*
Ghi

Dọn I
II
1 2 3 4 5 6 7 8
9




















Hồng Ánh lấy chồng

Đọc bài này, thì mới hỡi ơi về cái chuyện bạn bè quen biết ở trên đời.
Chuyện lấy chồng lấy vợ là chuyện đại sự, dù có không thích, không ưa, nhưng lỡ quen biết cả hai bên, thì cũng dẹp cái chuyện không ưa qua một bên, mà im tiếng, hoặc nếu có lên tiếng, thì chỉ để chúc mừng, chứ đâu có mượn dịp quan trọng như vậy, để đâm sau lưng ‘cái tay’ mình không may đã có quen, đã có thời từng coi nhau là bạn?
Gấu không quen người đẹp, nhưng quen NTS, và có khá nhiều kỷ niệm đẹp về ‘cái tay’ này.
Từ 'cái tay này', Gấu hay dùng, chắc 'cái tay Osin này’ hay đọc Gấu rồi bị ảnh hưởng, chăng?
Từ ‘đại gia’, người đầu tiên sử dụng nó, là … Gấu, trong bài viết “Những đại gia của môn phái tiểu thuyết lịch sử”.
Đại gia ở đây dùng theo nghĩa đẹp, như một đại môn phái, trưởng môn nhân của một dòng văn chương, hay võ học, khác hẳn cách dùng ở trong nước sau này. Hay như cái tay Osin này dùng.
*
Tôi đã từng chứng kiến một số đại gia lăn xả vào tán tỉnh cô đào tài sắc này. Có lần, một chủ doanh nghiệp trẻ, được ăn cơm cùng Hồng Ánh, ngồi nhà hàng máy lạnh mà mồ hồi cứ đổ ra như tắm. Hồng Ánh, những khi “giải lao” giữa các lần yêu vẫn tìm tới tôi.
Blog Osin
Viết như thế thì quá khốn nạn. Viết lại ở đây, thật thấy nhục nhã lây, 'cũng một lũ đực rựa khốn nạn', nhưng chẳng lẽ không nói tới? NQT
*
Gấu về Hà Nội lần đầu tiên, quen băng NTS, và sau đó, đi nhậu nhiều lần. Gấu cũng chẳng hỏi gì về anh, và có vẻ như anh quen biết rất nhiều. Anh và một ngưòi bạn thân của anh lo cho Gấu nhiều chuyện, và có thể, nếu không có họ, Gấu không được thoải mái như vậy, trong hai lần về Hà Nội.
Anh bạn kia, vì Gấu mà gặp một vài chuyện bực mình, khiến Gấu ân hận hoài.
Tiện đây, xin bỏ qua cho Gấu, do lỡ dại miệng, và mê gái, mà để xẩy chuyện. NQT
*
Về cái gọi là tình bạn, cổ nhân có câu lấy lòng thành ra mà đãi bạn trước, rồi sau đó, nếu gặp tay không phải là bạn, thì né, đem cái lòng thành đi kiếm tay khác để trao, và cứ thế, cứ thế.
Chơi với bạn, mà ‘thử’ bạn trước, là hỏng.
Có người khi chơi với bạn, là tìm đường dò la trước, cũng hỏng.
Gấu chơi với băng Tập San Văn Chương, quen thật thân, với, thí dụ Joseph Huỳnh Văn, vậy mà chẳng hề biết gì về anh, về gia đình anh. Chỉ đến khi anh mất, Gấu mới biết chuyện anh có bà con họ hàng gì đó với Huỳnh Văn Trọng.
Đọc, có vẻ Gấu này chơi với bạn hết mình, nhưng cũng không phải như vậy. Trên đời này, người làm khổ, lợi dụng bè bạn, không ai hơn được Gấu, thế mới nhảm. Gấu đang loay hoay viết hồi ký, kể những chuyện động trời Gấu làm khổ bạn bè, như là những dòng ‘confession’ trước khi đi.
Tiểu thuyết lịch sử
Những đại gia của dòng văn học tiểu thuyết lịch sử
Lại nói chuyện 'đại gia'.
Khi dịch The Great Gastby, là Đại gia Gatsby, thú thực, không hiểu dịch giả hiểu từ ‘đại gia’ theo nghĩa nào, ‘tốt’ [theo cái nghĩa trong "Những đại gia trong dòng văn chương tiểu thuyết lịch sử"], hay xấu [theo nghĩa mà cái tay Osin xúi người đẹp đá đít nhà phê bình, anh ta sẽ giới thiệu cho cả một tá đại gia, tha hồ mà chọn] ?
Vả chăng, dù tốt, dù xấu, đều quá coi thường nguyên tác. Đây là một trong những tác phẩm kinh điển của văn chương Mẽo, mà nỡ lòng nào dịch kiểu bình dân, “bần cố nông” như thế.
Chỉ có thể dịch là Gatsby Vĩ Đại.
May quá còn cuốn kia, cũng bảnh chẳng thua gì Gatsby Vĩ Đại, tức cuốn Tender Is The Night, được một tên nhà văn Ngụy, là Mặc Đỗ, dịch là Cuộc Tình Bỏ Đi.
Tuyệt cú mèo!
Tay dịch giả này, TL, không phải dân pro, chắc thế ? Rành tiếng Anh tiếng U, do sống ở nước ngoài ?
Vì sống ở nước ngoài, mù tịt lịch sử Mít, nên chẳng biết "làm giặc" nghĩa là gì ?
Đọc bài viết của ông ta, về Đại gia Gatsby mới hỡi ơi. Đúng là mù tịt về văn học, nhưng rành tiếng Mẽo!
Y chang mấy ông mấy bà mù tịt về phê bình, nhưng rành tiếng Tây!
*
Vừa xem lại "The Road Home" của Trương Nghệ Mưu , vẫn thấy đây là phim tàu hay nhất, dù không vĩ đại . Chỉ có tình là vĩ đại thôi.
Độc giả Tin Văn.
Gatsby Vĩ Đại là như vậy.
Gấu không mê “đại gia” Gatsby bằng "tiểu gia" Dịu Dàng Như Đêm, hay Cuộc Tình Bỏ Đi, đúng như những dòng của chính tác giả, khi tặng sách cho một người bạn: Nếu bạn thích The Great Gatsby, Trời hỡi, phải đọc cuốn này. Gatsby là một tour de force, còn cuốn này, là một lới thú tội của niềm tin, a confession of faith.
Nên nhớ, The Great Gatsby không phải nói về đại gia, về Giấc Mơ Mẽo. Nó là một câu chuyện tình về Giấc Mơ Mẽo. Tác giả của nó luôn luôn căn dặn người đọc, tiểu thuyết của tôi là romance, và The Great Gatsby là một Romance of the American Dream.
Và, bạn đã đọc, một giấc mơ Mẽo của Vila-Maltas rồi đấy. (1)
Đó là tuổi thơ của chúng ta, theo nghĩa,
l'enfance est un rêve qui s'ignore.
(1)
Carnet de lecture
par Enrique Vila-Matas
LE RÊVE AMÉRICAIN
l'enfance est un rêve qui s'ignore

