tài xế hạ kiếng xuống, anh cầm dùng dùi cui gõ đầu tài xế chảy máu ròng ròng, rồi bỏ đi.
Nhưng Mít làm gì có Thiên An Môn, Bắc Kinh Hôn Thụy, Hiến Chương 08?

*
Tài xế bị nện dùi cui
*

Chúng ta tự hỏi, tại sao Yankee mũi tẹt không thể làm nổi một cú Thiên An Môn, tại sao những nhà văn của họ không viết nổi một Hôn Thụy Hà Lội, tại sao không có nổi một hiến chương 007, thí dụ?
Theo Gấu, ấy là vì anh nào cũng được hưởng một tí chiến lợi phẩm sau cú chiến thắng Miền Nam!
Tệ lắm, thì cũng chút sái.  Một nhà văn ra đi từ Miền Bắc, dân Hà Nội, kể, chút sái đầu tiên mà bà được thưởng thức, là "Thi ơi Thi, Thi không chết đâu Thi", từ cái loa AKAI nhà hàng xóm, tặng phẩm của Miền Nam, thay cho cái loa ở đầu ngõ.

Ma Jian trả lời Người Quan Sát Mới N. O.
Ông muốn chúng minh tới điểm nào, cuộc Cách mạng văn hoá, vốn là một chấn thương tập thể khổng lồ, đã thiếu vắng trong trường qui chiếu [champ de référence] của thế hệ Thiên An Môn?
Thực tại Cách mạng văn hoá đã bị bóp méo, dồn ép, vào lúc xẩy ra cú Thiên An Môn, và điều đáng buồn, Thiên An Môn, đến lượt nó cũng bị bóp méo, dồn ép, đẩy lùi, vào lúc bây giờ. Tôi có mặt ở Bắc Kinh, khi có Thế Vận Hội. Bắc Kinh khi đó biến thành một trại lính khổng lồ với 200.
000 binh sĩ tuần tiễu không ngưng. Điều này làm nhớ tới  Mùa Xuân 1989. Nhưng chẳng có ai nói đến điều này. TQ bây giờ được cả thế giới nhìn nhận, nhắc chi chuyện cũ đau lòng lắm người ơi! Nói cho cùng, có bao nhiêu người chết đâu, chừng hai hoặc ba ngàn người, và đa số mọi người cùng gật gù, “Hà cớ gì mua giây buộc vào mình. Chúng tôi bây giờ sung sướng, hạnh phúc, đừng làm phiền chúng tôi với ba chuyện lẩm cẩm đó”. Đây là tâm lý đa số, tâm lý thống trị, và cái này thì thật có ích cho Đảng CS.
*

"Trong cuộc sống thường ngày của những người trẻ hôm nay, chính trị chỉ đóng một vai trò rất nhỏ", Nguyễn Việt Hà - một trong những cây bút tiên phong thuộc thế hệ các nhà văn trẻ - cho biết. Nguyễn Việt Hà thường viết về cuộc sống đô thị ở Hà Nội.

Nhà phê bình văn học Đoàn Cầm Thi cho rằng, độc giả ở một đất nước có 2 phần 3 dân số dưới độ tuổi 35 và không còn ký ức về những nỗi kinh hoàng của chiến tranh như Việt Nam hiện nay mong chờ những tác phẩm nói lên trải nghiệm của chính bản thân họ."Hiện thực chiến tranh đang bị đẩy ra ngày càng xa", chị nói. Đoàn Cầm Thi cũng nhấn mạnh rằng, những trang viết về cuộc sống cũ "đã không còn giúp gì nhiều cho những người trẻ trong việc khám phá thế giới mà họ đang sống".

Bảo Ninh, cây bút nổi tiếng với tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh trong thập kỷ 90 cho rằng, các nhà văn trẻ hiện nay bán được sách, nhưng họ tránh đề cập đến những vấn đề "gây tranh cãi".

"Lớp trẻ có xu hướng tránh, làm ngơ trước những khó khăn mà Việt Nam đang phải đối mặt", ông nói.
e_Văn
Bảnh nhất, lại vẫn là Bảo Ninh.

