*
Ghi



















Tiểu thuyết lịch sử. 

Vào thời mới biết đọc biết viết, hay nói một cách khác, ở cái thuở chập chững của con người được gọi là “độc giả”, tôi cứ thấy mảnh giấy nào có chữ là dí vào mắt. Rồi lớn lên dần, trước là bằng những món ăn dành cho thiếu nhi, một Ông Đồ Bể, một Cái Ấm Đất của Khái Hưng, hay Lên Bẩy, Lên Tám (hình như của Tản Đà thì phải)…. Truyện con nít cũng chẳng có nhiều, thế là mò tới sách báo tiểu thuyết dành cho người lớn. Cuốn Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim đã được “thằng bé” thuộc nằm lòng! Ông cậu đi đâu cũng mang thằng cháu ra khoe, một bữa, bị một ông truy: công chúa Chiêu Thánh, truyền ngôi chồng là Trần Cảnh hồi mấy tuổi? Chuyện cô con nít khi đang tắm đùa giỡn, tạt nước vào cậu con nít thì nhớ, nhưng truyền ngôi hồi mấy tuổi, là chuyện đại sự, sao lại hỏi một thằng con nít? Hoá ra chỉ thuộc lòng những trận đánh, hoặc những chi tiết lịch sử mang tính “giật gân”, nào là Phù Đổng Thiên Vương về trời, bỏ lại ngựa sắt; ông hoàng nhỏ Quốc Toản bóp nát trái cam, sông Hồng nghẹt xác giặc… sau này tôi hiểu ra một điều, trí nhớ của con người, dù lớn, dù nhỏ luôn luôn có lỗ hổng, hoặc lỗ đen.

 Tôi đã đọc Ba Người Ngự Lâm Pháo Thủ, bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh, ngay từ thời còn con nít; và cứ thắc mắc về một chi tiết: tại sao một bông huệ khắc trên mình Milady lại làm cho A Tố, rồi Đác Ta Nhan khiếp sợ, và Milady chết vì nó, không phải một, mà tới hai lần trong đời?

 Rồi mê mải theo dõi những cuốn tiểu thuyết đăng từng kỳ trên báo Tiểu Thuyết Thứ Bẩy (có chắc không đấy?), thí dụ như  Chớp Bể Mưa Nguồn, Ngậm Ngải Tìm Trầm…

 Bây giờ thì quên sạch. Nhưng có một cuốn tiểu thuyết, hồi đó, không hiểu sao, bám chặt mãi vào trí nhớ của Jennifer tôi. Đó là một cuốn Lá Huyết Thư, tôi chỉ đọc đâu được vài kỳ, thiếu đoạn kết cục, rồi cứ thắc mắc mãi cho tới bây giờ: không hiểu đứa nhỏ trong đó, có gặp lại được người cha của nó hay không.

 Lá Huyết Thư, như trong trí nhớ của tôi còn giữ lại được, hoặc tưởng tượng ra được, là câu chuyện thời Trịnh Nguyễn Phân Tranh. Chúa Trịnh, một lần vào nam, trong một lần vi hành, đã gặp một cô gái quê. Thế là một cuộc tình xẩy ra giữa “chàng trai Bắc”, và “cô gái Nam”. Cô gái có thai, được Chúa Trịnh để lại “lá huyết thư” (huyết này không biết lấy ở đâu ra, chắc là của cả hai), và dặn dò, nếu ta chiếm được miền nam, sẽ đón nàng, còn trong trường hợp ta thua chạy về bắc, nàng và con ra gặp ta… 

Thế rồi lớn lên, theo với cuộc chiến, ở miền nam, tôi cứ bị ám ảnh hoài, bởi câu chuyện đọc từ hồi còn nhỏ, ở miền bắc. Rồi tôi tự hỏi, tại sao tác giả cuốn tiểu thuyết lại “tiên tri” được biến cố sau đó, ngay từ hồi còn thực dân, chưa hề có một “điềm triệu” nào cho thấy cuộc chiến “người chết hai lần, thịt da nát tan”, mãi sau này…

 
***

 Phụ trang văn học (Dossiers & Documents Littéraries), của tờ báo Pháp, Thế Giới (Le Monde), số 28, tháng Bẩy 2000, là về tiểu thuyết lịch sử. Gồm nhiều bài viết, về những bậc thầy lớn; những thời kỳ lớn: cổ đại, trung cổ, và lịch sử hiện đại…

 Trong số báo, tác giả Jacques Cellard, trong một bài viết (25 tháng Một 1983), định nghĩa, tiểu thuyết lịch sử đối với văn chương, giống như món xốt may-on-ne đối với bếp núc (Le roman historique est à la littérature ce que la mayonnaise est à la cuisine). Người ta xịt trong khi quay đều đều, tia (xốt) lịch sử lên mầu vàng của cuốn tiểu thuyết (on verse, en tournant régulièrement, le filet d’histoire dans le jaune du roman.) Phải có thêm tiêu muối nữa chứ, lẽ dĩ nhiên. Tôi (tác giả bài báo) muốn nói: phải có tí sexe, tí máu. Nhưng đừng nhiều quá! Vẫn theo ông, thể loại tiểu thuyết lịch sử không được giới hàn lâm, cũng như giới phê bình đánh giá cao: cho dù ký tên Flaubert, hay Hugo, những cuốn như  Salammbô, hay Nhà Thờ Đức Bà thua xa Bà Bovary, hay Những Kẻ Khốn Cùng. Theo ông, đó là do sự cài đặt (installation, thuật ngữ này tôi mượn của giới điện toán) một tay tự sự (narrateur) vào trong một quá khứ không phải của anh ta (một ông Nguyễn Huy Thiệp của thế kỷ 20 biến mình thành Nguyễn Huệ, Gia Long chẳng hạn), chính điều này đã làm tê liệt chức năng tiểu thuyết, và trong bất cứ trường hợp, làm tê liệt luôn hạnh phúc viết (le bonheur d’écrire). Nói theo Florence Mothe, có hai ông “không ưa nhau” nhưng lại cứ phải sống chung dưới một mái nhà là cuốn tiểu thuyết lịch sử: một ông nhà văn và một nhà nghiên cứu, tìm tòi (le chercheur). Vẫn theo Jacques Cellard, một cuốn tiểu thuyết lịch sử không thể, và không được quyền “lơ tơ mơ”, nếu nói về hình thức (của cái gọi là tiểu thuyết), và ông nhà văn lại càng không được quyền để cho ông nghiên cứu gia kia bóp cho nghẹt thở! Sở dĩ hiện nay, không có tiểu thuyết lịch sử lớn, so với những “muôn đời đại thụ” như của Walter Scott, hay Alexandre Dumas, đó là do thiếu dấu ấn của tiểu thuyết thứ thiệt, và dấu ấn này lại nằm ở bên dưới cái nền gọi là lịch sử.