Pendant des années et des années, le plus récurrent de mes rêves me transportait dans l'immense cour de l'enntresol de la rue Rosellon de Barcelone où, enfant, je jouais seul au football quand, après la lonngue journée scolaire, je retournais chez mes parents et, histoire de m'occuper avant le dîner, j'inventais des matchs. La cour était entourée d'immeubles gris, tristes constructions caractéristiques de l'époque, ces dures années de la sinistre Espagne d'après-guerre. Dans mon imagination, j'étais les vingt-deux joueurs à la fois, si bien qu'une partie de moi-même- composée de onze joueurs - passait son temps à attaquer comme si elle était le Brésil au Mondial de Suède, tandis que l'autre attendait, tapie, la contre-attaque. Je n'avais pas de préférence et chaque équipe - chaque partie de moi - pouvait gagner indistinctement; tout dépendait du génie dont chacune faisait preuve. Aidé par mon génie d'enfant, j'inventais des coups de rêve, des coups qui faisaient se dresser le stade imaginaire constitué, il est vrai, uniquement par les spectateurs sporadiques des maisons voisines qui, de temps en temps, montraient leur tête, observant sûrement avec tristesse ce qui devait leur sembler un enfant terriblement seul jouant avec un pauvre ballon de chiffon.
Dans mon rêve récurrent, tout était toujours pareil (je jouais au football seul, la cour était la même, la désolation générale d'après-guerre aussi). Une seule chose changeait: dans mon rêve, les immeubles qui m'entouraient étaient de splendides gratte-ciel de New York, ce qui me donnait l'impression d'être au centre du monde et étrangement - une sensation d'une placidité et d'une plénitude surnaturelles - heureux, extraordinairement heureux.
Quand il devint très clair pour moi que le rêve me signalait que je souhaitais vivre à New York, je me dis que le jour où j'irais dans cette ville dans laquelle je n'étais jamais allé et me retrouverais parmi ses gratte-ciel, je serais, dans la vie réelle, au cenntre même de mon grand rêve. Une sensation peut-être extraordinaire.
Un jour, alors que j'avais déjà 41 ans, on m'invita à prononcer une conférence à New York et je me rendis enfin dans cette ville. Un taxi me déposa à l'hôtel et, dans la chambre de Manhattan, après avoir vidé ma valise, je décidai de regarder par la fenêtre. Elle était entourée de splendides gratte-ciel. Je téléphonai aux professeurs qui m'avaient invité et fixai un rendez-vous avec eux pour le lendemain. Puis je me penchai de nouveau à la fenêtre. Je suis au centre même de mon rêve, pensai -je. Mais je vis que tout était touujours pareil, qu'il ne se passait rien de différent. J'étais à l'intérieur de mon rêve et, en même temps, celui-ci était réel. Mais rien de plus. Je passai un bon moment à regarder les gratte-ciel, essayant de me sentir heureux entouré de gratte-ciel, mais il ne se passait rien, je ne ressentais rien de particulier. J'étais penché à une fenêtre, je voyais des gratte-ciel de Manhattan ... et c'était tout.
Comme j'étais fatigué, je décidai d'attendre le lendemain, me couchai et ne tardai pas à m'endormir. Je rêvai alors que j'étais un enfant de Barcelone jouant au football dans une cour de New York. Je n'hésite pas à dire que ce fut le plus beau rêve de ma vie, d'une plénitude et d'une intennsité absolues. Je découvris que le sortilège ou génie du rêve n'était pas New York. Le sortilège ou génie du rêve avait toujours été l'enfant qui jouait seul en se laissant guider par son imagination débridée. Et je me souvins de Giorgio Agamben expliquant que, pour chacun d'entre nous, arrive le jour où il doit se séparer de Genius. « Aussi bien tout à coup en pleine nuit, quand, à cause du bruit que fait une bande qui passe sous votre fenêtre, vous sentez, sans savoir pourquoi, votre dieu vous abandonner », écrit Agamben.
Il m'a toujours semblé que j'avais dû aller à New York pour retrouver brièvement mon dieu personnel, l'esprit de l'enfant qui jouait, le vrai sortilège du rêve •
Traduit de l'espagnol par André Gabastou
Le Magazine Littéraire, số Tháng Bẩy & Tám, 2006: Le Désir
*
Frédéric Beigbeder, tác giả cuốn Bảng Phong Thần Cuối Cùng Trước Khi Cúng Bà Hoả, tự hỏi, liệu nhà văn nổi tiếng Mẽo, Scott Fitzgerald đã từng đọc Anh Môn, trước khi viết Gatsby?
“Bạn nào biết, làm ơn viết thư cho tôi hay liền, bởi vì những tương tự giữa hai cuốn làm phiền tôi lắm lắm…”.
Như thế, phải coi Gatsby là chuyện tình, của thời đại thần kỳ, là Thời Đại Jazz, the magic of Jazz Age mà tên tuổi của Fitzgerald dính liền với nó.
*
Cuộc tình bỏ đi thật là tuyệt, và mới hoằnh dương, xiển dương, vinh danh chân lý đời đời mà bạn đọc Tin Văn chỉ ra: Chỉ có tình mới vĩ đại, như Gatsby vĩ đại!
Tay Beigbeder đọc Anh Môn, của Alain-Fournier, cuốn đứng hàng thứ 9 trong Bảng Phong Thần Cuối Cùng, đã nhắc tới Gatsby của Fitz, và tự hỏi, liệu Fitz đã từng đọc Le Grand Meaulnes (1913) trước khi viết Gatsby, bởi sự giống nhau của hai tác phẩm: đều là hai người kể chuyện, ở bên ngoài, kể về một mối tình bất khả của một kẻ thứ ba, và hơn thế nữa, xuyên qua những bữa tiệc đốt đuốc chơi đêm, những hội hè đình đám của thế giới ‘đại gia’.
Đọc Một Chủ Nhật Khác của TTT thì Gấu lại nhớ tới Dịu Dàng Như Đêm, tức Cuộc Tình Bỏ Đi, Tender Is The Night của Fitz. Kết cục của Một Chủ Nhật Khác thê lương hơn nhiều, và cái danh hiệu đỉnh cao chói lọi mà nhân loại ban cho Fitz, một Orpheus hiện đại, “a modern Orpheus” đúng ra là phải thuộc về Trung Uý Kiệt của Quân Lực VNCH, bởi vì Kiệt đã từng xuống địa ngục, [hay thiên đường] khi đưa Hiền tới đó.