Trên Tin Văn, Gấu này đã nhiểu lần "hùng dũng lèm bèm", chính trị mới là đỉnh cao của văn chương, cái tâm bằng ba cái tài, [Nguyễn Du] Cái Mỹ Là Mẹ Của Đạo Hạnh [Brodsky]… là cũng theo nghĩa đó.
*

Cái sự khốn nạn nhất của đám Yankee mũi tẹt, khi ra được hải ngoại, cách này cách nọ cách nào thì cũng là hậu quả của chiến thắng đỉnh cao, chúng đều vờ Miền Nam. Bạn để ý đám làm cho Bi Bì Xèo là đủ biết, mỗi lần Sến Cô Nương, thí dụ, hắt hơi, đau bụng, xì cái mùi gì ra là chúng ngửi nhanh lắm, xúm xít vấn an. Chưa một lần nào chúng phỏng vấn, hay viết về một nhà văn ly khai ra đi từ Miền Bắc, chưa một lần chúng nhắc tới những nhà thơ nhà văn Miền Nam, nhất là những người đã trải qua trại tù, hay một diễn đàn của đám Miền Nam
Tin Văn khỏi nói, chúng coi như hủi.
Khốn nạn như thế, mà hễ có chuyện là lại ra rả, Chống Cộng điên cuồng, không chịu hồi đầu về với Dân Tộc.
Cái sự vờ này, theo Gấu, là mặc cảm thắng trận, mà vẫn phải bỏ chạy, sống nhờ sự bố thí của thế giới. Cái sự vờ này còn lập lờ bằng cách viết về văn học quốc tế, về nhạc nhiệc quốc tế. Ra cái điều thanh cao lắm. Nghe chúng khen một bản nhạc hay nào là Gấu "buồn nôn", hết còn muốn nghe nhạc! Chính là trong nghĩa như vậy, mà Steiner chửi: Những người khóc khi coi truyện tình lãng mạn "Werther" hay nghe nhạc Chopin đâu có biết rằng họ đi qua địa ngục thực.
Hay như nhân vật trong Cát Lầy của TTT: Tại sao tôi không thể yêu những gì chúng yêu, nếu chúng chiếm được cuộc đời, tôi thành hư vô.

*

Không hiểu có phải hơi bị nhột, mà Bi Bì Xèo post bài viết về Viện Bảo Tàng Tội Ác Mỹ Ngụy?
Bài viết cho thấy "ký ức", "hiện thực" chiến tranh chưa hề bị đẩy lùi.
*
(1) Bài BBC, dịch một bài viết của AFP. Dịch ẩu, bỏ đi một câu viết về Nguyễn Ngọc Tư. Xin coi Blog Nhị Linh
Khốn nạn quá!

Không chỉ BBC mà eVăn cũng vờ NNT!
"Adieu ma tourterelle", Vĩnh biệt chim cú gáy [?] thì mắc mớ gì tới chính trị mà không dám nhắc tới? Gấu chưa được đọc.
Cũng lạ, tại sao AFP lại lôi nó ra, trong số những tác phẩm của NNT?
*
Bài “Ngoảnh mặt với cuộc chiến” trên BBC tiếng Việt dịch lại từ bài báo trên AFP. Hẳn là dịch từ bản này.

So sánh một chút thì thấy bản dịch phải nói là rất tệ, người dịch gần như không nắm được tinh thần bài viết, vốn hiểu biết về văn học Việt Nam, đặc biệt là các nhân vật ở trong đó, quá kém cỏi, nên có những chỗ dịch cực kỳ buồn cười. Tính sơ sơ có hai chỗ rất hài là đoạn nói “Thuận, tác giả sống ở bên Pháp, sẽ sớm trình làng cuốn Chinatown”. Người dịch chắc không biết Chinatown đã in từ đời nào rồi, bản tiếng Anh cũng viết rất rõ là “will soon release in French”, và bản gốc tiếng Pháp: “roman à paraître en février dans l'Hexagone”. Đoạn thứ hai là nói về bác Nguyễn Chí Hoan :) Nói thế này có chết không: “nhà phê bình văn học Nguyễn Chí Hoan, người có bài đăng trên tuần báo Văn Nghệ”, trong khi bản tiếng Anh thế này: “who writes for the weekly literary journal Tuan Bao Van Nghe” và bản tiếng Pháp thì cực kỳ rõ ràng: “de l'hebdomadaire vietnamien des Arts et des Lettres (Tuan Bao Van Nghe)”.
Rồi lại còn “politically engaged” hóa ra là “sắc bén về chính trị”, very Mặt trận Tổ quốc hehe. “Critics” thì thành “một số nhà chỉ trích”. Và một đỉnh cao chói lọi: mất phéng đi đâu đoạn viết về Nguyễn Ngọc Tư. Tuyệt diệu.
Bản tiếng Pháp hơi khó tìm trên Internet, thôi paste thẳng vào đây:

HANOI, 21 jan 2009 (AFP) - Avec l'ouverture du Vietnam, une nouvelle littérature s'affirme, détournée des douleurs de la guerre, des désillusions de la Révolution.
Une littérature qui parle d'amour, de sexe sans tabou, du désoeuvrement d'une société qui s'urbanise, en mal de repères dans un monde en rapide changement. Une littérature trop peu engagée pour certains, plus fidèle au nouveau visage de la jeunesse vietnamienne pour d'autres.
La politique du "Doi Moi", politique du renouveau ou d'ouverture lancée par le pouvoir communiste en 1986, avait ouvert la voie à une génération d'écrivains parfois anciens révolutionnaires et soldats, mais en rupture avec la littérature patriotique des guerres de libération.
Un espace de liberté s'ouvrait à des auteurs comme Bao Ninh, Nguyen Huy Thiep ou Duong Thu Huong, qui allait vite se retourner contre eux mais sans museler leurs plumes, acerbes chacune à leurs façons, dans la peinture des horreurs du conflit, du désenchantement de l'après-guerre, ou du système dévoyé enfanté par la Révolution.
Ces écrivains, largement traduits, restent des références, au Vietnam ou à l'étranger. Ainsi, la romancière Duong Thu Huong vient de régler des comptes avec le régime communiste dans son dernier roman, "Au Zénith".
Mais de nouvelles générations, trop jeunes pour s'être battues pendant la guerre du Vietnam ou nées après la fin du conflit en 1975, occupent aujourd'hui l'espace.
Pour une population dont les deux tiers ont moins de 35 ans, "la réalité de la guerre s'éloigne", explique Doan Cam Thi, critique littéraire qui a traduit et regroupé certains de leurs textes dans "Au rez-de-chaussée du paradis".
Aujourd'hui selon elle, des auteurs comme Bao Ninh, Nguyen Huy Thiep, Duong Thu Huong "proposent peu de clés aux jeunes pour comprendre leur monde". En revanche, estime-t-elle, les nouvelles figures de la littérature "racontent de manière lucide leur époque".
A Hanoï, Nguyen Viet Ha met en scène le vide spirituel des citadins.
Dans "Adieu ma tourterelle", Nguyen Ngoc Tu, référence du Sud qui vit dans sa province du bout du delta du Mékong, Ca Mau, raconte la rupture d'un couple qui s'aime mais laisse, sans mélodrame, la vie le séparer.
Thuan, établie en France, retrace dans "Chinatown", roman à paraître en février dans l'Hexagone, le parcours d'une "Viet Kieu", Vietnamienne de l'étranger, de Hanoï à Paris, en passant par l'ex-Union soviétique.
Pour Nguyen Chi Hoan, de l'hebdomadaire vietnamien des Arts et des Lettres (Tuan Bao Van Nghe), les nouvelles générations se concentrent, comme leurs aînés, sur l'individu. Individu qui, "pendant les décennies de guerre, devait s'effacer derrière la communauté".
Mais leur préoccupation, explique-t-il, est notamment d'écrire sur cette "contradiction" qui se présente aujourd'hui aux Vietnamiens à mesure que leur pays s'industrialise et enchaîne des taux de croissance de plus de 6%: désir de vie "aisée" et maintien ou reconquête d'une "vie spirituelle".
La jeune littérature laisse sans doute en revanche davantage de côté la politique, plus éloignée d'une confrontation avec un régime qui continue de la censurer, de faire la guerre aux éléments contestataires, écrivains ou journalistes, qu'il juge "réactionnaires".

Sévère ou blasé, Bao Ninh, dont "Le chagrin de la guerre" avait fait scandale dans les années 90, estime que les nouvelles générations ont d'une certaine façon démissionné.

L'auteur déplore des oeuvres dans lesquelles sont éludées "les difficultés réelles du Vietnam". "Les jeunes écrivains", juge-t-il, "ont tendance à s'éclipser".
Pour Nguyen Viet Ha, parfois considéré comme l'un des chefs de file de cette nouvelle littérature, c'est l'époque qui veut ça. "Dans la vie réelle des jeunes gens aujourd'hui", souligne-t-il, "la politique occupe une très petite place".
Claude Genet