Chúng ta thử đọc lại đoạn TTT viết về chuyến đi sau cùng của Hiền:
Những lời của Kiệt đến chết Thùy cũng không quên. Chúng tiếp tục đào bới, xục xạo, phá phách, lan rộng mãi, chui sâu mãi ở trong nàng. Hắn đã nói những gì? Em nên hiểu, em ráng hiểu một chút… Anh có tội một cách vô tội, em vô tội một cách có tội… Lần này quả thật là người tình cũ… Em là đàn bà, em hãy tưởng tượng về một người đàn bà… Nàng đã đi rồi, không bao giờ trở lại. Không bao giờ, thật như thế… Nàng đã trả anh về cho em. Nàng giữ anh cho em, nếu không anh đi mất đất rồi. Nàng đẩy anh trở về, còn nàng ở lại, nàng ở lại một mình… Anh chỉ đưa nàng đến đó, còn anh trở về với em, trở về mãi mãi với em. Anh hy vọng em hiểu….

*
Lục Mạch Thần Kiếm, Kiều Phong loạn đả quần hùng tại Tụ Hiền Trang, chỉ vì muốn cứu nàng hầu của Mộ Dung Công Tử, là A Châu, trúng đòn Thiếu Lâm khi vô chùa chôm Dịch Cân Kinh, sói cô đơn Khiết Đan bị đàn chó Trung Nguyên xúm lại làm thịt, may được vị đại hán mặc áo đen cứu thoát. Trước khi bỏ đi, vị đại hán bợp cho Kiều Phong một cái, mắng, tại sao chỉ vì một đứa con gái bá vơ mà liều cái mạng quí báu của mình?
Một độc giả mắt xanh của Kim Dung nhìn ra liền tù tì: tất cả là chỉ để sửa soạn cho cái cú sét đánh ở ngoài quan ải, khi Kiều Phong ôm một nửa linh hồn của mình tung lên trời, chờ rớt xuống ôm chặt vào tim vào lòng, giữa gió tuyết Nhạn Môn Quan, và biểu rằng, hai ta ra bên ngoài quan ngoại sống cuộc đời chăn dê chăn cừu, từ bỏ chốn giang hồ gió tanh mưa máu...
Độc giả Một Chủ Nhật Khác sẽ tự hỏi, cớ làm sao, trong lần gặp cuối cùng, trước khi đường Thầy, Thầy đi, đường Oanh, Oanh đi, khi Oanh nói với ông  thầy Kiệt, Thầy coi thường Em quá, ông thầy điên lên, vặc lại:
-Nên để cho người ta coi thường mình. Mình là cái quái gì?
[Thai đố này, xin để hậu hồi phân giải]
*
Anh còn nhớ có lần em nhờ anh mua giùm một đôi guốc. Mua được rồi, anh nhét kỹ trong người, đi qua trạm gác phân chia hai khu vực.
Bây giờ ở đây, khi gió, tuyết, và nỗi cô đơn lạnh cứng người, anh vẫn cảm thấy chút ấm áp của đôi guốc ngày nào. Và anh thèm sống lại cảm giác hoang mang, lo sợ khi đi ngang trạm gác.
Bụi
*
Không quay lại, chàng trông thấy toàn thể quang cảnh doanh trại sau lưng, lặng lẽ và thê lương. Một bóng người đứng thật xa, nhỏ xíu trong tầm mắt Nghiêm - bấy giờ chàng nhìn thấy lại - đứng giữa con đường hoang vắng, bên những toà nhà như lún thấp dần theo độ dốc, cất tiếng kêu:
-Nghiêm… Nghiêm… Happy Birthday!
Giờ Nghiêm mới thực sự nghe tiếng gọi của Kiệt, chỉ còn là tiếng vang dội sau bao giờ khắc qua trong tưởng tượng và tiếng vang ấy hiển lộng, rền rĩ, quái gở khiến chàng rùng mình. Chàng cũng thấy lại cảnh tượng trong gian phòng khách ở nhà với những khúc nhạc baroque, niềm vui sướng bất chợt thái quá đến muốn ứa lệ, buổi tối đã qua. Lúc này Nghiêm ngó thấy Duy đầy mầu mè, khôi hài. Còn Kiệt cuống rối, kỳ dị, Nghiêm không ưa.
Đọc đoạn trên, Hai Lúa bỗng dưng nhớ tới một truyện ngắn của Khái Hưng, Bóng Người Trong Sương Mù [?], câu chuyện một anh chàng lái xe lửa, thoát chết nhờ một con bướm - mà ông tin rằng linh hồn người vợ đang đau nặng nằm nhà và đã mất, rồi nhập vào - vỗ đôi cánh ra hiệu cho đoàn tầu dừng lại, vì phía trước có nguy hiểm.
Truyện này Khái Hưng "thuổng" của tay nhà văn kinh dị nổi tiếng Georges Langelan. Ông này còn truyện ngắn Con Ruồi, được coi là một trong những truyện kinh dị nhất thế kỷ, đã được quay thành phim, tờ Bách Khoa trước đây có đăng bản dịch tiếng Việt.
Cảnh trên đây, là lập lại một cảnh trước đó. Cụm từ "bấy giờ chàng nhìn thấy lại" thực sự là để đánh lừa người đọc.
Lần thứ nhất, Nghiêm không hề nghe thấy tiếng của Kiệt.
Tương tự đoạn, Duy nằm chết vì say rượu, nghe tiếng gió hú trên từng ngọn đồi Đà Lạt.
Đây là đòn "phục bút" mà Thánh Thán đã từng nói tới.
Về Langelan. Đã có thời, Hai Lúa rất mê ông này. Ông rất được tín hữu Ky Tô mê, với truyện ngắn, cũng đã được đưa lên màn ảnh, hình như có tên là Phép Lạ Lộ Đức, câu chuyện một anh chàng đi xe lửa, xe lửa bị lật, bèn giả đò bị liệt, để ăn tiền bảo hiểm, rồi sau đó trở thành rất ư là ngoan đạo, rồi hành hương Lộ Đức, tính trong bụng, tới lúc đó, là phép lạ hiển hiện, và chàng đi lại như người bình thường!
Nhưng phép lạ đã xẩy ra, ngược hẳn lại với niềm tin của chàng: Chàng hết còn đi được nữa!
Đêm trước đó, có một cô bé thực sự què chân, thực sự tín hữu Ky Tô, đã nằm mộng được Đức Mẹ viếng thăm, và nói: Ta cho con đôi chân, của một kẻ không cần tới nữa.
Còn một truyện nữa, mà Hai Lúa chỉ còn nhớ đại khái, cũng rất ư là kinh dị, và cũng thật nghẹt thở, về một người thân của một kẻ bị án tử hình, và một con quỉ, cùng chờ đón linh hồn người chết.
Và con quỉ đã thua chí của người thân kẻ đã chết.
Cái câu chuyện về Phép Lạ Lộ Đức, nhìn một cách xiên xỏ, có thể áp dụng cho đảng... VC: Mấy ông này cũng đánh lừa người ta về một phép lạ, về một thiên đường Cộng Sản trên mảnh đất Việt Nam.
Đau một cái mà người dân Việt nam mới là nạn nhân của phép lạ dởm đó!
Đến bao giờ họ mới nghe được câu, ta cho các ngươi tự do mà những con bọ kia, vì là bọ, nên không còn cần đến nữa?
*
"... Kiệt cuống rối, kỳ dị, Nghiêm không ưa".
Nghiêm không ưa vẻ cuống rối, kỳ dị của bạn. Chúng là điềm báo cái chết.
Liền sau đó.
*
Thế hệ bỏ đi, như Hemingway kể lại, trong Paris là một ngày hội, gốc gác của nó, là của một tay chủ gara, nơi Stein thường sửa xe. Một lần, "em" mang xế tới, thằng thợ trẻ tỏ ra không sốt sắng lắm trong vụ phục vụ người đẹp. Thế là em méc tay chủ. Tay này mắng thằng nhóc. Stein sử dụng đúng từ này để đập Hemingway, đám viết lách cà chớn như mấy ông là một thế hệ vứt đi, vì đã được thải ra từ cuộc chiến, theo nghĩa:
-Tụi mày cứt quá, nên cuộc chiến đếch thèm giết.
-Tụi mày tuy sống sót cuộc chiến, nhưng thế nào cũng có bộ phận bị thương tổn đến không còn hoạt động được nữa.
Ấy là Hai Lúa phịa ra, sự thực bà nói:
-Các người là như vậy. Cả đám các người. Một đám trẻ, tham dự cuộc chiến, và là một thế hệ vứt đi.
-Thật thế sao? Tôi [Hemingway] nói.
-Thật chứ sao, bà nhấn mạnh. Mấy ông có kính trọng cái chi đâu, mấy ông uống như hũ chìm.
-Tay thợ trẻ có uống không?
-Đâu có.
-Bà có thấy tôi xỉn lần nào không?
-Ông thì không, nhưng bạn ông cả đống.
-Tôi cũng xỉn dài dài, nhưng không hề bao giờ tới đây khi đã uống đã đời.
-Thì chắc chắn như vậy. Tôi đâu có nói thế.
-Cái tay chủ gara chắc là xỉn từ lúc vừa mở mắt, chậm lắm thì cũng cỡ 11 giờ sáng. Nếu không, làm sao phán một câu hay như thế!
*
... một cuốn tiểu thuyết của Durrell, nàng tặng chàng hôm sinh nhật, với những dòng chữ, giống như một nữ tốc ký ghi lại một cuộc nói chuyện, nàng ghi lại những lời chàng nói bữa đó, "Buồn, dễ giận, kiêu ngạo, yêu anh không, kìa anh hỏi H. mà. Em là cái máy magnétophone. Không nghĩ (được vậy, H. đã mừng).... ", chàng giành lấy cây viết ghi thêm: "Em là ma vie... quà tặng của H. (nhân dịp H. giận).
*
Cuốn của Durrell, bản tiếng Pháp, hình như tên là Cefalu thì phải. Nếu đúng như vậy, thì tên tiếng Anh của nó là The Dark Labyrinth: Mê Cung Âm U.
Như vậy, Bông Hồng Đen tặng Gấu, lần đang nằm nhà thương Grall, cuốn Một buổi sáng đẹp mùa hè, của Chase, và tại Đài Liên Lạc VTĐ sau đó, nhân ngày sinh nhật của Gấu, cuốn của Durrell. Và một câu tiếng Tây.
....vào đúng dịp sinh nhật của chàng, sinh nhật lần thứ ba mươi mà cũng là sinh nhật lần thứ nhất, nàng nói, "Je serai ta femme."
Thời gian
Lời điểm tuyệt vời nhất, chiếu sáng nhất, dành cho Cuộc Tình Bỏ Đi, thú vị thay, lại là của chính tác giả của nó, F. Scott Fitzgerald, tự tay viết ra, ở trong cuốn của một người bạn:
"Nếu bạn thích The Great Gatsby, thì xin hãy đọc cuốn này, nhân danh Thượng Đế.
Gatsby là một "tour de force', nhưng cuốn này mới chính là lời thú nhận của niềm tin, a confession of faith."
Liệu độc giả của Thanh Tâm Tuyền, cũng có cùng một ý nghĩ như vậy, khi phải so sánh Bếp Lửa với Một Chủ Nhật Khác?
Trời Ơi, Đất Ơi! Scott... Bạn đúng là nhà văn thật tuyệt. Hãy tin điều đó. Không cần tin tôi.
(1) Tour de force: một công cuộc cần nhiều nghị lực... cụm từ dùng để chỉ một tác phẩm mà tác giả phải đánh vật với nó, phải trần ai khoai của mới hoàn thành được.
"a modern Orpheus", Mabel Dodge Luhan ca ngợi F. Scott Fitzgerald, qua cuốn  Cuộc Tình Bỏ Đi. Một Orpheus hiện đại.
Và Archibald Macleish thì la lên: "Great God, Scott... You are a fine writer. Believe it - not me" . Chua Choa, Chúa ơi, Scott, bạn là một nhà văn tuyệt vời. Hãy tin điều đó - không cần tin tôi.

Cuộc Tình Bỏ Đi kết thúc không đến nỗi bi thảm như Một Chủ Nhật Khác.
Cô Thùy, tức Nicole của Scott, sau tái giá.
Nàng nói với ông chồng sau:
-Tôi yêu Kiệt và chẳng bao giờ quên anh ấy.
Ông chồng sau trả lời:
-Lẽ dĩ nhiên là như vậy. Làm sao em quên anh ấy? Mà tại làm sao mà em phải quên anh ấy?
Dick, của Scott, thực sự không giống Kiệt của Một Chủ Nhật Khác. Số mệnh anh ta không đến nỗi bi thảm như vậy.
So sánh gượng, ép, nhưng không hiểu sao, đọc cuốn này, là nghĩ tới cuốn kia.
Nhưng nếu coi cuộc chiến khốn kiếp là Ngày Hội Nhân Gian thì Một Chủ Nhật Khác lại bảnh nhất trong những cuốn bảnh nhất, so với Anh Môn Vĩ Đại Gatsby Vĩ Đại!
*
Anh có biết tại sao em đến tìm anh không? Oanh chậm rãi.
Kiệt khó chịu vì câu hỏi. Chàng nín thinh.
-Em đến để từ biệt anh. Oanh ngừng, đợi phản ứng của Kiệt - Trước khi không còn được gặp anh, em muốn....
-Về già nghĩ đến những lúc này mình có kỷ niệm đẹp biết là chừng nào. Oanh nói khi họ bắt buộc phải rẽ, không thể đi thẳng mãi bởi con đường sẽ dẫn họ ra ngoài thành phố.
-Em nghĩ thiệt giỏi. Kiệt chua chát, ngấm ngầm, cay đắng. Hơi rượu như được châm đốt bùng cháy.
-Anh không chịu nghĩ như vậy sao? Giọng Oanh châm biếm, cười cợt.
-Anh nghỉ dở lắm.