Văn chương và Siêu hình: Về cuốn Linh Sơn
May 1991, Stockholm (bài đọc tại Viện Đông Á, Đại học Stockholm).
Cao Hành Kiện
TQ là một nhóm ngôn ngữ rộng lớn trên thế giới hiện nay nếu tính đến con số những người nói thứ ngôn ngữ này, nhưng với một người sử dụng nó, người đó có được bao lăm tự do. Trước hết, đây là một vấn đề chính trị, rồi tới những sức ép xã hội, chúng gây tự chế ở nơi nhà văn, và sau hết, đây là một vấn đề tự thân của chính ngôn ngữ. Nhà văn đối đầu chỉ với ngôn ngữ, trong những gì ông viết ra, nhưng trước tiên người đó phải đụng [deal] tới không biết bao nhiêu là sức ép và tìm kiếm cách để vượt qua [transcend] chúng. Nhà văn viết bằng tiếng TQ thường xuyên chiến đấu một cách vô vọng với những gánh nặng cực kỳ nặng này, bởi vậy, tới khi ông phải đương đầu với nghệ thuật ngôn ngữ, thì đã mệt nhoài, hết hơi. Người ta có thể nói nhà văn TQ quả là có quá nhiều điều để mà vật lộn với chúng.
Vào năm 1981, tôi được một người bạn khuyến khích cho xuất bản một cuốn sách mỏng, về nghệ thuật ngôn ngữ, cho tầng lớp đông đảo độc giả, có tên là Những thám hiểm, khai phá sơ sơ về Nghệ thuật Giả tưởng Hiện đại, Preliminary Explorations into the Art of Modern Fiction. Tôi nghĩ thật khó xuất bản, nhưng cứ thử mở ra một con đường cho nó. Tôi đã từng gửi một tuyển tập truyện ngắn tới năm nhà xb ở TQ, và sau cùng ở Hongkong, nhưng chẳng nơi nào in.
Lạ làm sao, cuốn sách mỏng dính đó, chẳng mắc mớ gì đến chính trị lại lôi kéo thật nhiều bàn cãi, tranh luận, và nổ lớn mãi ra, về chủ nghĩa hiện đại vs chủ nghĩa hiện thực. Nó gây đủ vấn đề cho tôi và gây rắc rối cho rất nhiều bạn của tôi, và một số nhà văn lão làng tỏ ra quan tâm tới tôi như Ba Jin, Xia Yan, Ye Junjian, Yan Wenjing, và Dhong Dianpei. Tệ hại đến nỗi, Wang Meng, người viết một thư ngỏ cho tôi, trở thành mục tiêu tấn công. Thành thử có thể nói, bàn về nghệ thuật ngôn ngữ không dễ dàng, mà còn là quá khó khăn tại TQ.
Vào mùa xuân 1982, một biên tập viên của một nhà xb muốn biết liệu mọi chuyện có khác đi chút nào, và hoàn cảnh bây giờ chắc là khá hơn, và đề nghị tôi viết một cuốn tiểu thuyết, tôi bằng lòng với điều kiện không được cắt bỏ bất cứ cái gì. Linh Sơn đã được toan tính cho ra đời là như thế. Tôi cũng phải nói thêm, anh ta chẳng chút ất giáp cuốn tiểu thuyết của tôi sẽ như thế nào, giản dị là, anh tin tôi. Sau đó, anh đưa tôi chút tiền tạm ứng lấy từ nhà xb, khi tôi nói, tôi tính làm một chuyến giang hồ vặt: vào lúc đó, chiến dịch phạng tôi đã bắt đầu được tiến hành. Và trong tình hình như vậy, chỉ nội cấu trúc cuốn sách không thôi, cũng khó mà in ra được, nhưng lỡ lấy tí tiền còm rồi, tôi tính, khi nào có dịp thì cứ đưa cho anh ta mớ bản thảo, thì cũng đặng. Vậy là thoát gánh nặng tâm lý.

Vào tháng Chín, 1989, tôi hoàn tất mớ bản thảo tại Paris. Tuy nhiên sự kiện Thiên An Môn còn nóng hổi, ngay cả chuyện gửi bản thảo cho nhà xb cũng hơi bị nguy hiểm không cần thiết cho họ, thế nào tôi quyết định không gửi đi.

Cái sự viết ra được cuốn sách, ấy là nhờ cái sự cấm trình diễn vở kịch Bus Stop, Trạm ngừng xe buýt, mà có được. Nếu chỉ một hài kịch về cuộc đời như vậy [this lyrical comedy on life], mà bị coi là một vấn đề chính trị, và bị đưa ra đấu tố trong chiến dịch làm trong sạch sự ô nhiễm tinh thần, thì hẳn nhiên, cuốn tiểu thuyết này sẽ phạm vào một tội ác nghiêm trọng. Thế là, tôi tự cởi trói cho mình, ra khỏi xã hội, nhân dân, đạo đức, và ngay cả cái được gọi là trách nhiệm của nhà văn, và tội tổ tông, và cứ thế thoải mái viết, đối mặt với chỉ một, là, tiếng mẹ đẻ của tôi, ngôn ngữ Trung Quốc, như nó được trường tồn cho tới bây giờ.