Về cú sét đánh ngược này, tức, "kỷ niệm đẹp, dành cho khi về già nhớ lại", Gấu cũng đã từng gặp.
Về già nghĩ lại, thấy còn đau hơn cái lần đầu tiên nghe Em nói, nhiều, nhiều lắm.
Nhưng giả sử có lập lại được, thì chắc cũng...  y chang.
Gấu "vụng về" lắm!
Nghĩ cũng vụng, mà làm cũng vụng!
Lần độc nhất, kha khá, thì đành đem cả cuộc đời ra để trả... nợ!
*
"Kỷ niệm đẹp, dành cho khi về già nhớ lại".
Bỗng dưng, Gấu nhớ đến một em của nhà văn Durrell. Em này mê viết văn, mê quá là mê, mà viết chẳng ra gì, em mới đi coi bói, hỏi cõi âm, coi mình có thành nữ văn sĩ được không. Cõi Âm phán, tại rằng là vì em còn nguyên, chưa có "vết thương dậy thì" [tên tác phẩm đầu tay của nữ văn sĩ miền nam trước 1975]. Thế là em đi gặp một ông trùm văn nghệ, năn nỉ, anh giúp giùm em, để em làm nhà văn!
Bố lếu bố láo thiệt!
Đà Lạt

Gấu ngờ rằng nơi mà Kiệt đưa Hiền tới, rồi trở về, để chết, cùng với cuộc chiến, là Lost Domain, ở trong Le Grand Meaulnes.
Bài Giáng cũng có một cõi Lost Domain của ông, là thời gian 15 năm chăn dê, vui đùa với chuồn chuồn, châu chấu, trước khi trở về đời, làm Ông Khùng giữa cõi Bọ.
Hậu thế sau này, có thể sẽ coi Một Chủ Nhật Khác, là tác phẩm số 1 của thời đại hoàng kim Miền Nam VHCH, hẳn thế!
*

Le Grand Maulnes (1913), Mặc Đỗ dịch tiếng Việt với nhan đề như trên, là “bản gốc”, cho nhiều tác phẩm, cũng nổi tiếng chẳng kém.
Nhưng đâu chỉ Anh Môn, mà tác giả của nó, Alain-Fournier (1886-1914), cũng là bản gốc cho nhiều tác giả - nổi tiếng, lẽ tất nhiên - thí dụ như Fowles, nhà văn Hồng Mao có cả một câu lạc bộ riêng, gồm những độc giả mê ông.
Với ông này, Anh Môn có tên là Miền Đã Mất, The Lost Domaine, như một tiểu luận của ông, mở ra bằng một câu trong một lá thư vào năm 1911 của Alain-Fournier:
"Tôi mê điều huyền diệu chỉ khi nó bị thực tại ôm chặt không sao rứt ra nổi, chứ không phải cái thứ huyền diệu làm thực tại bực mình, hoặc tính chơi cha nó”.
[I like the marvelous only when it is strictly enveloped in reality, not when it usepts or exceeds it].

Fowler viết: Tôi ngờ rằng, Miền Đã Mất (Anh Môn) là một cuốn sách hiếm, lạ, mà một độc giả sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn nhiều, nếu chỉ đọc, mà chẳng bao giờ tìm hiểu nó.
Đúng là ao ước về một độc giả lý tưởng, người yêu lý tưởng: Hãy chiêm ngưỡng, nhưng nhớ đừng tra hỏi. Như thể họ sợ rằng, “sờ” vào đó, hoặc quá nữa, mở nó ra, là một việc làm báng bổ, phạm thánh! Một cuốn sách như thế, một nhan sắc như thế, là để thờ phụng chứ không phải để sàm sỡ!
Tuy nhiên, Fowles nói, nếu độc giả Anh ngữ, muốn tìm hiểu, có thể đọc cuốn  “Anh Môn” của Robert Gibson, trong loại sách hướng dẫn đọc những bản văn tiếng Pháp, của nhà xb Grant and Cutler, London, 1986.
*
Le Dur Désir De Durer: Ao ước cương cứng được trường tồn.
Frédéric Beigbeder truy tìm nguồn gốc từ ao ước: Désir. “Dé”, là từ tiếp đầu ngữ “de”, “de” là từ tiếng Latinh “siderere”: ngôi sao. Như vậy ao uớc có nghĩa là ao ước một ngôi sao đã mất, một ngôi sao mà người ta chạy theo năn nỉ, “chờ tôi với”, nhưng chẳng bao giờ bắt kịp. Và đây chính là thông điệp của cuốn Anh Môn: Tôi không phải một cuốn sách. Tôi là một giấc mộng.
Như tác giả của nó, đã viết cho bạn mình, là Jacques Rivière, vào năm 1910: “Je cherche l’amour” [Tôi tìm tình yêu].
 Ở miền nam, Anh Môn có một vị trí giống như Hoàng Tử Nhỏ của Xanh Tếch [Saint-Exupéry]. Ông bạn của Gấu tôi, thi sĩ Joseph Huỳnh Văn mê cuốn này lắm. Nhưng cái ngôi sao thất lạc mà anh chẳng bao giờ bắt gặp, lạ một điều, lại chính là…. Hà Nội!
*

Cái tít The Great Gatsby được dịch qua tiếng Tây là Gatsby Thần Sầu, Gatsby le magnifique .

Tây ngu thật. Thua xa Mít!
Hay là Tây đếch có... "đại gia"? NQT


Le Top 50

1. L'étranger  d'Albert Camus.
2.  A la recherche du temps perdu  de Marcel Proust.
3. Le procès  de Franz Kafka.
4. Le petit prince  d'Antoine de Saint-Exupéry.
5. La condition humaine d'Audré Malraux.
6. Voyage au bout de la nuit de Louis-Ferdinand Céline.
7. Les raisins de la colère de John Steinbeck.
8. Pour qui sonne le glas  d'Ernest Hemingway.
9. Le grand Meaulnes d'Alain-Fournier.
10. L'écume des jours de Boris Vian.
11. Le deuxième sexe de Simone de Beauvoir.
12. En attendant Godot  de Samuel Beckett.
13. L'être et le néant de Jean-Paul Sartre.
14. Le nom de la rose  d'Umberto Eco.
15. L'archipel du Goulag  d'Alexandre Soljenitsyne.
16. Paroles de Jacques Prévert.
17. Alcools de Guillaume Apollinaire.
18. Le lotus bleu  d'Hergé.
19. Journal  d'Anne Frank.
20. Tristes tropiques de Claude Lévi-Strauss.
21. Le meilleur des mondes  d'Aldous Huxley.
22. 1984  de George Orwell.
23. Astérix le Gaulois de Goscinny et Uderzo.
24. La cantatrice chauve  d'Eugène Ionesco.
25. Trois essais sur la thétorie sexuelle de Sigmund Freud.
26. L'œuvre au noir  de Marguerite Yourcenar.
27. Lolita de  Vladimir Nabokov.
28. Ulysse  de James Joyce.
29. Le désert des Tartares de Dino Buzzati.
30. Les faux-monnayeurs  d'André Gide.
31. Le hussard sur le toit  de Jean Giono.
32. Belle du Seigneur  d'Albert Cohen.
33. Cent ans de solitude de Gabriel Garcia Marquez.
34. Le bruit et la fureur de William Faulkner.
35. Thérèse Desqueyroux  de Francois Mauriac.
36. Zazie dans le métro de Raymond Queneau.
37. La confusion des sentiments de Stefan Zweig.
38. Autant en emporte le vent  de Margaret Mitchell.
39. L'amant de lady Chatterley  de D.H. Lawrence.
40. La montagne magique de Thomas Mann.
41. Bonjour tristesse de Françoise Sagan.
42. Le silence de la mer  de Vercors.
43. La vie mode d'emploi de Georges Perec.
44. Le chien des Baskerville d'Arthur Conan Doyle.
45. Sous le soleil de Satan de Georges Bernanos.
46. Gatsby le magnifique de Francis Scott Fitzgerald.
47. La plaisanterie de Milan Kundera.
48. Le mépris d'Alberto Moravia.
49. Le meurtre de Roger Ackroy d d'Agatha Christie.
 50. Nadja d'André Breton.

Nhìn mặt nổi, thì đúng như dịch giả, và đa số nhận định, The Great Gatsby (1925) là một tác phẩm phê phán xã hội Mẽo, giấc mơ Mẽo; ẩn tàng ở trong đó còn có cả chủ nghĩa bài Do Thái, nhưng đây chính là một câu chuyện tình thê lương, được viết bằng một giọng văn cay đắng ngọt ngào, doux-amer, chữ của Beigbeder, không thể nào bắt chước được, một giọng văn đạt tới đỉnh cao, sau khi tác giả của nó phải hì hục viết 160 cái truyện ngắn để mua áo dài cho bà vợ Zelda.
Cuốn truyện còn mang hơi hám tự thuật, vì Gatsby, một cách nào đó, chính là Fitzgerald. Sinh tại Saint Paul, Minnesota, [hình như đây là nơi trú ngụ và sau cùng an nghỉ của nhà thơ TTT?], ông chẳng bao giờ thành công trong cái việc lòn lỏi vào thế giới của những đại gia, những câu lạc bộ của các tỉ phú, và còn bị đội banh football Princeton khinh khi, và không bao giờ qua khỏi vết thương lòng này! Mặc dù không như nhân vật của mình, bị làm thịt, tuy nhiên, ông cũng ngỏm năm 44 tuổi, vì nhậu, vì chẳng còn ai biết đến mình, 8 năm sau, đến lượt bà vợ chết cháy trong nhà thương điên.
Những cuốn tiểu thuyết lớn ghét người ta kính trọng chúng. Chúng thích sống, nghĩa là được đọc, vò xé, nghiền nát, đối chứng, tranh cãi, nhận chìm. Đã đến lúc phạng cho Hemingway một hèo. Ông dám nói đùa: Một tác phẩm lớn là thứ mọi người đều nói tới nhưng đếch có ai đọc.
Frédéric Beigdeber [phê bình gia của một số tạp chí như Voici, Paris-Première, Lire…]
Beigdeber viết về Gatsby:
Những tiểu thuyết lớn đều có tính dự báo, prémonitoire. Colette phán, ‘tất cả những gì người ta viết thì sau cùng đều trở thành thực’ [‘tout ce qu’on écrit finit par devenir vrai’]. Cái nước Mẽo tham tiền hám của, ích kỷ mà Fitzgerald mô tả ngày càng tệ hại đi và trở thành người tình của Trái Đất. Những giấc mơ huy hoàng sau cùng biến thành những cái lưỡi bằng gỗ nhớp nhúa [do nốc nhiều rượu quá]. Thế giới là một bữa tiệc, party, của lạc thú, một bữa tiệc khởi đầu tuyệt vời, nhưng kết thúc thật thảm hại, giống như cuộc đời [một tiến trình phân huỷ]. Đừng bao giờ tỉnh dậy. Fitzgerald là một người ngoan đạo, với ông hạnh phúc, phải sòng phẳng với nó, và tội lỗi thì phải bị trừng phạt. Tất cả những thần linh thì đều đã chết; những cuộc chiến, đã thực hiện, những hy vọng ở con người, lầm lạc [Tous les dieux morts; toutes les guerres, faites; tous les espoirs en l’homme, trompés. Fitzgerald: This side of Paradise]. Chỉ còn có mỗi một việc để làm là mô tả đám trưởng giả, quí tộc New York, sáng ngời đến trở thành mù lòa, và sau cùng tắt ngấm, như những loài khủng long.

Cuộc Tình Bỏ Đi
Nhưng nếu coi cuộc chiến khốn kiếp là Ngày Hội Nhân Gian thì Một Chủ Nhật Khác lại bảnh nhất trong những cuốn bảnh nhất, so với Anh Môn Vĩ Đại Gatsby Vĩ Đại
Chắc chắn TTT phải đã từng đọc Fitzgerald, và có trong đầu cuốn Cuộc Tình Bỏ đi, trong khi viết Một Chủ Nhật Khác
Xuất bản 'Đại gia Gatsby' ở Việt Nam
V/v Đại gia Trịnh Lữ. Gấu mới biết, trên Tiền Vệ cũng có nhiều người lên tiếng.
*
Thoạt đầu, Fitz cho Cuộc Tình Bỏ Đi một cái tiểu tít, là "Romance" [Chuyện Tình]. Cái tít sau cùng, là từ thơ của Keats, Ode to a Nightingale:
Away! Away! for I will fly to thee
... on the viewless wings of Poesy
Though the dull brain perplexes and retards:
Already with thee! tender is the night....
*
Giả như có cái gọi là “tư tưởng thời đại” ["thế hệ nhạc Jazz" với Gastby của Fitz, thế hệ Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây với đại gia Trịnh Lữ, và cùng với nó, sự nổi dậy của giai cấp mới, là những đại gia Đỏ, vốn liếng khởi đầu là chiến lợi phẩm, cho dù một chút sái, của chiến thắng Miền Nam], thì cái đó chỉ là thứ yếu, trong một tác phẩm văn học như của Fitz. Nabokov chửi, còn gì ngu si cho bằng, khi đọc Madame Bovary với ý nghĩa trong đầu, đây là một tác phẩm tố cáo giai cấp trưởng giả. Ông khuyên, đừng bao giờ quên rằng, mọi tác phẩm nghệ thuật, luôn luôn là sự sáng tạo ra một thế giới mới, và cách tiếp cận nó, là, nghiên cứu thế giới mới này một cách thật cận kẽ, coi nó hoàn toàn mới, hoàn toàn khác lạ, so với những thế giới mà mình đã biết. Và chỉ khi đã rành rẽ về nó, thì lúc đó, mới đem nó ra mà so sánh với những thế giới khác, những ngành khác của tri thức. Và ông phán, những đại tác phẩm văn học, là những chuyện thần tiên lớn, la vérité est que les grands romans sont de grands contes de fées.
*

Tay dịch giả TL này theo Gấu, cũng là một thứ nhà giầu mới nổi, theo nghĩa văn học, một tay ngang, nhờ ở nước ngoài, có tí vốn liếng chữ ngoại, thành ra cũng dịch diệc này nọ, thì cũng thường tình thôi, nhưng chớ bao giờ coi mình là phê bình gia, học giả, hay nhà văn nhà việc, và chớ bao giờ vặn vẹo một tác phẩm văn học, để làm vừa lòng nhà nước mới. Chỉ nói chuyện Giấc Mộng Mẽo không thôi, thì ông cũng đâu có rành về nó, mà phê phán.
Chứng cớ, Giấc Mơ Mẽo, của tay
Enrique Vila-Matas, mà Gấu giới thiệu trên Tin Văn. Hay Giấc Mơ Mẽo của cả một Âu Châu bỏ chạy Nazi? Hay gần gụi nhất, của cả một Miền Nam Việt Nam, sau khi bỏ chạy Giấc Mơ Đỏ?
*

Có lẽ nhiều người ở miền Nam Việt Nam còn nhớ hồi năm 1956 nhà văn Mặc Đỗ đã dịch The Great Gatsby là CON NGƯỜI HÀO HOA. Đó là bản dịch đầu tiên của tiểu thuyết này tại Việt Nam. Từ 1956 đến 1975, bản dịch đó vẫn được nhiều người (trong đó có tôi) say mê, yêu thích. Tôi đã mua được một cuốn tại nhà sách Khai Trí, và sau này tôi còn thấy nhiều cuốn nằm trong những nhà cho thuê sách và trên những sạp bán sách cũ. CON NGƯỜI HÀO HOA. Rất hay. HÀO có nghĩa là “vượt trên người khác”, “rộng rãi, không bủn xỉn chật hẹp”. HOA có nghĩa là “đẹp”, “tốt”. Nhan đề CON NGƯỜI HÀO HOA chứng tỏ cụ Mặc Đỗ đã hiểu cuốn sách một cách đúng đắn. Gatsby đúng là CON NGƯỜI HÀO HOA qua nhãn quan của Nick Carraway (người kể chuyện), và cái nhan đề The Great Gatsby đã đi vào lòng bao nhiêu triệu độc giả (sách) và khán giả (phim) trên thế giới.

Tôi cũng thích dịch là GATSBY, CON NGƯỜI TUYỆT VỜI. Tôi nghĩ nên tránh chữ VĨ ĐẠI, vì chữ ấy đã bị ô nhiễm bởi thói sùng bái lãnh tụ (ở Việt Nam, chỉ có một người được xem là “vĩ đại”!). Ngay ở Mỹ, chữ “great” bây giờ cũng bị ô nhiễm bởi thói xã giao lịch sự, nói quá lên để làm vui người khác (You're great!).

Nguồn

Note: Gấu quên, Mặc Đỗ cũng đã từng dịch Gatsby.
*

Nếu muốn đi đường tắt thì sử dụng con đường của Gao Xingjian (Pháp-Tầu) hoặc Imre Kertész (Hung) hay Orhan Pamuk (Thổ) tuy nhiên con đường này cũng rất là gay go, nhiều khi phải bỏ quê cha đất tổ chạy trốn ra nước ngoài.
Người viết xin khuyên : Chớ nên chọn lựa con đường tắt này.

Nguồn

Viết thế này, thì nên đổi tên blog là Ngộ Độc Văn Chương!
Cũng trên blog này đã có lần nhét vô miệng ông nhà văn Nhật Murakami, câu tuyên bố, hồi hai muơi tuổi, mê thiên đường Liên Xô quá, ông đã hăm he dịch tác phẩm Ruồi Trâu, sự thực, ông mê Fitzgerald và tính dịch The Great Gatsby, nhưng tự lượng chưa đủ nội lực tiếng Anh, nên mãi sau này, mới dám dịch nó.
Giả như liều lĩnh, như dịch giả TL chẳng hạn, thì Nhật cũng đã có một Đại gia Murakami từ hồi nào rùi!
*

Nhưng quái đản nhất, là, khi thấy sai sót, Gấu lập tức thông báo trang chủ, vì nghĩ, một sai sót như thế ảnh hưởng tới mọi anh chị Mít, nhưng lạ làm sao, trang chủ tỉnh bơ, như người Hà Lội!

Trong khi đó, Tin Văn, mỗi lần được độc giả hạ cố chỉ cho sai sót, còn mừng hơn cả chuyện được độc giả xoa đầu!
*
Tay tác giả bài viết trên blog của Nguyễn Thi Sĩ, hẳn là chưa từng đọc ba nhà văn trên. Nên cứ đinh ninh là họ, do viết văn chống đối nhà nước của họ, nên phải bỏ chạy, và nhờ vậy được phát Nobel, và chỉ vì muốn được Nobel nên mới làm như vậy. Đọc bài viết, thì có vẻ như cũng rành tiếng Anh tiếng U cũng nên, nhưng “thư ký thường trực” khác “thư ký vĩnh viễn”. Mấy ông hàn thì “vĩnh viễn”, nhưng ai cấm mấy ông này quit job đâu?
Đúng là điếc không sợ súng.
Hình như vào thời đại net, ai cũng có quyền mở blog, nên mới xẩy ra tình trạng này? Gấu nghi, chắc không phải, mà là hậu quả của một thế giới bị bịt kín lâu quá, thí dụ xã hội Miền Bắc, đột nhiên mọi cửa đều được mở ra, trước đám quyền chức, và con cái của họ, luôn cả đám tinh anh, tức mù dở trong đám mù.
Chứng cớ, sự ngu dốt của mấy anh Yankee mũi tẹt làm cho đài Bi Bì Xèo, chẳng hạn.
Một người viết trong số họ đã dùng hình ảnh, cái lỗ hổng không làm sao lấp đầy, đúng quá, nhưng khi người này dùng, là để nhắm vào PTH, thế mới khổ!

Ngay cả nhận xét của tay "thư ký vĩnh viễn", về văn chương Mẽo cũng đâu có sai. Ha Jin, nhà văn Mẽo gốc Trung Quốc cũng nghĩ như vậy. Ông viết, trong bài The Writer as Migrant, Nhà văn thiên di, Tin Văn đang giới thiệu:

Ngược lại, nhập cư chỉ là một đề tài thứ yếu, và là của Mỹ. Từ đó, thách đố lớn lao đối với những nhà văn viết về kinh nghiệm nhập cư, là, làm sao từ một kinh nghiệm thứ yếu như vậy mà có thể đáp ứng với những truyền thống văn chương lớn lao hơn.
Nhà văn Mít, theo Gấu muốn được Nobel, là phải đối diện với vấn đề nhức nhối nhất hiện nay của văn chương và đồng thời xã hội Mít:
Tại sao cuộc chiến thần kỳ như thế, mà kết quả lại khốn khổ khốn nạn như thế.
Vả chăng hình như muốn là ứng viên của Nobel, phải có đại gia, hội đoàn... tiến cử, giống như ở Việt Nam, muốn ứng cử là phải được Đảng và Mặt Trận Tổ Quốc OK, không thể độc diễn như Tông Tông Thiệu được. Vấn đề này Gấu không "xua" vì, chưa khùng đến mức như vậy!

*

Ai điếu Gregor Samsa
Frank Humes

Đây là câu chuyện một người con trai, cũng là người lo cơm áo cho cả gia đình, một buổi sáng ngủ dậy, thấy biến thành con bọ...
Gregor Samsa vừa mới qua đời do một hiện tượng không thể giải thích nổi. Samsa, một người bán hàng vải luôn phải nay đây mai đó, rất chịu thương chịu khó, công việc làm ăn đang trên đà thuận lợi, thế mà tự dưng lăn ra chết.
Dư luận xì xào, Samsa là nạn nhân của một chứng bịnh lạ, chỉ  trong một đêm, nó biến đổi hẳn hình dạng người bệnh. Người ta tin rằng chỉ trong một đêm, Samsa biến thành một con bọ ghê tởm (a "monstrous vermin"); nhưng hỡi ơi, những chi tiết về chuyện này chưa được xác nhận. Sau sự "hoá thân" này, Samsa được gia đình săn sóc, trong bộ dạng mới của anh, với hy vọng anh hồi phục, (nghĩa là) thoát ra khỏi tình trạng đó. Vào lúc này, nhà chức trách đang xem xét thi thể mong tìm ra nguyên nhân đích thực của cái chết.
Gregor Samsa để lại sau anh một gia đình thân thương mà anh hết lòng lo lắng. Tai ương làm bà mẹ Samsa bối rối nhưng có vẻ như bà cam chịu, bằng lòng với cuộc đời còn lại của bà. Bà thừa nhận, Gregor đã làm việc cực nhọc, chẳng bao giờ được ở nhà, có thể vì vậy mà tai ương đã giáng xuống mái đầu xanh. Bà cũng ghi nhận một điều, đây là bổn phận của anh, phải kiếm tiền bạc lo cho những người còn lại trong gia đình, bởi vì người cha vừa mới về hưu. Bà nhấn mạnh vào điều này, bởi vì bà tin tưởng nếu con bà cần một dịp nghỉ ngơi, chắc chắn là nó đã làm việc đó rồi, khi có dịp thuận lợi.
Người cha tỏ ra cứng cỏi suốt thời gian xẩy ra câu chuyện. Mất đứa con thực là bi thảm, nhưng ông cũng coi đây là cơ hội cho gia đình xúm nhau lại cùng vượt qua cơn khủng hoảng. Người anh Samsa thôi nghỉ hưu và có ngay một việc làm tại một ngân hàng để bù lại số thu nhập đã mất.
Người cha của Samsa đã coi biến cố như là một cơ hội để bắt đầu một giai đoạn mới trong gia đình. Ông giải thích Gregor đã ngã xuống vì bịnh hoạn, làm cả nhà đau đớn khá lâu, và bây giờ như vậy kể như mọi chuyện đã ngã ngũ, và đây là một tia sáng mới cho gia đình.
Em gái Samsa, Greta, tỏ ra đau đớn nhất vì hậu quả của tai ương, bởi vì hai anh em thật thân cận; tuy nhiên, có vẻ như cô cũng muốn bỏ hết mọi chuyện ở phía sau. Cha của cô đồng ý một điều, cuối cùng cô là người được hưởng lợi. Lý do là mọi chuyện hầu hạ con bệnh là ở cô; từ những kinh nghiệm này, chuyện tình cảm, chuyện tinh thần, ngay cả chuyện thể xác, cô đã lớn lên nhiều, có lẽ vậy. Cha cô chỉ ra rằng thời kỳ vừa qua là một tai họa cho cô nhưng bây giờ, khi nó chấm dứt, cô như một bông hoa mới nở.
Những phản ứng của những người trong gia đình cho thấy, cái chết của Gregor Samsa có lẽ không bi đát như vậy đâu. Anh hết còn phải nay đây mai đó mời chào năn nỉ người ta mua hàng, và đã hất đi được gánh nặng phải lo lắng cho gia đình. Có thể suy ra một điều là, ngay chính Gregor, do ý thức tới chuyện cơm áo của gia đình, đã muốn thà chết đi còn hơn là một tội nợ cho cuộc sống của họ. Điều thực sự bi đát ở đây là, sau những diễn biến như trên, cái chết của Gregor Samsa sẽ không được nhắc nhở gì tới nữa.

Note: bài ai điếu này, có thể được đọc, bằng viễn ảnh một giải Nobel cho Mít. Samsa của Kafka, anh bộ đội của Cụ Hồ, xả thân vì nghiệp lớn, một buổi sáng 30 Tháng Tư, ngủ dậy, thấy biến thành bọ…